Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIAg

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.16 KB, 29 trang )

Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
LỜI MỞ ĐẦU
Bạn thường xem các chương trình quảng cáo trên truyền hình và cực ấn tượng
với các khẩu hiệu gắn liền với sản phẩm/dịch vụ như: Bitis – Nâng niu bàn chân
Việt, Prudential – Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu ; Viettel – hãy nói theo
cách của bạn …
Đôi khi bạn vẫn hay nhận được các phiếu thăm dò về chất lượng , chủng loại ,
giá cả của một loại sản phẩm nào đó như nước giải khát , dầu gội ,đồ điện tử,.v v
Và thỉnh thoảng khi mua hàng bạn lại được khuyến mại hay được tặng quà kềm
theo sản phẩm bạn đã lựa chọn.Cũng đã nhiều lần bạn được chứng kiến các hoạt
động họp báo giới thiệu sản phẩm hoặc trưng bày sản phẩm…Vậy mục đích của
những việc làm này là gì?
Một câu trả lời chung cho tất cả đó là: Những hoạt động Marketing – một trong
những công cụ quan trọng nhất , yếu tố then chót quyết đến sự thành công của
doanh nghiệp trong kinh doanh.Chức năng chủ yếu của Marketing là thu hút và gìn
giữ khách hàng .
Để tạo ra khách hàng và đánh bại đối thủ cạnh tranh các doanh nghiệp phải thực
hiện các chiến lược Marketing.Một chiến lược marketing bao gồm nhiều hoạt động
kế tiếp và có quan hệ chặt chẽ với nhau . Trong số đó việc đề ra các chính sách về
sản phẩm là một công việc khó khăn là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của mỗi
doanh nghiệp nhằm thực hiện có hiệu quả nhất ba mục tiêu: lợi nhuận,vị thế và an
toàn.
Để lập được kế hoạch marketing cụ thể cho sản phẩm thì nguời lập ra kế hoạch
marketing phải trả lời được các câu hỏi, như:
-Đối tượng khách hàng mà sản phẩm hướng tới là gi?
-Sản phẩm nằm ở phân khúc nào của thị trường?
-Sản phẩm có những ưu thế gì?
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
-Thời gian để tung sản phẩm ra thị trường hợp lí nhất là khi nào?


-Khi sản phẩm tung ra thị trường thì lựa chọn hình thức quảng cáo-Marketing
nào cho phù hợp?
Trong bài tiểu luận này,đề tài đưa ra để tìm hiểu về chu kỳ sống của sản phẩm
nokia.Đây là một thương hiệu điện tử được ưa chuộng trên toàn thế giới.Trong thời
đại công nghệ thông tin bùng nổ như hiện nay, rất nhiều các hãng như apple,
Samsung , Motorola ,.v v luôn đưa ra các thiết bị điện tử có tính năng ngày càng
được nâng cấp hiện đại nhằm đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng.Tuy
nhiên các sản phẩm của nokia vẫn luôn chiếm lĩnh thị trường.Để phục vụ được tốt
nhất nhu cầu của khách hàng và luôn giữ vị trí số một trong làng công nghệ - một
thị trường cực khốc liệt như vậy thì chắc hẳn các nhà đứng đầu của doanh nghiệp
nokia đã phải có những chính sách sản phẩm vô cùng hợp lí.
Trước tình hình thực tế và sau thời gian nghiên cứu, cùng những hiểu biết về
công ty và những kiến thức đã được học, em xin thực hiện đề tài:”Phân tích chiến
lược sản phẩm trong chu kì sống của NOKIA”.
PHẦN NỘI DUNG
I.SẢN PHẨM THEO QUAN ĐIỂM MARKETING
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
1. Sản Phẩm Hàng Hóa Là Gì?
Khi nói về sản phẩm – hàng hóa, người ta thường quy nó về một hình thức tồn
tại vật chất cụ thể và do đó nó chỉ bao hàm những thành phần hoặc yếu tố có thể
quan sát được. Đối với các chuyên gia Marketting, họ hiểu sản phẩm – hàng hóa ở
một phạm vi rộng lớn hơn nhiều, cụ thể là:
Sản phẩm – hàng hóa là tất cả những cái, những yếu tố có thể thõa mãn nhu cầu
hay ước muốn của khách hàng, cống hiến những lợi ích cho họ và có khả năng đưa
ra chào bán trên thị trường với mục đích thu hút sự chú ý mua sắm, sử dụng hay
tiêu dùng.
2. Vai Trò, Vị Trí Của Chiến Lược Sản Phẩm
Chiến lược sản phẩm có một vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng . Nó là nền tảng

là xương sống của chiến lược chung marketting. Chiến lược sản phẩm là một vũ
khí sắc bén nhất trong cạnh tranh trên thị trường.
Chiến lược sản phẩm giúp doanh nghiệp xác định phương hướng đầu tư, thiết kế
sản phẩm phù hợp thị hiếu, hạn chế rủi ro, thất bại, chỉ đạo thực hiện hiệu quả các
P còn lại trong marketting hỗn hợp
Yếu tố quyết định vị trí của một hãng trên thị trường là ở chỗ:
- Liệu sản phẩm của hãng có vượt lên được sản phẩm cạnh tranh không?
- Vượt lên như thế nào?
- Làm thế nào để khách hàng mua hàng của mình?
Tất cả những điều trên chỉ thực hiện được khi hãng có một chiến lược sản phẩm
đúng đắn, tạo ra sản phẩm mới với chất lượng tốt. Nhân tố quyết định sự thành
công của doanh nghiệp chính là bản thân sản phẩm của họ. Việc xác định đúng đắn
chiến lược sản phẩm có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại của doanh nghiệp.
3. Phân Loại Hàng Hóa
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
Muốn có chiến lược marketting thích hợp và hoạt động marketting có hiệu quả,
các nhà quản trị marketting cần phải biết hàng hóa mà doanh nghiệp kinh doanh
thuộc loại nào. Sau đây là các cách phân loại có ý nghĩa đáng chú ý:
a. Phân Loại Theo Thời Gian Sử Dụng Và Hình Thái Tồn Tại
Theo cách phân loại này thì thế giới hàng hóa có:
- Hàng hóa lâu bền: là những vật phẩm thường được sử dụng nhiều lần.
- Hàng hóa sử dụng ngắn hạn: là những vật phẩm được sử dụng một lần hay một
vài lần.
- Dịch vụ: là những đối tượng được bán dưới dạng hoạt động, ích lợi hay sự thỏa
mãn.
b. Phân Loại Hàng Tiêu Dùng Theo Thói Quen Mua Hàng
Thói quen mua hàng là yếu tố rất cơ bản ảnh hưởng đến cách thức hoạt động
marketting. Theo đặc điểm này hàng hóa tiêu dùng được phân thành các loại sau:

- Hàng hóa sử dụng thường ngày: Đó là hàng hóa mà người tiêu dùng mua cho
việc sử dụng thường xuyên trong sinh hoạt. Đối với hàng hóa này, vì được sử
dụng và mua sắm thường xuyên nên nó là nhu cầu thiết yếu, khách hàng hiểu biết
hàng hóa và thị trường của chúng.
- Hàng hóa mua ngẫu nhiên: Đó là những hàng hóa được mua không có kế
hoạch trước và khách hàng cũng không có chủ ý tìm mua. Đối với những hàng hóa
loại này, khi khách hàng gặp cộng với khả nun thuyết phục của người bán, khách
hàng mới nảy ý định mua.
- Hàng hóa mua khẩn cấp: Đó là những hàng hóa được mua khi xuất hiện nhu
cầu cấp bách vì một lý do bất thường nào đó. Việc mua những hàng hóa này không
suy tính nhiều.
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
- Hàng hóa mua có lựa chọn: Đó là những hàng hóa mà việc mua diễn ra lâu
hơn, đồng thời khi mua khách hàng thường lựa chọn, so sánh, cân nhắc về công
dụng, kiểu dáng, chất lượng, giá cả của chúng.
- Hàng hóa cho các nhu cầu đặc thù: Đó là những hàng hóa có những tính chất đặc
biệt hay hàng hóa đặc biệt mà khi mua người ta sẵn sàng bỏ thêm sức lực, thời gian
để tìm kiếm và lựa chọn chúng.
- Hàng hóa cho các nhu cầu thụ động: Đó là những hàng hóa mà người tiêu
dùng không hay biết và thường cũng không nghĩ đến mua chúng. Trường hợp này
thường là những hàng hóa không có liên quan trực tiếp, tích cực đến cuộc sống
hằng ngày. Ví dụ: bảo hiểm.
c. Phân Loại Hàng Tư Liệu Sản Xuất
Tư liệu sản xuất là những hàng hóa được mua bởi các doanh nghiệp hay các tổ
chức. Người ta chia thành các loại
- Vật tư và chi tiết: đó là những hàng hóa được sử dụng thường xuyên và toàn bộ
vào cấu thành sản phẩm được sản xuất ra bởi nhà sản xuất.
Nhóm này có nhiều mặt hàng khác nhau: có loại có nguồn gốc từ nông nghiệp, từ

trong thiên nhiên hoặc vật liệu đã qua chế biến.
- Tài sản cố định: đó là những hàng hóa tham gia toàn bộ , nhiều lần vào quá
trình sản xuất và giá trị của chúngđược dịch chuyển dần vào giá trị sản phẩm do
doanh nghiệp chúng tạo ra.
- Vật tư phụ và dịch vụ: đó là những hàng hóa dùng để hỗ trợ cho quá trình kinh
doanh hay hoạt động của các tổ chức và doanh nghiệp.
- Tận dụng năng lực sản xuất dịch vụ dư thừa.
- Mưu toan trở thành công ty chủ chốt với chủng loại đầy đủ.
Khi bổ sung những sản phẩm mới trong cùng một chủng loại công ty phải tính
đến khả năng giảm mức tiêu thụ của sản phẩm khác. Để làm giảm bớt ảnh hưởng
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
này công ty phải đảm bảo chắc chắn rằng sản phẩm mới khác hẳn so với sản phẩm
đã có.
II. THIẾT KẾ VÀ MARKETTING SẢN PHẨM MỚI
1. Khái Quát Về Sản Phẩm Mới
Người ta nói sản phẩm mới là dòng máu nuôi bộ máy doanh nghiệp. Sản phẩm
mới được phát trển để đáp ứng nhu cầu không ngừng thay đổi của người tiêu dùng,
để bắt kịp với kỹ thuật mới, công nghệ mới và để đối phó với sự cạnh tranh khốc
liệt trên thị trường. Tuy nhiên, phát triển sản phẩm mới là một điều đầy rủi ro và
nhiều sản phẩm mới đã gặp thất bại. Trong phần nầy chúng ta thử tìm hiểu các
bước hình thành sản phẩm mới, đưa vào thị trường và phát triển thành công trên thị
trường.
Để có sản phẩm mới doanh nghiệp có hai cách. Một là mua sản phẩm từ người
khác. Điều nầy có thể là mua sản phẩm và tiếp thị với nhãn hiệu của riêng mình,
hoặc mua thiết kế, công thức sáng chế hoặc mua giấp phép sản xuất một sản phẩm
của người khác. Hai là tự mình phát triển sản phẩm lấy bằng các hoạt động R&D
(nghiên cứu và phát triển) của doanh nghiệp mình.
Nhiều sản phẩm mới được đầu tư rất tốn kém nhưng vẫn có thể gặp thất bại,

chẳng hạn như sản phẩm Edsel của Ford gây thiệt hại 350 triệu đô la, RCA thiệt
hại 580 triệu đô la vào sản phẩm đầu video Selecta Vision, New Coke của Coca
Cola, Polarvision của Polaroid …
Người ta thống kê là có đến 80% sản phẩm tiêu dùng nhanh mới bị thất bại, sản
phẩm công nghiệp mới thất bại 30%. Lại có nguồn khác nói có đến 95% sản phẩm
mới bị thất bại.
Tại sao sản phẩm mới thất bại? Có thể ý tưởng về sản phẩm là tốt nhưng do
đánh giá quá cao nhu cầu thực tế của thị trường. Hoặc do sản phẩm thực tế không
được thiết kế tốt như mong muốn. Hoặc có thể do sản phẩm mới không được định
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
vị thích hợp trên thị trường. Cũng có khi do việc cho ra đời sản phẩm mới bị hối
thúc, trong khi các dữ liệu nghiên cứu thị trường chưa được thu thập đầy đủ. Hoặc
do chi phí phát triển sản phẩm mới quá cao, thị trường không thể chấp nhận được.
Hay do đối thủ cạnh tranh kịp thời tung ra sản phẩm tương tự trước.
Do có quá nhiều sản phẩm mới gặp thất bại, doanh nghiệp phải học cách làm
cách nào để đưa sản phẩm mới vào thị trường một cách thành công. Doanh nghiệp
có thể rút kinh nghiệm từ các sản phẩm thành công để tìm ra điểm chung. Cách
khác là học những bài học mà các sản phẩm thất bại đã phải trả giá.
Tóm lại để có thể phát triển một sản phẩm mới thành công, doanh nghiệp phải hiểu
khách hàng mình muốn gì, hiểu thị trường, hiểu đối thủ cạnh tranh và phát triển
một sản phẩm mang lại giá trị ưu việt cho khách hàng.
Ở đây, chúng ta không có ý định tìm ra một định nghĩa quá hạn chế cho một sản
phẩm mới. Thay vào đó, chúng ta có thể nhận ra một vài phạm trù về sản phẩm
mới. Tuy nhiên, quan trọng hơn cả là mỗi loại sản phẩm mới có thể đòi hỏi một
chương trình marketing riêng biệt để bảo đảm cho khả năng thành công trên thị
trường. Ba phạm trù được nhận ra cho một sản phẩm mới là:
a. Những sản phẩm được đổi mới thật sự _duy nhất thật sự (truly unique).
Ví dụ, sản phẩm phục hồi tóc. Sản phẩm này có một nhu cầu thật sự, nhưng trên

