Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Xử lý tình huống khiếu nại liên quan đến các hành vi quản lý nhà nước về đất đai và tranh chấp đất đai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.74 KB, 18 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Quản lý hành chính Nhà nước được xem là một hoạt động thực thi quyền
hành pháp trong việc chấp hành và điều hành của các cơ quan hành chính Nhà
nước đối với các chủ thể quản lý và các quá trình xã hội, cũng như hành vi hoạt
động của con người, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người và duy trì sự
ổn định, phát triển của xã hội theo một trật tự pháp luật. Do đó đòi hỏi đội ngũ cán
bộ, công chức, nhất là công chức lãnh đạo phải có năng lực, trình độ, hiểu biết
pháp luật, nắm bắt kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cùng
với tinh thần, trách nhiệm để xử lý, giải quyết nhiều vấn đề phát sinh trong hoạt
động quản lý, hướng tới xây dựng “Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
dân và vì nhân dân”, với mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ và văn minh”.
Trong công tác quản lý nhà nước, hiện nay lĩnh vực đất đai là vấn đề rất
nhạy cảm, phức tạp, bởi vì đất đai là tài nguyên vô cùng quí giá, là tư liệu sản xuất
đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân
bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa-xã hội, an ninh-quốc
phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo
lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày nay.
Hiện nay, việc quản lý đất đai đã và đang là một trong những vấn đề mang
tính thời sự nóng bỏng mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm ưu tiên hàng đầu. Qua
từng thời kỳ cách mạng, chính sách đất đai của Nhà nước ta cũng trên cơ sở đó mà
có những thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước. Nhất là trong
công cuộc đổi mới hiện nay, để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa-
hiện đại hóa đất nước thì vấn đề đất đai, hơn lúc nào hết cần phải có những sữa
đổi, bổ sung nhằm giúp các quan hệ về đất đai vận động và phát triển.
Thực tế cho thấy, những năm gần đây việc khiếu nại, tố cáo của công dân,
về tranh chấp đất đai, đòi lại đất diễn ra ngày càng nhiều và có chiều hướng gia
tăng, nội dung vụ việc có nhiều tình tiết phước tạp. Nguyên nhân của những khiếu
nại trên phần lớn là do nhân dân thiếu hiểu biết về Luật đất đai và các văn bản của
Nhà nước liên quan đến lĩnh vực đất đai, bên cạnh đó cũng có không ít những
trường hợp các cơ quan có thẩm quyền đã thực hiện chưa đúng chức năng, trách


Tiểu luận cuôi khóa. Lớp Bồi dưỡng kiến thức QLNN – Chương trình chuyên viên khóa III năm 2008.
nhiệm quản lý đất đai dẫn đến nhiều vụ kiện rắc rối, kéo dài làm giảm sút lòng tin
của nhân dân đối với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Do đó đòi hỏi các các cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực này phải thực
hiện tốt việc tiếp dân, tích cực giải quyết tốt các kiến nghị, khiếu nại của công dân,
phải thật sự là “người đầy tớ trung thành” của nhân dân, coi đây là nhiệm vụ thiết
thực để đảm bảo quyền dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Nhìn chung, thời gian qua các cấp chính quyền, cơ quan hành chính Nhà
nước đã có những bước chuyển biến tích cực, có sự quan tâm rõ nét, giải quyết kịp
thời các vụ khiếu kiện, ban hành các Quyết định đúng pháp luật, phù hợp với tình
hình thực tế và được nhân dân đồng tình ủng hộ. Song bên cạnh những mặt đã làm
được, vẫn còn một số nơi các cơ quan, ban, ngành và nhất là một số địa phương
chưa làm tròn trách nhiệm của mình, chưa thật sự tôn trọng, lắng nghe và nắm bắt
thông tin từ nhân dân, dẫn đến một số vụ kiện các cơ quan chức năng xử lý thiếu
khách quan, xử lý trên cơ sở có “tình” mà không có “lý” hoặc ngược lại nên các
bên đương sự không thi hành mà tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến cấp cao hơn.
Trên cơ sở kiến thức Quản lý hành chính Nhà nước được tiếp thu tại lớp và
được sự cho phép của Nhà trường, tôi chọn đề tài “Xử lý tình huống khiếu nại
liên quan đến các hành vi quản lý nhà nước về đất đai và tranh chấp đất đai”.
Hy vọng đề tài này phần nào phản ánh thực trạng hoạt động quản lý hành chính
Nhà nước ở một cơ quan hành chính nhà nước và một số địa phương; hướng xử lý,
giải quyết khi phát sinh một vấn đề quản lý cũng như phát sinh khiếu nại của công
dân.
Bố cục phần viết được chia làm 6 phần:
1. Mô tả tình huống
2. Mục tiêu tình huống
3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả
4. Xây dựng phương án và lựa chọn phương án.
5. Tổ chức thực hiện
6. Kết luận và kiến nghị.

