NGHIÊN CứU THựC TRạNG Sử DụNG CáC CHấT
DạNG AMPHETAMIN ở NHóM NGƯờI Từ 15 ĐếN
60 TUổI TạI MộT Xã NGOạI THàNH Hà NộI
!" #$%&' ()
*+,-#./012022
3456789:
Ngi hng dn khoa hc:
800;' <=
>2/?@
1
3A*B
Tôi xin chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo
Sau đại học và Bộ môn Tâm thần Trường Đại học Y Hà Nội đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Đảng ủy, Ban Giám đốc Bệnh viện
Bạch Mai, Viện Sức khỏe Tâm thần đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Trần Hữu Bình,
nguyên Viện trưởng Viện Sức khỏe Tâm thần – Bệnh viện Bạch Mai, phó Chủ
nhiệm Bộ môn Tâm thần Trường Đại học Y Hà Nội, người thầy đã dìu dắt tôi
trong học tập và trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
- PGS. TS. Nguyễn Kim Việt, Viện trưởng Viện Sức khỏe Tâm thần,
chủ nhiệm Bộ môn Tâm thần, Trường Đại học Y Hà Nội.
- Ths. Lê Công Thiện, giảng viên Bộ môn Tâm thần, Trường Đại học Y
Hà Nội.
Tập thể Trạm Y tế xã Ngọc Liệp huyện Quốc Oai thành phố Hà Nội
Là những người trực tiếp dạy dỗ, hướng dẫn, giúp đỡ tôi từng bước
hoàn thành chương trình học tập và tiến hành nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn các đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã cổ vũ, động
viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
C)!DE
FDG H
2
3*
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tự bản thân tôi thực
hiện. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung
thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một nghiên cứu nào khác.
C)!DEIJ KG
FDG H
3
*LM
ADHD Attention deficit hyperactivity disorder (tăng động giảm chú ý)
ATS Amphetamine type stimulants(Chất kích thích dạng Amphetamin)
AMPc Cyclo adenosin monophotsphate (AMP vòng)
DTTK Dẫn truyền thần kinh
DSM – IV Diagnostic and Statistical Manual of Mental Diseases (4
rd
ed.).
(Sách hướng dẫn Chẩn đoán và Thống kê các bệnh tâm thần)
IMAO Inhibit mono amine oxydase (enzym ức chế)
ICD – 10 International Classification of Diseases 10th
(Bảng Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10)
NHSDA The National Household Survey on Drug Abuse (Cơ quan điều tra
quốc gia về lạm dụng chất Hoa Kỳ)
SODC Standing Office on Drugs and Crime (Văn phòng thường trực
về Ma túy và Tội phạm )
UNODC United Nations Office on Drugs and Crime
(Cơ quan phòng chống tội phạm và ma túy của Liên hợp quốc)
VSKTT Viện sức khỏe Tâm thần quốc gia
WHO World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế giới)
4
5
NOP
Sau khoảng gần 30 năm mở cửa giao lưu với thế giới, đất nước ta đã thu
được nhiều thành tựu to lớn về nhiều mặt: vị thế của đất nước trên quốc tế dần
được khẳng định, đời sống của người dân được cải thiện đáng kể cả về vật
chất lẫn tinh thần. Kéo theo sự giao lưu của đất nước với thế giới, xuất hiện
nhiều loại hình giải trí, các tụ điểm vui chơi cho giới trẻ như vũ trường, quán
bar, nhà nghỉ… ngày càng xuất hiện nhiều. Trong đó nổi bật là các tệ nạn xã
hội đi kèm: cờ bạc, mại dâm, trộm cướp, sử dụng chất ma túy (heroin, thuốc
phiện, rượu…)[1]
Chất kích thích dạng Amphetamin (Amphetamin type stimulants- ATS hay
ma túy tổng hợp) là tên gọi chung của một nhóm chất kích thích có cấu trúc
hóa học dạng amphetamin. Chúng có tác dụng kích thần gây cảm giác hưng
phấn, khoái cảm, chống mệt mỏi… khi sử dụng liều cao kéo dài có thể gây
hoang tưởng, ảo giác. Những năm gần đây nhóm ATS ngày càng được sử
dụng phổ biến trong giới trẻ [1], [2].
