Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY QUẢN LÝ NỢ VÀ KHAI THÁC TÀI SẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.86 KB, 31 trang )

HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY QUẢN LÝ NỢ VÀ KHAI THÁC TÀI
SẢN - NHỮNG VẤN ĐỀ MANG TÍNH LÝ LUẬN.
1. Tổng quan về công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Ngày nay chúng ta được nghe nhắc rất nhiều tới “nền kinh tế tri thức”, nơi mà sự
tăng trưởng, ổn định của nhiều lĩnh vực với hàm lượng chất xám cao, nhân viên có tay
nghề được coi là nhân tố trọng tâm của sự phát triển. Một trong những khu vực trọng
tâm đó chính là khu vực Tài chính - Ngân hàng. Trên thực tế, hệ thống Tài chính –
Ngân hàng cũng đang ngày càng khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng và tầm ảnh
hưởng vô cùng rộng lớn của mình tới sự phát triển của nền kinh tế từng quốc gia nói
riêng cũng như sự phát triển chung của cả khu vực và toàn thế giới. Sự lành mạnh, ổn
định của hệ thống ngân hàng là tiền đề cho sự hưng thịnh của nền kinh tế. Ngược lại,
“sức khỏe” của nền kinh tế cũng sẽ phản ánh và ảnh hưởng sâu sắc tới tình trạng hoạt
động của các ngân hàng. Qua nhiều cuộc khủng hoảng, mà gần đây nhất là cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á năm 1997, nhận định này càng được khẳng định.
Một trong những nhân tố dẫn tới khủng hoảng 1997 chính là “nguy cơ dễ bị tổn
thương” (Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông á) của khu vực Tài chính – Ngân hàng, là các
bất cập, thiếu hợp lý trong đường lối phát triển, huy động và cho vay của hệ thống các
ngân hàng. Và khi khủng hoảng nổ ra, ngành ngân hàng, đến lượt mình, lại cũng là
“nạn nhân” chịu những cú sốc nặng nề nhất. Các nước đã phải thực hiện một loạt các
biện pháp nhằm cơ cấu lại, tăng cường sức mạnh cho hệ thống ngân hàng, trong đó có
việc thành lập công ty khai thác nợ và quản lý tài sản (Asset Management Company –
AMC) để xử lý số nợ tồn đọng khó đòi khổng lồ, “làm sạch” bảng cân đối tài sản của
các ngân hàng. Một bài học rút ra là không nên chỉ coi công ty khai thác nợ và quản lý
tài sản như một hình thức “xử lý hậu quả”, để sự việc đã xảy ra rồi mới nghĩ tới
chuyện thành lập công ty mà nên sử dụng công ty quản lý nợ và khai thác tài sản như
một biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng xấu đi của hệ thống ngân hàng, tăng
cường sự lành mạnh, và do đó, sức cạnh tranh của ngân hàng trong điều kiện hội nhập
phát triển ngày càng cao như hiện nay.
2. Khái niệm về công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Loại hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được sử dụng ở nhiều nước. Tại
mỗi nước, tuỳ theo điều kiện kinh tế và chính sách phát triển từng nước mà công ty


quản lý nợ và khai thác tài sản lại có những tên gọi, đặc trưng, quyền và nghĩa vụ
riêng. Nhưng chung nhất, có thể coi công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là một
định chế có mục tiêu đặc biệt, có trách nhiệm và quyền lực đặc biệt trong việc
thực hiện chức năng mua, quản lý các khoản nợ khó đòi từ hệ thống ngân hàng
và xử lý các khoản nợ đó một cách tối ưu.
Mục tiêu hoạt động: Như vậy, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được thành
lập nên nhằm mục tiêu phục hồi sức mạnh cho hệ thống ngân hàng. Ngân hàng chính
là kênh dẫn truyền các khoản tiết kiệm trong dân cư, trong xã hội vào việc đầu tư cho
các hoạt động kinh tế. Một khi các khoản đầu tư, cho vay của ngân hàng là không có
hiệu quả, mà thể hiện trước tiên và trực quan nhất là qua tỷ lệ các khoản nợ quá hạn
khó đòi trên tổng dư nợ cao, thì có nghĩa sự lành mạnh cũng như năng lực tài chính
của ngân hàng đang bị suy giảm, ngân hàng đang đứng trước các nguy cơ rủi ro lớn.
