Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

đánh giá kết quả phẫu thuật thì đầu vết thương gân duỗi bàn tay tại bệnh viện việt đức từ 2010 - 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.19 KB, 49 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Vết thương gân duỗi bàn tay là một trong những tổn thương thường gặp
trong số các vết thương ở chi trên do rất nhiều nguyên nhân, mà nguyên nhân
thường gặp do tai nạn lao động, tai nạn giao thông, tai nạn sinh hoạt và các tai
nạn do hỏa khí
Vết thương bàn tay đơn thuần hầu như không ảnh hưởng tới tính mạng
bệnh nhân, song các di chứng của nó lại rất nặng nề và làm cho người bệnh trở
nên tàn phế, mất khả năng lao động và ảnh hưởng nhiều đến tâm lý người bệnh.
Vết thương bàn tay rất đa dạng, có thể chỉ là một vết thương do vật sắc
nhọn làm đứt gân đơn thuần, cũng có khi dập nát mất tổ chức trong các tai
nạn do máy dập, máy cưa, hay do hỏa khí vv. Chính vì thế khi xử trí vết
thương bàn tay cần phải xem xét. Tùy tình trạng vết thương cụ thể, thời gian
tổn thương và điều kiện cơ sở phẫu thuật để đưa ra các chỉ định cụ thể.
Trên thế giới phẫu thuật bàn tay trở thành một lĩnh vực rất được quan
tâm từ 30- 40 năm trở lại đây. Các nghiên cứu về bàn tay đã đạt được nhiều
thành tựu trong các lĩnh vực như: giải phẫu ứng dụng, kỹ thuật khâu nối,
phương pháp tập phục hồi chức năng….Càng ngày càng có nhiều công trình
nghiên cứu trên người và động vật nhằm tìm ra đặc điểm giải phẫu, sinh lý,
các quá trình bệnh lý ở bàn tay, cùng với sự ứng dụng phẫu thuật tạo hình bàn
tay. Những điều đó đã đem lại kết quả to lớn trong lĩnh vực phẫu thuật bàn
tay, kết quả phẫu thuật nối gân duỗi bàn tay thì đầu ngày càng được cải thiện.
Ở nước ta, vết thương gân duỗi bàn tay mặc dù gặp rất phổ biến nhưng
vẫn còn chưa được quan tâm thích đáng, một số phẫu thuật viên còn rất nhiều
các sai lầm về kỹ thuật như: Nối nhầm gân, đánh giá không hết tổn thương…
Bởi vậy các di chứng vết thương bàn tay là rất lớn.
1
Tại các bệnh viện lớn cũng còn một số vấn đề về kỹ thuật xử trí vết
thương bàn tay cần được thống nhất, vấn đề luyện tập phục hồi chức năng sau
mổ của các bệnh nhân chưa được quan tâm đúng mức. Trong khi đó còn rất ít
các công trình nghiên cứu về phẫu thuật bàn tay. Đặc biệt là về phẫu thuật
xử trí vết thương gân duỗi bàn tay thì đầu. Mặc dù kỹ thuật này đang được


thực hiện ở rất nhiều cơ sở ngoại khoa trong cả nước. Do đó chúng tôi
nghiên cứu đề tài: “Đánh giá kết quả phẫu thuật thì đầu vết thương gân
duỗi bàn tay tại bệnh viện Việt Đức từ 2010 - 2012” nhằm nêu lên mục
đích sau:
1. Nhận xét đặc điểm tổn thương của gân duỗi bàn tay tại bệnh viện hữu
nghị Việt Đức từ năm 2010- 2012.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật thì đầu nối gân duỗi bàn tay.
2
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Giải phẫu định khu
1.1.1. Giải phẫu định khu gân duỗi bàn tay (hình 1.1) [4,8,26]
Hình 1.1. Giải phẫu gân duỗi bàn tay [4, 8, 26].
Duỗi ngón tay là một cử động phức tạp hơn cử động gấp ngón tay. Cơ
chế duỗi bao gồm 2 hệ thống riêng biệt và độc lập về hệ thống thần kinh.
Thần kinh quay chi phối cho hệ thống gân duỗi đi từ cẳng tay và bàn tay, thần
kinh trụ và thần kinh giữa chi phối cho hệ thống gân cơ giun, gân cơ gian cốt.
Tuy vậy, sự mô tả ngắn gọn về giải phẫu của cơ cấu duỗi là quan trọng để biết
cách điều trị đúng.
3
Ngón tay duỗi được là nhờ hệ thống gân cơ ở sau cẳng tay đi xuống và
gân cơ giun- gian cốt ở bàn tay. Các gân duỗi đi vào bàn tay qua một loạt
những đường hầm xương sợi ở ngang mức cổ tay, ở mức này các gân được
bao bọc bằng bao hoạt dịch. Dây chằng vòng sau cổ tay là một dải sợi rộng,
có tác dụng làm cho gân không chệch ra ngoài khi cơ co.
Các gân duỗi riêng ở mức khớp bàn ngón nằm về phía trong các gân
duỗi chung. Gân duỗi dài ngón cái, gân duỗi ngắn ngón cái, gân duỗi riêng
ngón trỏ và gân duỗi riêng ngón út có nguyên ủy và cử động tương đối độc
lập nhau.
Trái với gân duỗi riêng, gân duỗi chung các ngón cử động độc lập bị

