Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

nâng cao chất lượng kiểm toán nội bộ tại ngân hàng tmcp công thương việt nam chi nhánh tiên sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (870 KB, 97 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu
khoa học, độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận
văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thanh Tuấn
môc lôc
TRANG PHỤ BÌA
NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu và chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
KTNB Kiểm toán nội bộ
KTVNB Kiểm toán viên nội bộ
TMCP Thương mại Cổ phần
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
HĐQT Hội đồng quản trị
NHTMCP Ngân hàng Thương mại Cổ phần
DANH MỤC BIỂU, SƠ ĐỒ
BIỂU
Biểu 2.1 Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Công
thương Việt nam chi nhánh Tiên Sơn từ năm 2007 đến năm
2010 Error: Reference source not found
SƠ ĐỒ
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Theo quan điểm trước đây, kiểm toán nội bộ (KTNB) chịu trách nhiệm
kiểm toán báo cáo tài chính và tập trung vào công tác kiểm tra kế toán, thông
tin tài chính của công ty. Tuy nhiên, vai trò của KTNB hiện đại được mở
rộng, bao gồm công tác kiểm toán tính hiệu quả và tính tuân thủ của mọi hoạt
động cũng như tư vấn hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong doanh


nghiệp. Là người “bảo vệ giá trị cho doanh nghiệp”, KTNB giữ vai trò “quan
sát viên độc lập” nhằm đảm bảo hoạt động của công ty tuân thủ các quy định
pháp luật quốc gia, đạo đức kinh doanh và quy chế công ty. KTNB là người
“giám sát, bảo trợ, nâng cấp hệ thống kiểm soát nội bộ” trong vai trò đảm bảo
hiệu quả kinh doanh và xây dựng các thủ tục kiểm soát cần thiết. Là công cụ
giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu của hệ thống quản lý doanh nghiệp,
KTNB đem lại cho doanh nghiệp rất nhiều lợi ích. Nhờ đó Ban giám đốc và
hội đồng quản trị có thể kiểm soát hoạt động và quản lý rủi ro tốt hơn mọi khi
quy mô và độ phức tạp của doanh nghiệp vượt qúa tầm kiểm soát của họ.
Thực tiễn trên thế giới cho thấy, trong các công ty có bộ phận KTNB, thường
khả năng gian lận thấp và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn. Và do vậy,
kiểm toán viên nội bộ (KTVNB) phải làm nhiệm vụ của nhà tư vấn kiểm soát
và kiểm toán hoạt động; kiểm toán tuân thủ pháp luật, nội quy và chính sách
điều hành; kiểm tra kế toán và tài chính.
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh đặc biệt, hoạt
động có tính nhạy cảm cao, chứa đựng nhiều rủi ro. Rủi ro hoạt động kinh
doanh ngân hàng không chỉ ảnh hưởng đến bản thân ngân hàng như thua lỗ,
phá sản mà còn gây tác động xấu đến nền kinh tế - xã hội.
1
Nước ta khi nền kinh tế đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước, hệ thống ngân hàng đã
có những bước phát triển đáng kể, đã và đang trở thành khâu then chốt trong
hệ thống kinh tế Việt Nam. Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được, còn không
ít những hạn chế, nhất là hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ.
Cũng như hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam, công tác kiểm
toán nội bộ tại Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) công thương Việt
Nam chi nhánh Tiên Sơn còn nhiều khiếm khuyết do vai trò, chức năng, trách
nhiệm chưa rỏ ràng và cũng thiếu công cụ để thực hiện công tác giám sát. Do
đó, việc nghiên cứu đề tài “Nâng cao chất lượng kiểm toán nội bộ tại Ngân
hàng TMCP công thương Việt Nam chi nhánh Tiên Sơn” sẽ giúp cho Ngân

hàng hoạt động an toàn, có hiệu quả, có kỷ cương kỷ luật, góp phần quan
trọng vào sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Nhằm góp phần hệ thống hóa, bổ sung những lý luận về chất lượng
kiểm toán nội bộ của các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
- Đánh giá thực trạng chất lượng kiểm toán nội bộ trong Ngân hàng
TMCP Công Thương Việt Nam chi nhánh Tiên Sơn
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán nội bộ trong
Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam chi nhánh Tiên Sơn
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về chất lượng
kiểm toán nội bộ tại ngân hàng thương mại mà chủ yếu là nội dung, chuẩn
mực, qui trình, phương pháp kiểm toán, kiểm toán viên, tổ chức kiểm toán.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu những nội dung trên tại
Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam chi nhánh Tiên Sơn, nhưng những
kết quả cũng có thể vận dụng được cho kiểm toán nội bộ của các ngân hàng
khác, cho các loại kiểm toán độc lập và kiểm toán Nhà nước.
2
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
đồng thời kết hợp sử dụng các phương pháp so sánh tổng hợp, phân tích và
tiếp cận với mô phỏng thực tế.
5. Tên và kết cấu của luận văn:
- Tên luận văn: “ Nâng cao chất lượng kiểm toán nội bộ tại Ngân
hàng TMCP Công Thương Việt Nam chi nhánh Tiên Sơn”
- Kết cấu luận văn gồm:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về chất lượng kiểm toán nội bộ
trong ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng
TMCP Công Thương Việt Nam chi nhánh Tiên Sơn

Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm toán
nội bộ tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam
chi nhánh Tiên Sơn
Kết luận.
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG KIỂM
TOÁN NỘI BỘ TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 TỔNG QUAN VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ
1.1.1 Khái niệm, bản chất, chức năng của kiểm toán nội bộ
1.1.1.1. Khái niệm về kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là hoạt động kiểm tra, rà soát, đánh giá một cách độc
lập, khách quan đối với hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ; đánh giá độc lập
về tính thích hợp và sự tuân thủ các chính sách, thủ tục quy trình đó được
thiết lập trong tổ chức tín dụng, thông qua đó đơn vị thực hiện kiểm toán nội
bộ đưa ra các kiến nghị, tư vấn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của các hệ thống, các quy trình, quy định, gúp phần đảm bảo tổ chức tín dụng
hoạt động an toàn, hiệu quả, đúng pháp luật.
Với nội dung như vậy, Uỷ ban Basel đã đưa ra định nghĩa về KTNB như
sau: “KTNB là hoạt động độc lập, khách quan; là hoạt động tư vấn được tổ
chức thực hiện nhằm tăng thêm giá trị và cải thiện hoạt động của doanh
nghiệp. KTNB giúp cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu của mình bằng cách
tổ chức kiểm tra có tính hệ thống và chặt chẽ nhằm đánh giá và nâng cao hiệu
quả của các hoạt động quản trị rủi ro, kiểm soát và quản trị tổ chức”.
Trong các chuẩn mực hành nghề KTNB có định nghĩa: “ KTNB là một
chức năng thẩm định độc lập được thiết lập bên trong một tổ chức để xem xét
và đánh giá các hoạt động của tổ chức đó, với tư cách là một sự trợ giúp đối
với tổ chức đó”.
Tháng 6/1999, Hội đồng quản trị Viện KTNB đã thông qua định nghĩa
như sau về KTNB: “ KTNB là hoạt động đảm bảo và tư vấn một cách độc lập

khách quan; Được thiết kế nhằm tăng giá trị và tăng cường hoạt động của một
4
tổ chức. Nó cho phép tổ chức đạt được các mục tiêu của mình bằng cách tiếp
cận có kỷ luật và hệ thống nhằm đánh giá và tăng cường hiệu lực của các quy
trình quản trị, điều hành, kiểm soát và quản lý rủi ro”.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 610 ban hành kèm theo Quyết
định số 143/2001/QĐ-BTC ngày 21/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính
thì: “KTNB là một bộ phận trong hệ thống kiểm soát nội bộ của một đơn
vị, có chức năng kiểm tra, đánh giá tính phù hợp, hiệu quả, sự tuân thủ của
pháp luật và các quy định của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội
bộ của đơn vị đó.”
1.1.1.2. Bản chất của kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là công cụ của lãnh đạo để thực hiện chức năng giám
sát nội bộ của ngân hàng. KTNB thực hiện nhiệm vụ đánh giá tính hiệu lực,
tính đầy đủ và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ ngân hàng. KTNB
cung cấp một sự đánh giá độc lập, khách quan về tính đầy đủ, tính tuân thủ,
tính chính xác đối với việc thực hiện chiến lược, các chính sách, các quy trình
và các quyết định điều hành đã được ban hành. Từ đó KTNB đề xuất các kiến
nghị, các giải pháp để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát
nội bộ của ngân hàng cũng như nâng cao tính an toàn, lành mạnh và hiệu quả
trong điều hành hoạt động kinh doanh ngân hàng.
KTNB là một chức năng quản lý được thiết lập, là bộ phận cấu thành của
hệ thống giám sát nội bộ của ngân hàng. Các phát hiện hoặc kết luận của
KTNB được báo cáo trực tiếp lên Hội đồng quản trị và Ban điều hành. Hoạt
động của KTNB mang tính độc lập, khách quan có nghĩa là KTNB không
tham gia vào bất kỳ một quy trình nào thuộc hệ điều hành của ngân hàng
thương mại và không chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của các bộ phận
điều hành, bộ phận hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng. Về tổ chức, người
thực thi kiểm toán phải là người độc lập về quan hệ tình cảm và kinh tế với
5

lãnh đạo đơn vị và cơ sở được kiểm toán. Có thể nói rằng tất cả các hoạt
động các bộ phận và các quy trình của ngân hàng đều thuộc phạm vi xem xét
của KTNB.
Như vậy, cách hiểu KTNB đúng nhất có thể thừa nhận rằng đó là loại
hình kiểm soát có tổ chức mà chức năng là đo lường và đánh giá hiệu quả
của những kiểm soát khác, trên cơ sở đó thực hiện chức năng tư vấn cho các
bộ phận nghiệp vụ.
1.1.1.3 Chức năng của kiểm toán nội bộ
Kiểm tra, rà soát, đánh giá mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả của
hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ, nhằm cải tiến và hoàn thiện hệ thống
kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Nhằm thực hiện mục tiêu này, đơn vị thực hiện
kiểm toán nội bộ được khuyến khích thực hiện hoạt động tư vấn, tham gia vào
qui trình xây dựng, cải tiến và hoàn thiện hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ
với điều kiện không được vi phạm nguyên tắc độc lập, khách quan.
Chức năng xác minh (kiểm tra và xác nhận) chứng thực Báo cáo tài
chính hay được thể hiện dưới dạng báo cáo kiểm toán. Chức năng này hướng
về quá khứ, nó kiểm tra và đánh giá mức độ trung thực, sự tuân thủ các chuẩn
mực kiểm toán của Báo cáo tài chính, và năng lực tài chính của đơn vị được
kiểm toán
Chức năng tư vấn (trình bày ý kiến) đáp ứng được các yêu cầu của các
nhà quản lý và từ thực tiễn xã hội. Chức năng này nhìn nhận, định hướng cho
một tương lai đúng đắn. Khi xã hội càng phát triển thì người ta càng coi trọng
chức năng này.
1.1.2 Sự cần thiết khách quan của kiểm toán nội bộ
Nếu như kiểm toán độc lập đầu có mặt ở Việt Nam được hơn 10 năm thì
cho đến nay, khái niệm KTNB vẫn còn xa lạ với nhiều nhà quản lý. Tuy nhiên
yêu cầu hội nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), sự phát triển nhanh
6
chóng của thị trường chứng khoán và những vụ bê bối về quản trị ở một số
doanh nghiệp lớn của Nhà nước gần đây cho thấy sự cần thiết của KTNB ở