Khi đó, để củng cố lại hệ thống ngân hàng, các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
sẽ mua, tiếp quản các khoản nợ khó đòi đó và tìm cách xử lý chúng một cách “thông
minh” và hiệu quả nhất. Hoạt động của công ty này sẽ luôn hướng tới việc làm sao để
tối đa hoá được giá trị của các khoản nợ tồn đọng được giao và giảm thiểu chi phí cho
quá trình cải tổ hệ thống ngân hàng và các doanh nghiệp. Khác với các loại hình công
ty khác, ở hầu hết các nước, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản không hoạt động
vì mục tiêu lợi nhuận. Hơn nữa, đối tượng mua bán của công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản là các khoản nợ khó đòi tồn đọng với ít tài sản đảm bảo có giá trị, thậm
chí có giá trị bằng 0 hoặc tài sản không đủ giấy tờ, không còn đối tượng để thu nợ...
nên hầu như công ty cũng không thể tạo ra lợi nhuận được.
Chức năng: Như khái niệm đã trình bày rõ, hai chức năng cơ bản nhất của công ty
quản lý nợ và khai thác tài sản là mua lại nợ tồn đọng khó đòi và tối đa hoá khả năng
thu hồi các khoản nợ đó.
Việc mua lại nợ khó đòi từ hệ thống ngân hàng được thực hiện theo những phương
thức và các mức giá cả khác nhau, tuỳ thuộc vào “tình trạng” của khoản nợ cũng như
sự thoả thuận giữa 2 bên, bên bán và bên mua. Thường, ngân hàng sẽ có nhu cầu bán
lại nợ khê đọng cho quản lý nợ và khai thác tài sản khi tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống
đã vượt quá 5% (mức tối đa cho phép theo thông lệ quốc tế).

Vì nợ được mua bán là những khoản nợ tồn đọng khó đòi, với rất nhiều khó khăn
và vướng mắc trong việc thu hồi nợ từ khách nợ hay từ việc xử lý tài sản đảm bảo,
nên khả năng thu hồi toàn bộ giá trị món vay gần như là không thể. Để có thể tối đa
hóa được giá trị thu hồi của khoản vay và các nguồn lực từ khoản vay, công ty quản lý
nợ và khai thác tài sản phải rất linh hoạt và chủ động trong việc xử lý số nợ khê đọng
đã mua. Một số biện pháp công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thường sử dụng là:
dùng tài sản thế chấp để góp vốn liên doanh liên kết hay cho thuê, sửa chữa, đầu tư để
tăng giá trị tài sản trước khi đem bán, chuyển nợ thành vốn cổ phần...
Quyền lực hoạt động: Để giải quyết các khoản nợ tồn đọng, công ty quản lý nợ
và khai thác tài sản cần có một quyền lực đặc biệt. Quyền lực này được quy định và
bảo vệ bởi những nghị định, quy định, quyết định do các cơ quan chức năng ban hành,
thậm chí là cả một đạo luật riêng do Quốc hội ban hành. Việc xử lý nợ khê đọng, tài
sản đảm bảo tiền vay có liên quan tới rất nhiều các nhánh luật khác nhau như luật phá
sản, luật doanh nghiệp, luật đất đai, pháp lệnh về hợp đồng kinh tế... và nhiều khi sự
mâu thuẫn giữa các luật này trong hoạt động nghiệp vụ của công ty là điếu khó tránh
khỏi. Đồng thời, quá trình xử lý tài sản đảm bảo cũng luôn làm phát sinh những mâu
thuẫn về lợi ích giữa các bên: chủ nợ, khách nợ, chính quyền địa phương... và các bên
liên quan khác. Vì vậy, xét riêng trên khía cạnh giải quyết cho hết tất cả những mâu
thuẫn, tranh chấp về mặt pháp lý, nếu không có được những quyền hạn và kỹ năng
đặc biệt, việc giải quyết các khoản nợ khê đọng khó đòi của công ty quản lý nợ và
khai thác tài sản sẽ rất mất thời gian, thậm chí trong nhiều trường hợp, có nhiều món
nợ vì lý do này mà không thể được xử lý.