hạn chế và thường có 4 gân tách biệt. Ngang phía gần mức khớp bàn ngón tay
các gân duỗi chung được các dải liên kết chéo (gọi là dải nối gân) kết nối với
nhau, những dải nối này thường chạy từ gân duỗi ngón giữa tới gân duỗi ngón
trỏ và ngón nhẫn, từ ngón nhẫn tới ngón út. Do có những dải nối liền gân này
nên rách gân duỗi chung của ngón giữa ngang trên chỗ tiếp nối có thể chỉ mất
duỗi không hoàn toàn của ngón giữa.
Gân duỗi ở mức khớp bàn ngón được áp vào mặt sau khớp bằng các
gân liên kết của những gân cơ giun- gân cơ liên cốt và bởi các lá ngang và dải
dọc. Những thành phần trên thít chặt, giữ các gân duỗi không bị lệch trục dọc
ngón tay. Các dải dọc xuất phát từ bản ngón tay và các dây chằng liên đốt bàn
tay ở mức cổ xương đốt bàn tay. Bất kỳ sự tổn thương nào đến gân liên kết
này có thể dẫn đến trật và di lệch gân duỗi.
Các gân cơ giun và cơ liên cốt tham gia vào cơ chế duỗi ở khoảng
ngang mức phần gần, phần giữa của đốt một ngón tay và tiếp tục tới khớp
gian đốt xa ngón tay. Ở mức khớp bàn ngón, phần gân cơ giun và cơ liên cốt
nằm về phía trước trục xoay của khớp, nhưng ở khớp gian đốt ngón gần thì
chúng nằm sau trục khớp.
4
Ở ngang cổ đốt ngón 1 phức hợp gân duỗi chia thành 3 dải, một dải
trung tâm bám vào mặt sau của nền đốt hai và 2 dải bên chạy về cả hai phía
của khớp gian đốt gần ngón tay rồi tiếp tục đi tới bám vào mặt sau của nền
đốt 3 ngón tay.
Phức hợp gân duỗi được giữ áp vào mặt sau của khớp gian đốt ngón
gần bởi các dây chằng ngang(Ligament Transverse). Gân duỗi duỗi được
đồng thời 2 khớp của ngón tay là nhờ một cơ chế mà theo đó dải trung tâm
duỗi đốt 2, hai dải bên duỗi đốt 3. Nét quan trọng nhất của cơ chế này là ở chỗ
3 thành phần cân bằng nhau, cụ thể là chiều dài của dải trung tâm và dải bên
phải ở mức sao cho sự duỗi khớp gian đốt gần và xa của ngón tay xảy ra cùng
nhau. Do đó, khi đốt 2 được đưa thẳng hàng với đốt 1 thì đốt 3 cũng đồng thời
thẳng hàng với đốt 2. Cơ chế trên phụ thuộc vào độ dài tương đối của dải

trung tâm và 2 dải bên. Mối liên hệ chính xác, phù hợp này về chiều dài là
khó khăn cho phục hồi khi gân tổn thương, sự mất đi mối liên hệ có tính
quyết định này tại mức khớp gian đốt gần ngón tay cùng với sự dài ra tương
đối của dải trung tâm dẫn tới biến dạng.
Mặc dù phức hợp gân duỗi có thể bị tổn thương ở bất kỳ mức nào từ
gian đốt ngón xa tới tận cẳng tay thì các mức tổn thương nhất định có đặc
trưng riêng.
Các gân duỗi chung được nối với nhau ở ngang khớp bàn ngón bởi các
chẽ gân liên kết, các chẽ gân này chỉ gắn vào các gân duỗi chung mà thôi và
nhờ thế có thể nhận ra được gân duỗi riêng của ngón trỏ và ngón út. Gân duỗi
riêng bao giờ cũng nằm về phía trong của gân duỗi chung liền kề. Bên dưới
của dây chằng vòng mu tay, các gân duỗi được bao bọc bằng bao hoạt dịch.
5
1.1.2. phân chia định khu gân duỗi bàn tay (xem hình1. 2).
Hình 1.2.Phân chia định khu gân duỗi bàn tay [18]
Tác giả đầu tiên chia bàn tay làm các vùng là Michon vào năm 1962.
Theo ông bàn tay có thể chia làm 5 vùng khác nhau. Qua thực tế,người ta thấy
cần thiết phải chia nhỏ ra dựa trên sự biến dạng tiềm tàng về giải phẫu do một
vết thương gây ra. Cách phân chia này được hội phẫu thuật bàn tay quốc tế
cải tiến vào năm 1980, chia làm 2 khu cơ bản :
-Định khu cho ngón cái.
-Định khu cho các ngón còn lại (còn gọi là các ngón dài).
1.1.2.1. Định khu cho các ngón dài chia làm 7 vùng [1, 9, 18]
Vùng 1: Được tính từ đầu tận cùng gân duỗi đến cổ đốt 2 ngón tay.
Biến dạng ngón tay hình vồ phát sinh từ sự đứt nơi bám tận cùng của
gân duỗi. Các chấn thương kín xảy ra thường xuyên hơn các chấn thương hở
và do khi khớp gian đốt ngón xa bị gấp mạnh trong lúc duỗi chủ động. Sự
chấn thương gân thay đổi từ tình trạng giãn tới đứt hoàn toàn hoặc gân chỉ bị
6
bứt ra cùng với một mảnh xương, các biến dạng hình vồ kín cấp tính mà