thị trường hiện tại không có một sản phẩm thay thế nào được coi là thoả mãn.
Trong phạm trù này, chúng ta cũng có thể bao gồm những sản phẩm hoàn toàn
khác với với những sản phẩm đang tồn tại, nhưng làm thỏa mãn cùng một loại nhu
cầu. Vì vậy, sự ra đời của tivi đối với radio và phim ảnh, chất plastics ra đời cạnh
tranh với gỗ và kim loại, và năng lượng mặt trời (solar power) cạnh tranh với
những nguồn năng lượng khác.
b. Những sự thay thế cho những sản phẩm đang tồn tại, những sản phẩm này khác
đáng kể với những sản phẩm đang tồn tại.
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
Ví dụ, cà phê hoà tan thay cho cà phê hột. Những nhà sản xuất ngũ cốc phơi sấy
giới thiệu những loại ngũ cốc mới và thường bỏ những loại ngũ cốc đang tồn tại
không còn đáp ứng được những mong đợi về doanh số và lợi nhuận nữa. Những sự
thay đổi kiểu của ô tô hàng năm, và mốt thời trang của quần áo cũng thuộc vào loại
này.
c. Những sản phẩm bắt chước hay mô phỏng (imitative products)
Những sản phẩm này mới đối với một công ty nào đó, nhưng không mới đối với
thị trường, công ty chỉ muốn giữ lấy thị phần hiện có của mình khi đưa ra thị
trường những sản phẩm như thế này.
Có lẻ, tiêu chuẩn chủ yếu để xem xét một sản phẩm được xem là mới hay không
là cách mà thị trường mục tiêu nhận định về nó. Nếu người mua nhận thức rằng
một sản phẩm được đưa ra thị trường, khác đáng kể và tạo sức hấp dẫn hơn đối với
sản phẩm đang tồn tại ở một số đặc điểm, thì lúc đó nó sẽ là sản phẩm mới.
Quá trình phát triển sản phẩm mới có thể bắt đầu với việc lựa chọn một chiến
lược sản phẩm mới rõ ràng. Kế đó, chiến lược này có thể dùng như là một hướng
dẫn hữu ích thông qua quá trình phát triển từng bước được sử dụng cho từng sản
phẩm riêng biệt.
2. Lựa Chọn Chiến Lược sản phẩm
Nhà quản lý cần lựa chọn một chiến lược sản phẩm mới nói chung phải có hiệu

quả, để có thể đưa đến một quá trình phát triển sản phẩm mới có hiệu quả. Mục
đích của sự lựa chọn này là để giúp cho xí nghiệp đạt được những mục đích của
mình. Thí dụ, một sản phẩm mới có thể được tạo ra để giữ vững thị phần của xí
nghiệp, hoặc để duy trì vị trí là người cải tiến sản phẩm. Ở những trường hợp khác,
vai trò của sản phẩm có thể là để đáp ứng cho mục đích thu hồi vốn đầu tư, hoặc là
để thiết lập một vị trí nhất định trên thị trường cho xí nghiệp.
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
Vai trò đã được dự định trước của một sản phẩm mới cũng sẽ ảnh hưởng tới loại
sản phẩm được sản xuất ra. Thí dụ, để bảo vệ thị phần của xí nghiệp, chiến lược
sản phẩm có thể là giới thiệu thêm một sản phẩm nào đó trong đường sản phẩm,
hoặc là sửa đổi sản phẩm đang tồn tại. Hoặc là để thực hiện mục đích củng cố vai
trò của xí nghiệp trên thị trường, chiến lược sản phẩm có thể là sự giới thiệu một
sản phẩm mới thật sự, không chỉ là để cải tiến một sản phẩm sẵn có.
3. Các Bước Trong Quá Trình Phát Triển
Với chiến lược sản phẩm mới, hoạt động như một sự hướng dẫn, sự phát triển
sản phẩm mới có thể tiến hành thông qua 6 bước. Trong mỗi bước, nhà quản lý
phải quyết định có nên chuyển tới bước kế tiếp hay không, huỷ bỏ sản phẩm hay
tiếp tục tìm thông tin.
Trong 2 bước đầu _Tạo ra những ý kiến cho sản phẩm mới, và đánh giá chúng_
được buộc chặt với chiến lược sản phẩm mới chung. Chiến lược này có thể chuẩn
bị cho một điểm trọng yếu về việc tạo ra những ý kiến sản phẩm mới, và một tiêu
chuẩn cho sự sàng lọc và đánh giá những ý kiến này.
A. Tạo ra những ý kiến sản phẩm mới (generation of new product ideas)
Sự phát triển sản phẩm mới bắt đầu với một ý kiến. Một ý kiến riêng biệt thì không
quan trọng như là hệ thống kích thích những sản phẩm mới của công ty, và kế đó
công nhận và xem xét chúng một cách nhanh chóng.
B. Sàng lọc và đánh giá những ý kiến để xác định những ý kiến nào cần được
nghiên cứu thêm.

C. Phân tích kinh doanh (business analysis)
Một ý kiến sản phẩm mới còn tồn tại trong giai đoạn này được mở rộng vào một
đề nghị kinh doanh cụ thể. Nhà quản lý xác định những đặc điểm của sản phẩm;
đánh giá nhu cầu thị trường và khả năng mang lại lợi nhuận của sản phẩm; Thiết
lập một chương trình để phát triển sản phẩm, và đặt ra trách nhiệm cho việc nghiên
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
cứu thêm tính khả thi của sản phẩm (product’ feasibility). Ba bước đầu tiên này
được đưa ra cùng với nhau như là một sự kiểm tra khái niệm. Đây là sự trắc
nghiệm ý kiến sản phẩm, ngược lại với sự trắc nghiệm của chính sản phẩm trên thị
trường.
D. Phát triển sản phẩm (product development)
Sự phát triển sản phẩm là việc chuyển những ý kiến trên giấy thành một sản
phẩm thật sự. Một lượng nhỏ sản phẩm được tạo ra theo những đặc điểm kỹ thuật
đã được đề xuất ý kiến. Những kiểm tra trong phòng thí nghiệm, và những sự đánh
giá kỹ thuật cần thiết được tạo ra để xác định tính khả thi của hàng hoá.
E. Trắc nghiệm thị trường (test marketing)
Kiểm tra thị trường và những thí nghiệm thương mại khác trong những vùng địa
lý hạn chế được thực hiện để xác định tính khả thi của chương trình marketing ở
phạm vi lớn. Trong bước này, sự thiết kế và những biến số sản xuất có thể phải
điều chỉnh như là kết quả của những phát hiện được tìm ra trong kiểm tra. Tại thời
điểm này, nhà quản lý phải tạo ra quyết định cuối cùng đối với việc nên hay không
nên đưa sản phẩm ra thị trường dưới gốc độ thương mại.
F. Thương mại hoá (commercialization)
Sản xuất với phạm vi lớn và những chương trình marketing được hoạch định, và
kế đó sản phẩm được tung ra. Đến thời điểm này của quá trình phát triển sản phẩm,
nhà quản lý hầu như có một sự kiểm soát hoàn toàn trên sản phẩm. Lúc này, sản
phẩm được sinh ra và đi vào chu kỳ sống của nó. Tuy nhiên, môi trường cạnh tranh
bên ngoài trở thành yếu tố quyết định chủ yếu đến vận mệnh của nó.