1.1. Lịch sử hình thành - Sự cần thiết thành lập công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản.
1.1.1. Lịch sử hình thành.
Nền kinh tế thế giới đã chứng kiến nhiều những bước thăng trầm, những đợt
khủng hoảng nặng nề của hệ thống tài chính – ngân hàng. Hậu quả của những cuộc
khủng hoảng này là sự suy yếu, xáo động của không chỉ bộ máy ngân hàng mà còn
của cả nền kinh tế. Những khoản nợ khó đòi khổng lồ là một trong những nguyên
nhân khiến cho hệ thống ngân hàng rơi vào khó khăn, đồng thời nó cũng lại là một trở

lực trong quá trình cải cách và phục hồi kinh tế sau khủng hoảng.
Có nhiều cách để xử lý số nợ này. Đơn giản nhất là xoá nợ hoặc cơ cấu lại các
khoản nợ này bằng nguồn vốn của Chính phủ. Nhưng với số nợ của hệ thống ngân
hàng vô cùng lớn thì chi phí sẽ rất tốn kém. Mặt khác, làm như vậy sẽ không thúc đẩy
được quá trình cải cách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho hệ thống ngân hàng.
Có một phương pháp khác, đáp ứng được cả hai mục tiêu tiết kiệm chi phí và thúc đẩy
quá trình cải cách hệ thống ngân hàng, đó là mô hình công ty quản lý nợ và khai thác
tài sản.
Mô hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được đưa ra áp dụng lần đầu
tiên tại Mỹ vào năm 1989. Trong những năm 80, một cuộc khủng hoảng các quỹ tiết
kiệm và cho vay (S&L) với quy mô lớn đã diễn ra ở Mỹ. Do một số quỹ tiết kiệm quá
lớn để có thể đóng cửa một cách đơn giản mà không gây ra những tác động nhất định
tới xã hội nên Chính phủ Mỹ đã phải đưa ra giải pháp thành lập “Công ty uỷ thác xử
lý tài sản” (Resolution Trust Company) (hay “Công ty tín thác xử lý các đổ vỡ ngân
hàng”), một loại hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Công ty này với tư cách
là một cơ quan Trung ương đứng ra mua lại các khoản nợ khó đòi của các quỹ tiết
kiệm và sau đó tìm cách làm tối đa hoá khả năng thu hồi của các khoản nợ thông qua
việc bán trên thị trường.
Sau Mỹ, vào những năm 1992-1995, một loạt các công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản cũng được thành lập ở các nước Châu Âu như Thuỵ Điển, Na Uy, Phần
Lan khi những nước này rơi vào khủng hoảng ngân hàng với khối lượng lớn nợ tồn
đọng trong nền kinh tế.
Tại Đông Nam á, để giải quyết hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
và phục hồi kinh tế sau khủng hoảng, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản cũng
được thành lập ở các nước như Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Hàn Quốc, Trung
Quốc. Đến nay, trên toàn thế giới đã có khoảng trên 20 công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản được thành lập.
Ở Việt Nam, mặc dù những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Châu á tới hoạt
động của hệ thống ngân hàng không mạnh và khốc liệt như đối với trường hợp của
nhiều nước trong cùng khu vực, nhưng nó cũng gây ra những tác động nhất định. Bài

học quý giá từ cuộc khủng hoảng là phải xây dựng cho được một hệ thống tài chính –
ngân hàng thật sự lành mạnh, vững chắc. Hơn nữa, trong quá trình hội nhập kinh tế,
hệ thống ngân hàng đứng trước sự canh tranh ngày càng cao, đòi hỏi củng cố, tăng
cường sức mạnh cho các ngân hàng càng trở nên cấp thiết. Trước tình hình đó, ngày
15/9/2000 Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số 305/2000/QĐ-NHNN5 về
việc thành lập Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thế chấp của ngân hàng thương
mại. Năm 2001, quyết định 1389/2001/QĐ-NHNN do phó thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Trần Minh Tuấn ký ngày 07/11/2001, ban hành quy định về việc thành lập Công
ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại ra đời thay thế cho
quyết định 305/2000 ở trên. Hiện nay, nhiều công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
của các ngân hàng thương mại quốc doanh và cả ngân hàng thương mại cổ phần đã
được thành lập như công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của Ngân hàng Đầu tư và
phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sài Gòn thương tín...