không có dấu hiệu bứt xương được điều trị bằng một nẹp nhôm mu ngón tay.
Nẹp này giữ cho khớp gian đốt ngón xa ở trạng thái hơi tăng duỗi.
Một biến dạng hình vồ có bứt xương được điều trị kín nếu có thể nắn
lại chính xác mảnh gãy hoặc nếu nó chỉ ảnh hưởng tới một phần nhỏ của mặt
khớp sau của đốt ngón xa. Việc điều trị kín trong mảnh gãy xương đôi khi tạo
ra các cal xương làm hạn chế sự duỗi chủ động hoàn toàn ở khớp gian đốt
ngón xa. Green và Rowland chỉ ra rằng các mảnh gãy lớn thường xoay không
bình thường và đốt ngón xa lệch về phía gan tay làm cho việc nắn kín khó
thực hiện. Nếu không nắn được chính xác độ duỗi ngón tay bị giảm và đưa
đến viêm khớp thoái hóa sau mổ,làm cho khớp bị cứng và đau.
+ Vùng 2: Tính từ cổ đốt 2 đến nền đốt 2 ngón tay
Bowers và Hurst đã báo cáo những kết quả tốt trong những trường hợp
sửa chữa sử dụng kỹ thuật nới gỡ bản gân trượt trung tâm của Fowler [25]
.Với kỹ thuật này, bản gân trượt trung tâm được gỡ ra tại chỗ bám tận của nó
vào mặt sau nền đốt giữa ngón tay. Cần phải thận trọng để không cắt đứt các
dải bên hoặc dây chằng tam giác, vì thế sẽ dẫn đến mất duỗi của cả khớp gian
đốt ngón gần và gian đốt ngón xa .
Chấn thương dải bên ở mu đốt giữa ngón tay thường xảy ra trong các
vết thương hở. Nếu dải bên hoàn toàn bị đứt, bệnh nhân không thể duỗi đầy
đủ khớp gian đốt ngón xa.
+ Vùng 3: Tính từ nền xương đốt 2 đến cổ đốt 1 ngón tay.
Các vết thương gân duỗi vùng 3 dẫn đến các biến dạng chồi (Gấp khớp
PIP và quá duỗi DIP- boutonnière déformeé). Việc điều trị đòi hỏi một sự
hiểu biết kỹ lưỡng về giải phẫu gân duỗi của khớp gian đốt ngón gần.Trên
phần xa của đốt ngón gần, gân duỗi chia thành 3 bản, một bản trượt trung tâm
bám vào mặt mu của nền đốt ngón giữa và các bản trượt bên, hai bản này tiếp
7
tục như các dải bên và được nối với nhau ngang qua mu đốt ngón giữa bởi các
sợi ngang có tên là dây chằng tam giác.
Tubiana [44] chỉ ra rằng hệ thống các dây chằng hãm góp phần một

biến dạng chồi nào đó theo 2 cách. Các dây chằng hãm ngang làm ngắn và
giữ cho các dải bên ở vị trí hơi nghiêng về phía gan tay, dây chằng hãm chéo
trở nên bị ngắn lại làm cho biến dạng gấp của khớp gian đốt ngón gần và biến
dạng duỗi của khớp gian đốt ngón xa nặng thêm. Khi bản trượt trung tâm bị
đứt ở ngang mức khớp gian đốt ngón gần, các dải bên lệch dần về phía gan
ngón tay và xiết chặt khi bản gân trượt trung tâm thu gắn lại. Khi các dải bên
lệch về phía trước trục ngang của khớp gan đốt ngón gần, chúng đóng vai trò
như các gân gấp của khớp đó chứ không phải các gân duỗi.
Dolphin [21] nhấn mạnh rằng phần lớn sự bất lực của một biến dạng
chồi sinh ra từ tình trạng kém gấp của khớp gian đốt ngón xa. Ông ủng hộ
việc dùng thủ thuật Fowler [33].Thủ thuật này đơn giản thường dành riêng
cho những bệnh nhân già bị biến dạng cố định đã lâu.
+ Vùng 4: Tính từ cổ đốt 1 đến nền đốt 1 ngón tay.
Các đứt gân trên đốt gần ngón tay có đụng chạm tới cơ cấu gân duỗi
mu ngón tay thường không phải là một vấn đề khó giải quyết. Những biến
dạng chồi tại đây không hay gặp, màng xương và cấu trúc gân duỗi được sửa
riêng biệt. Không nên cố định khớp bàn ngón tay ở tư thế duỗi quá 4 tuần để
tránh mất gấp về sau.
+ Vùng 5, 6: Đi từ nền đốt 1 ngón tay đến bờ xa dây chằng vòng cổ tay.
Các trường hợp đứt hoàn toàn gân duỗi ở ngang mức bàn ngón tay biểu
hiện bằng tình trạng khó duỗi rõ rệt, trong khi đó các trường hợp rách một
phần thì có triệu chứng yếu duỗi khi kháng lại lực cản.
Về phía trên khớp bàn ngón, trên mặt sau xương đốt bàn, dù đứt hoàn
toàn một gân duỗi nào đó cũng sẽ gây ra sự mất duỗi đáng kể nào vì có sức
8
kéo liên thông của mạng tiếp nối gân duỗi. Thường thì những chấn thương
này liên quan đén một nhóm gân duỗi hoặc bao gân duỗi khác nhau, có hoặc
không có tổn thương xuyên khớp.
+ Vùng 7: Là vùng của cổ tay, tính từ bờ xa đến hết dây chằng vòng
cổ tay, gân duỗi từ cẳng tay và bàn tay qua 6 ống xương sợi, các ống này