doanh nghiệp.
Trên thế giới, kiểm toán nội bộ đã ra đời từ lâu nhưng chỉ phát triển từ
sau các vụ gian lận tài chính ở Công ty Wordcom và Enron (Mỹ) những năm
2000 – 2001 và đặc biệt khi luật Sarbanes – Oxley của Mỹ ra đời năm 2002.
Luật này quy định các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ phải
báo cáo về hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ công ty.
Trong khi hoạt động của kiểm toán độc lập giới hạn ở việc kiểm tra báo
cáo tài chính (mức độ trung thực và hợp lý), hoạt động của KTNB không bị
giới hạn ở bất kỳ phạm vi nào trong ngân hàng. Mục đích của KTNB là phục
vụ cho công tác quản lý ngân hàng, chứ không phải cho đối tác bên ngoài.
KTNB không chỉ đánh giá các yếu kém của hệ thống quản lý mà còn đánh giá
các rủi ro cả trong và ngoài ngân hàng.
Kiểm toán nội bộ có thể đem lại cho ngân hàng rất nhiều lợi ích. Đây là
công cụ giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu trong hệ thống quản lý của
ngân hàng. Thông qua công cụ này, Ban giám đốc và Hội đồng quản trị có thể
kiểm soát hoạt động tốt hơn, quản lý rủi ro tốt hơn, tăng khả năng đạt các mục
tiêu kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, thông tin tài chính của doanh nghiệp cần
cho nhiều người và được nhiều đối tượng quan tâm, khai thác sử dụng cho các
quyết định kinh tế. Để nâng cao chất lượng và độ tin cậy của thông tin tài
chính đòi hỏi phải có KTNB để dánh giá đúng tình hình hoạt động của đơn
vị. Luật pháp yêu cầu và để yên lòng cho nhà đầu tư thì các báo cáo tài chính
phải được kiểm toán và chỉ có những thông tin kinh tế đã được kiểm toán mới
là căn cứ tin cậy cho việc đề ra các quyết định hiệu quả hợp lý.
7
Từ những lý do đó, kiểm toán đã và đang là một ngành nghề không thể
thiếu được của hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước. Sự phát triển của hoạt động kiểm toán sẽ tăng cường hiệu quả
của công tác quản lý kinh tế trong từng đơn vị cũng như trong toàn xã hội,
đồng thời góp phần vào sự nghiệp đổi mới hệ thống công cụ quản lý, cải cách

nền hành chính Quốc gia.
1.1.3 Các hình thức KTNB
Các hình thức kiểm toán nội bộ có thể các đơn vị đang thực hiện: Kiểm
toán toàn diện và kiểm toán trọng điểm; Kiểm toán thường xuyên và kiểm
toán định kỳ; Kiểm toán trước( tiền kiểm ) và kiểm toán sau ( hậu kiểm).
Kiểm toán toàn diện là việc kiểm tra nhằm đánh giá một cách khách
quan và có tính xây dựng trong phạm vi: Các nguồn tài lực, nhân lực và vật
lực được quản lý có quan tâm đến tính kinh tế, tính hiệu quả và sự hữu hiệu ;
và mối quan hệ về trách nhiệm giải trình phải được tách biệt rõ ràng.
Kiểm toán trọng điểm là kiểm toán có xem xét đến các yếu tố trọng yếu
trong một cuộc kiểm toán hoặc các đơn vị được xem là trọng điểm
Kiểm toán thường xuyên có thể theo tháng, quý
Kiểm toán định kỳ có thể theo năm
Tiền kiểm và Hậu kiểm nhằm tiết kiệm ngân sách. Đặc biệt hậu kiểm
nhằm giảm bớt thời gian và chi phí cho doanh nghiệp trong quá trình mua
bán, xuất nhập khẩu .
1.1.4 Nội dung của kiểm toán nội bộ
1.1.4.1. Kiểm toán hoạt động
Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán nhằm để xem xét và đánh giá về
tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động được kiểm toán.
- Tính kinh tế là xem xét, đánh giá công việc đạt được mục tiêu đề ra với
chi phí nhỏ nhất.
8
- Tính hiệu lực là khả năng về mức độ hoàn thành các nhiệm vụ và mục
tiêu đã xác định của đơn vị.
-Tính hiệu quả là việc đạt được kết quả cao nhất với một lượng nguồn
lực nhất định, hay đây còn gọi là nguyên tắc tối đa.
Đây là hoạt động kiểm toán mà chủ thể kiểm toán hướng tới việc kiểm
tra, đánh giá tính hiệu quả, tính kinh tế, tính hiệu lực trong qúa trình quản lý
và sử dụng các nguồn lực kinh tế cho một hay toàn bộ hoạt động kinh doanh