1.1.2. Sự cần thiết thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh luôn diễn ra vô cùng khốc liệt,
muốn tồn tại các doanh nghiệp buộc phải làm ăn có hiệu quả thì mới có thể trụ
vững. Mà để tiến hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả, bất cứ doanh nghiệp nào
cũng cần có một lượng vốn nhất định. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất kinh
doanh, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có đủ nguồn vốn cần thiết để tiến
hành hoạt động, sẽ có lúc doanh nghiệp rơi vào tình trạng thiếu vốn, nhưng cũng có
lúc sẽ dư thừa vốn. Do vậy, việc phát sinh các khoản công nợ giữa các doanh
nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp với nhà nước, doanh nghiệp với ngân hàng
trong quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các nguồn vốn là một điều tất yếu.
Như vậy, có thể nói các khoản nợ cũng chính là một phần nguồn vốn của
doanh nghiệp. Khi các khoản nợ này thành nợ tồn đọng khó đòi với số lượng ngày
càng lớn thì có nghĩa nguồn vốn đang bị chiếm dụng, đang bị sử dụng một cách
không hiệu quả của doanh nghiệp ngày càng nhiều. Đối với một doanh nghiệp, đây
là điều vô cùng nguy hiểm, nó báo hiệu sự suy yếu của doanh nghiệp đó. Suy rộng
ra, đối với một nền kinh tế, các khoản nợ tồn đọng khó đòi thể hiện sự lãng phí
nguồn lực, ngăn trở sự phát triển, thậm chí có thể gây nên những tác động hết sực

tiêu cực tới nền kinh tế. Tựu chung lại, nợ tồn đọng cần phải được xử lý vì:
• Nợ tồn đọng có tác động xấu tới nền kinh tế, thể hiện:
- Thứ nhất, vốn tồn đọng trong nền kinh tế làm ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập
quốc dân (GNP) của một quốc gia. Theo lý thuyết về cầu tiền tệ của Irving Fisher
thì:
P.Y = M.V = GNP
Trong đó:
P: mức giá cả
Q: tổng sản phẩm
M: khối lượng tiền tệ
V: vòng quay tiền tệ
Vốn tồn đọng chính là đại diện cho một lượng lớn vồn bị “nằm chết” trong nền
kinh tế. Lượng vốn “chết” này sẽ khiến cho vòng quay tiền tệ (V) bị chậm lại. Vốn
tồn đọng càng lớn thì V sẽ càng nhỏ. Và như vậy, giả sử M không đổi, V giảm
càng nhiều dẫn đến GNP cũng sẽ giảm nhiều tương ứng. Hơn nữa, thu nhập quốc
dân thấp lại ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của nhân dân quốc gia đó, thu nhập
bình quân đầu người thấp, phúc lợi xã hội giảm...
- Thứ hai, tình trạng nợ đọng sẽ làm ảnh hưởng đến lượng vốn đầu tư từ bên ngoài
vào. Đối với những nhà đầu tư nước ngoài, quyết định có đầu tư vào một quốc gia
nào hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đó là sự thông thoáng và ưu đãi trong
hệ thống luật pháp, sự ổn định về môi trường đầu tư cũng như môi trường chính trị
– xã hội, sự hấp dẫn của những cơ hội làm ăn có khả năng sinh lời cao, của nguồn
lực, khả năng hấp thụ và sử dụng vồn một cách hiệu quả của nền kinh tế... Khối
lượng những khoản nợ tồn đọng lớn trong nền kinh tế, có thể nói, là sự thể hiện rõ
ràng nhất của việc sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực về vốn. Và tất nhiên, khi
nguồn lực đã không được sử dụng một cách có hiệu quả thì môi trường đầu tư của
quốc gia đó cũng khó có thể được gọi là hấp dẫn nữa. Kết quả là nguồn vốn đầu tư
từ bên ngoài không tăng trưởng, quốc gia không có đủ số vốn cần thiết để đầu tư
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế và xã
hội. Một khi nền kinh tế bị thu hẹp vào nội bộ của một nước thì sẽ rất bất lợi cho

quốc gia đó trong bối cảnh các nước trên thế giới đang tiến nhanh tới toàn cầu hoá,
hội nhập kinh tế.