bao phủ bằng dây chằng vòng có tác dụng ngăn không cho gân duỗi trật ra
khi co cơ.
- Ngăn 1: Chứa cơ dạng dài ngón cái, cơ duỗi ngắn ngón cái.
- Ngăn 2: Chứa các gân duỗi cổ tay quay.
- Ngăn 3: Chứa gân duỗi dài ngón cái.
- Ngăn 4: Chứa gân duỗi chung các ngón đi vào 4 ngón 2, 3, 4, 5 và gân
duỗi riêng ngón trỏ.
- Ngăn 5: Chứa gân duỗi riêng ngón 5.
- Ngăn 6: Chứa cơ duỗi cổ tay trụ.
Mạc hãm gân duỗi chứa 6 ngăn riêng biệt được lót bằng màng hoạt
dịch. Các trường hợp đứt gân hoàn toàn làm cho đầu gần của gân co rút về
phía trên khớp cổ tay và thường không nhìn thấy được đầu gần gân tại vết
thương. Có thể mở một phần mạc hãm gân duỗi để tìm các gân bị đứt cũng
như để khâu gân cho dễ. Khâu nối gân bằng chỉ không tiêu 4.0 và một đường
khâu vắt vòng tròn bằng chỉ 6.0 làm cho chỗ nối gân ngắn hơn. Thường thấy
dính gân sau chấn thương vì mạc hãm gân duỗi là một khoang chật hẹp.
Nếu đứt hoàn toàn mạc hãm gân duỗi, sẽ sinh ra chứng chùng dây cung
của gân duỗi và duỗi ngón không đầy đủ. Các cơ dạng và các cơ duỗi ngón
cái là một trường hợp ngoại lệ ở trường hợp này. Nếu chấn thương ở đây xảy
ra ở trong bao trong lúc chuyển động, bao gân được cắt bỏ để tránh chứng
viêm bao gân chít hẹp sau mổ (bệnh DEQUERVAIN do chấn thương).
9
+ Cẳng tay: Các trường hợp đứt gân duỗi về phía trên hãm gân duỗi
đã được nối thì vấn đề liền gân và trượt của gân ít vấn đề nẩy sinh. Đầu gần
của gân co lại về phía cơ và cần phải tìm nó để khâu nối. Nếu chỉ có riêng cơ
được sửa sẽ phát sinh tình trạng kém duỗi rất dễ nhận ra. Việc nẹp và chăm
sóc sau mổ giống như chấn thương của vùng 6.
1.1.2.2. Định khu cho ngón cái.
Về giải phẫu chia ngón cái thành 5 vùng:
+ Vùng 1: Đi từ đầu tận cùng gân duỗi ngón 1 đến cổ đốt 1 ngón tay.

+ Vùng 2: Đi từ cổ đốt đến nền đốt 1.
+ Vùng 3: Đi từ nền đốt 1 đến cổ xương bàn ngón 1
+ Vùng 4: Đi từ cổ xương bàn, đốt 1 đến bờ xa dây chằng vòng cổ tay.
+ Vùng 5: Vùng dây chằng vòng cổ tay.
Đứt gân duỗi ngón cái dài trên khớp gian đốt ngón và đốt ngón gần
được điều trị giống với bất kỳ vết thương gân duỗi ngón tay nào tại những mức
này. Các chấn thương ngón tay hình vồ kín của ngón cái ít gặp. Chúng được điều
trị theo những nguyên tắc dành cho các ngón tay hình vồ kín nói chung.
Các vết thương trên mặt sau khớp bàn ngón có thể chạm đến cả gân
duỗi ngón cái ngắn và dài. Điều trị các vết thương gân và khớp như với các
ngón khác.
Vết thương gân duỗi ngón cái dài ở trên khớp bàn ngón dễ bị bỏ qua.
1.2. Nuôi dưỡng gân duỗi
1.2.1. Mạch máu nuôi gân
Gân duỗi được nuôi dưỡng bởi các mạch máu nhỏ rất mỏng manh chạy
liên tục từ phía cơ đi vào. Các mạch máu này nằm xen kẽ với các sợi xơ cấu
thành gân duỗi. Một nhóm mạch máu khác nằm trong các màng mỏng được
10
xuất phát từ xương và màng xương tạm gọi là mạc treo gân cung cấp máu cho
gân, các mạch máu này nằm ở mặt gần xương của gân.
Do cấu trúc mạch nuôi nên hình thành các vùng giàu mạch máu và các
khoảng vô mạch trên đoạn gân. Các vùng giàu mạch máu ở gần các mạc nuôi
gân, giữa hai vùng giàu là vùng nghèo mạch máu. Sự phân bố mạch từ trước
lại tạo ra một khoảng nuôi dưỡng kém ở phía lưng của gân. Trên diện cắt
ngang gân duỗi, thấy mạch máu tập trung ở phía bụng của gân.
1.2.2. Nuôi dưỡng bằng hoạt dịch.
Từ năm 1959, Kaplan [30] khẳng định dịch của màng hoạt dịch tiết ra
ngoài vai trò bôi trơn còn có vai trò nuôi dưỡng gân. Sau này được khẳng
định lại bởi Mathews và Richard, Eiken [24], Lundborg và Manske .
Đến năm 1985 [14] , Bade đưa ra một chu trình hoàn chỉnh về nuôi

dưỡng gân bằng hoạt dịch, đặc biệt có ý nghĩa đối với vùng vô mạch.
Dịch hoạt dịch được sản xuất ra nằm trong bao hoạt dịch là một túi kín
.Nhờ vận động của gân gây tăng áp lực trong bao hoạt dịch, dịch này thấm
vào các thớ của gân đảm bảo cung cấp các chất nuôi dưỡng gân, sau khi thực
hiện xong chúng dồn lại và đổ vào các mạch máu phía mu của gân rồi qua các
mạc nuôi gân về hệ mạch máu của bàn tay.
Qua đây chúng ta thấy rõ vai trò của tập luyện sớm sau mổ, ngoài việc
chống lại sự hình thành xơ dính còn làm tăng sự nuôi dưỡng gân.
Tuy nhiên, trong hai hệ thống nuôi dưỡng gân, hệ thống mạch máu vẫn
giữ vai trò chủ đạo. Seyfer [37] khi nghiên cứu trên khỉ, nhằm tìm ra các yếu
tố quan trọng trong sự liền gân: Cho thấy với nhóm có tổn thương mạc nuôi
gân, tỷ lệ đứt lại là 20% với nhóm không có tổn thương tỷ lệ này là 0%.
Khi có tổn thương các mạch nuôi gân và bao hoạt dịch thì tiên lượng
liền gân sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
11
1.3. Sự liên quan sẹo của gân và các yếu tố ảnh hưởng
Khi các đầu gân được chắp lại với nhau bằng những phương pháp khâu
thích hợp, quá trình liền gân là quá trình xơ hóa và phục hồi dần dần của gân.
1.3.1. Sự liền sẹo của gân
- Tuần thứ nhất:
Ở tuần này nẹp nguyên bào sợi được hình thành. Một chất trong suốt
giống như thạch khớp nối hai đầu gân trong một khối sưng mềm hình thoi, và
các tế bào mô liên kết bắt đầu mọc vào khối này. Các đầu gân trở nên đỏ, to
lên do máu đến nhiều và tăng sinh mô liên kết. Các thành phần của mô liên
kết ở trong và xung quanh gân góp phần vào sự liền gân ban đầu bằng cách
những nguyên bào sợi mọc vào chất đồng nhất giống như thạch và sớm
chuyển thành các sợi mô liên kết. Qúa trình này không đến từ tế bào gân mà
từ lá tạng màng hoạt dịch, bao gân, mô quanh gân và mô ngăn cách các bó
gân. Trong tuần đầu, các đầu gân nối với nhau qua các nẹp sưng phồng bằng
nguyên bào sợi, trông dầy cộp nhưng mềm nhẽo. Sự tăng sinh của tế bào