Giáo viên HD: Trần Duy Linh Học viên TH: Huỳnh Đức Oanh
2
Tiểu luận cuôi khóa. Lớp Bồi dưỡng kiến thức QLNN – Chương trình chuyên viên khóa III năm 2008.
Đề tài được thực hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp, nhiệt tình của thầy giáo
Trần Duy Linh – Phó Trưởng khoa Nhà nước và pháp luật, Trường Chính trị
tỉnh Quảng Ngãi.
Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân đã có nhiều nỗ lực, cố gắng,
nhưng chắc chắn phần viết còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Rất mong sự đóng góp,
chỉ bảo của Thầy giáo hướng dẫn cùng quí thầy cô của nhà trường để phần viết
thêm súc tích, thiết thực và đầy đủ hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Bình Sơn, ngày 25 tháng 02 năm 2009
Giáo viên HD: Trần Duy Linh Học viên TH: Huỳnh Đức Oanh
3
Tiểu luận cuôi khóa. Lớp Bồi dưỡng kiến thức QLNN – Chương trình chuyên viên khóa III năm 2008.
B. PHẦN NỘI DUNG
1. Mô tả tình huống:
a, Tóm tắt nhân thân và nội dung đơn khiếu nại của bà Hồ Thị T, ở Tổ
dân phố 3, thị trấn C:
Bà Hồ Thị T, sinh năm 1937, ở thôn An Châu, xã Bình T, huyện BS, tỉnh
QN (con ông Hồ Nguyên B và bà Đoàn Thị T); hiện đang sống ở Tổ dân phố 3, thị
trấn C, huyện BS, tỉnh QN, có nội dung khiếu nại như sau:
Bà T khiếu nại đòi quyền sử dụng 1923 m
2
đất, tại thửa đất số 925 và 926, tờ
bản đồ số 2, xã Bình T, có nguồn gốc là thổ cư của cha mẹ Bà để lại tại thôn An
Châu, xã Bình T (hiện nay do Trường Mẫu giáo thôn An Châu quản lý, sử dụng)
với các lý do: Năm 1977, ông Lê Sở, lúc bấy giờ là Đội trưởng sản xuất số 2 của
Hợp tác xã nông nghiệp Bình T (cũ) đến hỏi mượn đất để làm trại chứa phân của
HTX, Bà đồng ý cho mượn, đến năm 1979 ông Sở trả lại, gia đình Bà và ông Trịnh

Tiếp cùng hợp tác sản xuất hoa màu đến năm 1981. Năm 1982, ông Trần Văn Sửu-
Chủ tịch UBND xã Bình T yêu cầu Bà ký giao cho chính quyền, Bà không đồng ý
nhưng chính quyền vẫn thực hiện thu (không lập bằng văn bản). Từ đó Bà đã khiếu
nại nhưng không được xem xét giải quyết kéo dài đến nay.
Bà Hồ Thị T cho rằng: Nguyện vọng của Bà là đề nghị cấp có thẩm quyền
xem xét trả lại khu vườn cho gia đình Bà. Nếu nguyện vọng trên không được giải
quyết thì trả lại một phần diện tích khu vườn gồm có giếng nước, mồ mả và các tài
sản có trên đất để Bà xây dựng nhà thờ.
b, Quá trình xem xét, giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền:
Năm 2002, bà Hồ Thị T phát sinh đơn khiếu nại đến UBND huyện BS,
khiếu nại của bà T được Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện xem xét trả lời tại
Công văn số 55/TNMT ngày 04/4/2003 khẳng định: “nội dung đơn thỉnh cầu của
bà Hồ Thị T đòi lại đất do cha mẹ Bà để lại là trái với pháp luật về đất đai hiện
hành”. Bà T không đồng ý với nội dung trả lời của Phòng TNMT, tiếp tục khiếu
nại đến UBND huyện. Ngày 24/9/2003, UBND huyện BS ban hành Quyết định số
1792/QĐ-UB giao Trưởng phòng Tài nguyên - Môi trường huyện xác minh, kết
luận và đề xuất biện pháp giải quyết khiếu nại vụ việc tranh chấp đất thổ cư trên.
Giáo viên HD: Trần Duy Linh Học viên TH: Huỳnh Đức Oanh
4
Tiểu luận cuôi khóa. Lớp Bồi dưỡng kiến thức QLNN – Chương trình chuyên viên khóa III năm 2008.
Ngày 18/02/2004, Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện có Báo cáo số
32/BC-TNMT về kết quả thẩm tra xác minh và có đề xuất Chủ tịch UBND huyện
với nội dung: Thửa đất số 925 và 926 tờ bản đồ số 2, xã Bình T trước năm 1975
chung một thửa đất, nguồn gốc của cha mẹ bà T sử dụng và lưu hạ cho Bà từ trước
năm 1975. Từ năm 1975 - 1982 bà T vẫn tiếp tục sử dụng. Từ năm 1982 đến nay
UBND xã Bình T trưng thu làm trại họp đội và xây dựng Trường Mẫu giáo, khi
thu hồi chỉ nói bằng miệng, không có Quyết định hoặc văn bản thu hồi của UBND
xã Bình T. Bà T không chấp nhận giao đất và khiếu kiện đến nay chưa được cơ
quan có thẩm quyền giải quyết. Hiện nay tại thửa đất 925, diện tích 734 m
2

là đất
màu, UBND xã quản lý cho mượn để sản xuất chưa xây dựng công trình trên đất.
Thửa 926 diện tích 1.189 m
2
UBND xã đã xây dựng Trường Mẫu giáo và đã đăng
ký theo Chỉ thị 245/TTg; cũng trong thửa đất 926 có hai ngôi mộ xây dựng cơ bản
của cha bà T là ông Hồ Nguyên B và ông cố bà T là ông Hồ Bạch V và một cái
giếng nước đã có từ trước năm 1975.
Đối với UBND xã Bình T cũng không thể sử dụng hết diện tích của hai thửa
đất 925 và 926 mà nên công nhận quyền sử dụng cho bà T một phần đất để bà T
xây dựng nhà thờ và chăm nom mồ mả họ tộc là phù hợp với đạo lý của dân tộc
Việt Nam.
Từ những kết luận trên, Phòng TNMT huyện kiến nghị: Lấy tổng diện tích
của hai thửa đất là 1923 m
2
chia hai, công nhận quyền sử dụng đất cho bà T là 957
m
2
tại thửa đất số 925, tờ bản đồ số 2, xã Bình T; vì hiện nay có hai ngôi mộ của
cha và ông cố bà T nằm trong thửa đất 926 sát thửa 925 để bà T có điều kiện bảo
vệ, trông coi mồ mả và xây dựng nhà thờ họ tộc. Diện tích còn lại của thửa đất là
966 m
2
, UBND xã Bình T quản lý, sử dụng vì trong thửa đất này đã có Trường
Mẫu giáo thôn An Châu, hiện nay đang sử dụng dạy học cho học sinh.
Sau Báo cáo số 32/BC-TNMT ngày 18/02/2004 của Phòng TNMT huyện,
lãnh đạo huyện BS và xã Bình T đã có cuộc họp ngày 04/5/2004 bàn biện pháp
giải quyết yêu cầu của bà T. Tham dự cuộc họp có ông Lê Văn K (Bí thư Đảng ủy
xã) và ông Nguyễn Thanh V (Chủ tịch UBND xã) đã “thống nhất giao trả diện
tích đất vườn của bà Hồ Thị T. Vận động bà T đóng góp cho UBND xã Bình T số