của đơn vị được kiểm toán. Đối tượng của kiểm toán hoạt động rất phong
phú và đa dạng, từ việc đánh giá toàn bộ hoạt động của đơn vị, một phương
án kinh doanh, một quy trình công nghệ, một loại tài sản hay thiết bị mới đưa
vào hoạt động đến các việc luân chuyển chứng từ trong một đơn vị. Nhu vậy
kiểm toán hoạt động không chỉ dừng lại ở các nghiệp vụ tài chính mà có thể
thực hiện trong cả lĩnh vực phi tài chính. Vì thế, khó có thể đưa ra mọt khuôn
mẫu cho kiểm toán hoạt động. Mặt khác, tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu
quả của một quá trình hoạt động rất khó được đánh giá một cách khách quan,
đặc biệt là đối với hoạt động của một cơ quan Chính phủ, đơn vị sự nghiệp, tổ
chức xã hội nghề nghiệp. Do đó, việc xây dựng các chuẩn mực để đánh giá
các thông tin trong một cuộc kiểm toán hoạt động là một việc mang nặng tính
chủ quan.
Nội dung kiểm toán hoạt động trong ngân hàng thường được xác định
bao gồm: Kiểm tra việc huy động, phân phối, sử dụng một cách tiết kiệm và
có hiệu quả các nguồn lực ngân hàng trong hoạt động kinh doanh; Kiểm tra
tính hiệu quả của hoạt động kinh doanh liên quan đến phân phối, sử dụng thu
nhập, bảo toàn và phát triển vốn trong ngân hàng; Kiểm tra và đánh giá tính
hiệu quả hoạt động của các bộ phận chức năng trong việc thực hiện các mục
tiêu kinh doanh của ngân hàng; Thực tế, việc đánh giá tính hiệu quả, tính kinh
tế, tính hiệu lực các hoạt động kinh doanh ngân hàng là vấn đề hết sức khó
khăn và phức tạp.
9
1.1.4.2. Kiểm toán tuân thủ
Kiểm toán tuân thủ là loại kiểm toán nhằm để xem xét đơn vị được kiểm
toán có tuân thủ các quy định mà các cơ quan có thẩm quyền cấp trên hoặc cơ
quan chức năng của nhà nước hoặc cơ quan chuyên môn đề ra hay không.
Đối tượng của kiểm toán tuân thủ khá linh hoạt. Đó có thể là việc tuân
thủ các quy tắc do các cơ quan Nhà nước cấp trên đề ra, như việc kiểm tra
đánh giá về việc tuân thủ các quy định về thuế giá trị gia tăng, các quy định
về bảo vệ môi trường, bảo vệ người lao động hoặc còn là việc tuân thủ các

quy định do cơ quan chuyên môn để ra như tuân thủ các quy trình và thủ tục
giải ngân của Kho bạc Nhà nước, việc tuân thủ các điều kiện và thủ tục vay
vốn của ngân hàng
Kiểm toán này được thực hiện để phục vụ cho nhu cầu của bản thân các
đơn vị, hoặc nhu cầu của cơ quan quản lý cấp trên. Trường hợp việc kiểm
toán do một khách hàng, không phải đơn vị được kiểm toán có nhu cầu, như
việc kiểm tra tính tuân thủ các quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp ở một
đơn vị do cơ quan thuế thuê, thì kết quả kiểm toán sẽ được báo cáo cho cơ
quan có nhu cầu thuê mướn kiểm toán.
Kiểm toán tuân thủ có thể được thực hiện bởi các kiểm toán viên nội bộ,
kiểm toán viên độc lập, hay kiểm toán viên nhà nước. Kết quả kiểm toán tuân
thủ dùng để phục vụ cho các cấp có thẩm quyền liên quan.
1.1.4.3. Kiểm toán báo cáo tài chính
Kiểm toán báo cáo tài chính là loại kiểm toán nhằm kiểm tra và xác nhận
về tính trung thực, hợp lý của báo cáo tài chính cũng như xem xét báo cáo tài
chính có phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán và yêu cầu của luật
pháp hay không. Đây là loại hình kiểm toán xuất hiện sớm và khá phổ biến.
Hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính được thực hiện bởi đối tượng là
báo cao tài chính và báo cáo quản trị. Khi thực hiện kiểm toán, nội dung cơ
10
bản bao gồm: Kiểm tra và xác nhận tính kịp thời, đầy đủ, khách quan và tin cậy
của các báo cáo tài chính trước khi ký duyệt và công bố; Kiểm tra và đánh giá
các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị và đưa ra những kiến nghị và tư
vấn cần thiết cho hoạt động kinh doanh nhằm đảm bảo sự hợp lý, hiệu quả.
1.1.5. Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ
Lập kế hoạch KTNB hàng năm và thực hiện các hoạt động KTNB theo
kế hoạch, các chính sách, quy trình và thủ tục KTNB đã được phê duyệt, đảm
bảo chất lượng và hiệu quả.
Thực hiện kiểm toán việc huy động, khai thác, phân phối và sử dụng tối
ưu các nguồn lực trong đơn vị.

Thực hiện kiểm toán tình hình thực hiện các mục tiêu và chỉ tiêu kinh tế
do ban lãnh đạo đơn vị đặt ra.
Thực hiện kiểm toán việc chấp hành chính sách, chế độ và những qui
định của đơn vị.
Thực hiện kiểm toán chất lượng thực thi nhiệm vụ được giao.
Thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo kế toán quản trị.
Góp ý hoàn thiện cho các bộ phận được kiểm toán.
Kiểm tra, rà soát , đánh giá một cách độc lập, khách quan đối với đơn vị
(cơ chế, chính sách, thủ tục, quy trình hoặc các vấn đề trong hoạt động) dựa trên
mức độ rủi ro (cao, trung bình hoặc thấp) và mức độ ảnh hưởng đến hoạt động
của đơn vị. Đối với những vấn đề có ảnh hưởng xấu, KTNB cần thông báo kịp
thời và đưa ra những khuyến nghị thiết thực nhằm ngăn ngừa, khắc phục những
sai sót; Kiến nghị xử lý những vi phạm; Đề xuất các biện pháp hoàn thiện , nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
Lập báo cáo kiểm toán: Thông báo và đệ trình kịp thời các kết quả kiểm
toán nội bộ cho các bên hữu quan theo đúng chính sách, quy định và quy định
của pháp luật.
11
Phát triển, chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện phương pháp KTNB và phạm
vi hoạt động của KTNB.
Thực hiện quy trình đảm bảo chất lượng công tác KTNB .
Thiết lập hồ sơ về trình độ, năng lực để làm cơ sở tuyển dụng, đề bạt,
luân chuyển cán bộ. Lập kế hoạch và tổ chức đào tạo nhằm nâng cao và bảo
đảm năng lực chuyên môn cho kiểm toán viên nội bộ.
1.1.6. Quy trình, phương pháp KTNB
1.1.6.1. Quy trình KTNB
Quy trình KTNB quy định các quy trình và hướng dẫn chi tiết về
phương thức đánh giá rủi ro, lập kế hoạch KTNB hàng năm, kế hoạch từng
cuộc kiểm toán, cách thực hiện công việc kiểm toán, lập và gửi báo cáo
kiểm toán, lưu giữ hồ sơ, tài liệu KTNB. Quy trình được quy định áp dụng