trong gân chủ bắt đầu sau ngày thứ tư hoặc năm.
- Tuần thứ hai:
Mô liên kết tăng sinh trong tuần này, gân sưng tới mức tối đa, xung
huyết, phù và đặc biệt là sự tăng sinh của các thành phần mô liên kết vốn bắc
cầu qua khoảng kẽ giữa các đầu gân nhưng không đem lại sức mạnh. Qua mô
liên kết và khối chất giống như thạch, các sợi gân tiến vào và các tế bào hiện
diện rõ rệt vào ngày thứ 8 và bắc cầu qua khoảng hở trong khoảng từ ngày thứ
10 đến ngày thứ 14. Cho tới trước khi các đầu gân được nối liền bằng các sợi
gân và các sợi collagen, khối kết nối gân hình thoi ấy liên tiếp với những mô
xung quanh, vốn là những mô đem lại nguồn mạch nuôi cho hai đầu gân.
Tuần thứ ba:
12
Trong tuần này, sự sản xuất các sợi collagen của gân diễn ra. Mô nối
hai đầu gân vẫn sưng và xung huyết nhưng chắc và ít đỏ hơn. Các sợi gân đã
được hình thành ngang qua khoảng hở, và có thể nhận thấy sự phân bào tăng
lên giữa các sợi gân, từ mỗi đầu gân tiến ra 1cm. Chỗ khớp nối ấy vốn rất
mềm trong 4 ngày đầu và chắc hơn trong tuần thứ hai, bây giờ đã chắc rõ rệt,
vì mô mềm phù nề đang được thay thế bởi mô liên kết và các sợi gân. Ở chỗ
tiếp nối giữa gân và mô bao quanh, một sự phân tách diễn ra để cho gân có
thể chuyển động được. Ở cuối tuần thứ ba đã có một độ vững chắc nào đó,
phần lớn do sự hình thành của chính các sợi collagen dai bền của gân. Nelson
Howard gợi ý rằng các tế bào dài hình thoi bên trong một gân là những tế bào
nội mô dẹt hình ô van trong thành của các ống dọc chạy suốt qua chiều dài
của gân. Những thừng collagen chắc hợp thành phần chính của gân là những
sản phẩm của các tế bào mô liên kết và được sắp xếp song song theo chiều
dọc khi đáp ứng với sự kéo căng của gân.
- Tuần thứ tư:
Đây chính là tuần mà sự phân giải diễn ra. Sưng và tình trạng đa mạch
giảm đi, sự nới lỏng của gân khỏi mô xung quanh đã cho phép gân trượt được
ở mức độ nào đó vào cuối tuần thứ tư, chỗ nối đã rất chắc.

Cho tới nay quá trình này vẫn còn chưa được nghiên cứu một cách đầy
đủ. Người ta thấy xuất hiện một vài các hoạt chất hóa học trung gian trong
quá trinh liền gân gọi chung là các fibrorectine [28], các chất này tiết mạnh
vào ngày thứ 7- 10 sau khi mổ có vai trò chính trong việc hình thành hệ thống
trượt của gân, tạo điều kiện dễ dàng cho các tế bào di chuyển bên trong gân.
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự dính gân sau phẫu thuật
Dính gân là nguyên nhân thất bại của hầu hết phẫu thuật nối gân duỗi
thì đầu. Cho tới nay người ta tìm ra ba yếu tố ảnh hưởng tới sự dính gân.
13
+ Yếu tố cơ học
Những thí nghiệm của Mason và Allen về tác động của sự hoạt động
lên sự liền gân cho thấy rằng: So sánh quá trình xảy ra ở các gân bất động với
quá trình xảy ra ở các gân cử động không thấy có sự khác biệt nào cho tới
ngày thứ 13, nhưng gân cử động bị sưng và dính nhiều hơn. Từ ngày 15 tới
ngày 21 độ vững của gân ở hai quá trình đều cải thiện, nhưng sau đó chỉ có
gân được tập luyện cải thiện rõ về độ vững.
Vì hoạt động quá mức trong 15 ngày đầu tiên tỏ ra có hại, nên cho gân nghỉ
và sau đó hoạt động tăng dần cho tới ngày thứ 21. Sau đó có thể hoạt động tăng
lên nhưng không được kéo căng gân đến mức tối đa khi chưa đủ 4 tuần.
Vận động muộn chậm sau mổ làm tăng sự dính của gân vào tổ chức
xung quanh, vì nó không phá được các cột sợi xơ non đi từ tổ chức xung
quanh vào tổn thương gân.
+ Yếu tố hóa học
Vai trò của chất chống viêm không Steroid đã được khẳng định không
có hiệu quả.
Để làm giảm hiện tượng dính của gân duỗi, chất hóa học phải đảm bảo
hai yêu cầu:
- Giảm phản ứng viêm của quá trình liền sẹo bên ngoài.
- Không giảm hoặc tăng quá trình liền sẹo bên trong.
Trên thực tế người ta tìm ra được chất hóa học có hai đặc tính trên là a