tiền từ 35 triệu đến 40 triệu để UBND xã xây dựng Trường Mẫu giáo cho con em
xã Bình T học hành”. Tại cuộc họp này, Chủ tịch UBND huyện BS kết luận “giao
Giáo viên HD: Trần Duy Linh Học viên TH: Huỳnh Đức Oanh
5
Tiểu luận cuôi khóa. Lớp Bồi dưỡng kiến thức QLNN – Chương trình chuyên viên khóa III năm 2008.
cho Văn phòng HĐND&UBND huyện và Phòng TNMT huyện tổ chức buổi làm
việc với bà T nhằm vận động thực hiện yêu cầu của lãnh đạo xã Bình T”.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch UBND huyện, ngày 11/5/2004 Phòng
TNMT, Văn phòng HĐND&UBND huyện, Bí thư Đảng ủy xã và Chủ tịch UBND
xã Bình T đã làm việc với bà Hồ Thị T và thống nhất “bà T có trách nhiệm hỗ trợ
cho UBND xã Bình T số tiền 30 triệu đồng. UBND xã Bình T giao lại toàn bộ diện
tích 1923 m
2
đất, tại thửa đất số 925 và 926, tờ bản đồ số 2, xã Bình T, kể cả
Trường Mẫu giáo hiện có trên thửa 926, UBND xã cũng giao cho bà T quản lý, sử
dụng. Thời gian bà Hồ Thị T nộp tiền cho bà UBND xã Bình T chậm nhất trước
ngày 15/5/2004. Thời gian UBND xã Bình T bàn giao Trường Mẫu giáo cho bà T
trước ngày 30/8/2004. Về diện tích 1923 m
2
bà T có trách nhiệm đến UBND xã
Bình T đăng ký kê khai quyền sử dụng đất theo biểu mẫu qui định, UBND xã Bình
T trình UBND huyện công nhận quyền sử dụng đất cho bà T trước ngày
30/5/2004”.
Ngày 12/5/2004, bà T đã nộp đủ 30 triệu đồng vào ngân sách của xã Bình T.
Đến ngày 13/5/2004, Bí thư Đảng ủy xã và Chủ tịch UBND xã Bình T đồng ký
Báo cáo số 03/BC-ĐN đề nghị “tạm dừng thực hiện biên bản làm việc ngày
11/5/2004 với lý do: chính quyền địa phương chưa thống nhất, thiếu dân chủ và
minh bạch. Đề nghị UBND huyện chủ trì và tổ chức họp rộng rãi, gồm các thành
phần ở địa phương; toàn bộ Ban chấp hành Đảng ủy, thành viên UBND xã và
UBMTTQVN xã để tham dự và khách quan hơn”.

Tiếp đến ngày 31/5/2004, Đảng ủy xã, HĐND, UBND, UBMTTQVN xã có
kiến nghị số 29/KN-UB về việc không thực hiện nội dung cuộc hòa giải giữa đồng
chí Lê Văn K - Bí thư Đảng ủy xã và đồng chí Nguyễn Thanh V - Chủ tịch UBND
xã với bà Hồ Thị T ngày 11/5/2004 với lý do: Ông Lê Văn K – Bí thư Đảng ủy và
ông Nguyễn Thanh V - Chủ tịch UBND xã ký trong biên bản hòa giải là quan điểm
cá nhân của hai ông, chưa qua bàn bạc tập thể. Tập thể không thống nhất cách
giải quyết trên. Đất bà T đòi lại là không đúng theo Luật Đất đai qui định vì từ
năm 1977 đất này không có người quản lý và sử dụng, nên địa phương đã đưa vào
xây dựng trại phân, sau đó xây dựng nhà họp đội sản xuất và chuyển sang xây
dựng Trường Mẫu giáo cho đến bây giờ. Nếu giải quyết trả lại đất cho bà T sẽ gây
xáo trộn lớn ở địa phương sẽ có nhiều người tiếp tục gửi đơn đòi lại đất, hậu quả
sẽ khó lường trước (có thể xảy ra điểm nóng).
Giáo viên HD: Trần Duy Linh Học viên TH: Huỳnh Đức Oanh
6
Tiểu luận cuôi khóa. Lớp Bồi dưỡng kiến thức QLNN – Chương trình chuyên viên khóa III năm 2008.
Ngày 08/6/2004, UBND xã Bình T có Báo cáo số 31/BC-UB báo cáo
UBND huyện BS về việc không thực thi biên bản hòa giải giữa bà Hồ Thị T và
UBND xã Bình T.
Mãi đến ngày 11/4/2005 Hội đồng tư vấn xử lý hành chính của huyện tổ
chức cuộc họp để xem xét vụ việc này. Tại cuộc họp, Bí thư Đảng ủy xã và Chủ
tịch UBND xã Bình T một lần nữa vẫn đề nghị UBND huyện nên trưng cầu ý kiến
của đảng viên và nhân dân địa phương; Phòng TNMT huyện đề nghị chuyển
UBND tỉnh giải quyết theo thẩm quyền của Luật Đất đai năm 2003 qui định. Kết
luận của Chủ tọa cuộc họp: chuyển UBND tỉnh giải quyết theo thẩm quyền.
Ngày 09/5/2005, UBND huyện BS có Báo cáo số 34/BC-UB báo cáo UBND
tỉnh “về vụ tranh chấp quyền sử dụng đất giữa cá nhân với tổ chức, để UBND tỉnh
giải quyết theo thẩm quyền” nêu rõ: Căn cứ Luật Đất đai năm 2003 và khoản 2
Điều 160 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ, UBND
huyện BS không đủ thẩm quyền ban hành Quyết định giải quyết tranh chấp quyền
sử dụng đất giữa bà Hồ Thị T với UBND xã Bình T.