• Nợ tồn đọng khó đòi ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, thể hiện:
- Thứ nhất, nợ tồn đọng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc các
ngân hàng mất khả năng thanh toán, có nguy cơ rủi ro gây đổ vỡ ngân hàng. Hoạt
động của ngân hàng thực chất là việc sử dụng nguồn vốn tiền gửi của dân cư và
nguồn đi vay để tiến hành cho vay, đầu tư trở lại cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Khoản thu được từ những món đầu tư đó chính là nguồn ngân hàng thanh
toán cho các khản tiền tiết kiệm và các khoản ngân hàng đã đi vay, đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của ngân hàng. Khi việc cho vay, đầu tư của ngân hàng là không
hiệu quả, các khoản nợ tồn đọng khó đòi ngày càng nhiều, khả năng thanh toán của
ngân hàng sẽ bị yếu đi, và đến một lúc nào đó, ngân hàng không còn khả năng đáp
ứng được những đợt rút tiền ồ ạt của dân chúng, ngân hàng sẽ bị phá sản.
Trong điều kiện mỗi ngân hàng đều có quan hệ giao dịch, trao đổi với những
ngân hàng khác, mỗi ngân hàng đều giữ một vai trò nhất định trong cả bộ máy thì
chỉ cần một ngân hàng bị phá sản sẽ gây ảnh hưởng đến toàn hệ thống, thậm chí
trầm trọng hơn, có thể gây ra khủng hoảng tài chính – tiền tệ và gây ảnh hưởng
trực tiếp, nghiêm trọng đến đời sống kinh tế – xã hội của một quốc gia, làm suy
giảm uy tín và vị thế của quốc gia đó trên trường quốc tế. Vì vậy, nhìn chung, tuỳ
theo đặc điểm, tình hình từng nước mà có nước thành lập một tổ chức xử lý nợ tồn
đọng cho cả hệ thống, có nước chỉ thành lập riêng cho những ngân hàng mà sự sụp
đổ của nó có thể có tác động dây chuyền đến cả hệ thống.
- Thứ hai, việc mua bán nợ tồn đọng ngân hàng không chỉ giúp lành mạnh hoá, đảm
bảo khả năng thanh toán cho ngân hàng mà còn giúp các tổ chức tín dụng:
+) Đa dạng hoá các nghiệp vụ hoạt động: Bên cạnh những nghiệp vụ mà ngân
hàng vẫn thực hiện từ trước đến nay như huy động, cho vay, thanh toán,... thì nh
còn được thực hiện việc bán những khoản nợ cho các công ty, tổ chức khác trong
và ngoài ngành ngân hàng.
+) Khắc phục khó khăn về tài chính trong kinh doanh: Việc bán các khoản nợ tồn
đọng sẽ giải phóng một phần nguồn vốn đang bị ứ đọng tại những dự án đầu tư

không hiệu quả. Nguồn thu từ hoạt động bán nợ khó đòi này sẽ góp phần bù đắp
chi phí, đáp ứng yêu cầu về thanh khoản, tái tạo vốn đầu tư, giải quyết những khó
khăn về tài chính. Hơn nữa, với quy định trích lập quỹ dự phòng rủi ro cho các
khoản nợ quá hạn, các ngân hàng sẽ gánh một chi phí rất lớn trong trường hợp các
khoản nợ tồn đọng khó đòi phát sinh nhiều. Nhưng nếu ngân hàng được phép bán
nợ tồn đọng cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản xử lý thì sẽ không còn phải
trích lập dự phòng cho những khoản vay đó nữa, điều này sẽ giúp giảm bớt căng
thẳng về tài chính cho ngân hàng.
+) Mở rộng cho vay đối với khách hàng, tăng cường khả năng chuyển dịch cơ cấu
đầu tư: Với nguồn vốn có hạn, một khi đã đầu tư và khoản cho vay này thì ngân
hàng sẽ mất đi cơ hội đầu tư vào những hoạt động khác. Đặc biệt khi không thể thu
hồi lại được vốn từ những khoản vay không hoạt động (Non-performing Loans)
hoặc các tài sản có không sinh lời khác (Non-performing Assets) thì sự lãng phí sẽ
là rất lớn. Nhưng nếu có thể bán đi những khoản nợ tồn đọng, ngân hàng sẽ có thể
tiếp tục mở rộng hoạt động cho vay của mình, đầu tư vào những dự án, lĩnh vực có
triển vọng phát triển tốt. Cơ cấu đầu tư của ngân hàng cũng theo đó mà được thay
đổi linh hoạt hơn từ lĩnh vực rủi ro cao, tiềm năng phát triển sang những lĩnh vực
có khả năng sinh lời lớn hơn.
