MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN CÁC TỔ
CHỨC TÍN DỤNG VIỆT NAM
1. Tóm tắt
Bài nghiên cứu này thảo luận về mô hình tổ chức hoạt động của công ty quản
lý tài sản (viết tắt VAMC) trong việc tái cấu trúc ngân hàng. Từ đó xác định những
điểm bất hợp lý đang tồn tại để phân tích nguyên nhân chính dẫn đến hoạt động
không hiệu quả của VAMC trong quá trình xử lý nợ. Cụ thể là mua nợ theo giá trị sổ
sách nhưng thực chất là tránh sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng thương mại, cơ chế
không tạo được động lực để xử lý nợ triệt để hay sau khi mua nợ thì việc bán nợ
không khả thi, Trên cơ sở này, bài nghiên cứu xây dựng một số nhóm giải pháp
hướng đến hoàn thiện hiệu quả hoạt động của VAMC.
2. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, tình hình hê thống ngân hàng đã bộc lộ những yếu
kém trong hoạt động đặc biệt tỷ lệ nợ xấu luôn ở mức cao. Vấn đề tìm kiếm một mô
hình xử lý nợ xấu cho Việt Nam đã được đặt ra từ năm 2011, khi bắt đầu có những
dấu hiệu cảnh báo về sự tăng nhanh tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Theo báo
cáo của Ngân hàng nhà nước, tính đến hết tháng 30/9/2012, tỷ lệ nợ xấu toàn hệ
thống chiếm đến 8.86% trong tổng số dư nợ vay, tương đương với con số hơn 255
nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên theo đánh giá các tổ chức quốc tế thì con số thực tế cao hơn
nhiều so với công bố: theo Fitch Ratings tỷ lệ trên là 15%, Baclays là 20%. Mặc dù
chưa có số liệu chính xác về số nợ xấu nhưng nó đã thực sự trở thành “cục máu đông”
làm nghẽn mạch tăng trưởng nền kinh tế.
Những tháng đầu năm 2013, tình hình nợ xấu vẫn không được khả quan mặc
dù bản thân các ngân hàng đã có những biện pháp tự xử lý. Chính vì mức độ nghiêm
trọng của vấn đề này nên việc ra đời công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (viết
tắt VAMC) vào ngày 26/07/2013 được kỳ vọng sẽ phần nào tháo gỡ những khó khăn
hiện tại. Vậy VAMC đang hoạt động với cách thức nào? Và với cách thức như vậy,
liệu VAMC có đáp ứng được mục tiêu này không? Đây là vấn đề được đặt ra trong
bài nghiên cứu này.
Đề trả lời những câu hỏi đặt ra, bài viết bao gồm những phần sau: Phần thứ
nhất là tìm hiểu về VAMC; phần thứ hai là so sánh mô hình VAMC với mô hình các
nước trên thế giới; phần thứ ba là đưa ra các điểm chưa hợp lý trong mô hình hoạt
đông của VAMC; phần cuối cùng sẽ đưa ra các kiến nghị cải thiện mô hình hoạt động
VAMC.
3. Giới thiệu về VAMC
Công ty Quản lý tài sản các Tổ chức tín dụng (VAMC) được thành lập vào
ngày 26/07/2013 theo quyết định 1459/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam. VAMC là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên với vốn điều
lệ 500 tỷ đồng, 100% vốn nhà nước.
Mục tiêu hoạt động:
Xử lý nhanh nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức
tín dụng (viết tắt là TCTD), doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý
nền kinh tế.
Hoạt động chính của VAMC:
a. Mua nợ xấu của các TCTD;
b. Thu hồi nợ, đòi nợ và xử lý, bán nợ, tài sản bảo đảm;
c. Cơ cấu lại khoản nợ, điều chỉnh điều kiện trả nợ, chuyển nợ thành vốn góp, vốn cổ
phần của khách hàng vay;
d. Đầu tư, sửa chữa, nâng cấp, khai thác, sử dụng, cho thuê tài sản bảo đảm đã được
Công ty Quản lý tài sản thu nợ;
e. Quản lý khoản nợ xấu đã mua và kiểm tra, giám sát tài sản bảo đảm có liên quan đến
khoản nợ xấu, bao gồm cả tài liệu, hồ sơ liên quan đến khoản nợ xấu và bảo đảm tiền
vay;
f. Tư vấn, môi giới mua, bán nợ và tài sản;
g. Đầu tư tài chính, góp vốn, mua cổ phần;
h. Tổ chức bán đấu giá tài sản;
i. Bảo lãnh cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vay vốn của TCTD;
j. Hoạt động khác phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của VAMC sau khi được Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép
VAMC được phép ủy quyền cho các TCTD bán nợ thực hiện các hoạt động
được nêu tại điểm b, c, d, e.