Từ những diễn biến nêu trên nên bà Hồ Thị T tiếp tục khiếu nại lên cấp cao
hơn.
2. Mục tiêu tình huống:
- Ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại của bà Hồ Thị T đảm bảo theo
qui định của pháp luật, đồng thời đảm bảo hài hòa giữa lợi ích nhà nước với lợi ích
của công dân, của tập thể, đảm bảo sự hợp lý, hợp tình trong việc giải quyết vụ
việc.
- Kịp thời lập đầy đủ hồ sơ, thủ tục cần thiết trình cấp có thẩm quyền cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Trường Mẫu giáo thôn An Châu, xã Bình
T, huyện BS, tỉnh QN.
- Khắc phục được tình trạng đòi lại đất cũ của ông, bà lưu hạ trên địa bàn
huyện trong tình hình hiện nay.
- Đảm bảo tăng cường pháp chế XHCN trong lĩnh vực quản lý nhà nước về
đất đai tại địa phương.
- Ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương.
Giáo viên HD: Trần Duy Linh Học viên TH: Huỳnh Đức Oanh
7
Tiểu luận cuôi khóa. Lớp Bồi dưỡng kiến thức QLNN – Chương trình chuyên viên khóa III năm 2008.
3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả:
3.1. Nhận thấy:
Về tính chất thì đây là việc bà Hồ Thị T khiếu nại đòi quyền sử dụng đất có
nguồn gốc cũ của gia đình Bà thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND huyện BS;
việc xác định đây là vụ tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà Hồ Thị T với UBND
xã Bình T để chuyển lên UBND tỉnh là không đúng tính chất vụ việc; vì quan hệ
giữa UBND xã Bình T với bà Hồ Thị T trong trường hợp này là quan hệ quản lý
hành chính nhà nước về đất đai mà bà T khiếu nại các hành vi quản lý nhà nước về
đất đai của UBND xã Bình T trước đây chưa đúng, gây thiệt hại cho Bà và hiện
nay Bà đề nghị UBND huyện là cơ quan có thẩm quyền công nhận quyền sử dụng
toàn bộ diện tích đất nêu trên cho Bà theo pháp luật đất đai hiện hành.
Qua tình huống trên, ta thấy toàn bộ diện tích đất của ông Hồ Nguyên B (cha

bà T) lưu hạ tại thôn An Châu, xã Bình T gồm thửa 505 diện tích 04 sào 01 thước
và thửa 448 diện tích 07 sào 01 thước (theo số hiệu cũ), hiện nay là số thửa 925 và
926, tờ bản đồ số 2, xã Bình T đều được chính quyền xã Bình T quản lý, giao cho
Hợp tác xã nông nghiệp Bình T sử dụng từ năm 1977, khi Hợp tác xã nông nghiệp
Bình T vừa mới thành lập.
Theo trình bày của Bí thư Đảng ủy và Chủ tịch UBND xã Bình T thì việc xã
quản lý thửa đất thổ cư của gia đình bà T vào năm 1977 là chấp hành Chỉ thị số 08
của Huyện ủy Bình Sơn lúc đó (nay không còn lưu giữ), là thu hồi toàn bộ những
người có đất vườn mà không có nhà ở để đưa vào sử dụng tập thể. Lúc đó hộ bà T
là hộ thương nghiệp đã có vườn nhà ở riêng, vườn cha mẹ để lại cho Bà không có
nhà ở nên xã cũng thu hồi giao cho Hợp tác xã nông nghiệp Bình T sử dụng. Khi
chính quyền quản lý thửa đất thổ cư số hiệu 505 (cũ) trên đất hoàn toàn không có
nhà ở; đất đang sử dụng vào mục đích nông nghiệp, người đang trực tiếp sản xuất
trên đất là ông Trịnh Tiếp (người ở liền kề khu vườn).
Qua diễn biến việc sử dụng cho thấy từ năm 1977 đến nay, toàn bộ phần đất
mà bà T khiếu nại đòi công nhận quyền sử dụng đã được chính quyền xã Bình T
bố trí sử dụng vào việc công; đã kê khai, đăng ký quyền sử dụng theo quy định của
pháp luật đất đai.
Việc bà T trình bày và được ông Lê Sở xác nhận rằng: Năm 1977 ông Sở là
Đội trưởng sản xuất mượn đất thổ cư của gia đình Bà T để xây dựng trại phân, đến
Giáo viên HD: Trần Duy Linh Học viên TH: Huỳnh Đức Oanh
8
Tiểu luận cuôi khóa. Lớp Bồi dưỡng kiến thức QLNN – Chương trình chuyên viên khóa III năm 2008.
năm 1979 thì trả lại cho Bà sản xuất đến năm 1982 chính quyền xã Bình T cưỡng
ép để lấy đất làm nhà họp Đội là không đúng vì lời khai hai bên không giống nhau
và những cán bộ có trách nhiệm của xã Bình T lúc bấy giờ xác định lời khai của
ông Sở là không có căn cứ.
Việc Phòng Tài nguyên - Môi trường kết luận từ năm 1975 đến năm 1982 bà
T vẫn trực tiếp quản lý canh tác thửa đất, đến năm 1982 xã Bình T mới trưng dụng
quản lý diện tích đất này là không chính xác.