Những nghiên cứu gần đây trên thế giới cũng như tại Việt Nam cho thấy tỷ
lệ sử dụng ATS có xu hướng ngày càng tăng nhanh về số lượng cũng như mở
rộng về vùng địa lý. Theo những thống kê mới nhất của Cơ quan phòng chống
tội phạm và ma túy của liên hiệp quốc (United Nations Office on Drugs and
Crime - UNODC) sử dụng ATS toàn cầu năm 2009 dao động từ 0,3%-1,3%
dân số, tương đương với 14-57 triệu người tuổi từ 15-64 đã sử dụng các chất
này ít nhất một lần trong năm qua. Sử dụng hầu như có ở tất cả các khu vực
trên thế giới, tăng nhanh tại khu vực Châu Á, Châu Phi. Ở Việt Nam, theo
đánh giá của của UNODC (2009), tỷ lệ sử dụng ATS khoảng 1,2% - 1,4% dân
số. Việc sử dụng ATS chủ yếu tại tập trung cao ở khu vực thành thị, đông
dân, nơi có nhiều tụ điểm vui chơi, giải trí.[3]
6
Sử dụng ATS gây nhiều hậu quả nghiêm trọng gây nên các bệnh cơ thể
(tim mạch, hô hấp, truyền nhiễm…), các rối loạn về tâm thần (hoang tưởng,
ảo giác, trầm cảm, kích động ), và cũng là vấn đề nhức nhối của xã hội (bạo
lực, tăng tỷ lệ tội phạm )[2]
Ở nước ta, trong vài thập niên trở lại đây chất ma túy tổng hợp (ATS) được
sử dụng khá phổ biến và ngày càng nhiều ở cộng đồng, đặc biệt là ở thành
phố lớn. Tuy nhiên, đến nay mới có một số chương trình tổ chức đánh giá tình
hình sử dụng ATS nhưng chưa có hệ thống. Với những nhu cầu cấp thiết đó
chúng tôi tiến hành đề tài: “!D )Q&R)&;S !,TUV !)W&US !
%XY&H%D Z [% !\]D&^?_`a ./&bD&SD%c&d+ !eSD&" "
cD” nhằm đánh giá hai mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng sử dụng chất dạng Amphetamin ở nhóm người từ
15 đến 60 tuổi tại một xã ngoại thành Hà Nội.
2. Đánh giá một số yếu tố liên quan đến việc sử dụng chất dạng
Amphetamin trên các đối tượng nghiên cứu.
7
\f !?
gh4374
?0?0W&US !%XY&H%D
1.1.1. Lịch sử phát triển, sử dụng
Amphetamin được tổng hợp lần đầu tiên vào năm 1887 từ thảo dược có chứa
ephedrine bởi nhà khoa học người Đức là L. Edeleano. Đến năm 1893,
Methamphetamin được tổng hợp từ ephedrine tại Nhật Bản vào bởi nhà hóa học
Nagai Nagayoshi. Thuật ngữ "Methamphetamin" được bắt nguồn từ các yếu tố của
cấu trúc hóa học của hợp chất mới này: methyl alpha - methylphenylethylamin. Năm
1919, dạng tinh thể Methamphetamin được tổng hợp từ ephedrine bằng sử dụng
phốt pho đỏ và iodine bởi Akira Ogata.[4]
Trong y học, năm 1932 Amphetamin được chỉ định điều trị chứng xung
huyết mũi và hen phế quản ở Đức (Benzedrine). Năm 1937 được chỉ định
thêm điều trị chứng ngủ rũ, Parkison sau viêm não, trầm cảm, ngộ độc thuốc
gây ngủ yên dịu.[4],[5]
Tại Mỹ vào năm 1943, FDA chấp thuận cho Methamphetamin để điều trị
chứng ngủ rũ, trầm cảm nhẹ, Parkinson sau viêm não, nghiện rượu mãn tính,
xơ cứng động mạch não… và được cấp phép vào tháng 12 năm 1944.[5]
Do tác dụng kích thần, tăng tập trung, hưng phấn nên Methamphetamin
được sản xuất và sử dụng nhiều trong thời kì chiến tranh. Trong chiến tranh
thế giới thứ II, Methamphetamin được sử dụng cả ở lực lượng Phát xít và các
lực lượng Đồng minh. Công ty Temmler chuyên sản xuất Methamphetamin
dưới nhãn hiệu Pervitin cho quân đội Đức. Chúng được phân chia cho tất cả
các lực lượng quân đội lúc bấy giờ: từ lực lượng bộ binh, xe tăng và phi
công… ước tính nhiều triệu liều được phân phối trong suốt cuộc chiến. Ở
8
Nhật Bản, Methamphetamin không những được sử dụng cho mục đích quân
sự trong chiến tranh thể giới lần thứ II mà cũng được sử dụng cho mục đích
dân sự. Trong những năm 1940 và những năm 1950, chúng được nhiều người
quản lý cho công nhân lao động Nhật Bản sử dụng để tăng năng suất lao
động.[5]
Vào những thập niên 60 và 70 của thế kỷ 20, ATS được sử dụng rộng rãi
trong giới trẻ bởi tác dụng kích thích, hưng phấn, dễ tiếp xúc…và được coi
như chất sử dụng trong lễ hội. Bên cạnh đó thì tác dụng có hại của ATS được
ghi nhận ngày càng nhiều: loạn thần, kích động, ngộ độc… Năm 1970,
Methamphetamin đã được đưa vào Đạo luật các chất được kiểm soát ở Mỹ.