VAMC hoạt động theo nguyên tắc lấy thu bù chi, không vì mục tiêu lợi nhuận;
công khai, minh bạch; hạn chế rủi ro và chi phí trong xử lý nợ xấu.
Mô hình hoạt động của VAMC
Trước khi chính thức thành lập và đi vào hoạt động, Chính phủ và Ngân hàng
Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho hoạt
động của VAMC. Đầu tiên, đó là Nghị định 53/2013/NĐ-CP quy định về việc
thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC. Tiếp đó lần lượt là các thông tư
19/2013/TT-NHNN quy định về việc mua bán, xử lý nợ xấu của VAMC và cuối
cùng là thông tư 20/2013/TT-NHNN quy định về việc tái cấp vốn của NHNN với các
TCTD trên cơ sở trái phiếu đặc biệt (viết tắt TPĐB) do VAMC phát hành.
Về cơ bản, các văn bản này chính là bộ khung cho cơ chế xử lý nợ xấu của
VAMC, có thể tóm tắt bằng sơ đồ sau:
Hình 1: Mô hình hoạt động VAMC
• Về hoạt động mua nợ: VAMC sẽ mua các khoản nợ xấu từ TCTD theo 2
phương thức:
- Mua theo giá trị sổ sách: Các khoản nợ xấu sẽ được mua theo giá trị sổ sách,
được hiểu là số dư nợ ghi sổ đang theo dõi sau khi đã trừ đi khoản trích lập dự
phòng cho khoản đó. Tố chức tín dụng sẽ được nhận TPĐB tương ứng và có thể
sử dụng trái phiếu này thực hiện nghiệp vụ tái cấp vốn tại Ngân hàng Nhà nước
(số tiền tái cấp vốn tối đa là 70% mệnh giá TPĐB). Trái phiếu này có thời hạn 5
năm. Sau khí trái phiếu đến hạn mà VAMC vẫn chưa xử lý được hết khoản nợ
thì sẽ trả về cho TCTD và hưởng tỷ lệ phần trăm (quy định hiện nay là 2% trên
số tiền thu hồi). TCTD nhận TPĐB sẽ phải trích lập dự phòng mỗi năm ít nhất
20% so với mệnh giá TPĐB.
- Mua theo giá trị thị trường: giá mua các khoản nợ này trên cơ sở thỏa thuận
được đánh giá theo giá trị thị trường, VAMC sẽ trả cho TCTD bằng tiền không
phải TPĐB. Điều kiện các khoản nợ mua theo giá thị trường được yêu cầu chặt
chẽ hơn: khoản nợ được VAMC đánh giá có khả năng thu hồi đầy đủ số tiền
mua nợ, tài sản đảm bảo (viết tắt TSĐB) có khả năng phát mãi…
• Về hoạt động xử lý các khoản nợ sau khi mua:
- VAMC có thể giữ lại các khoản nợ để thu hồi nợ hoặc bán hẳn khoản nợ trên
cho đối tác khác. VAMC thu hồi các khoản nợ giữ lại bằng các biện pháp: cơ
cấu lại nợ (điều chỉnh lãi suất, kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ ), hỗ trợ tài chính cho
khách hàng (bảo lãnh cho khách hàng vay vốn, đầu tư, mua trái phiếu doanh
nghiệp đó…), chuyển các khoản nợ thành vốn góp, thanh lý TSĐB của khoản
vay đó.
- Đối với các khoản nợ xấu được thanh toán bằng TPĐB, VAMC phải thỏa thuận
với các TCTD về các phương pháp xử lý liên quan đối với các khoản nợ xấu đó.