+) Khôi phục và mở rộng các mối quan hệ của tổ chức tín dụng: Việc mua bán các
khoản nợ tồn đọng khó đòi sẽ giúp làm sạch bảng tài sản của ngân hàng. Ngân
hàng sẽ được củng cố về mặt tài chính, được cơ cấu lại theo hướng hợp lý và lành
mạnh. Nhờ vậy tạo dựng lại được lòng tin và mối quan hệ với giới đầu tư, với dân
chúng cũng như những người gửi tiền. Hơn nữa, khả năng mở rộng cho vay đối
với khách hàng cũng sẽ giúp ngân hàng có được những mối quan hệ với khách
hàng mới, hứa hẹn tiềm năng phát triển của ngân hàng trong tương lai.
+) Quản lý rủi ro tín dụng: Cùng với các biện pháp quản lý và phòng ngừa rủi ro
khác, mua bán nợ tồn đọng sẽ giúp nh giữ cho tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của
mình trong phạm vị cho phép, xử lý những món cho vay không hiệu quả, tập trung
vào những khoản cho vay hiệu quả, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, ngăn
ngừa những rủi ro do tình trạng nợ đọng gây nên.

Như vậy, nợ tồn đọng là một vấn đề nhức nhối mà nhiều quốc gia cần phải
tập trung giải quyết triệt để. Các quốc gia đã áp dụng nhiều biện pháp truyền thống
để xử lý như: xử lý nội bộ, khoanh nợ chờ xử lý, xoá nợ, mua bán nợ giữa các nh...
nhưng hiệu quả không cao, không xử lý được dứt điểm và vì thế họ phải áp dụng
một phương thức đặc biệt là thành lập các công ty quản lý tài sản để xử lý nợ tồn
đọng của mình. Việc thành lập các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản để giải
quyết vấn đề nợ đọng khó đòi là hiệu quả và tiết kiệm chi phí hơn so với những
phương thức thông thường khác do:
Thứ nhất, các ngân hàng không có đủ nguồn lực và kỹ năng cần thiết để xử
lý các khoản nợ trong khi đó công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được chuyên
môn hoá để thực hiện công việc này. Xử lý nợ đọng đòi hỏi phải có một lượng vốn
không nhỏ. Hơn nữa, công việc này hết sức phức tạp, nó liên quan tới nhiều hoạt
động, nhiều ngành, cần có sự linh hoạt và những kỹ năng đặc biệt nhất định. Nếu
ngân hàng tập trung đáp ứng những yêu cầu đó để giải quyết nợ tồn đọng của mình
thì chi phí xử lý cũng như những khoản chi phí cơ hội của ngân hàng sẽ rất lớn.
Nhưng với công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được chuyên môn hoá thì hoạt
động này sẽ trở nên dễ dàng và tiết kiệm hơn.
Thứ hai, các ngân hàng bị hạn chế và thiếu quyền lực đặc biệt để xử lý nợ
trong khi công ty quản lý nợ và khai thác tài sản có thể thúc đẩy các thay đổi pháp
lý cần thiết. Như đã phân tích, hoạt động xử lý nợ liên quan tời nhiều nhánh luật
khác nhau, để tạo hành lang pháp lý đảm bảo cho sự thuận lợi và trôi chảy của công
việc thì đơn vị xử lý nợ phải được pháp luật trao cho những quyền lực đặc biệt. Do
vậy, nếu ngân hàng tự mình đứng ra xử lý mà không chuyển giao cho công ty quản
lý nợ và khai thác tài sản thì sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn về mặt pháp lý.