thống nhất cho các cuộc kiểm toán, nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả
của các cuộc kiểm toán.
Quy trình kiểm toán nội bộ thông thường bao gồm 4 bước:
- Bước 1: Lập kế hoạch kiểm toán nội bộ
- Bước 2: Thực hiện kiểm toán nội bộ
- Bước 3: Kết thúc kiểm toán nội bộ
- Bước 4: Theo dõi việc thực hiện ý kiến đề xuất của kiểm toán nội bộ
đối với bộ phận được kiểm toán nội bộ
1.1.6.2. Phương pháp KTNB
Phương pháp kiểm toán định hướng theo mức độ rủi ro, ưu tiên tập trung
nguồn lực để tiết kiểm toán các đơn vị, bộ phận, quy trình được đánh giá có
mức độ rủi ro cao.
KTNB phải xác định, phân tích, đánh giá những rủi ro và xây dựng hồ
sơ rủi ro cho từng hoạt động của ngân hàng. Hồ sơ rủi ro bao gồm toàn bộ các
rủi ro tiềm tàng, tác động có thể có của các rủi ro đó đối với hoạt động của
12
ngân hàng và khả năng có thể xảy ra của các rủi ro đó. Dựa trên đánh giá về
tác động, khả năng xảy ra các rủi ro, từng rủi ro được phân loại thành rủi ro
cao, trung bình hoặc thấp. Việc đánh giá, phân loại rủi ro phải được thực hiện
ít nhất một năm một lần.
Kết quả đánh giá rủi ro là căn cứ để Trưởng bộ phận KTNB làm việc với
Ban kiểm soát, Ban Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị trong quá trình lập
kế hoạch kiểm toán hàng năm. Các rủi ro được xếp hạng theo thứ tự từ cao
đến thấp, trong đó những hoạt động được coi là có rủi ro cao sẽ được ưu tiên
nhiều nguồn lực, thời gian hơn để kiểm toán, được kiểm toán trước và được
kiểm toán thường xuyên hơn các hoạt động có rủi ro thấp hơn.
Kết quả KTNB phải được xây dựng dựa trên kết quả đánh giá rủi ro và
phải được cập nhật, thay đổi, điều chỉnh phù hợp với các diễn biến, thay đổi
trong hoạt động của ngân hàng và sự thay đổi của các rủi ro đi kèm theo.
Với mỗi loại kiểm toán nội bộ khác nhau thì phương pháp kiểm toán

cũng khác nhau:
- Đối với kiểm toán tuân thủ: Phương pháp kiểm toán thường sử dụng là
các phương pháp kiểm tra, quan sát, phân tích, so sánh, đối chiếu, phỏng vấn,
thẩm tra, xác nhận
- Đối với kiểm toán hoạt động: Thường sử dụng các phương pháp: Kiểm
tra, đối chiếu, phân tích, so sánh, phỏng vấn, qui nạp, sử dụng ý kiến của các
chuyên gia, tái lập mô hình, nghiên cứu các trường hợp điển hình
- Đối với kiểm toán báo cáo tài chính: Thường sử dụng các phương
pháp: Kiểm toán cơ bản và phương pháp kiểm toán tuân thủ cùng với các kỹ
thuật kiểm toán cụ thể khác nhau trong quá trình kiểm toán.
1.2 CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ
1.2.1. Khái niệm
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 220 kiểm soát chất lượng hoạt
động kiểm toán thì " Chất lượng hoạt động kiểm toán là mức độ thỏa mãn
13
của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán về tính khách quan và độ tin
cậy vào ý kiến kiểm toán của kiểm toán viên; đồng thời thỏa mãn mong
muốn của đơn vị được kiểm toán về những ý kiến đóng góp của kiểm toán
viên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trong thời gian định
trước với giá phí hợp lý"
Chất lượng kiểm toán nói chung là một chỉ tiêu tổng hợp, phụ thuộc và
chịu tác động của nhiều yếu tố. Chất lượng kiểm toán là một chỉ tiêu phức
tạp, khó đo lường, định lượng. Đồng thời việc đánh giá chất lượng kiểm toán
còn phụ thuộc vào sự nhìn nhận và đánh giá của các bên khác nhau như từ nội
bộ đơn vị (Hội đồng quản trị hay Ban điều hành) hay được nhìn nhận từ các
tổ chức kiểm toán bên ngoài như kiểm toán độc lập, kiểm toán nhà nước.
* Đối với nội bộ ngân hàng: Chất lượng hoạt động kiểm toán của KTNB
phụ thuộc vào sự đánh giá của Hội đồng quản trị và của Ban Tổng giám đốc.
Khi KTNB thực hiện được những yêu cầu quản lý và quản trị của các nhà
lãnh đạo ngân hàng với mức chi phí hợp lý cũng có thể đánh giá hoạt động