4. So sánh mô hình hoạt động của VAMC và mô hình trên thế giới:
Trên thế giới có 2 mô hình xử lý nợ chính: mô hình xử lý nợ tập trung và phi tập
trung. VAMC hoạt động theo mô hình tập trung, tức là nhà nước sẽ đóng vai trò chính
trong quá trình xử lý nợ xấu của nền kinh tế thông qua VAMC. Đây cũng là mô hình hoạt
động của hầu hết các nước thuộc khu vực Đông Á: Malaysia, Thái Lan, Hàn Quốc… Hoạt
động theo mô hình này có các thuận lợi và bất lợi nhu sau:
• Thuận lợi
- Tạo ra lợi thế kinh tế do qui mô lớn do tập trung nguồn lực một cơ quan dễ quản
lý .
- Dễ dàng trong việc trao quyền hạn đặc biệt nhằm đẩy nhanh việc thu hồi nợ và tái
cơ cấu ngân hàng
- Cho phép ngân hàng tập trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi
- Cho phép áp dụng các biện pháp thống nhất về tái cơ cầu tài chính
- Có thể gây ra các áp lực trong tái cơ cấu hoạt động của các ngân hàng có vấn đề
• Bất lợi
- VAMC khó hiểu rõ từng khoản vay
- VAMC trực thuộc ngân hàng nhà nuớc, trong khi ngân hàng nhà nuớc chuyên
làm chính sách nên không có sự độc lập và chịu áp lực chính trị trong quá trình
xử lý.
- Vì tập trung nhiều khoản nợ từ nhiều nguồn khác nhau nên quá trình xử lý nợ có
thể không sát sao như các TCTD.
Bên cạnh đó, có một số đặc điểm khác biệt giữa VAMC và mô hình các nước trên thế
giới:
• Về vốn hoạt động: để có vốn đủ lớn để xử lý nợ xấu, các công ty xử lý nợ
thường được tài trợ vốn từ Chính phủ hoặc huy động vốn với hình thức phát hành
trái phiếu. Trái phiếu này được sự bão lãnh của Chính phủ, điều này tạo sự thuận
lợi cho việc huy động nguồn lực lớn để xử lý nợ xấu. Với VAMC, vốn điều lệ
hiện nay chỉ có 500 tỷ đồng, con số quá nhỏ so với quy mô nợ xấu tại Việt Nam.
Việc phát hành trái phiếu để huy động vốn chưa được thực hiện và khó có được
sự bảo lãnh từ chính phủ. Điều này cũng dễ hiểu bởi trong tình trạng thâm hụt
ngân sách hiện nay, Quốc hội sẽ không thông qua việc dùng ngân sách để xử lý
nợ xấu.
• Về hình thức mua nợ: hầu hết các mô hình trên thế giới đều mua đứt các
khoản nợ xấu và chủ động trong việc xử lý nợ. Tại Việt Nam có sự khác biệt là
VAMC còn có thể mua nợ và thanh toán bằng TPĐB, nếu không xử lý hết các
khoản nợ mua được thì VAMC có thể trả lại cho TCTD. Một trong các lý do có
thể giải thích do nguồn vốn để mua hẳn các khoản nợ quá hạn hẹp. Và đây được
xem là cách thức hoàn toàn mới trong mô hình xử lý nợ xấu tại các nước trên thế
giới.
5. Không hiệu quả từ mô hình hoạt động của VAMC
Mô hình xử lý nợ xấu của VAMC như trên chắc chắn đã được Chính phủ và Ngân
hàng Nhà nước cân nhắc rất nhiều trong bối cảnh kinh tế của Việt Nam hiện nay còn nhiều
vấn đề: (1) tỷ lệ nợ xấu đến hàng ngàn tỷ đồng, số liệu thống kê không minh bạch; (2) Ngân
sách tiếp tục thâm hụt, nguồn tài trợ cho xử lý nợ xấu hạn hẹp. Vì thế, mô hình VAMC như
trên có thể coi là sáng tạo, tạm thời giúp tình hình thanh khoản các ngân hàng tốt hơn và kéo
dài được thời gian xử lý các khoản nợ xấu. Tuy nhiên với mục tiêu thực sự xử lý nợ xấu, tạp
dòng vốn cho TCTD thì mô hình hoạt động hiện tại không thực sự hiệu quả với các lý do sau
như sau:
5.1VAMC mua nợ xấu theo giá trị ghi sổ, thanh toán bằng TPĐB
Đây được xem là lần đầu tiên Việt Nam thành lập một công ty xử lý nợ, tuy nhiên mô
hình này đã phát triển tại nhiều nước trên thế giới. Điểm nổi bật và khác biệt của mô hình
này chính là việc VAMC mua nợ xấu theo giá trị ghi sổ bằng TPĐB do VAMC phát hành.