Thứ ba, các ngân hàng chỉ được áp dụng biện pháp duy nhất để thu hồi nợ là
bán đấu giá các tài sản thế chấp trong khi công ty quản lý nợ và khai thác tài sản có
thể tối đa hoá khả năng thu hồi nợ thông qua nhiều biện pháp. Các khoản nợ tồn
đọng khó đòi nếu chỉ được xử lý bằng một cách là bán tài sản thì chắc chắn sẽ
không tối đa hoá được giá trị thu hồi vì trong nhhiều trường hợp, đó không phải là
giải pháp tối ưu, chưa kể đến những khoản vay không có tài sản cầm cố, thế chấp

hay tài sản cầm cố, thế chấp có giá trị bằng 0. Nếu nợ tồn đọng được bán cho công
ty quản lý nợ và khai thác tài sản, công ty sẽ có thể xử lý một cách linh hoạt bằng
nhiều biện pháp khác nhau, do đó nâng cao được khả năng thu hồi giá trị từ khoản
vay.
1.2. Các mô hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Tuỳ theo điều kiện từng nước, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản có thể
do Nhà nước hoặc tư nhân sở hữu. Hiện nay trên thế giới tồn tại 5 loại hình công ty
quản lý nợ và khai thác tài sản. Đó là:
1. Các cơ quan xử lý trung ương (của Chính phủ): Chính phủ đứng ra thành
lập một cơ quan xử lý nợ tồn đọng cho cả hệ thống ngân hàng nói chung.
Đây là mô hình được áp dụng ở Malaysia, Hàn Quốc.
2. Các công ty quản lý tài sản riêng của từng ngân hàng: Các ngân hàng tự
đứng ra thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân
hàng mình với nhiệm vụ trọng yếu là giải quyết nợ đọng trước tiên cho bản
thân ngân hàng đó. Mô hình này được áp dụng ở Trung Quốc, Thái lan.
3. Các bên thứ ba được uỷ quyền theo hợp đồng, áp dụng tại Phần Lan
4. Bán nhanh, bán/chuyển nhượng khối lượng lớn: Tài sản có của những tổ
chức có nguy cơ đổ vỡ sẽ được bán, chuyển nhượng lại một phần hay toàn
bộ cho một tổ chức có tình hình tài chính lành mạnh... Mô hình này được áp
dụng ở Mỹ.
5. Ngân hàng thu nợ/toà thu nợ, áp dụng tại ấn Độ.
Trong các mô hình trên, theo ý kiến của các chuyên gia thì mô hình thứ nhất,
cơ quan xử lý trung ương, là có khả năng đạt mức độ thành công cao nhất. Nguyên
do là một mô hình cơ quan xử lý trung ương do Chính phủ thành lập được xem là
mang tính khả thi cao và theo hướng tiếp cận này Chính phủ sẽ đạt được nhiều mục
đích đồng thời.
Thứ nhất, Chính phủ thuận lợi trong việc thiết lập một phương tiện (công ty
quản lý nợ và khai thác tài sản) thuộc sở hữu của nhà nước cho việc mua tậu tài
sản, tối đa hoá giá trị của chúng và việc đem bán các tài sản đó cho các nhà đầu tư
sẽ dễ dàng hơn nhờ vào uy tín và sự bảo lãnh của Chính phủ.

Thứ hai, qua đó Chính phủ có thể có sự kiểm soát trung ương hoá đối với
chương trình tái cơ cấu chuyển nhượng dài hạn đối với các khoản vay không hoạt
động.
Thứ ba, Chính phủ có đủ năng lực để trao các đặc quyền cho các công ty
quản lý nợ và khai thác tài sản của mình để hỗ trợ cho việc chuyển giao các tài sản
hiệu quả cũng như cung cấp các cơ chế bên ngoài tư pháp để tạo các thuận lợi cho
việc giải quyết tranh tụng giữa các bên đi vay và bên cho vay, tạo cơ hội cho các
cuộc bán tài sản với giá trị tối đa thông qua việc thiết lập các cơ chế nhằm đảm bảo
quyền sở hữu vừa “sạch” vừa “sáng” đối với các tài sản và một cơ chế nhượng bán
minh bạch.
Tóm lại, với những đặc trưng trên có thể nói công ty quản lý tài sản là một
định chế đặc biệt có một không hai trong lịch sử.