của KTNB đạt chất lượng, cụ thể:
- Đảm bảo các bộ phận nghiệp vụ trong ngân hàng thực hiện đúng các
quy định của pháp luật;
- Đảm bảo thực hiện đúng các quy định, quy chế nội bộ;
- Hoạt động của ngân hàng đảm bảo an toàn và sử dụng hiệu quả các
nguồn lực;
- Kiểm tra báo cáo tài chính trung thực và đáng tin cậy phục vụ cho công
tác lãnh đạo, điều hành của Hội đồng quản trị và Ban Tổng giám đốc;
- Đưa ra được những kiến nghị với Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc
về hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả và hiệu
lực của hệ thống này trong ngân hàng.
14
* Đối với tổ chức kiểm toán độc lập:
KTNB là một nhân tố cơ bản trong môi trường kiểm soát, KTNB cung
cấp một sự giám sát và đánh giá thường xuyên về toàn bộ hoạt động của đơn
vị, trong đó có cả hệ thống kiểm soát nội bộ. Bộ phận KTNB hữu hiệu sẽ giúp
đơn vị có được những thông tin kịp thời và xác thực về các hoạt động nói
chung, chất lượng công tác kiểm soát nói riêng để điều chỉnh, bổ sung các quy
chế kiểm soát thích hợp và có hiệu lực hơn. Vì vậy KTNB được đánh giá chất
lượng thông qua các thông tin sau:
- Đảm bảo tính độc lập của KTNB thông qua các tiêu thức như có trực
thuộc cấp lãnh đạo cao nhất của đơn vị không, có bị giới hạn phạm vi hoạt
động không, đảm bảo quyền hạn về truy cập thông tin và hoạt động đối với
các hoạt động tác nghiệp của các bộ phận khác trong đơn vị không, có được
báo cáo trực tuyến lên cấp lãnh đạo cao nhất không và có được cấp lãnh đạo
tiếp nhận thông tin báo cáo đầy đủ và kịp thời không; kiểm toán viên nội bộ
phải độc lập với những hoạt động mà họ kiểm toán;
- Nhân viên KTNB có đạo đức, trung thực, khách quan trong công việc
không, có đủ trình độ chuyên môn, năng lực khả năng có đáp ứng được nhiệm
vụ hay không;

- Hoạt động KTNB có tuân thủ các quy trình, phương pháp và chuẩn
mực không. Có thực hiện phân tích, đánh giá rủi ro và trọng yếu để xác định
phạm vi và quy mô thực hiện kiểm toán không.
* Đối với kiểm toán nhà nước
Hoạt động kiểm toán đa dạng, phức tạp và mang tính chất đặc thù riêng
trong từng cuộc kiểm toán. Do vậy, những tiêu chuẩn đưa ra để đánh giá chất
lượng kiểm toán cho đến nay có phần mang tính chất định tính. Theo quan
điểm đó thì chất lượng kiểm toán là mức độ đạt được có tiêu chuẩn chung đã
đề ra. Đối với một cuộc kiểm toán được coi là có chất lượng khi nó được thực
hiện trên cơ sở bảo đảm tốt các tiêu chuẩn cơ bản sau:
15
- Xây dựng kế hoạch và chương trình kiểm toán đầy đủ, phù hợp, xác
định rõ được mục tiêu kiểm toán, nội dung kiểm toán, phạm vi kiểm toán,
mức độ trọng yếu, rủi ro kiểm toán và phương pháp kiểm toán.
- Tuân thủ kế hoạch kiểm toán, các quy định chuyên môn nghiệp vụ
chuẩn mực, quy trình kiểm toán, các quy định nghiệp vụ khác và pháp luật có
liên quan.
- Thu thập được đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ
sở cho việc hình thành các ý kiến, kết luận kiểm toán.
- Báo cáo kiểm toán phù hợp với chuẩn mực và các quy định về báo cáo
kiểm toán do đơn vị có tổ chức kiểm toán ban hành; phản ánh đầy đủ tình
hình, kết quả kiểm toán và các mục tiêu kiểm toán đã đề ra; những sai sót,
gian lận, những tồn tại trong quản lý trình bày trong báo cáo đã được xem xét,
giải quyết thoả đáng; các ý kiến nhận xét, đánh giá, kêt luận kiểm toán được
căn cứ vào những bằng chứng kiểm toán đầy đủ, xác thực và tin cây, phù hợp
với pháp luật hiện hành.
- Phân bổ quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kiểm toán.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng KTNB
1.2.2.1. Các chỉ tiêu trực tiếp
Thứ nhất: Tính độc lập của KTNB