4. Quy trình sản phẩm mới:
Bao gồm 8 bước chính:
1. Phát triển ý tưởng (idea generation)
2. Sàng lọc ý tưởng (idea screening)
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
3. Phát triển và thử khái niệm (Concept development and testing)
4. Phát triển chiến lược Marketing (Marketing strategy development)
5. Phân tích kinh doanh (business analysis)
6. Phát triển sản phẩm và thương hiệu (Product and brand development)
7. Thử thị trường (market testing)
8. Tung thương hiệu ra thị trường (commercialisation)
Bước 1: phát triển ý tưởng
- Xây dựng ý tưởng cho sản phẩm
- Nguồn ý tưởng: từ khách hàng, đối thủ cạnh tranh, các nhà khoa học, nhân
viên, ban lãnh đạo,…
- Cần chú ý: nhu cầu và ước muốn của khách hàng là cơ sở cho phát triển ý
tưởng về sản phẩm.
Bước 2: Sàng lọc ý tưởng
- Sàng lọc ý tưởng để chọn lọc các ý tưởng tiềm năng và loại các ý tưởng không
khả thi
- Các ý tưởng được sàng lọc thông qua hội đồng sàng lọc
- Thẩm định các ý tưởng khả thi cần phải đánh giá kỹ lưỡng về dạng ý tưởng
mới, mức độ mới, phải luôn đi liền với dự đoán cụ thể về thị trường mục tiêu, cạnh
tranh, thị phần, giá cả, chi phí phát triển và sản xuất, suât hoàn vốn, để tránh sai
lầm bỏ đi ý tưởng hay hoặc lựa chọn những ý tưởng nghèo nàn.
Bước 3: phát triển và thử khái niệm
- Doanh nghiệp phát triển khái niệm sản phẩm và thử nó: người tiêu dùng không
mua tư tưởng, họ mua sản phẩm chứa đựng trong thương hiệu.

- Ví dụ về khái niệm sản phẩm: “ Thức uống điểm tâm nhanh cho người lớn
thích dùng điểm tâm, bổ dưỡng nhưng không tốn thời gian sửa soạn”; hay “ bồi bổ
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
sức khoẻ cho người gia trước khi đi ngủ” hoặc “thức uống dặm dành cho trẻ em
uống giải khát hằng ngày” …
- Định vị sản phẩm này với các sản phẩm khác
- Định vị thương hiệu cho sản phẩm mới.
- Thử khái niệm này thông qua các công cụ nghiên cứu thị trường. Thử khái
niệm dùng để đánh giá những đặc trưng vượt trội của khái niệm (concept
uniqueness), mức độ phù hợp với nhu cầu thị trường, ý tưởng chính mà khái niệm
muốn thông đạt, tầm quan trọng của nó đối với khách hàng, mức độ thích thú, xu
hướng, tần suất mua hàng của khách hàng.
Bước 4: phát triển chiến lược marketting
- Hoạch định sơ bộ một chiến lược
- Hoạch định chương trình marketing để tung thương hiệu sản phẩm mới ra thị
trường.
- Nội dung chương trình Mar: thị trường mục tiêu, quy mô, hành vi tiêu dùng
của nó, vị trí dự định của sản phẩm, thương hiệu, giá cả, phân phối, quảng bá
thương hiệu, dự đoán doanh thu, thị phần, lợi nhuận, ngân sách marketing.
- Đặt tên cho thương hiệu. Brand name.
- Đăng ký tên thương hiệu (nhãn hiệu hàng hoá – trademark) trước pháp luật để
được pháp luật bảo vệ.
Chiến lược tên thương hiệu:
(1) Nới rộng theo dòng – line extensions: Công ty marketing một loại sản phẩm
nhưng thay đổi bao bì, kích cỡ, hình dáng, mầu sắc… nhưng sử dụng nhãn hiệu
hàng hoá. Thí dụ Colgate – Pamolive marketing ba loại sữa tắm Protex, có cùng
kiểu dáng bao bì, kích cỡ nhưng mức độ công dụng khác nhau (Protex1: Nhẹ
nhàng, Protex2: Cân bằng, Protex3: Tăng cường).

GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
(2) Mở rộng nhãn hiệu – brand extensions: Công ty sản xuất nhiều dòng sản phẩm
khác nhau nhưng cùng chung nhãn hiệu hàng hoá. Ví dụ: Honda, sony (Honda –
wave alpha, future, SH,…)
(3) Đa nhãn hiệu – Multibrands: Công ty sử dụng nhãn hiệu khác nhau cho từng
cùng loại sản phẩm nhưng thay đổi hình dáng, kích thước, cùng một số đặc tính bổ
sung… ví dụ : P&G, Unilever cho dầu gội Pantene, Head & shoulders, Clear,
Sunsilk…
(4) Nhãn hiệu mới – New brands: khi sản xuất ra một sản phẩm mới, công ty sử
dụng một nhãn hiệu hoàn toàn mới.
Bước 5: Phân tích kinh doanh
- Phân tích, đánh giá lại mức độ hấp dẫn của nó, cũng như mức độ phù hợp với
mục tiêu và sứ mạng chung của công ty.
- Nội dung chính: Đánh giá về mặt doanh thu, chi phí sản xuất và marketing, lợi
nhuận đem lại, điểm hoà vốn, thời gian hoàn vốn, phân tích rủi ro.
Bước 6: Phát triển sản phẩm và thương hiệu
- Ở những bước trước: chỉ là thuyết minh, bản vẽ, mô hình.
- Tại bước này: công ty tiến hành phát triển sản xuất sản phẩm và xây dựng
thương hiệu cụ thể.
- Chuyển đổi các thuộc tính từ khách hàng (customer attributes) thành các thuộc
tính kỹ thuật (engineering attributes): nhà marketing kết hợp chặt chẽ với kỹ sư
thiết kế và chế tạo.
- Chú ý: trong giai đoạn này, không chỉ phát triển phần chức năng của sản phẩm
mà còn tập trung phát triển các thuộc tính tâm lý.
- Tóm lại: xây dựng một thương hiệu cụ thể để thoả mãn nhu cầu chức năng và
tâm lý cho khách hàng mục tiêu
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03

Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
Bước 7: Thử thị trường
- Thử thị trường cho thương hiệu đó.
- Mục đích: Xem xét các phản ứng và tiềm năng của thị trường: mức độ chấp
nhận, mua hàng, sử dụng của người tiêu dùng, các kênh phân phối.
- Có nhiều cách testing: Nghiên cứu dao động của doanh thu ( sumulated test
marketing), thử có kiểm soát marketing (controlled test marketing).
- Chi phí rất tốn kém.
Bước 8: Tung thương hiệu ra thị trường
- Công ty cần quyết định về vị trí địa lý và thời gian tung thương hiệu.
-Về vị trí địa lý: tuỳ theo nguồn lực và tài chính cũng như tình hình cạnh tranh
trên thị trường, công ty có thể tập trung vào một địa phương, một vùng hay nhiều
vùng, cả nước hay thị trường nước ngoài.
-Về thời gian có 3 chọn lựa:
(1) Tung sản phẩm ra thị trường đầu tiên để là người tiên phong. Đây là một lợi
thế cạnh tranh tốt. Nhưng cũng có thể gánh chịu thất bại vì chưa có kinh nghiệm về
khách hàng của sản phẩm mới, cũng như chi phí định hướng tiêu dùng của khách
hàng (cost of educating the market).
(2) Tung song song với đối thủ cạnh tranh: Chia sẻ lợi thế tiên phong với đối
thủ cạnh tranh. Ưu điểm là: nếu 2 công ty cùng quảng bá sẽ chú ý cho thị trường
nhiều hơn.
(3) Tung sau đối thủ cạnh tranh: Mất lợi thế tiên phong, được lợi thế là có thể
tránh những khuyết điểm của nhà tiên phong mắc phải cũng như dễ dàng hơn trong
dự đoán dung lượng thị trường.
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
III.CHU KỲ SỐNG CỦA SẢN PHẨM HÀNG HÓA
1. Khái quát về chu kỳ sống của sản phẩm.
Sau khi giới thịêu sản phẩm mới vào thị trường, doanh nghiệp muốn sản phẩm

của mình có một cuộc sống hạnh phúc và lâu dài. Mặc dù không ai mong đợi sản
phẩm của mình sẽ trường tồn vĩnh cữu trên thị trường, doanh nghiệp nào muốn thu
lại được nhiều lợi nhuận để bù lại những chi phí đã bỏ ra trong quá trình nghiên
cứu phát triển sản phẩm và chi phí tịêu tốn trong giai đoạn đưa sản phẩm vào thị
trường. Mặc dù không ai biết trước chu kỳ sống của sản phẩm sẽ như thế nào và sẽ
kéo dài bao lâu, các nhà quản trị biết rằng sản phẩm nào cũng sẽ có một chu kỳ thị
trường.
2. Các giai đoạn trong chu kỳ sống của sản phẩm
Vấn đề khá quan trọng cho các nhà quản lý là việc nhận ra sản phẩm của họ đang ở
giai đoạn nào trong chu kỳ sống, ở một thời điểm được đưa ra. Môi trường cạnh
tranh và những chiến lược marketing tổng hợp thường sẽ khác nhau trong mỗi giai
đoạn.
Giai Đoạn Giới Thiệu
Suốt giai đoạn đầu tiên của chu kỳ sống, sản phẩm được tung vào thị trường với
chương trình marketing và sự sản xuất hoàn chỉnh. Đã đi qua những bước phôi thai
của việc đánh giá ý kiến, và trắc nghiệm thị trường. Sản phẩm này có thể là mới.
Hoặc là, sản phẩm có thể đã được biết nhưng có một đặc điểm mới hay được thêm
vào trong giai đoạn giới thiệu. Hoặc là, nó có thể được chấp nhận ở một số khúc thị
trường, nhưng ở trong giai đoạn đầu của những khúc thị trường khác.
Tỷ lệ thất bại của sản phẩm trong giai đoạn này thì cao. Bởi chi phí cao, cường
độ doanh số thấp, thiệt hại cao, và sự phân phối hạn chế. Theo kinh nghiệm, giai
đoạn ban đầu này là giai đoạn tốn kém và rủi ro nhất. Tuy nhiên, thực tế đối với
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
những sản phẩm mới, có rất ít sự cạnh tranh. Chương trình chiêu thị được tạo ra để
kích thích nhu cầu trước tiên, và chủ yếu là nhấn mạnh loại sản phẩm.
Giai Đoạn Tăng Trưởng
Trong giai đoạn tăng trưởng, hoặc giai đoạn được thị trường chấp nhận, cả
doanh số và lợi nhuận đều tăng ở tốc độ nhanh. Những đối thủ cạnh tranh tham gia

vào thị trường càng đông nếu như triển vọng lợi nhuận đặc biệt hấp dẫn. Những
người bán chuyển tới một chiến lược chiêu thị cho việc mua sản phẩm hơn là thử
sản phẩm. Số thị trường tiêu thụ tăng lên, giá cả có thể đi xuống một ít.
Giai Đoạn Trưởng Thành
Suốt thời gian đầu của giai đoạn này, doanh số tiếp tục tăng lên, nhưng ở một
tốc độ giảm dần. Trong khi doanh số đang được ổn định, thì lợi nhuận của nhà sản
xuất và những nhà buôn lẻ giảm xuống. Sự cạnh tranh giá cả trở nên gay gắt hơn.
Nhà sản xuất gánh vác một phần lớn hơn cho những cố gắng chiêu thị chung trong
việc đấu tranh để duy trì những người bán và những sản phẩm ở trong cửa hàng
của họ. Những kiểu mẫu mới được giới thiệu khi nhà chế tạo mở rộng những tuyến
sản phẩm của họ, và doanh số trong thương mại trở nên đáng chú ý.
Giai Đoạn Suy thoái
Thật sự đối với tất cả những sản phẩm thì sự cũ đi là không thể tránh khỏi khi
những sản phẩm mới bắt đầu chu kỳ sống của chúng, và sẽ thay thế cho những sản
phẩm cũ. Sự kiểm soát chi phí trở nên càng quan trọng khi nhu cầu giảm xuống.
Quảng cáo giảm xuống, và một số đối thủ cạnh tranh rút ra khỏi thị trường. Sản
phẩm có bị diệt vong hay không, hoặc là những người bán có thể cứu sống được
sản phẩm hay không, tuỳ thuộc vào khả năng quản lý của xí nghiệp.
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
Bảng tóm tắt các đặc điểm và chiến lược marketting tương ứng trong từng
giai đoạn trong chu kỳ đời sống sản phẩm
Giai đoạn Đặc điểm Các chiến lược và nổ lực
Giới thiệu - Doanh thu tăng chậm,
khách hàng chưa biết nhiều
đến sản phẩm
- Lợi nhuận là số âm, thấp
- Sản phẩm mới tỷ lệ thất
bại khá lớn