Phương thức này giúp làm sạch bảng cân đối tài khoản của các tổ chức tín dụng đồng thời
không phải ghi nhận khoản tổn thất tín dụng như trong phương thức mua nợ theo giá trị thị
trường. Tuy nhiên, thực tế dòng vốn không thực sự chảy về TCTD trừ khi TCTD sử dụng
TPĐB để thực hiện nghiệp vụ tái chiết khấu. TCTD có thể đem TPĐB vay tái cấp vốn với
lại suất thấp ( hiện nay la 4.5%, thấp hơn 2% so với lãi suất tái cấp vốn thông thường). Các
TCTD có nhiều nợ xấu sẽ được bổ sung thêm một lượng tiền đáng kể cho hoạt động mà
không phải huy động từ dân cứ hay vay trên liên ngân hàng với lãi suất cao. Nhưng hành
động tái cấp vốn của NHNN chính là hình thức bơm tiền vào nên kinh tế, làm tăng cung tiền
có thể gây rủi ro lạm phát. Đồng thời, TCTD có thể sử dụng lượng vốn này đem cho vay lại,
tức là vẫn đang giữa khoản nợ xấu cũ, nhưng từ nợ xấu đó có món tiền mới cho vay khoản
khác. Nếu sử dụng không hiệu qua nợ xấu tăng thêm trong khi nợ xấu cũ chưa xử lý được
dẫn đến tình trạng nợ chồng nợ trong tương lai.
5.2VAMC mua nợ xấu theo giá trị thị trường
Phương thức mua nợ xấu theo giá trị thị trường là phương thức phổ biến hiện nay trên
thế giới. Tuy nhiên khi gia nhập vào Việt Nam và vào mô hình VAMC thì phương thức này
hoàn toàn không phát huy tác dụng và dường như khó thực hiện vì các nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Các TCTD không muốn bán. Do yêu cầu khắt khe một khoản nợ được
mua theo giá trị thị trường phải đảm bảo:
Được VAMC đánh giá là có khả năng thu hồi nợ đầy đủ
TSĐB phải có khả năng phát mãi
Khách hàng vay phải có triển vong phục hồi kinh doanh và có phương án trả nợ khả
thi
Với những yêu cầu được đánh giá là khá tốt đối với một khoản nợ thì TCTD lại muốn
giữ lại các nợ để tự tái cơ cấu để thu hồi nợ chứ không muốn bán vì chưa hẳn thỏa thuận
được mức giá hợp lý.
Thứ hai, là khó đi đến thỏa thuận giá giữa VAMC và TCTD đối với các khoản nợ.
Bởi khi VAMC mua nợ theo giá trị thị trường thì VAMC sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn
về việc thu hồi nợ trong tương lai mà TCTD không còn dính líu nữa. Do đó để hạn chế rủi ro
cho mình, VAMC sẽ mua các khoản nợ xấu với giá thấp còn TCTD muốn bán với giá cao
(bởi những khoản nợ này về thực chất TCTD có thề tự thu hồi, hoặc giữ lại để tái cơ cấu).
Ở các nước trong khu vực như Maylasia, Thái Lan mức giá khoản nợ xấu được mua
lại thường theo một tỷ lệ trên giá trị TSĐB sau khi được định giá bởi tổ chức độc lập và có
uy tín. Để giải quyết vấn đề không thỏa thuận được giá cả, công ty xử lý nợ và TCTD có sự
chia sẽ lợi nhuận từ việc thu hồi nợ xấu. Nghĩa là trong trường hợp khoản nợ thu hồi có lợi
nhuận, TCTD cũng sẽ hưởng được tỷ lệ phần trăm trên lợi nhuận đó.