Các nước khác như Nhật Bản, Châu Âu… cũng dần đưa vào danh sách các
chất sử dụng bất hợp pháp.[4],[5]
Hiện nay ATS chỉ được chỉ định cho một số bệnh nhất định: tăng động
giảm chú ý (Attention deficit hyperactivity disorder – ADHD), ngủ rũ, trầm
cảm, béo phì… với các dạng bào chế nhất định: Methylphenidate (Ritalin),
Dextroamphetamin (Dextrine)…[6]
1.1.2 Phân loại các chất dạng Amphetamin
1.1.2.1 Amphetamin
i !&Q)[H()K")W&;j))kH%XY&H%D
Công thức hóa học# C
9
H
15
N
Công thức hóa học Amphetamin
9
Hình 1.1: Cấu trúc không gian Amphetamin
Hình 1.2: Dạng sử dụng Amphetamin
\l)`c !()
Amphetamin thường được sử dụng qua đường hít, hút, uống hoặc tiêm
để có tác dụng tức thì. Thời gian bán huỷ còn tuỳ thuộc vào dạng thuốc, liều
lượng, đường dùng và cách dùng. Thuốc bài tiết chủ yếu qua thận, một số ít
qua nước bọt và mồ hôi. Amphetamin tan trong mỡ, nên có thể qua hàng rào
máu não và có tác dụng một giờ sau khi uống. Thuốc được hấp thu nhanh qua
ống tiêu hoá vào máu rồi phân bố ra khắp cơ thể. Amphetamin được tích luỹ
trong mô mỡ, tập trung nhiều ở não, qua màng rau thai dễ dàng, bài tiết qua
sữa với tỷ lệ nhiều hơn trong huyết tương. [7]
\l)IR)()
Amphetamin và ATS có tác dụng hưng phấn, đây là tác dụng đóng vai
trò quan trọng gây phụ thuộc (lạm dụng, nghiện) và gây nên các rối loạn tâm
thần liên quan đến sử dụng Amphetamin.
10
Amphetamin làm người sử dụng cảm thấy tự tin, dễ hòa đồng, tăng
cường khả năng tình dục khi sử dụng. Những người sử dụng Amphetamin cho
biết là có tăng tần xuất hoạt động tình dục và thích quan hệ tình dục với nhiều
bạn tình hơn là những người sử dụng Heroin.
Amphetamin còn giúp cải thiện sự tập trung, giảm thèm ăn và giảm nhu cầu
ngủ, chính vì vậy mà các ATS được sử dụng tăng tập trung trí nhớ, giảm cân.
Amphetamin có thể gây ra ảo tưởng, ảo giác, hoang tưởng và các triệu
chứng loạn thần khác nhất là khi sử dụng liều cao kéo dài. Trong lâm sàng rất
hay gặp các triệu chứng này trên bệnh nhân sử dụng ATS và rất khó phân biệt
với các triệu chứng dương tính của tâm thần phân liệt. [4],[7]
m [H
Amphetamin và Methamphetamin được chuyển hóa chủ yếu ở gan, phần
lớn thuốc được dùng qua đường uống và được đào thải qua đường nước tiểu.
Thời gian bán hủy của Amphetamin (liều điều trị) khoảng 8-10 giờ. Với liều
độc, việc điều trị các triệu chứng do Amphetamin gây nên có thể mất thời
gian dài (có thể đến vài ngày), phụ thuộc vào độ pH của nước tiểu (tăng tính
acid làm tăng dào thải). [7]
f)a&C)UV !#%XY&H%D K"
Các amin sinh học trong quá trình tác động
11
%XY&H%D cD,D # *c& số phân tử của một cấu trúc tương tự
amphetamine được tìm thấy tự nhiên trong não. Ví dụ như l-
phenylalanine và β- Phenethylamine được tìm thấy trong hệ thống thần
kinh ngoại biên cũng như trong não. Các phân tử này được cho là có
vai trò điều chỉnh mức độ của sự ham muốn và sự tỉnh táo.
eXH%D # Amphetamin gây giải phóng dopamin. Các cơ chế ảnh hưởng
đến nồng độ dopamin của Amphetamin đã được nghiên cứu rộng rãi. Hiện
nay, có 3 giả thuyết chính. Một giả thuyết nhấn mạnh đến tác dụng của
Amphetamin làm tăng nồng độ dopamin khe synaps. Giả thuyết thứ hai tập
trung vào vai trò của các chất vận chuyển dopamin. Giả thuyết thứ 3 là
Amphetamin ức chế phân hủy dopamin bởi IMAO.[8]
Các giả thuyết trước đây được hỗ trợ bởi các nghiên cứu chứng minh
rằng tiêm Amphetamin làm gia tăng nhanh chóng nồng độ dopamin.