1.3. Vai trò của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
1.3.1. Vai trò của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đối với ngân hàng.
Như trên đã trình bày, việc thành lập công ty quản lý tài sản là một tất yếu
khách quan đối với các nước kinh tế thị trường có tỷ lệ nợ quá hạn trên 5% hoặc
gặp các vấn đề nghiêm trọng về nợ tồn đọng. Công ty quản lý tài sản còn đóng một
vai trò quan trọng không thể thiếu được trong các chương trình quốc gia về cơ cấu
lại hệ thống ngân hàng, lành mạnh hoá hệ thống tài chính và là một phần trong
chương trình khôi phục hệ thống kinh tế.
Công ty được thành lập với các hoạt động chính là: mua lại nợ khó đòi tồn
đọng của các tổ chức tín dụng trên cơ sở giá thị trường; quản lý và xử lý các khoản
nợ này bằng các biện pháp và kỹ năng đặc biệt; quản lý và xử lý các tài sản thế
chấp, cầm cố gắn liền với các khoản nợ đã mua; tập trung vào việc bán tối đa hoá
giá trị ròng cao nhất trong một khoảng thời gian hợp lý, nhằm giảm thiểu tổn thất
cho quốc gia.
Với các nhiệm vụ trên, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đóng một vai
trò quan trọng trong việc cơ cấu lại ngân hàng. Cụ thể, công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản đóng vai trò chủ động, tích cực trong việc thúc đẩy phát triển khu vực
ngân hàng thông qua xử lý các khoản nợ xấu, làm lành mạnh tình hình tài chính của

các nh và cho phép các nh trở lại các hoạt động kinh doanh thương mại với chất
lượng hoạt động được cải thiện.
Ngoài mục đích cải thiện tình hình nợ xấu, nợ đọng, công ty quản lý nợ và
tài sản còn được thành lập với mục đích là để ngăn chặn khủng hoảng nh bằng cách
cung cấp một cơ chế cho các ngân hàng yếu kém bán tài sản có vấn đề để lấy tiền
hay giấy nhận nợ. Việc này giúp bơm tiền vào các ngân hàng, cải thiện khả năng
thanh toán của khu vực ngân hàng, trợ giúp các ngân hàng yếu kém quay trở lại
cách thức hoạt động cho vay thận trọng, làm cho các ngân hàng thương mại thoát
khỏi gánh nặng xử lý các khoản vay có vấn đề, đồng thời cải thiện được tỷ lệ vốn
đối với ngân hàng, tuỳ thuộc vào việc trích lập dự phòng ban đầu và giá trị bán tài
sản thu được để hệ thống ngân hàng thu hồi được vốn tiếp tục quay vòng phục vụ
các doanh nghiệp, tăng lợi nhuận, giảm chi phí, ngăn ngừa các nguy cơ đổ vỡ cục
bộ trong hệ thống.
Như vậy, bằng các biện pháp kỹ năng đặc biệt của mình trong việc xử lý nợ
và tồn đọng ngân hàng, các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản ngân hàng đã
giúp lành mạnh hoá hoạt động của các ngân hàng, góp phần cơ cấu lại hệ thống
ngân hàng một cách hiệu quả. Có thể nói thành lập công ty quản lý nợ và khai thác
tài sản chính là một phần thiết yếu quan trọng trong chương trình cơ cấu lại các
ngân hàng.
1.3.2. Đối với nền kinh tế.
Trong nền kinh tế, hệ thống tài chính – ngân hàng đóng một vai trò vô cùng
quan trọng, sự tăng trưởng hay suy yếu của nền kinh tế được thể hiện qua sự hùng
mạnh hay yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng. Ngược lại, sức khỏe của hệ
thống ngân hàng cũng xẽ có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của nền kinh tế. Vì thế,
công ty quản lý nợ và khai thác tài sản giúp lành mạnh hoá hoạt động ngân hàng
cũng chính là giúp tăng cường sức mạnh, lành mạnh hoá các hoạt động của nền
kinh tế. (Điều này càng được thể hiện rõ hơn qua việc các quốc gia khắc phục
những hậu quả do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ gây ra. Để khôi phục, cơ cấu
lại kinh tế, một trong những biện pháp quan trọng trước tiên các quốc gia đã làm là
tiến hành cơ cấu, phục hồi lại sức mạnh cho hệ thống ngân hàng với biện pháp

thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản để xử lý các khoản nợ khó đòi
khổng lồ.) Nền kinh tế tăng trưởng bền vững, ổn định chính là một trong những yếu

×