Bà Hồ Thị T trình bày rằng đã phát sinh đơn khiếu nại đòi quyền sử dụng
thửa đất từ năm 1982, nhưng không có bằng chứng xác đáng để khẳng định việc
xác nhận của ông Lâm Văn T không đủ cơ sở để công nhận. Theo hồ sơ thì bà Hồ
Thị T phát sinh khiếu nại từ năm 1996.
Tại thời điểm năm 1977 bà Hồ Thị T đã có vườn nhà ở riêng với chồng con
tại Tổ dân phố 3, thị trấn C và là hộ kinh doanh thương nghiệp; thửa đất có số hiệu
505 nguyên là thổ cư của ông Hồ Nguyên B lưu hạ lại, đến lúc này không còn nhà
ở; hộ bà T lúc đó cũng không đủ điều kiện trực canh, mà để lại cho ông Trịnh Tiếp
canh tác. Căn cứ vào Quyết định số 188/CP ngày 25/9/1976 của Hội đồng Chính
phủ về chính sách xóa bỏ triệt để tàn tích chiếm hữu ruộng đất và các hình thức
bóc lột của thực dân phong kiến ở Miền Nam Việt Nam nêu rằng: “Vận động
….tiểu chủ … sống ở đô thị có ruộng đất phát canh thu tô hiến ruộng. Nếu họ
không hiến hoặc hiến không hết thì UBND thành phố, tỉnh ra lệnh trưng thu hoặc
trưng mua tùy theo thái độ chính trị của mỗi người. Gia đình nào chuyển về làm
ăn, sinh sống ở nông thôn thì chính quyền và Nông hội để lại cho họ một phần
ruộng đất theo mức bình quân nhân khẩu của nông dân trong nông thôn, xã” và
thực tiễn thi hành chính sách vận động đưa ruộng đất vào Hợp tác xã nông nghiệp
Bình T nói riêng và ở tỉnh QN nói chung thì việc UBND xã Bình T quản lý, sử
dụng thửa đất nêu trên là có cơ sở, phù hợp với chính sách, thực tiễn lúc đó. Bà T
cũng đã chấp nhận tuân theo chính sách chung. Đến khi đổi mới, chính sách có
thay đổi, năm 1996 bà T mới phát sinh đơn đòi lại quyền sử dụng. Vì vậy, hiện nay
không thể xem xét yếu tố không có Quyết định thu hồi của cơ quan có thẩm quyền
để cho rằng việc quản lý đó là không đúng để hoàn trả đất cho bà T.
Thửa đất có diện tích 1923 m
2
nhưng chỉ mới bố trí cho một Trường Mẫu
giáo thôn An Châu nên Trường còn để nhiều diện tích bỏ trống; Trường Mẫu giáo
thôn An Châu cũng chưa được cơ quan có thẩm quyền công nhận quyền sử dụng
Giáo viên HD: Trần Duy Linh Học viên TH: Huỳnh Đức Oanh
9

Tiểu luận cuôi khóa. Lớp Bồi dưỡng kiến thức QLNN – Chương trình chuyên viên khóa III năm 2008.
đất. Do đó, UBND xã Bình T cần rà soát lại quy hoạch sử dụng đất tại vị trí nêu
trên, xác định vị trí cần thiết để bố trí cho Trường đủ tiêu chuẩn mặt bằng; diện
tích còn lại thì có thể xem xét, vận dụng công nhận cho bà Hồ Thị T (vì nhà nước
chưa giao cho người khác sử dụng); diện tích cụ thể phân định công nhận cho
Trường và cho bà T do UBND huyện BS xem xét và quyết định; phần đất công
nhận cho Trường, UBND huyện cần trình UBND tỉnh QN quyết định trước khi
UBND huyện BS công nhận phần đất còn lại cho bà T.
3.2. Nguyên nhân:
Quá trình khiếu kiện về đất đai của bà Hồ Thị T đến các cấp có thẩm quyền
do nhiều nguyên nhân, trong đó có thể nêu lên một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Thứ nhất: Do công tác quản lý đất đai của các cấp, các ngành chức năng ở
địa phương từ huyện đến cơ sở còn buông lỏng, thiếu chặt chẽ; việc rà soát, cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân còn nhiều
hạn chế, chưa kịp thời nên dẫn đến sự khiếu nại của công dân đến cơ quan hành
chính nhà nước.
- Thứ hai: Việc tham mưu của Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện BS
cho UBND huyện trong quá trình giải quyết, xử lý vụ việc này chưa chặt chẽ, thiếu
nhất quán trong việc xem xét, đánh giá, kết luận, kiến nghị biện pháp giải quyết,
nên dẫn đến việc khiếu nại của công dân còn kéo dài.
- Thứ ba: Việc UBND huyện BS cho chủ trương hòa giải giữa UBND xã
Bình T với bà Hồ Thị T không có cơ sở pháp lý nên dẫn đến sự phản ứng của
Đảng bộ xã Bình T và UBND huyện BS không thể đưa ra Quyết định, ảnh hưởng
đến kỷ cương nhà nước; bà T có cớ để đưa ra yêu cầu phải thực hiện đúng biên bản
hòa giải ngày 11/5/2004 và tiếp tục khiếu nại lên cấp trên.
3.3. Hậu quả:
Do cán bộ, công chức không làm tròn trách nhiệm của mình trong việc tham
mưu giải quyết dứt điểm khiếu kiện của bà Hồ Thị T; việc đề xuất, kiến nghị còn
dựa trên cảm tính, chưa áp dụng cơ bản các qui định của pháp luật về đất đai để
tham mưu giải quyết nên công dân có cớ để tiếp khiếu; làm mất uy tín của cơ quan