Thứ ba, việc huy động vốn của VAMC để mua các khoản nợ theo giá thị trường
Theo luật định, tiền mà VAMC mua nợ xấu theo giá thị trường phải do tiền tự có của
VAMC ngoài vốn điều lệ. Do đó, VAMC buộc phải phát hành trái phiếu. Đối với các nước
như Thái Lan hay Malaysia, nguồn vốn này được tài trợ bởi chính phủ hoặc trái phiếu được
bão lãnh bởi chính phủ. Nhưng Việt Nam thì từ quan điểm của Chính phủ sẽ không sử dụng
ngân sách vào xử lý nợ xấu, với việc trái phiếu không có bảo lãnh thì ai sẽ mua? Và nếu mua
thì mức lãi suất phải cao, nhưng liệu VAMC có xử lý được nợ hay ko để trả tiền lãi và gốc
này hay không.
Theo số liệu báo cáo, đến đầu tháng 5/2014, VAMC đã mua về 45 nghìn tỷ đồng hoàn
toàn dưới hình thức thanh toán bằng TPĐB
5.3Không có động lực xử lý nợ triệt để
Thứ nhất, mục tiêu hoạt động của VAMC là xử lý nợ nhưng thực chất là gia hạn nợ,
tăng tính thanh khoản cho TCTD. Đối với phương thức mua nợ bằng giá trị sổ sách, trong
vòng 5 năm nếu VAMC không xử lý được các khoản nợ xấu thì sẽ trả lại cho TCTD. Ngược
lại, nếu xử lý được toàn bộ hay một phần thì VAMC sẽ hưởng phí hoa hồng. Những điều
này khiến VAMC không chịu áp lực để xử lý nợ
Thứ hai, dù bán nợ cho VAMC nhưng hàng năm các TCTD vẫn phải trích lập dự
phòng rủi ro đối với TPĐB theo tỷ lệ 20% mệnh giá. Vậy sau 5 năm nếu VAMC không xử
lý được nợ thì các TCTD cũng đã trích lập đủ 100% trị giá TPĐB. Như vậy vô hình chung,
VAMC chỉ tạm giữ khoản nợ xấu trong thời hạn 5 năm cho các TCTD. Như vậy cơ chế đã
tạo cho VAMC tâm lý ỷ lại không lo giải quyết nợ xấu.
Thứ ba, VAMC có thể ủy quyền cho TCTD đã bán nợ xấu cho mình theo dõi, thúc đẩy
khách hàng trả nợ. Có thể nói khi thực hiện ủy quyền vai trò của VAMC trong mô hình
dường như quá thừa và việc thành lập VAMC là vô nghĩa.
Theo số liệu báo cáo đầu tháng 5/2014, trong số 45 nghìn tỷ đồng mua nợ, VAMC thu
hồi được 450 tỷ đồng, chỉ chiểm 1% trên số lượng mua về.
5.4Việc bán nợ không khả thi
Sau khi mua được một lượng lớn các khoản nợ xấu, nhiệm vụ đặt ra cho VAMC là bán
các khoản nợ nay. Nhưng bán như thế nào và có bán được hay không lại là một câu hỏi lớn.
Hiện tại việc bán nợ của VAMC nhận được sự chú ý lớn từ các nhà đầu tư nhưng họ vẫn chỉ
dừng ở mức quan tâm mà chưa có động thái mua. Lý do được đưa ra là hiện nay Việt Nam
chưa hoàn thiện thị trường mua bán nợ xấu; gần 65% TSĐB là bất động sản nên tâm lý lo
ngại thị trường xấu hơn nữa; VAMC mua nợ theo giá trị sổ sách trong khi thực tế mua bán
phải theo giá thị trường, có khi bán với giá thấp chỉ bằng 40% - 50% giá trị khoản nợ, vậy
liệu VAMC mua với giá cao thì có chịu bán với giá thấp như vậy không; nhà đầu tư nước
ngoài đóng vai trò rất quan trọng trong mua nợ như kinh nghiệm của Malaysia, Thái Lan,
nhưng hiện tại họ đang vấp phải rào cản pháp lý liên quan tới nhiều ban ngành khác khiến
họ chưa thể thâm nhập vào thị trường mua nợ.
5.5Mức độ độc lập trong xử lý nợ thấp
Khi mua nợ bằng TPĐB thì trong quá trình xử lý những khoản nợ xấu này, VAMC cần
phải trao đổi với TCTD để đi đến thống nhất. Trong khi đó theo nhóm, với các khoản nợ có
TSĐB VAMC nên bán nợ mà không cần thông báo cho bên vay, tạo sự độc lập cao và linh
hoạt trong xử lý nợ. Thế nhưng trong mô hình này rõ ràng VAMC chịu sự ràng buộc từ phía
TCTD nên mức độ độc lập của VAMC là rất thấp.