Amphetamin giúp cho việc giải phóng dopamin vào bào tương. Amphetamin
và các dẫn xuất Amphetamin có thể làm thay đổi độ pH làm tăng acid, tác
động làm phân bố lại dopamin.
Sự gia tăng của dopamin có thể gây nhiễm độc thần kinh. Dopamin tự
động bị oxy hóa trong bào tương.
Y;e&e D #%XY&H%D được thấy vai trò trên serotonin tương tự như
trên dopamin. Cơ chế này được cho là liên quan đến ion canxi cũng như các
protein vận chuyển nhất định.
Sự tương tác giữa Amphetamin và serotonin chỉ có ở các vùng đặc biệt
của não như hệ thống trung não - vỏ não - hệ viền. Nghiên cứu gần đây bổ
sung rằng Amphetamin gián tiếp có thể thay đổi hoạt động của hệ
glutamatergic từ các khu vực nhân bụng đến vỏ não trước trán. Hệ
glutamatergic liên quan chặt chẽ với việc tăng kích thích ở khe synap. Tăng
12
nồng độ serotonin ngoại bào có thể điều chỉnh các hoạt động kích thích
glutamatergic của tế bào thần kinh.[8],[9]
Amphetamin có tác dụng mạnh lên các amin sinh học khác. Thuốc làm
hạn chế tái hấp thu các amin sinh học với mức độ nhỏ, còn tác dụng chính là
tăng giải phóng amin sinh học từ những túi dự trữ ở đầu mút thần kinh, làm
tăng nồng độ các amin sinh học ở các khe synaps. Sự giải phóng dopamin ở
nhân áp ngoài và các cấu trúc liên quan được cho là gây ra các tác dụng hưng
phấn. Amphetamin được đưa vào các neuron và đến các túi dự trữ của neuron
dẫn truyền. Bằng cách thay đổi môi trường bên trong các túi này,
Amphetamin làm các neuron dẫn truyền giải phóng các chất dẫn truyền vào
bào tương và khe synaps.[8],[10]
1.1.2.2 Methamphetamin n??o
i !&Q)[H()#C10H15N
Công thức hóa học
Hình 1.3: Cấu trúc không gian Methamphetamin
13
Hình 1.4: Dạng tinh thể Methamphetamin (Ice)
Là Amphetamin tổng hợp. Chúng được dùng phổ biến ở các nước châu Á
(Thailan, Nhật, Hàn Quốc…) gần đây cũng phổ biến ở châu Âu, châu Mỹ,
Australia.[12], [13]
Cơ chế tác dụng: Methamphetamin có cấu trúc giống Amphetamin có tác
dụng giống giao cảm mạnh hơn và thời gian tác dụng dài hơn Amphetamin.
Nó có tác dụng trên cả ba cơ chế :
Tăng giải phong chất dẫn truyền thần kinh (DTTK) từ các túi dự trữ
Ức chế tái hấp thu chất DTTK (catecholamine)
Giảm phá hủy bởi IMAO
Chế phẩm cần chú ý là Ice (vì dạng tinh thể trông giống những mảnh vụn
thủy tinh, đá …). Đây là dạng tinh khiết 80% của Methamphetamin, nó có thể
sử dụng theo nhiều cách: hút, hít, tiêm trích, uống Tác động tâm thần của
Ice đợc mô tả là rất nhanh, mạnh và kéo dài. Theo UNODC dự đoán Ice sẽ là
loại ma tuý được dùng phổ biến nhất trong 5 - 10 năm tới đây.[3],[10],[12]
1.1.2.3.Các chất giống Amphetamin (Amphetamin-like; Designed Amphetamin)
[14]
14
Là chất tổng hợp, cấu trúc gần giống Amphetamin. Tác động trên hệ
dopamine và trên cả hệ serotonin, gây ảo giác giống các chất ma tuý khác
như Cocain, LDS
Những chất phổ biến:
3-4 Methylen dioxy Methamphetamin (MDMA): Adam,ectassy.