nhà nước, giảm sút lòng tin của nhân dân đối với các cấp chính quyền, làm suy
giảm tính pháp lý của pháp luật, pháp chế XHCN, kỷ cương phép nước không
được thực hiện nghiêm túc.
Giáo viên HD: Trần Duy Linh Học viên TH: Huỳnh Đức Oanh
10
Tiểu luận cuôi khóa. Lớp Bồi dưỡng kiến thức QLNN – Chương trình chuyên viên khóa III năm 2008.
Một khi sự việc khiếu kiện của bà Hồ Thị T liên quan đến hai thửa đất nêu
trên không được giải quyết dứt điểm theo hướng thấu tình, đạt lý thì việc khiếu
kiện sẽ kéo dài, làm ảnh hưởng đến vấn đề dạy và học ở Trường Mẫu giáo thôn An
Châu, dư luận nhân dân có nhiều vấn đề phức tạp, gây mất ổn định tình hình an
ninh trật tự tại địa bàn khu dân cư và trên địa bàn của xã Bình T.
4. Xây dựng phương án và lựa chọn phương án:
* Phương án 1:
Trong tổng diện tích 1.923 m
2
của thửa đất số 925 và 925, tờ bản đồ số 2
(nay gộp chung là thửa đất số 48, loại đất CD/K, tờ bản đồ số 5, bản đồ đo mới
năm 2003, xã Bình T) thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cụ thể là UBND
xã Bình T và Phòng TNMT huyện phối hợp với nhau) tiến hành lập các thủ tục cần
thiết để đề nghị công nhận quyền sử dụng đất cho Trường Mẫu giáo thôn An Châu;
ngoài phạm vi diện tích công nhận cho Trường Mẫu giáo, UBND huyện xem xét
Quyết định công nhận quyền sử dụng cho bà Hồ Thị T theo thẩm quyền (nếu còn
diện tích đất).
+ Ưu điểm:
- Không gây xáo trộn lớn về tình hình khiếu nại, đòi lại quyền sử dụng đất
trước đây tại địa phương.
- Giải quyết nhanh, dứt điểm được việc khiếu nại của bà Hồ Thị T; vì phù
hợp với nguyện vọng trước đây của bà T là trả lại một phần diện tích khu vườn
gồm có giếng nước, mồ mả và các tài sản có trên đất để Bà xây dựng nhà thờ.
- Vụ việc được giải quyết một cách hợp tình, hợp lý, phù hợp, hài hòa giữa

lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân với nhau.
+ Nhược điểm:
- Chưa áp dụng triệt để pháp luật về đất đai để giải quyết vụ việc.
- Việc giải quyết còn hướng về tình cảm, phong tục tập quán (để làm nhà
thờ).
* Phương án 2:
Giáo viên HD: Trần Duy Linh Học viên TH: Huỳnh Đức Oanh
11
Tiểu luận cuôi khóa. Lớp Bồi dưỡng kiến thức QLNN – Chương trình chuyên viên khóa III năm 2008.
- Toàn bộ diện tích 1.923 m
2
của thửa đất số 925 và 925, tờ bản đồ số 2, xã
Bình T: Lập các thủ tục để trình cấp có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho Trường Mẫu giáo thôn An Châu, xã Bình T, nhằm xây dựng, tu sửa
lại Trường Mẫu giáo khang trang hơn phục vụ cho việc dạy học của con em tại địa
phương.
- Ra Quyết định bác đơn khiếu nại của bà Hồ Thị T, vì trường hợp đòi lại
đất của gia đình Bà là không phù hợp với qui định của pháp luật về đất đai, cụ thể
là sau thời gian đất nước hoàn toàn giải phóng, lúc này hộ gia đình bà Hồ Thị T là
hộ thương nghiệp, làm ăn, sinh sống bằng nghề buôn bán tại thị trấn C, huyện BS
nên căn cứ vào Quyết định số 188/CP ngày 25/9/1976 của Hội đồng Chính phủ về
chính sách xóa bỏ triệt để tàn tích chiếm hữu ruộng đất và các hình thức bóc lột
của thực dân phong kiến ở Miền Nam Việt Nam nêu rằng: “Vận động ….tiểu chủ
… sống ở đô thị có ruộng đất phát canh thu tô hiến ruộng. Nếu họ không hiến
hoặc hiến không hết thì UBND thành phố, tỉnh ra lệnh trưng thu hoặc trưng mua
tùy theo thái độ chính trị của mỗi người. Gia đình nào chuyển về làm ăn, sinh sống
ở nông thôn thì chính quyền và Nông hội để lại cho họ một phần ruộng đất theo
mức bình quân nhân khẩu của nông dân trong nông thôn, xã. Bên cạnh đó bà Hồ
Thị T không cung cấp được bất cứ tài liệu nào có liên quan đến việc kê khai, đăng
ký và nộp thuế cho Nhà nước từ năm 1975 đến nay đối với hai thửa đất mà Bà