6. Kết luận và kiến nghị
Với những phân tích trên, chúng ta có thể thấy được xử lý nợ theo mô hình hiện tại
của VAMC không tạo được động lực để xử lý nợ xấu hiệu quả, chỉ là tạm thời giấu nợ xấu
của các TCTD. Vì vậy, để thực hiện tốt mục tiêu trên cần có những điểu chỉnh trong cách
thức mua bán nợ xấu như: tăng vốn để VAMC mua theo giá thị trường, trao quyền hạn đặc
biệt cho VAMC để VAMC chủ động trong việc xử lý nợ xấu, ban hành các quy định về việc
thị trường mua bán nợ xấu, các quy định pháp luật tạo sự thuận lợi cho xử lý nợ xấu đặc biệt
liên quan đến nhà đầu tư nước ngoài…Bên cạnh đó, việc đẩy nhanh tái cơ cấu doanh nghiệp
và khôi phục thị trường bất động sản cũng là nhiệm vụ quan trọng trong việc đẩy mạnh xử lý
nợ xấu.
• Tăng vốn, bão lãnh vay nợ để VAMC mua theo giá thị trường
Mua theo giá thị trường một mặt làm tăng trách nhiệm và động lực xử lý nợ; mặt khác muốn
xử lý nợ triệt để phải dùng tiền thật chứ không thể theo cách hạch toán như VAMC đang làm
hiện tại. Chính vì không dùng tiền thật để xử lý nợ xấu nên các ngân hàng không dám cho
doanh nghiệp đang gặp khó khăn vay tiền. Doanh nghiệp không thể tiếp cận được nguồn
vốn, phải giải thể khiến nợ xấu tăng lên, nó giống như một vòng xoáy liên tục và khó có thể
thoát ra.
• Trao quyền năng đặc biệt cho VAMC để VAMC chủ động trong việc xử lý nợ xấu
- Ở các quốc gia trên thế giới, khi khủng hoảng xảy ra, nợ xấu ảnh hưởng đến an toàn
hệ thống thì việc xử lý khủng hoảng nhận được sự đồng thuận rất cao. Ví dụ như ở
Malaysia, trong vòng 3 tháng, Quốc hội nước này đã thông qua đạo luật riêng cho công ty
xử lý nợ xấu AMC Danaharta. Đạo luật này cho phép AMC có nhiều quyền năng, thậm chí
họ có thể thay mặt tòa án xử lý các vấn đề liên quan đến tài sản. Do đó, dù mới manh nha
hoạt động từ năm 1998 nhưng đến 2005, Công ty này đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ giải
quyết sạch nợ xấu.
- Tại Việt Nam, quyền năng của VAMC thấp hơn khi chỉ mới đang dừng ở Nghị định.
Theo đó, Nghị định 53 tạo điều kiện giúp VAMC phát huy điểm mạnh trong quá trình hoạt
động. Thế nhưng xét cho cùng VAMC chỉ là công cụ đặc biệt của NHNN để góp phần xử lý
các khoản nợ xấu chứ không phải là “công cụ vạn năng”. Trong môi trường pháp lý của Việt
Nam còn nhiều bất cập hiện nay, VAMC cần được giao quyền lực đủ mạnh hơn nữa để có
thể chủ động linh hoạt trong việc xử lý nợ xấu. Đơn cử như với các khoản nợ xấu có TSĐB
VAMC nên bán nợ mà không cần thông báo cho bên vay. Hay trong quá tình tái cơ cấu
doanh nghiệp, VAMC có quyền xem xét, bổ nhiệm lãnh đạo để giúp doanh nghiệp phục hồi
khả năng kinh doanh…Bên cạnh đó để quyền năng phát huy tối đa, VAMC cần củng cố lòng
tin từ các TCTD, doanh nghiệp và dân cư bởi quá trình xử lý nợ xấu sẽ hiệu quả hơn khi
nhận được sự đồng thuận lớn từ xã hội.