N-ethyl-3-4methylen dioxy Amphetamin (MDEA): Eva.
5-Methoxy-3-4-methylen dioxy Amphetamin (MMDA).
5 Dimethyloxy-4 methylamphetamin (DOM)
p)&H,,q**qUH%0
Công thức hóa học: C11H15NO2
Cấu trúc hóa học
Hình 1.5: Dạng sử dụng Ectassy
15
Ectassy được tổng hợp từ 1912 bởi công ty được phẩm Merck. Được sử
dụng nhiều trong quân đội Mỹ từ những năm 50 của thế kỷ XX. Chất này bị
lạm dụng nhiều từ thập niên 70 của thế kỷ trước.[5]
Cơ chế có 3 tác động : Kích thần, gây ảo giác và tăng cảm xúc. Vì vậy làm
cho người sử dụng cảm thấy:
Tác dụng gây hưng phấn, khoái cảm, lãng mạn…
Tác dụng gây cởi mở ,dễ gần dễ hòa nhập…
Tác dụng gây các ảo giác đầy màu sắc sinh động
Tràn đầy sinh lực và thoát ức chế , buông thả…
Thuốc làm tăng nhu cầu tận hưởng âm nhạc kích động, nhu cầu tình dục và
khả năng nhảy múa dẫn đến kiệt sức. Do tác dụng như vậy nên nó được coi là
“party drugs” được sử dụng phổ trong lễ hội, nơi vui chơi giải trí như: vũ
trường, quán bar… và là loại ATS được sử dụng phổ biến hiện nay.[14]
pXYU;D YK"X,YUeYXYU;D Y
Hình 1.6: Sản phẩm thuốc Ephedrine và psedoephedrin trên thị trường
Đây là nhóm thuốc điều trị cúm. Có thể mua không cần đơn để chữa một
số bệnh: Hen phế quản, viêm mũi xung huyết, chán ăn Tác dụng của chúng
kém APT song dễ mua và dễ bị lạm dụng. Chúng cũng là những tiền chất để
tổng hợp ATS [15]
16
Hiện nay trên thị trường buôn bán và sử dụng bất hợp pháp ATS còn nhiều
loại khác nhau và tên được người sử dụng thường dùng như: đá, thuốc lắc,
hồng phiến, viên nữ hoàng, ngọc điên, yaba, Cadillac, Adam, California
Sunrise, Clarity, E, Voi, Eve, ma túy Smile, thuốc tình yêu, Lover's speed, X,
Snowball, XE và XTC…[17]
17
1.1.2.4 Các chế phẩm Amphetamin chính hiện được sử dụng
Các chế phẩm ATS hiện nay được kê đơn, sử dụng trong một số bệnh
nhất định. Được chỉ định trong điều trị ADHD, ngủ rũ, trầm cảm Các chế
phẩm này thường ở dạng bán thải chậm và đã được FDA cấp phép. Các
thuốc: Dextroamphetamin (Dextrine), Methamphetamin, Methylphenidate
(Ritalin) [5],[6],[12]
1.1.3 Cách sử dụng ATS
1.1.3.1 Uống
Hình 1.7: Dạng sử dụng đường uống ATS
ATS được bào chế dưới dạng viên rất phổ biến. Các thuốc này được sử
dụng đường uống tiện dụng. Dưới dạng viên thuốc được vận chuyển dễ dàng,
phân phối thuận tiện trong các tụ điểm: vũ trường, quán bar…. Tác dụng của
thuốc chậm hơn các dạng sử dụng khác, ít nguy cơ hơn. [16],[17]
1.1.3.2 Tiêm chích
Hình 1.8: Sử dụng đường tiêm ATS
18
Tiêm chích mang nguy cơ cao hơn so với các phương pháp khác khi sử
dụng. Các muối ATS nhất là của Methamphetamine hydrochloride hòa tan
trong nước. Người dùng có thể sử dụng tiêm dưới da hoặc tiêm tĩnh mạch để
đạt được tác dụng nhanh. Nhưng việc sử dụng theo dường tiêm có nguy cơ
cao gây nghẽn mạch phổi, tắc nghẽn của động mạch chi, tiêm dưới da có nguy
cơ phát ban da (còn được gọi là "da gà ") hoặc nhiễm trùng tại chỗ tiêm. Cũng
như tiêm bất cứ thuốc nào, nếu một nhóm người dùng chung một bơm kim
tiêm thông thường mà không có khử trùng, có nguy cơ cao lây truyền các
bệnh qua máu như HIV hoặc viêm gan.[10],[18],[19]
1.1.3.4 Hút
Hình 1.9: Dụng cụ sử dụng đường hút ATS
ATS có thể được làm bay hơi để hít khói gây tác dụng. Dạng hay sử dụng
nhất là Ice. Nó thường được hút từ trong ống thủy tinh. Và cũng có thể được