xít Hyaluronic.
Hagberg nghiên cứu trên 120 gân nối thì đầu ở người, sau đó tiêm a xít
Hyaluronic vào bao gân thây có sự khác biệt rõ ràng giữa hai lô có và không
tiêm thuốc.
14
+ Yếu tố kích thích điện
Trên thực nghiệm, thấy dòng điện sóng ngắn có vai trò làm tăng sự liền
gân bên trong và làm giảm sự dính bên ngoài. Cơ chế còn chưa rõ ràng.
1.4. Kỹ thuật khâu nối gân
1.4.1. Chỉ định và chống chỉ định nối gân duỗi thì đầu
Các nghiên cứu đều cho rằng chỉ định khâu nối gân duỗi thì đầu tùy thuộc
vào thương tổn phần mềm và thời gian khi bị tổn thương đến khi phẫu thuật.
Nếu thương tổn phần mềm gọn và sạch thì tiến hành khâu nối gân thì
đầu. Với các vết thương dập nát, vấy bẩn, có nguy cơ nhiễm trùng thì cần phải
cắt lọc làm sạch các thương tổn phần mềm, cầm máu, khâu nối gân sẽ được
tiến hành thì 2. Các tác giả thống nhất chống chỉ định phẫu thuật nối gân khi
vết thương có biểu hiện nhiễm trùng cũng như phần mềm tổn thương dập nát
nghiêm trọng dù thương tích bất kỳ vùng nào của bàn tay.
1.4.2. Kỹ thuật khâu nối gân duỗi
1.4.2.1. Nguyên tắc
Khâu nối gân phải đảm bảo nguyên tắc sau :
* giải phẫu
+ giáp được hai đầu gân lại được với nhau.
+ Đường khâu gọn nhưng đủ chắc.
+ Bề mặt trơn nhẵn không nổi cục để có thể trượt dễ dàng và giảm
nguy cơ dính gân.
* Sinh lý
+ Đường khâu không ảnh hưởng tới sự nuôi dưỡng gân.
15
+ Đường khâu không cản trở sự liền sẹo bên trong, cản trở sự dính bên

ngoài gân vào tổ chức xung quanh.
* Cơ sinh học
+ Đường khâu vững chắc để phù hợp với các giai đoạn luyện tập sớm,
tránh hiện tượng phân tố hóa gây nên sự chậm liền gân hoặc nặng hơn có thể
đứt gân.
1.4.2.2. Các kiểu khâu gân
Tùy thuộc vào vị trí tổn thương của các vùng gân duỗi đứt mà ta có các
kiểu khâu khác nhau: Theo Doyle [22] và cộng sự.
+ Đứt gân duỗi vùng 1: Chúng tôi dùng mũi khâu xuyên xương.
Hình 1.3. Kỹ thuật khâu xuyên xương [28].
+ Đứt gân duỗi vùng 2: Theo tác giả Doyle đề nghị khâu chạy với mũi
khâu Silfverkiold [38] qua vết rách, hạn chế DIP bẻ gập lại.
16
Hình 1.4.Khâu chạy mũi [28]
+ Đứt vùng 3: Theo Doyle khâu lõi dải trung tâm và khâu tăng cường
bằng mũi khâu Silfverkiod. Khâu bằng chỉ không tiêu 4.0 sau đó có thể xuyên
Kirschner để bất động PIP ở tư thế duỗi 4- 6 tuần.
Hình 1.5 [28].
+ Vùng 4: Dùng mũi khâu Kessler cải tiến:
17
Hình 1.6 [28].
+ Vùng 5: Tập phục hồi chức năng sớm sau khâu nối vững chắc với
kỹ thuật khâu nhiều bện kiểu thừng (xem hình 7)
Hình 1.7 [28].
+ Các vùng còn lại: Sử dụng mũi khâu Bunnell cải tiến hoặc Kessler.
18
Hình 1.8 [28].
1.4.2.3. Sửa chữa gân đứt bán phần
Với gân đứt bán phần trên 50% đường kính thì nguy cơ đứt rời hẳn là
rất cao. Hơn thế với gân đứt bán phần còn gây nên các hiện tượng hạn chế

vận động do đầu gân phì đại chèn ép.
Thái độ chính:
+ Đứt ít nên cắt bỏ luôn phần tổn thương.
+ đứt 2/3 chu vi khâu lại với gân cũ.
+ Đứt trên 50% coi như một đứt hoàn toàn và xử trí như một đứt gân.
1.5. Luyện tập sau mổ
Các đứt gân cần được bất động sau mổ để làm giảm sự phân hóa giữa
hai đầu gân. Tuy nhiên cần vận động sớm để hạn chế sự dính gân. Điều đó đặt
ra một vấn đề phải có một chế độ tập luyện thích hợp cho từng giai đoạn của
bệnh và tùy từng vùng tổn thương mà có các kiểu cố định nẹp và tập vận động
sau mổ. Theo Doyle [23] :
19
1.5.1. Vùng 1
- Khớp liên đốt xa (DIP) phải được nẹp duỗi tối đa liên tục, trong quá
trình thay băng vết thương có thể tháo bỏ nẹp, không được gấp DIP. Sau 6- 8
tuần gỡ bỏ nẹp và tập gấp DIP nhẹ nhàng tăng dần đều.
- Trong quá trình tập nếu có sự biến dạng nào của DIP thì phải nẹp lại
DIP thêm từ 2 đến 3 tuần nữa. Thuận tiện nhất là sử dụng nẹp lòng bàn tay
được làm từ nhôm có đệm.
1.5.2. Vùng 2
- Nẹp và tập như vùng 1 nhưng thời gian để nẹp DIP khoảng 4- 6 tuần.
1.5.3. Vùng 3- 4
- Nẹp trực tiếp trên khớp liên đốt gần (PIP) và DIP duỗi tối đa trừ lúc tập.
- Nẹp dẻo thường được sử dụng :
+ Loại 1: Cho cử động PIP : Nẹp lòng bàn tay gấp PIP 30 độ và gấp
20- 25 độ cho DIP.
+ Loại 2 : Nẹp lòng bàn tay PIP duỗi tối đa và DIP tự do.
- Chế độ tập luyện như sau:
+ Trong 2 tuần đầu: Nẹp tĩnh được lấy ra 1 giờ tập 20 lần lặp lại của
PIP và DIP với cổ tay gấp 30 độ vùng khớp bàn ngón (MCP) duỗi gần 0 độ.