• Cải thiện thị trường bất động sản
- Theo thống kê từ NHNN, nợ xấu tập trung cao vào thị trường bất động sản, đồng thời
thị trường bất động sản đóng băng gây trở ngại trong việc xử lý TSĐB.
- Do đó, mục tiêu đi cùng với xử lý nợ xấu phải là khôi phục, cải thiện thị trường bất
động sản. Nhà nước nên có những chính sách đặc biệt như giảm thuế GTGT trong các ngành
kinh tế đang gặp khó khăn như xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, kinh doanh bất động
sản. Hay quan trọng hơn hết là cần phải có bộ giải pháp để cứu thị trường bất động sản như
ở phân khúc cao cấp cần phải giảm cung, không cấp phép mới, rút phép chủ đầu tư thiếu
tiềm lực, thực hiện nhiều biện pháp kích cầu ở phân khúc nhà ở xã hội hay dành cho các đối
tượng có thu nhập thấp, cải thiện mạnh mẽ thủ tục pháp lý; đặc biệt lưu ý phần TSĐB là bất
động sản, khuyến khích M&A chuyển nhượng dự án.
• Phát triển thị trường mua bán nợ xấu, các quy định pháp luật tạo sự thuận lợi cho xử
lý nợ xấu.
- Với mô hình xử lý nợ xấu tập trung hiện nay, việc xử lý nợ xấu ở Việt Nam nên phát
triển thị trường mua bán nợ để làm sao xã hội hóa nguồn cầu trong đầu tư nợ xấu của Việt
Nam. Nhà nước cũng cần có cơ chế “cây gậy và củ cà rốt” để phát triển thị trường mua bán
nợ sơ cấp. Bởi nếu không có chế tài của NHNN để ép các TCTD phải có trách nhiệm hơn
trong xử lý nợ xấu, họ vẫn để nợ xấu từ từ xử lý, mất thời gian dài mới xong và hiệu quả
chưa chắc đạt được. Thí dụ, NHNN có thể đưa ra quy định trong vòng khoản thời gian,
NHTM nếu không giảm được tỷ lệ nợ xấu thì không được mở rộng hoạt động, yêu cầu trích
lập dự phòng trên 100%. Thực tế có những quốc gia yêu cầu trích lập dự phòng 150-250%.
Gần đây, NHNN cũng có động thái nhất định như không cho NHTM trả cổ tức nếu không
trích đủ dự phòng rủi ro. Tại Việt Nam, để thị trường mua bán nợ hình thành, trước hết cần
phát triển các công ty chuyên mua bán nợ và tài sản tồn động của các thành phần kinh tế.
Thứ đến, phải có hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách vĩ mô tạo hành lang cho thị trường
vận hành trôi chảy như những thị trường khác.
- Việc xử lý nợ không của riêng VAMC do đó Thủ tướng cần yêu cầu các Bộ ngành
liên quan ngồi lại với nhau đưa ra ý kiến thống nhất tháo gỡ và ban hành cơ chế linh động
cho các NĐT nước ngoài tham gia. Bên cạnh đó, miễn các loại thuế (thuế GTGT, thuế Thu
nhập doanh nghiệp…) cho các hoạt động mua bán nợ nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát
triển của thị trường mua bán nợ.
Tài liệu tham khảo:
1. Stefan Ingves, Steven A Seelig and Dong He, 2004, Issues in the Establishment of
Asset Management Companies (IMF Policy Discussion Paper),
< >
2. Huỳnh Thế Du, 2004, “Xử lý nợ xấu ở Việt Nam nhìn từ mô hình Trung Quốc và
một số nền kinh tế khác”,
< h ttp://www.vnep.org.vn/Upload/SO%201%20chuyen%20de%20no%20xau.pdf>
3. Lê Phúc Yên, 2013, “Không có động cơ xử lý nợ ở mô hình VAMC”,
< www.fetp.edu.vn/attachment.aspx?ID=19689 >
4. Các nguồn khác từ internet:
[Ngày truy cập: 01/05/2014]
/>VA-KHUYEN-NGHO-CHO-VIET-NAM/56/event.tctc [Ngày truy cập:
01/05/2014]
/>no-xau-mot-cach-triet-de-va-co-hieu-qua sav [Ngày truy cập: 30/05/2014]
[Ngày truy
cập: 30/05/2014]