- Cần có chi phí để hoàn
thiện sản phẩm và nghiên
cứu thị trường
- Chuẩn bị vốn cho giai đoạn sau
- Cũng cố chất lượng sản phẩm
- Có thể dùng giá thâm nhập hoặc giá
qua thị trường
- Hệ thống phân phối vừa đủ để phân
phối và giới thiệu sản phẩm
- Quảng cáo mang tín thông tin có
trọng điểm, người tiêu thụ, thương lái
trung gian
Tăng trưởng

- Doanh thu tăng nhanh, lợi
nhuận tăng khá
- Chi phí phát hành giảm
- Lợi dụng để tấn công vào
thị trường mới nhằm nâng
cao thị phần
- Cần chi phí nghiên cứu
- Cần tranh thủ kéo dài các chiến lược
và nổ lực
+ Nhanh chóng mở rộng thị trường
+ Duy trì công dụng và chất lượng sản
phẩm
+ Giữ giá hoặc giảm nhẹ giá
+ Mở rộng kênh phân phối mới
+ Chú ý các biện pháp kích thích tiên
thụ như quảng cáo chiều sâu, tặng

phẩm, thưởng, hội chợ triển lãm
Trưởng thành- Doanh thu tăng chậm, lợi
nhuận giảm dần.
- Hàng hóa bị ứ đọng ở một
số kênh phân phối.
- Cạnh tranh với đối thủ trở
- Cải tiến, biến đổi sản phẩm, chủng loại
bao bì, tăng uy tín, chất lượng sản
phẩm.
- Cố gắng giảm giá thành để có thể giảm
giá mà không bị lỗ.
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
nên gay gắt.
- Giai đoạn trưởng thành
cần tranh thủ

- Cũng cố hệ thống phân phối trong
từng thị trường mới.
- Tăng cường quảng cáo, nhắc nhở và
các mạng lưới khuyến mãi để giữ chân
khách hàng.
Suy thoái - Doanh thu và lợi nhuận
giảm mạnh. Nếu không có
biện pháp tích cực dể dẫn
đến phá sản.
- Hàng hóa bị tẩy chai
không bán được.
- Đối thủ rút khỏi thị

trường.
- Chuẩn bị tung sản phẩm mới thay thế.
- Theo dõi và kiểm tra thường xuyên hệ
thống phân phối, người sản xuất kịp thời
đổi mới…
- Có thể… chết bằng cải tiến sản phẩm
mô phỏng, hạ giá, tìm thị trường mới để
thu hồi vốn.

IV.Sau đây là chiến lược sản phẩm của Nokia
Trong năm 2006, gần một tỷ chiếc điện thoại di động đã được bán ra trên
toàn thế giới, trong đó sản phẩm của Nokia chiếm 35%. Đó là minh chứng
thuyết phục nhất cho vị trí “đại gia” của Nokia trong ngành sản xuất điện
thoại di động trên toàn cầu.
Chiến dịch marketing và tạo dựng hình ảnh của Nokia không phải là một công
việc dễ dàng, nhất là trước sự mọc lên như nấm những sản phẩm mới của các đối
thủ, sự cạnh tranh khốc liệt về công nghệ và hành vi của người tiêu dùng luôn thay
đổi.
Trên tạp chí The McKinsey Quaterly số tháng 05/2007, phóng viên Trond Ribber
Knudsen đã có cuộc phỏng vấn với ông Keith Pardy, phó chủ tịch marketing của
tập đoàn Nokia
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
Thưa ông, dường như Nokia và các đối thủ của tập đoàn đang tung ra ngày
càng nhiều sản phẩm mới, hơn hẳn những năm trước đây. Ông có có thể lý giải
cho việc này?
- Mỗi con người đều là những cá thể độc lập có sự khác nhau về tính cách và sở
thích, nhưng không vì lý do đó mà chúng tôi lại không dám hy vọng rằng tất cả
mọi người sẽ cùng ưa thích sản phẩm của Nokia. Gần đây, chúng tôi đã tiến hành

nghiên cứu sự phân khúc của thị trường toàn cầu, với sự tham gia của 77.000
người dân trên khắp các châu lục để nắm bắt rõ nhu cầu, hành vi, tín ngưỡng và
phong cách của họ. Kết quả của cuộc điều tra này cho chúng tôi thấy, người tiêu
dùng có thể được chia thành 12 nhóm với những quan điểm mua sắm hoàn toàn
khác nhau. Chẳng hạn như, yếu tố thời trang và “hợp gu” đóng vai trò chủ chốt
trong quyết định mua sắm của nhóm người này, nhưng với nhóm người khác lại là
yếu tố công nghệ.
Hoặc có người muốn chiếc điện thoại giúp họ làm việc ngay cả khi…di chuyển
trên phố. Tại sao lại không? Với mục tiêu là chiếm tới 40% thị phần điện thoại di
động thế giới, thiết nghĩ chúng tôi cần thiết lập nên một danh mục sản phẩm vừa
mang tính đa dạng nhưng lại siết chặt, nhắm đến từng đối tượng khách hàng.
Khó khăn lớn nhất của ông khi quản lý một danh mục sản phẩm đa dạng như
vậy là gì?
- Khi công ty bạn tung ra thị trường đến 50 sản phẩm trong một năm, vòng đời
trung bình của mỗi sản phẩm là từ 12 đến 24 tháng, bạn sẽ phải đối mặt với sự lên
xuống thất thường kinh khủng của chúng. Chúng tôi buộc phải đầu tư mạnh cho
việc quản lý chuỗi cung ứng và hỗ trợ khi cần thiết (logistics) để có được tầm nhìn
đúng về thời hạn và vòng đời của sản phẩm. Vấn đề thứ hai là với nhiều sản phẩm
trong tay, việc ưu tiên cho truyền thông càng trở nên quan trọng. Kinh nghiệm của
chúng tôi là người tiêu dùng rất ghét sự nhầm lẫn trong sản phẩm, vì vậy cần phải
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
duy trì mối quan hệ ý nghĩa với khách hàng hơn là triển khai những chiến dịch
marketing hào nhoáng và ầm ĩ.
Vậy sự thay đổi của môi trường truyền thông ảnh hưởng đến những nỗ lực
quảng bá của tập đoàn như thế nào?
- Thế giới truyền thông đã hoàn toàn đổi thay tại Tây Âu, Bắc Mỹ, một số vùng
của châu Á và Mỹ Latinh. Truyền thông giờ đây không chỉ đơn thuần là việc đưa
ra một thông điệp nữa, mà bạn còn phải khởi xưởng những cuộc đàm luận thật thú