Hoạt động của kiểm toán là hoạt động mang tính chất độc lập. Tính độc
lập trong kiểm toán được hiểu là KTNB phải độc lập với các bộ phận tác
nghiệp khác trong ngân hàng và được bảo vệ loại trừ các ảnh hưởng từ bên
ngoài trong quá trình thực hiện kiểm toán. Bộ phận KTNB và kiểm toán viên
nội bộ chỉ tuân thủ pháp luật, các chuẩn mực nghiệp vụ chuyên môn, có quan
điểm vô tư khách quan khi thực hiện kiểm toán, đánh giá các kết quả và công
bố báo cáo kiểm toán. Nếu không có tính độc lập thì kết quả kiểm toán không
tin cậy, chức năng kiểm toán không được thực thi trong đời sống xã hội. Do
16
vậy, tính độc lập ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng kiểm toán, là tiền đề cơ
bản đảm bảo cho hoạt động kiểm toán có hiệu lực và hiệu quả. Để kết quả
kiểm toán đảm bảo khách quan, sát thực, thì tính độc lập của bộ phận KTNB
và kiểm toán viên nội bộ phải được đảm bảo, kiểm toán viên nội bộ phải có
đủ quyền hạn thực thi công việc chỉ tuân thủ theo pháp luật và các quy định
chuyên môn nghiệp vụ.
Tính độc lập của KTNB càng cao, độ tin cậy về các kết quả kiểm toán
càng lớn, đồng thời tính độc lập nhằm đảm bảo cho KTNB có đủ quyền hạn
theo pháp luật quy định và có chế độ đãi ngộ thoả đáng từ Hội đồng quản trị.
Thứ hai: Tính chuyên nghiệp của hoạt động kiểm toán
Mức độ chuyên nghiệp của hoạt động KTNB được phản ánh qua cách
thức tổ chức bộ máy KTNB, số lượng và chất lượng kiểm toán viên, cụ thể:
Mạng lưới tổ chức: Căn cứ vào quy mô hoạt động, mạng lưới của ngân
hàng, Hội đồng quản trị và Ban Tổng giám đốc phải thiết lập và xây dựng bộ
máy KTNB tương xứng với quy mô hoạt động kinh doanh của chính ngân
hàng mình.
- Số lượng và chất lượng kiểm toán viên nội bộ:
+ Số lượng kiểm toán viên nội bộ phải đảm bảo đủ lực lượng để thực
hiện nhiệm vụ thường xuyên, liên tục.
+ Nhân viên làm việc trong bộ phận KTNB cần phải có: Tuân thủ đạo
đức nghề nghiệp, tính trung thực, có ý thức chấp hành pháp luật và nhìn nhận

khách quan; có bằng cấp về chuyên ngành phù hợp với lĩnh vực được phân
công và luôn được cập nhật kiến thức. Có kiến thức, hiểu biết chung về pháp
luật, về quản trị và các nghiệp vụ ngân hàng; kiến thức, kỹ năng và kinh
nghiệm về kiểm toán; trau dồi trình độ nghiệp vụ thông qua việc học tập
không ngừng; khả năng thu thập, phân tích, đánh giá và tổng hợp thông tin,
phải thận trọng nghề nghiệp đúng mực khi thực hiện kiểm toán; khả năng giao
17
tiếp bao gồm cả khả năng nói và viết; phải khéo ứng xử tiếp xúc với mọi
người và trao đổi thông tin có hiệu quả.
Thứ ba: Tính chuẩn tắc:
Hoạt động của KTNB phải tuân thủ các chuẩn mực đã được thừa nhận,
thực hiện theo quy trình và phương pháp kiểm toán đã ban hành. Khả năng
tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán và quy trình kiểm toán. Mặt khác, phương
pháp kiểm toán của KTNB đang sử dụng cũng là thước đo đánh giá chất
lượng KTNB của ngân hàng thương mại
Thứ tư: Tính đầy đủ của chương trình KTNB
Mức độ đầy đủ của chương trình KTNB như: Quy mô và tần suất kiểm
toán; những tài liệu lưu trữ; nội dung của chương trình kiểm toán; các hình
thức kiểm toán đang thực hiện.
Thứ năm: Tính hiệu quả
Mức độ hiệu quả của KTNB, thể hiện bằng chi phí kiểm toán thấp nhất
có thể trong việc duy trì hoạt động KTNB thường xuyên, toàn diện và khách
quan toàn bộ hoạt động của ngân hàng.
Các chỉ tiêu được các kiểm toán viên của kiểm toán độc lập, kiểm toán
nhà nước đánh giá khách quan, từ đó rút ra những nhận xét chính xác về chất
lượng KTNB.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu gián tiếp
Bên cạnh các chỉ tiêu trực tiếp, chất lượng KTNB của ngân hàng thương
mại còn được phản ánh qua các chỉ tiêu gián tiếp, thông qua các chỉ tiêu phản
ánh chất lượng hoạt động chính ngân hàng thương mại như mức độ tuân thủ

pháp luật của nhà nước, mức độ tăng trưởng về nguồn vốn và tín dụng, chất
lượng tín dụng, mức độ trích lập dự phòng rủi ro, hiệu quả hoạt động của
ngân hàng. Chính hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân tủ và
kiểm toán hoạt động của KTNB đã góp phần quan trọng làm báo cáo tài chính
18
của ngân hàng đúng chuẩn mực, phản ánh khách quan chính xác tình hình
hoạt động của ngân hàng, giúp ngân hàng tránh được vi phạm pháp luật và
các chế độ tài chính của nhà nước và nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động
của ngân hàng.
Hoạt động KTNB có chất lượng sẽ góp phần tích cực cho hoạt động
kinh doanh của ngân hàng đảm bảo an toàn và hiệu quả, do vậy có thể gián
tiếp đánh giá chất lượng hoạt động KTNB thông qua các chỉ tiêu gián tiếp
như chất lượng và hiệu quả của hoạt động kinh doanh.
Thứ nhất: Các chỉ tiêu tăng trưởng về vốn. Trên cơ sở các chính sách,
công nghệ, tính chuyên nghiệp của ngân hàng và uy tín của chính ngân hàng
trên thị trường có thể thu hút các nguồn vốn trên thị trường tiền tệ và khu vực
dân cư.
Thứ hai: Các chỉ tiêu tăng trưởng về tín dụng. Để tăng trưởng tín dụng
đòi hỏi ngân hàng phải đưa ra nhiều biện pháp nghiệp vụ khác nhau.
Thứ ba: Các chỉ tiêu chất lượng hoạt động tín dụng, các khoản chi phí
trích lập dự phòng rủi ro hoạt động tín dụng. Căn cứ vào các chỉ tiêu của hoạt
động tín dụng từng ngân hàng để đánh giá chất lượng của hoạt động kiểm
toán của bộ phận KTNB, cụ thể: tốc độ tăng trưởng dư nợ, chất lượng tín
dụng của từng loại hình tín dụng, các khoản trích lập dự phòng rủi ro.
Thứ tư: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh
ngân hàng mang lại trong một thời gian nhất định (niên độ tài chính).
Qua đó, các kiểm toán viên căn cứ vào các chỉ tiêu thông qua báo cáo tài
chính và các thuyết minh liên quan để có thể đánh giá được chất lượng hoạt
động kinh doanh của ngân hàng cũng như của bộ phận KTNB. Với các chỉ
tiêu tăng trưởng tốt thì có thể đánh giá chất lượng hoạt động của bộ phận