.Loại 1:
Thanh nẹp ở vị trí bên dưới đốt gần.
Duy trì MCP duỗi tối đa.
Tích cực uốn cong các DIP, PIP trong giới hạn của nẹp.
Mỗi lần thực hiện chậm và duy trì một thời gian ngắn trong lúc duỗi tối
đa cho 20 lần lặp lại.
.Loại 2:
Nẹp duy trì PIP trong tư thế duỗi còn DIP gấp và duỗi tự do. Nếu có tổn
thương dây chằng bên thì gấp được giới hạn trong khoảng từ 30- 35 độ.
20
+ Tuần thứ 3:
Loại 1 nẹp được thay đổi gấp tại PIP 40 độ nếu duỗi tốt.
+ Tuần thứ 4 : Loại 1 nẹp được gấp 50 độ nếu không có hạn chế duỗi.
Có thể gấp tăng lên 70- 80 độ vào cuối tuần thứ 4 nếu PIP duỗi tích cực
đến 0 độ.
1.5.4. Vùng 5- 6
+ Cổ tay duỗi 40- 45 độ. Còn MCP và IP nẹp duỗi 0 độ.
.Hướng dẫn tập MCP: Duỗi thêm các khớp MCP và IP rồi trở về vị trí
ban đầu thụ động. Qúa trình này được thực hiện 10 lần mỗi giờ.
.Nẹp được bỏ ra giữa tuần thứ 3 và thứ 4, sau đó bắt đầu tập gấp nhẹ
nhàng MCP và cổ tay.
.Giữa tuần thứ 4 và thứ 5 : dạng các ngón và trực tiếp gấp ở vị trí móng
tay của ngón nhằm mục đích dễ dàng kiểm soát sự dính gân.
.Tại tuần 5- 6 : Gấp ngón tay rất quan trọng.
.Tuần thứ 7 : Gấp ngón tay có sức đề kháng.
1.6. Sơ lược lịch sử phát triển về điều trị đứt gân duỗi bàn tay.
1.6.1. Nước ngoài
- Việc khâu nối gân đã được thực hiện vào năm 130 sau công nguyên
do Galien làm. Ông dùng chỉ khâu gân Achille.
- Năm 1770 Missa người đầu tiên chuyển gân gót.

Bell (1794 - 1842) được coi là người đi đầu trong phẫu thuật bàn tay.
Sau ông là Steindler (1876 - 1954) và Kanavell (1874 - 1938) hoạt động trong
suốt 10 năm 1920- 1930 nhưng còn mang tính chất lẻ tẻ. Sterling Bunnell
(1882- 1957) thống nhất mạng lưới phẫu thuật bàn tay. Năm 1946 thành lập
hội phẫu thuật bàn tay Hoa Kỳ, cũng từ đó phẫu thuật bàn tay mới trở nên
phát triển mạnh.
21
- Năm 1940, Marc Iselin [47 ] thấy rằng kết quả khâu gân duỗi bàn tay
cho kết quả tốt hơn gân gấp.
- Năm 1969, Dargan [20] đề xuất luyện tập sớm sau mổ.
- Năm 1974, Matthews [33] đưa ra cơ chế sự liền sẹo bên trong. Khi đó
mới có cơ sở khoa học thực sự có phương pháp tập luyện sớm sau mổ.
1.6.2. Trong nước
Có rất ít tác giả nghiên cứu sâu về phẫu thuật nối gân duỗi bàn tay
trong cấp cứu. Năm 1982, cuốn sách đầu tiên về phẫu thuật bàn tay đã được
xuất bản do tác giả Đặng Kim Châu [1] viết. Trong cuốn sách, tác giả chỉ
ra rằng khâu gân duỗi ngay trong cấp cứu đơn giản hơn nhiều so với gân
gấp do đó thường cho kết quả tốt nếu như không có nhiễm khuẩn và khâu
đúng kỹ thuật.
Năm 1999, trong giáo trình đại cương về chấn thương chỉnh hình,
Nguyễn Đức Phúc, Ngô Văn Toàn [9] nhắc tới giải phẫu của gân duỗi và
điều trị nối gân duỗi thì đầu.
Năm 2000, tác giả Vũ Bá Cương [2] đã nghiên cứu phẫu thuật nối gân
duỗi thì đầu trong luận văn thạc sỹ y học tại bệnh viện Việt Đức. Kết quả
nghiên cứu cho thấy tổn thương gân duỗi hầu hết rơi vào vùng VI và VII của
bàn tay, nguyên nhân chủ yếu do vật sắc nhọn như: dao, cưa, thủy tinh. Chủ
yếu nối gân theo phương pháp Kessler cải tiến với một sợi chỉ prolene 4.0.
Tác giả cũng chưa nói cụ thể về vấn đề tập luyện sau mổ cho tổn thương của
từng vùng gân duỗi, do vậy kết quả xấu còn cao 16,5%, kết quả tốt còn thấp
40,0% so với các tài liệu nước ngoài.