vị và xây dựng mối quan hệ có ý nghĩa với khách hàng của mình. Internet đang
nắm giữ vai trò quan trọng mà trước đây ít ai có thể hình dung được. Các nhãn
hiệu được quảng bá và huỷ diệt đều từ trên Internet, và đã có hẳn những nguyên tắc
marketing riêng cho lĩnh vực quảng cáo trực tuyến.
Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất chính là niềm tin và sự tôn trọng lẫn
nhau. Tôi thấy có một hình ảnh rất đáng để suy ngẫm về khái niệm marketing trên
Internet: một chú cừu non nớt dưới nanh vuốt sắc nhọn của vị chúa sơn lâm. Vậy
đấy! Khi bạn gia nhập cuộc chơi với những người khác, họ có thể sẽ tìm ra và “ăn
tươi nuốt sống” bạn lúc nào không hay. Người tiêu dùng trên mạng có vẻ rất thông
thoáng với những ý tưởng thú vị và họ muốn được “đồng sáng tạo” nội dung với
bạn, nhưng đừng nhầm lẫn một điều: họ không phải là những người chịu trách
nhiệm trong công việc của bạn.
Các nhân viên marketing của chúng tôi đã tìm hiểu cách để tạo dựng hình ảnh
của Nokia thông qua Internet. Là một nhà sản xuất hàng hoá công nghiệp, chúng
tôi vẫn phải đẩy mạnh khía cạnh ý nghĩa nội dung. Tuy nhiên chúng tôi vẫn chưa
tìm được biện pháp để khai thác những khả năng sáng tạo trong quảng cáo để mọi
người khi nói đến sản phẩm mới của Nokia bằng một thái độ hứng thú và mới mẻ.
Quảng cáo kiểu biểu ngữ (banner) không phải là lãng phí, nhưng nó không hiệu
quả cho lắm. Tôi cho rằng, truyền thông gắn chặt với một bối cảnh cụ thể sẽ mang
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
ý nghĩa nhiều hơn. Do vậy, Nokia đã đầu tư rất nhiều nhằm nghiên cứu cách mà
các nhãn hiệu có thể tương tác với các trang web như YouTube hoặc MySpace
cùng với các blog.
Chúng tôi cũng cho rằng trong tương lai thì điện thoại di động sẽ trở thành
phương tiện truyền thông quan trọng nhất, đặc biệt là khi chức năng GPS được
kích hoạt cho tất cả các loại máy. Điện thoại di động sẽ sản sinh ra những loại hình
kinh doanh mới dưới hình thức phân bổ lợi nhuận quảng cáo.
Ông có thể cho độc giả biết về tình hình tại một số thị trường đang nổi bật?

- Mọi người truy cập Internet thông qua những cách hoàn toàn khác nhau. Chẳng
hạn như, tại Trung Quốc, lượt truy cập vào website mobile.nokia.com lớn hơn so
với bất kỳ quốc gia nào khác, nhưng trong số những người truy cập lại có người
không hề có máy tính. Họ sử dụng mobile. Tương tự như vậy với Ấn Độ, Châu Phi
và Trung Đông. Vậy nên khi xây dựng các giải pháp và dịch vụ Internet, chúng tôi
nghĩ đến những thị trường này đầu tiên.
Tiềm năng phát triển tại những thị thị trường này cũng rất đáng ngạc nhiên. Họ
chiếm một thị phần lớn trên thị trường toàn cầu của chúng tôi, hơn hẳn những thị
trường phát triển khác, xét về mặt toán học. Khách hàng của bạn có hẳn cả hàng tỉ
người, có thể sức mua của họ có giới hạn thôi, nhưng một khi sản phẩm như những
thiết bị điện thoại của chúng tôi đã chứng minh có những tiện ích nổi bật, nâng cao
tiêu chuẩn đời sống của người nông dân, ngư dân, thợ thủ công… giúp họ tìm được
thị trường để cung cấp hàng hoá theo yêu cầu, trong khi trước đây họ đã rất tiêu
tốn thời gian cho việc này, chắc chắn sẽ có sức hút đối với họ. Đây cũng là một
bước chuyển biến lớn trong cuộc sống của người dân tại Ấn Độ và Châu Phi, nơi
đường dây điện thoại cố định còn tương đối ít và cơ sở hạ tầng còn nghèo nàn.
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
Có thể nói, chúng tôi rất tự hào về những thành công của mình. Nokia muốn xây
dựng một viễn cảnh về thế giới với khoảng ba đến bốn tỉ người dân được kết nối
với nhau chỉ thông qua việc bấm bàn phím.
Chiến lược và phương pháp marketing của tập đoàn tại những thị trường
đang nổi bật có gì khác nhau hay không?
- Tại những thị trường mà người tiêu dùng quan tâm đến vấn đề giá cả, việc sản
xuất các sản phẩm đòi hỏi rất nhiều khoản đầu tư về chất xám, thiết kế và kỹ thuật.
Để thiết kế và sản xuất ra những sản phẩm giá khoảng 500$ là một chuyện, nhưng
để truyền tải các giá trị niềm tin, chất lượng, tính kết nối tương tự trong những sản
phẩm Nokia trị giá khoảng 50-60$ lại đòi hỏi rất nhiều sáng kiến và nỗ lực. Phải
làm sao để người tiêu dùng biết được rằng, tất cả các sản phẩm của Nokia, dù ở bất

kỳ mức giá nào, đều có chất lượng như nhau.
Đồng thời, chúng tôi cũng đề cao việc xây dựng hệ thống cơ sở chăm sóc khách
hàng tại các thị trường này. Bởi nhiều người dân ở đây xem việc mua điện thoại là
một quyết định đầu tư cho cuộc sống, công việc của họ, giống như người dân ở các
nước phát triển mua xe hơi vậy! Ngoài ra chúng tôi cũng đầu tư mạnh vào việc xây
dựng hệ thống phân phối, đại lý chính hãng của Nokia tại những thị thị trường này.
Phát triển đội ngũ nhân viên bán hàng, hệ thống đại lý là một lợi thế cạnh tranh,
nhất là với các vùng sâu vùng xa ở Trung Quốc, Nga, Ấn Độ…
Ông có thể nói chút ít về cách tiếp cận của Nokia để thấu hiểu người tiêu
dùng?
- Cách tiếp cận của chúng tôi là đặt con người vào vị trí trung tâm của việc thiết
kế và sản xuất. Chúng tôi quan sát trước, rồi sau đó mới thiết kế sản phẩm. Đồng
thời chúng tôi cũng có hẳn một đội ngũ các nhà khoa học thuộc đủ các ngành như
nhân loại học, dân tộc học, tâm lý học, các chuyên gia quan sát hành vi người tiêu
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
dùng. Các nghiên cứu của đội ngũ này định hình nên chiến lược phát triển và các
thiết kế của Nokia.
Một vấn đề quan trọng mà chúng tôi nghiên cứu chính là tiềm thức của con
người và các lý do khiến cho người tiêu dùng mua sản phẩm. Ngoài các lý do về
kỹ thuật, chất lượng, mẫu mã, còn có những tác động trong tiềm thức và cảm xúc
của người mua. Chúng tôi cần tìm ra cách “đãi vàng” từ những lý do như thế.
Ngoài đội ngũ marketing “cây nhà lá vườn”, Nokia có tuyển thêm các
marketer từ bên ngoài?
- Trong một, hai năm gần đây, chúng tôi đã thu nhận thêm khoảng 50 nhân viên
từ các tập đoàn sản xuất hàng tiêu dùng như Nike, Pepsi, Reebook, Coke và P&G.
Với sức phát triển và mở rộng quá nhanh trên toàn cầu của Nokia hiện nay, việc
xây dựng nguồn nhân lực marketing trong nội bộ quả là khó khăn. Tuy nhiên, việc
tuyển dụng những nhân viên mới này, với khả năng và kinh nghiệm làm việc của