hút trên lá nhôm mỏng được đun nóng bên dưới một ngọn lửa. Đây là hình
thức phổ biến nhất khi dùng ICE, và người sử dụng thường sử dụng theo
nhóm. Phổi bị tổn thương đã được báo cáo khi sử dụng kéo dài.[10][23]
1.1.3.5 Hít sâu
Một dạng sử dụng khi đưa ATS vào mũi sâu. Phương pháp này cho phép
ATS được hấp thụ thông qua các mô mềm của màng nhầy trong hốc xoang,
và sau đó đưa trực tiếp vào máu.[7]
19
1.1.3.6 Đạn
Đạn (chèn đường hậu môn hoặc âm đạo) là một phương pháp ít phổ biến
của ATS được sử dụng và các nghiên cứu còn tương đối ít. Thông tin về việc
sử dụng còn ít nghiên cứu, có nói đến tác dụng gia tăng khoái cảm tình dục do
ảnh hưởng của thuốc kéo dài. [11][19]
Hiện nay ATS không những được sử dụng đơn độc mà có thể được sử
dụng kết hợp. Việc sử dụng cũng tương đối phức tạp, trong đó các đối tượng
cho biết dùng kết hợp các loại ma túy khác: dùng ecstasy chung với ketamine
hoặc marijuana để “tạo hưng phấn tình dục”, ecstasy dùng kèm ketamine và
Amphetamine để tránh tình trạng ‘mệt mỏi’ Trong số những đối tượng sử
dụng Heroin kết hợp với các loại ma túy khác, khoảng 1/3 (8/22) dùng thêm
những loại thuốc khác như ecstasy và Amphetamin vì tin rằng những loại
thuốc này có tác dụng thay thế cho heroin, thậm chí có người còn dùng để cai
Heroin.[17],[19],[20]
1.1.4. Tác hại của ATS
Tùy theo mức độ sử dụng có thể gây nên các tác động thể chất và tâm
thần khác nhau:
Liều đầu tiên 5mg Amphetamin cũng có thể gây ra cảm giác "phê", khoái
cảm, tăng khí sắc, thân thiện.
Liều nhỏ hơn: tăng sự chú ý, tăng hiệu suất làm việc (nói, viết ), giảm
mệt mỏi, gây chán ăn, tăng ngưỡng kích thích đau, tăng hoạt động t=nh dục
và tăng năng lượng
Các chất giống Amphetamin có thể gây ảo giác, rối loạn định hướng, méo
mó tri giác, cảm giác say đắm, thấy ánh hào quang rực rỡ còn đợc gọi là các
chất gây ảo giác và là chất ma tuý thực sự. [2][7]
20
r%s&)f&m#
Nghiêm trọng nhất là tác động trên não, tim và ruột. Đặc biệt đe doạ
tính mạng là nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp kịch phát, chảy máu não và
viêm ruột hoại tử.
Triệu chứng thần kinh: co quắp chân tay, co giật toàn thân, hôn mê, có thể
tử vong (thường do liều quá cao).
Tiêm chích có thể liên quan đến lây truyền HIV và viêm gan virus. Đây còn
là cơ địa phát sinh ápxe phổi, viêm nội tâm mạc, viêm mạch hoại tử
Các tác dụng khác: đỏ mặt, tái nhợt, sốt, đau đầu, tim nhanh, trống ngực, buồn
nôn, nôn, nghiến răng, thở nhanh, run, thất điều… Phụ nữ có thai nghiện
Amphetamine gây: đẻ non, thiếu cân, đầu thai nhỏ, chậm phát triển.[2],[7],[10]
r%s&&$%&'
Sử dụng Amphetamin gây bồn chồn, bất an, loạn cảm, mất ngủ, tăng kích
thích, hằn học, thù địch, lú lẫn.
Với liều cao kéo dài: Rối loạn lo âu, rối loạn hoảng sợ, rối loạn giấc ngủ,
giảm t=nh dục… Có thể có hội chứng Paranoid với các hoang tưởng liên hệ, bị
theo dõi, ảo giác (thị giác, thính giác ).[2],[10],[21]
C))W&US !%XY&H%D
Có tác dụng giống Amphetamin
Tác dụng khác: cứng hàm, nghiến răng, khô miệng, tăng tỉnh táo, run,
toát mồ hôi, trống ngực, thấy hào quang rực rỡ, mất ngủ, chóng mặt, ớn
lạnh, bốc nóng Muộn hơn: ngủ gà, đau đầu, đau cơ, mệt mỏi, trầm cảm,
lo âu, sợ hãi, ảo thị.[10]
Tác dụng phụ nặng: tăng thân nhiệt (hypothermia) do thuốc, sau đó là do
tăng hoạt động quá mức (nhảy múa, hò hét), có thể gây tử vong vì kiệt sức.