22
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân được chẩn đoán và phẫu thuật cấp cứu là vết thương bàn
tay do các nguyên nhân sắc gọn được mổ tại bệnh viện Việt Đức từ tháng 1
năm 2010 đến tháng 10 năm 2012.
Các bệnh nhân được chọn trong nghiên cứu đảm bảo các tiêu chuẩn sau:
- Xử trí vết thương trong vòng 48h đầu.
- Các bệnh nhân phải đảm bảo có vết thương sắc gọn, loại bỏ các bệnh
nhân có các tổn thương dập nát.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong số các bệnh nhân nghiên cứu chúng tôi chia làm 2 nhóm :
2.2.1. Nghiên cứu hồi cứu
Bao gồm các hồ sơ mổ vết thương gân duỗi bàn tay tại phòng lưu trữ
hồ sơ bệnh viện Việt Đức. Qua đó chúng tôi phân tích đặc điểm bệnh lý của
vết thương gân duỗi bàn tay.
Chúng tôi mời các bệnh nhân trên về kiểm tra và đánh giá kết quả. Qua
đó sẽ phần nào đánh giá được nguyên nhân thất bại. Từ đó đưa ra một phác đồ
thống nhất cho việc điều trị vết thương gân duỗi bàn tay trong cấp cứu.
2.2.2. Nghiên cứu tiến cứu
Bao gồm số bệnh nhân được chẩn đoán là vết thương gân duỗi bàn tay
sắc gọn đến trước 48h đầu, được chẩn đoán và phẫu thuật tại bệnh viện Việt
Đức từ tháng 1- 2012 theo mẫu bệnh án được định trước.
2.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu
1. Tuổi, giới, nghề nghiệp, địa chỉ.
2. Cơ chế tai nạn.
23
3. Thời gian đến viện kể từ khi bị tai nạn.
4. Thời gian từ khi bị thương đến khi mổ.

5. Đặc điểm tổn thương các vùng của gân duỗi.
6. Các tổn thương (xương, mạch máu, thần kinh và gân gấp phối hợp).
7. Kỹ thuật khâu nối gân.
8. Có được hướng dẫn luyện tập không.
9. Theo dõi kết quả chức năng sau 03 tháng.
2.4. Phác đồ điều trị
2.4.1 Sơ cứu ban đầu
Với các bệnh nhân tuyến dưới đã được sơ cứu chúng tôi coi như là đến
viện Việt Đức lần đầu. Bao gồm:
- Thay băng nhận xét và đánh giá tổn thương. Xác định vùng tổn
thương bàn tay.
- Khám động tác gấp duỗi chủ động của các ngón tay, đánh giá sơ bộ
tổn thương.
- Với những vết thương và cung mạch lớn, máu chảy mạnh, chúng tôi
băng ép chặt bằng 2- 3 cuộn băng.
- Chụp XQ bàn tay ở 2 tư thế thẳng và nghiêng.
- Thuốc: S.A.T 1500UI, Kháng sinh thế hệ 3, giảm đau.
2.4.2 Điều trị thực thụ
*Tiền mê
*Vô cảm
+ Gây tê đám rối thần kinh cánh tay, có thể kết hợp với thuốc giảm đau
bằng Dolacgan.
24
*Kỹ thuật
- Bệnh nhân tư thế nằm ngửa, tay dạng vuông góc với thân người, bàn
tay để sấp trên bàn phẫu thuật. Phẫu thuật viên ngồi phía trong, người phụ
ngồi đối diện. Dụng cụ viên ngồi cạnh phẫu thuật viên.
- Rửa xà phòng: Đánh rửa vết thương bằng xà phòng và nước muối sinh lý.
- Sát khuẩn từ đầu ngón tay đến tận sát nách bằng Betadine.
- Garo trên nếp gấp khuỷu 3cm có độn gạc to tránh làm liệt các dây

thần kinh (chú ý tính thời gian garo để chủ động nới garo khi cần thiết).
- Cắt lọc mép vết thương (chú ý khi cắt lọc mép vết thương phải hết sức
tiết kiệm da). Sau đó tiến hành rạch da dựa trên vết thương có sẵn theo đường
zích zắc. Bộc lộ rõ ràng vết thương để tìm phía trung tâm và phía ngoại vi của
gân duỗi bàn tay.
+ Đối với các vết thương nằm ngang hoặc chéo so với trục của ngón
tay: Phía trung tâm ta rạch nối tiếp theo vết thương dọc theo trục của của
ngón tay ở phía ngoài hay phía trong tùy theo vết thương lệch về phía nào,
rạch cả lớp cân rồi bóc vạt da cân đó lên để bộc lộ các thành phần tổn thương
đầu trung tâm. Với các vết thương nằm dọc theo trục của ngón tay: Phía trung
tâm sau khi bóc tách banh rộng mà không bộc lộ được các thành phần thương
tổn thì phải kéo dài vết mổ lên trên theo trục chi đủ rộng để bộc lộ được cho
phẫu thuật. Về phía đầu ngoại vi: Sau khi đã duỗi hết các khớp liên đốt ngón
gần, liên đốt ngón xa và khớp bàn ngón mà đầu ngoại vi của gân không bộc lộ
được thì thì tiến hành rạch da theo đường zích zắc để bộc lộ gân đầu ngoại vi đứt
- Các đường rạch da của chúng tôi phải đủ rộng để tìm kiếm và kiểm
tra tổn thương gân duỗi .
- Phẫu tích tìm đầu gân dựa trên nguyên tắc:
25

×