KTNB có hiệu quả.
19
1.2.3. Các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán nội bộ
1.2.3.1. Mô hình tổ chức
Cơ cấu tổ chức hợp lý đảm bảo thông suốt trong việc uỷ quyền và phân
công trách nhiệm, không chồng chéo, không bỏ sót các nội dung quản lý, phát
huy được năng lực quản lý các cấp là điều kiện để xây dựng môi trường kiểm
soát hiệu quả.
Trong điều kiện phát triển nhanh chóng của hệ thống ngân hàng thương
mại, với nguồn vốn lớn, khách hàng đông, chi nhánh phân tán ở các tỉnh,
thành phố, tổ chức bộ máy quản lý hiệu quả trong đó có hệ thống giám sát nội
bộ, quản trị được rủi ro là yêu cầu hết sức quan trọng của mỗi ngân hàng
Trong bộ máy ngân hàng hết sức chú ý nghiên cứu tổ chức, ban hành
chức năng, nhiệm vụ bố trí nhân sự có phẩm chất, năng lực cho hệ thống
KTNB.
Để có hệ thống giám sát nội bộ hiệu quả thì cơ cấu bộ máy phải hợp lý
để đảm bảo rằng các cơ chế kiểm tra, kiểm soát, KTNB được vận hành tốt,
những rủi ro, gian lận được kiểm soát.
1.2.3.2. Nội dung và yêu cầu kiểm toán nội bộ
Nếu nội dung kiểm toán nội bộ càng đơn giản và yêu cầu kiểm toán nội
bộ càng thấp thì chất lượng kiểm toán nội bộ càng cao và ngược lại
KTNB thực hiện kiểm toán chủ yếu là kiểm toán hoạt động. Tuy nhiên
nội dung kiểm toán phổ biến hầu hết hiện nay là kiểm toán Báo cáo tài chính.
Các báo cáo quản trị hiện nay vẫn ít dùng, thậm chí không dùng. Do vậy,
công việc kiểm toán báo cáo kế toán quản trị vẫn chưa nhiều, chưa được thực
hiện một cách thường xuyên.
Công việc kiểm toán tuân thủ các đơn vị hiện nay thường nhằm vào:
Kiểm tra việc chấp hành chính sách, chế độ quản lý kinh tế tài chính của nhà
nước, từ đó có những ý kiến đề xuất để hoàn thiện chính sách chế độ. Kiểm
20

tra những quy định và quy chế kiểm soát nội bộ nhằm phát hiện, xử lý, ngăn
chặn vi phạm, từ đó đề xuất ý kiến hoàn thiện hơn về quy chế kiểm soát nội
bộ. Kiểm tra việc thực hiện các quy định về quản lý, kiểm soát của các bộ
phận, tập thể cá nhân trong đơn vị.
Các kết luận đạt được và các báo cáo được ban hành phải rỏ ràng ngắn
gọn trong việc xác định các vấn đề nổi cộm và đưa ra các giải pháp đối với
các lĩnh vực hoạt động cần điều chỉnh.
1.2.3.3. Kiểm toán viên
Bất kỳ một tổ chức nào con người cũng là yếu tố quan trọng, có ý nghĩa
quyết định sự thành công hay thất bại. Đối với công tác KTNB cũng vậy cho
dù cơ chế, quy chế, nguyên tắc, thủ tục có chặt chẻ đến đâu song thiếu đội
ngũ nhân viên có phẩm chất, năng lực sẽ không thực hiện được nhiệm vụ.
Bởi vậy ngân hàng phải có chính sách quản lý, tuyển dụng, chính sách
đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khoa học, hợp lý để có được đội ngũ cán
bộ, nhân viên có phẩm chất, năng lực chuyên môn tốt, có ý thức kỷ luật, có
tính chuyên nghiệp cao. Với đặc thù riêng có của hoạt động ngân hàng thì
mỗi nhân viên ngân hàng đều có trách nhiệm kiểm tra, tự kiểm tra theo quy
trình nghiệp vụ, theo quy định ngân hàng đã thiết lập, đề cao ý thức chấp hành
trong mọi thao tác nghiệp vụ và từng vị trí công tác.
Trong hoạt động kiểm toán thì nhân viên kiểm toán còn phải thực hiện
quy tắc đạo đức nghề nghiệp, đó là: tính trung thực, tính khách quan; Có
năng lực chuyên môn, tính bảo mật trong thực hiện nhiệm vụ.
1.2.3.4. Chuẩn mực kiểm toán nội bộ
Một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm thay đổi cách nhìn
nhận về hoạt động KTNB chính là nhờ hoạt động này đã có chuẩn mực thực
hành. Chuẩn mực này được Viện kiểm toán viên nội bộ ban hành vào tháng 6
năm 1978. Tiếp sau đó, Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ đã ban hành các quy
21

×