[14]
21
Ngoài ra khi sử dụng ATS kết hợp với các chất khác còn gây tác dụng phụ
nguy hiểm. Nhiễm độc Methamphetamin tăng lên khi sử dụng kết hợp với
rượu, cocaine hoặc opiated. Sử dụng rượu và Methamphetamin gây tăng
huyết áp, tăng gánh nặng cho tim. Methamphetamin cũng làm tăng tác hại của
rượu: tăng nguy cơ nhiễm độc rượu và tai nạn giao thông liên quan đến sai
lệch về cảm giác và kiểm soát.[10],[14]
Sử dụng Cannabis và Methamphetamin làm tăng các triệu chứng loạn thần
trong một số trường hợp. Heroin và Methamphetamin có thể gây tình trạng ức
chế hô hấp và có thể suy tim. Methamphetamin cũng có thể làm tăng tình
trạng quá liều Heroin.[10]
C)`c !)kHKDt),TUV !&uD&;J&&Rd+cD
Tác hại của ATS tới cơ thể chúng ta đã thấy rõ. Về mặt trật tự xã hội.
Người sử dụng ATS dễ dẫn tới các biểu hiện rối loạn tâm thần có thể gây các
hành vi bạo lực, mất trật tự gây nguy hiểm cho người khác. Nghiện ATS cũng
như nghiện các chất khác đòi hỏi phải dùng hằng ngày và tăng liều thỏa mãn
vì vậy những hệ lụy kéo theo rất phức tạp: tội phạm, trộm cắp, buôn bán ma
túy… và cũng là gánh nặng cho chăm sóc và điều trị y tế.[1][17][21]
Theo nghiên cứu của Teresa L. Kramer (2006) những người sử dụng ATS
có tỷ lệ liên quan các rối loạn bạo lực ở mức cao từ 30 đến 70% trong vòng
12 tháng trong đó thấy có 25% liên quan tới vấn đề thể chất (đâm, đấm,
đá…), có thể mang theo súng, dao…[22]
Tại Thái Lan năm 2008 theo Susan G. Sherman thống kê thấy có tới 38%
các đối tượng hút ATS có hành vi bạo lực, 37% hành vi lái xe không an toàn.
Ngoài ra các hành vi nguy cơ khác cũng được nghi nhận: uống rượu 67%,
quan hệ tình dục 54%.[23]
Tại Việt Nam theo báo cáo khảo sát của Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội cho thấy, có gần 38% số học viên được tiếp nhận và hỗ trợ cai nghiện tại
22
các Trung tâm đã có tiền án hoặc tiền sự. Theo số liệu từ Bộ Công an, khoảng
11% trong tổng số 143.196 người nghiện có hồ sơ quản lý của cả nước cuối
năm 2010 đang được quản lý tại các Trại giam, Cơ sở Giáo dưỡng, Trường
giáo dưỡng do ngành Công an quản lý do có các hành vi vi phạm pháp luật
hình sự. [1]
?02= = ,TUV !
1.2.1 Tình hình sử dụng ATS trên thế giới
Như ta đã biết có sự tăng nhanh về sử dụng ATS khắp nơi trên thế giới cả
về số lượng cũng như về vùng địa lý.