khiếu nại.
+ Ưu điểm:
- Giải quyết dứt điểm được việc khiếu nại của bà Hồ Thị T; ổn định được
tình hình khiếu nại, khiếu kiện phức tạp, nóng hiện nay về tình hình tranh chấp, đòi
lại đất ông bà trên địa bàn huyện.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về lĩnh vực đất đai tại địa
phương, đảm bảo pháp chế XHCN.
+ Nhược điểm:
- Vụ việc chưa được giải quyết một cách thấu lý, đạt tình.
- Công dân có thể khiếu nại lên cấp trên cao hơn hoặc khởi kiện ra Tòa án
gây kéo dài, đồng thời công tác thu hồi, sử dụng đất của địa phương có thể khó
khăn.
Giáo viên HD: Trần Duy Linh Học viên TH: Huỳnh Đức Oanh
12
Tiểu luận cuôi khóa. Lớp Bồi dưỡng kiến thức QLNN – Chương trình chuyên viên khóa III năm 2008.
Phương án lựa chọn:
Qua dẫn dắt tình huống và qua phân tích nguyên nhân, hậu quả, ưu, nhược
điểm của hai phương án đưa ra ở trên, bản thân nhận thấy lựa chọn phương án 1 là
phương án tối ưu, hiệu quả nhất, để xử lý, giải quyết dứt điểm vụ việc khiếu nại
của công dân như đã nêu ở trên.
5. Tổ chức thực hiện phương án lựa chọn:
- Giao Chủ tịch UBND huyện BS xem xét hoàn chỉnh hồ sơ trình UBND
tỉnh công nhận quyền sử dụng đất cho Trường Mẫu giáo thôn An Châu, cụ thể:
+ Chỉ đạo UBND xã Bình T phối hợp với Phòng Tài nguyên – Môi trường
huyện hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng thửa đất trên; làm thủ tục đề nghị công nhận
quyền sử dụng đất cho Trường Mẫu giáo thôn An Châu; ngoài phạm vi diện tích
công nhận cho Trường Mẫu giáo, UBND huyện xem xét Quyết định công nhận
quyền sử dụng cho bà Hồ Thị T theo thẩm quyền (nếu còn diện tích đất).
+ Hồ sơ trình cấp có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho Trường Mẫu giáo thôn An Châu, phải nộp tại Sở Tài nguyên và Môi trường

tỉnh để Sở tham mưu cho UBND tỉnh xem xét, quyết định.
- Ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại đòi quyền sử dụng đất của bà Hồ
Thị T theo đúng thẩm quyền, cụ thể: Căn cứ vào Điều 4, Nghị định 181/2004/NĐ-
CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003, Chủ tịch
UBND huyện BS bác đơn khiếu nại của bà T đòi công nhận quyền sử dụng đất tại
thửa đất số 925 và 925, tờ bản đồ số 2 (nay gộp chung là thửa đất số 48, diện tích
1923 m
2
, loại đất CD/K, tờ bản đồ số 5, bản đồ đo mới năm 2003, xã Bình T).
+ Sau khi có Quyết định của Chủ tịch UBND huyện về việc giải quyết bác
đơn khiếu nại đối với bà Hồ Thị T thì giao Trưởng phòng TNMT huyện chủ trì,
phối hợp với UBND xã Bình T mời bà T để tống đạt Quyết định của Chủ tịch
UBND huyện cho bà T; việc thực hiện tống đạt Quyết định phải lập thành Biên
bản cụ thể để lưu vào hồ sơ theo qui định.
+ Giao Phòng TNMT, UBND xã Bình T mời bà Hồ Thị T tiến hành giao
đất, cắm mốc giới diện tích đất cụ thể khi có Quyết định của Chủ tịch UBND
huyện BS công nhận quyền sử dụng đất cho bà Hồ Thị T.
Giáo viên HD: Trần Duy Linh Học viên TH: Huỳnh Đức Oanh
13
Tiểu luận cuôi khóa. Lớp Bồi dưỡng kiến thức QLNN – Chương trình chuyên viên khóa III năm 2008.
- Giao UBND xã Bình T có trách nhiệm sớm hoàn trả 30 triệu đồng cho bà
Hồ Thị T: Khi hoàn trả phải lập đầy đủ các thủ tục cần thiết và phải chịu chi trả lãi
suất tiền quỹ tiết kiệm không kỳ hạn của Ngân hàng thương mại trên địa bàn kể từ
khi nhận tiền hỗ trợ của bà T đến khi hoàn trả.
- Kiểm điểm Trưởng phòng TNMT huyện, vì tham mưu cho UBND huyện
trong việc giải quyết vụ việc chưa đảm bảo theo qui định của pháp luật về đất đai,
chưa chặt chẽ, thiếu nhất quán trong việc xem xét, đánh giá, kết luận, kiến nghị
giải quyết.
- Giao Chánh Thanh tra huyện đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức thực hiện
Quyết định của Chủ tịch UBND huyện BS và báo cáo kết quả cho Chủ tịch UBND

huyện.
C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về tranh chấp đất đai là một hoạt động quan
trọng đối với các cơ quan chức năng và địa phương cơ sở, Đảng ta đã khẳng định:
“Đất đai là một trong bốn nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước trong nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN”. Vấn đề đất đai rất “nhạy cảm” và
“nóng bỏng”. Do đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức thực thi công vụ quản lý nhà
nước về lĩnh vực đất đai phải có đầy đủ phẩm chất chính trị, nghiệp vụ, năng lực
chuyên môn vững vàng nhằm đáp ứng được công tác quản lý nhà nước về đất đai
thực tế diễn ra trên địa bàn mình phụ trách, giải quyết và tham mưu giải quyết tốt
mọi công việc phát sinh liên quan đến lĩnh vực đất đai một cách thấu tình, đạt lý,
đảm bảo công bằng dân chủ, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tin tưởng, hạn chế
việc khiếu kiện kéo dài, tái khiếu và khiếu nại vượt cấp, góp phần ổn định tình
hình chung trên địa bàn huyện BS. Khiếu nại phát sinh trong quá trình hoạt động
quản lý Nhà nước.
Hoạt động quản lý Nhà nước tốt, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống của
nhân dân ấm no, hạnh phúc. Hoạt động quản lý Nhà nước yếu kém, đời sống vật
chất lẫn tinh thần của nhân dân không được cải thiện, phát sinh nhiều tiêu cực, dẫn
đến khiếu nại hoặc tố cáo gây phức tạp xã hội trong hoạt động quản lý hành chính
Nhà nước.
Giáo viên HD: Trần Duy Linh Học viên TH: Huỳnh Đức Oanh
14
Tiểu luận cuôi khóa. Lớp Bồi dưỡng kiến thức QLNN – Chương trình chuyên viên khóa III năm 2008.
Huyện BS trong những năm qua, số đơn khiếu nại, tố cáo phát sinh ngày
càng nhiều, có nhiều vụ phức tạp, nhất là ở những địa bàn Khu kinh tế, Khu công
nghiệp bắt đầu phát triển, giá trị đất đai trên thị trường biến động rất nhiều, ngày
càng có giá trị, tình trạng chuyển nhượng quyền sử dụng đất diễn ra phức tạp, đó
là nhu cầu, qui luật tất yếu của xã hội phát triển; đòi hỏi công tác quản lý nhà nước
về đất đai của các cấp chính quyền và các ngành chức năng ở địa phương phải
luôn tập trung nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ phục vụ cho sự lãnh đạo,

chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp; tham mưu giúp Chủ tịch UBND
huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực đất đai nhằm đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới.
Qua phân tích và giải quyết tình huống nêu trên, chúng ta thấy được thực
trạng quản lý và sử dụng đất hiện nay, hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp đất
đai nêu trên vẫn còn nhiều bất cập, phát sinh nhiều vấn đề phức tạp, dẫn đến khiếu
nại, khiếu kiện của công dân. Một phần do năng lực, trình độ chuyên môn, kiến
thức pháp luật cùng với tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của đội
ngũ cán bộ, công chức hiện nay, nhất là công chức lãnh đạo; một phần do hiểu
biết, nắm bắt pháp luật của người dân và những hạn chế khuyết tật của nền kinh tế
thị trường hiện nay.
Qua quá trình phân tích nguyên nhân, hậu quả và các phương án xử lý
tình huống cụ thể trên đây, có thể đưa ra một số kiến nghị sau đây:
1. Trong công tác quản lý nhà nước về đất đai ở các địa phương hiện nay,
một số cán bộ, công chức còn thiếu trách nhiệm trong khi thi hành công vụ; công
tác quản lý, sử dụng đất đai còn buông lỏng, nên cần tăng cường công tác bồi
dưỡng nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhằm
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ đổi mới.
Xây dựng tủ sách pháp luật đầy đủ tại các trụ sở UBND xã, thị trấn. Tăng
cường pháp chế XHCN trên mọi lĩnh vưc hoạt động quản lý hành chính Nhà nước,
nhất là lĩnh vực đất đai.
Kịp thời phổ biến các văn bản quản lý Nhà nước cấp trên xuống tận cơ sở để
cấp cơ sở căn cứ vào đó mà áp dụng hoặc vận dụng vào quá trình hoạt động quản
lý hành chính Nhà nước ở cấp địa phương mình.
2. Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính, đổi mới phong cách làm
việc của cán bộ, công chức nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về
Giáo viên HD: Trần Duy Linh Học viên TH: Huỳnh Đức Oanh
15
Tiểu luận cuôi khóa. Lớp Bồi dưỡng kiến thức QLNN – Chương trình chuyên viên khóa III năm 2008.
đất đai tại địa phương; thường xuyên gắn bó mật thiết với nhân dân để kịp thời

nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân nhằm giải quyết công việc một cách
thấu tình, đạt lý và đảm bảo theo qui định của pháp luật. Vì qua tình huống nêu
trên là một điển hình của lề lối làm việc qua loa, không sâu sát, thiếu nhất quán,
chưa kịp thời áp dụng các qui định của pháp luật để giải quyết một vụ việc nên gây
hậu quả của việc khiếu kiện kéo dài tại xã Bình T, huyện BS.
Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, giám sát công việc của cán bộ, công chức
cấp mình. Kiên quyết xử lý những cán bộ, công chức chây lười hoặc có thái độ
không tốt đối với quần chúng nhân dân.
3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật, nhất là lĩnh
vực đất đai đến mọi tầng lớp nhân dân bằng nhiều hình thức như phổ biến tuyên
truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, lồng ghép trong các buổi hội, họp
ở khu dân cư, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội …, làm cho mọi người
dân nắm bắt, nhận thức, am hiểu, tự giác chấp hành pháp luật.
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯
Giáo viên HD: Trần Duy Linh Học viên TH: Huỳnh Đức Oanh
16
Tiểu luận cuôi khóa. Lớp Bồi dưỡng kiến thức QLNN – Chương trình chuyên viên khóa III năm 2008.
MỤC LỤC:
A. LỜI MỞ ĐẦU 1
B. PHẦN NỘI DUNG 4
1. Mô tả tình huống 4
2. Mục tiêu tình huống 7
3. Phân tích nguyên nhân, hậu quả 8
4. Xây dựng phương án và lựa chọn phương án 11
5. Tổ chức thực hiện phương án 13
C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 14
Giáo viên HD: Trần Duy Linh Học viên TH: Huỳnh Đức Oanh
17
Tiểu luận cuôi khóa. Lớp Bồi dưỡng kiến thức QLNN – Chương trình chuyên viên khóa III năm 2008.
PHỤ LỤC

Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình quản lý hành chính nhà nước chương trình chuyên viên - Học
viện hành chính Quốc gia năm 2008;
2. Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003;
3. Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 02/12/1998 và Luật sửa đổi, bổ sung một số
Điều của Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 15/6/2004 và ngày 29/11/2005; Nghị định số
136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo;
4. Luật Đất đai ngày 26/11/2003; Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày
29/11/2004 hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2003; Nghị định 84/2007/NĐ-CP
ngày 25/5/2007 của Chính phủ Quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất
đai;
5. Luật Thanh tra năm 2004; Nghị định số 41/2005/NĐ-CP ngày 25/3/2005
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thanh
tra;
6. Một số tài liệu khác.
Giáo viên HD: Trần Duy Linh Học viên TH: Huỳnh Đức Oanh
18

×