Theo các báo cáo của Cơ quan điều tra quốc gia về lạm dụng chất (The
National Household Survey on Drug Abuse - NHSDA) ở Hoa Kỳ năm 2001:
7% dân số dùng ATS ít nhất 1 lần/năm và 1% nghiện. Nhóm tuổi 18 - 25 có
tỷ lệ cao nhất, nhóm 12 - 17 có tỷ lệ nghiện đáng báo động (tỷ lệ tiêm chích
chiếm 22%). Tính suốt cuộc đời thì nam có tỷ lệ lạm dụng là 1,5% và nữ là
1%. Cũng theo báo cáo trên, một số vùng của Mỹ có tỷ lệ sử dụng rất cao:
Methamphetamin bị lạm dụng và sản xuất phổ biến ở Hawaii, một nửa số phụ
nữ bị bắt giữ ở Honolulu có Test dương tính với ATS năm 2002, có gần 42%
ở Phoenix và 37 % ở San Diego. [24]
Tại Cannada, khoảng 1% dân số có sử dụng ATS, và tỷ lệ từ 7- 12,3% sinh
viên có sử dụng ATS trong 12 tháng. [25]
Tại Mỹ La tinh: theo báo cáo của Leyton và Sinagawa có tới 10,8 % lái xe
đường dài ở Sao Paolo, Brazil nghiện ATS [26]. Tại Mexico năm 2006 có
khoảng 0,8% dân số sử dụng ATS đứng hàng thứ 3 sau cần sa (7,2%) và
cocain (4,1%).[27],[28]
Tại Australia có tỷ lệ dùng ATS rất cao: trong năm 2010 điều tra có
khoảng 6% báo cáo đã sử dụng ATS và 2% sử dụng thường xuyên. Trong đó
tỷ lệ tiêm chính ATS chiếm tới 10%.[16]
23
Tại các nước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, theo UNODC báo
cáo năm 2009 ước tính hàng năm tỷ lệ sử dụng nhóm các chất kích thích dao
động từ 0,3% và 1,3% , tương đương với số lượng 14 - 57 triệu người (tuổi từ
15-64)[3]. Trong năm 2012 UNODC dự đoán khu vực Châu Á Thái Bình
Dương là khu vực tăng nhanh nhất về sử dụng ATS trong đó
Methamphetamin sẽ chiếm vị trí hàng đầu.[29]
Cũng theo báo cáo UNODC 2013 về sử dụng và buôn bán ATS ngày
càng ra tăng, ước tính hơn 3 triệu người độ tuổi từ 12 đến 65 tuổi đã sử
dụng các chất ma túy trong cuộc đời trong số đó 32% là ATS. Tại Nhật
Bản sử dụng ATS có chiều hướng giảm chiếm 0,4% dân số từ 15 đến 64
tuổi. Ở Trung Quốc, tỷ lệ sử dụng ATS ngày càng tăng trong số những
người nghiện từ 9% năm 2008 tới 19% năm 2010 và 2013 có 29% người sử
dụng ma túy là ATS.[30]
Tùy theo khu vực ATS sử dụng thường được chia thành hai loại chính:
(1) nhóm Amphetamines (chủ yếu là Amphetamin và Methamphetamin) và
(2) nhóm ecstasy (MDMA và các chất tương tự). Methamphetanin phổ biến
nhất với dạng viên và tinh thể. Tỉ lệ sử dụng các nhóm chất ATS khác nhau
giữa các khu vực. Nhóm chất Amphetamines nhiều nhất ở châu Phi, châu Mỹ
và châu Á, trong khi nhóm ecstasy lại phổ biến hơn tại Châu Âu và Châu Đại
Dương. Tại Bắc Mỹ, hai nhóm sử dụng phổ biến gần như ngang nhau. Nhìn
chung, sử dụng nhóm chất Amphetamines có xu hướng ngày càng tăng, trong
khi nhóm MDMA ổn định (giảm ở châu Á). Methamphetamin là ATS phổ
biến nhất trên toàn thế giới. Amphetamin và nhóm MDMA có xu hướng ít
hơn, nhưng có hoạt động tinh vi hơn vì những chất ATS nhóm này yêu cầu
thiết bị chuyên biệt hơn, tiêu chuẩn tiền chất và trình độ kỹ năng cao hơn.[3]
Trong năm 2009, số vụ bắt giữ ATS toàn cầu tăng đáng kể, vượt quá mức
cao nhất của năm 2007. Các vụ bắt giữ Methamphetamin tăng hơn 40% lên
24
tới 31 tấn. Bắt giữ Amphetamin tăng khoảng 10% (33 tấn). Bắt giữ Ecstasy
lên đến 5,4 tấn (2008). Thị trường ATS mở rộng tại khu vực Đông và Đông
Nam Á. Các chuyên gia chỉ ra rằng tăng sử dụng ATS rất đáng kể, đặc biệt là
sử dụng Methamphetamin. Các chuyên gia đã thông báo rằng
Methamphetamin xếp hạng trong tốp ba loại ma túy bất hợp pháp trong khu
vực này, gồm cả Trung Quốc, Nhật Bản và Indonexia. Châu Phi gần đây đã
trở thành một trong các vùng trọng điểm buôn bán ATS. Buôn bán
Methamphetamin từ Châu Phi bị phát hiện đầu tiên vào cuối năm 2008.
Methamphetamin cũng có thị trường mới ở Tây Phi. Ở Đông Á, trao đổi tiền
chất đẩy mạnh với giao thông quá cảnh châu Âu, Tây Á hoặc Đông Phi.[3]
Dr`v?0?#= = !DH&G !)C)KVwx&!D<ID yH
25