họ, sẽ tạo nên bản sắc đa dạng trong đội ngũ nhân viên của chúng tôi.
Nokia tự hào là một trong những “đại gia” trong ngành sản xuất điện thoai.
“Mỗi điện thoại di động Nokia đều là một tuyệt tác mang tính nghệ thuật và khoa
học. Chúng được tạo ra để đáp ứng nhu cầu và phong cách sống của bạn. Chúng tôi
chỉ có duy nhất một mục đích, một mục đích và… một mục đích – liên kết mọi
người.
V.Chu kỳ sống của điện thoại nokia 1200
Là một mẫu điện thọai di động dành cho người thu nhập thấp, chiếc máy này chỉ
bao gồm các tính năng cơ bản như nghe, gọi, nhắn tin hay các ghi nhớ công việc
đơn giản. Chính vì vậy mà việc sử dụng các chức năng cơ bản trên từ 1200 cũng vô
cùng đơn giản, ngay cả đối với những người chưa dùng qua di động.
Về thiết kế, với phương trâm "back to basics", Nokia 1200 quay về với kiểu dáng
cổ điển như 1110i. Trọng lượng máy nhẹ, kích thước nhỏ, chỉ 102 x 44,1 x 17,5
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
mm, màu sắc chủ đạo là màu bạc ở mặt trước và màu xám ở mặt sau. Có hai phiên
bản màu cho bạn lựa chọn là màu xanh sáng hoặc vỏ viền màu đen bóng. Tuy
nhiên, hiện trên thị trường chỉ còn màu đen mà thôi.
Bàn phím của 1200 có thiết kế khá giống với 1110i, các phím bấm được bố trí
trên cùng một miếng đệm chứ không tách riêng với mục đích tránh cho bàn phím
khỏi dính bụi, đảm bảo độ nhạy cho các phím bấm. Màn hình của 1200 chỉ hiển thị
đen trắng với độ phân giải màn hình 96 x 68 pixel. Tất nhiên, với những model giá
rẻ như 1200 việc trang bị màn hình màu sẽ không mang lại nhiều hiệu quả vì chất
lượng màn hình cũng sẽ rất tệ.
Thế mạnh của 1200 chính là khả năng thực hiện cuộc gọi và gửi tin nhắn. Chất
lượng âm thanh của cuộc gọi luôn được đảm bảo do máy được trang bị tính năng
lọc bỏ tạp nhiễu để cải thiện chất lượng thoại. Bên cạnh đó, 1200 cũng tỏ ra nổi bật
với khả năng bắt sóng rất tốt ngay cả trong vùng sóng yếu. Dung lượng pin cũng
rất dồi dào, có thể đàm thoại trong 7 giờ và ở chế độ chờ 390 giờ.

Một tính năng khá đặc biệt nữa ở Nokia 1200 là tính năng quản lý thời gian cuộc
gọi, giúp tiết kiệm cước phí di động cho người dùng. Điện thoại sẽ tự động ngắt
sau khi hết thời gian bạn đặt cho một cuộc thoại.
Chiếc điện thoại này có nhạc chuông đa âm và nhạc MP3 được tải sẵn với 32
tiếng khác nhau. Một tính năng lý tưởng khác là thoại rảnh tay, nghĩa là hỗ trợ
thoại mà không cần cầm điện thoại.
Mặc dù màn hình đen trắng của máy hiển thị chữ viết khá rõ ràng, dễ đọc, nhưng
do kích thước nhỏ và độ phân giải còn thấp nên chỉ hiển thị được 3 dòng tin nhắn,
tương đương 9 từ một lần. Vì vậy, bạn phải mất công bấm xuống để xem tin.
Cũng như nhiều điện thoại giá rẻ khác như Nokia 2310, 1200 không hỗ trợ FM
radio. Máy cũng không hỗ trợ Bluetooth và danh bạ điện thoại chỉ lưu được hai
trăm số.
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03
Phân tích chiến lược sản phẩm trong chu kỳ sống của NOKIA
Nhưng chúng ta khônhg thể phủ nhận thành công của nhưngx chú dế1200. Với
tính năng nhắn tin nhanh, 1200 đang là xu hướng của các bạn trẻ hiện nay. Có
khoảng 75% lựa chọn sản phẩm này là chiếc điện thoại dùng để dễ sử dụng , đơn
giản, nhẹ ,gọn.có thể nói dù ra đời đã được 6 năm nhưng 1200 vẫn luôn giữ được
phong độ của mình , vẫn luôn là sự lựa chọn thú vị của nhiều người. Hiện nay, đã
có rất nhiều điện thoại với tính năng cao như 1201,x2, e63,e72 ,c3 thì 1200 đã trở
thành một chú dế phụ thứ 2. Tuy hiện nay 1200 không còn là sản phẩm thịnh
hành.Hiện nay nhiều người sành điệu mà hầu hết là giới trẻ đang có “mốt” sử dụng
2 tay 2 súng và chiếc sung thứ 2 được lựa chọn số 1 vẫn là1200.Mọi sản phẩm đều
có chu kì sống của nó, không có sản phẩm điện thoại nào ra đời mà lại nhanh
chóng được đón nhận như1200 và có dòng đời được sử dụng lâu đến vậy. Ở Việt
Nam mức sống của người dân vẫn đang ở mức trung bình nên 1200 vẫn rất được
nhiều người tin dung bởi nó phù hợp với mức thu nhập của người dân Việt. Có thể
nói hiện nay 1200 đang ở mức bão hòa hay nói cách khác nó đang chuyển từ giai
đoạn tăng trưởng để sang giai đoạn trưởng thành .

Trải qua 1 chu kì dài đến giờ vẫn là sự lựa chọn của nhiều người tiêu dung là 1
thành công rất lớn của nokia1200. Chính những cái căn bản của chiếc điện thoại
này lại trở thành ưu điểm để nó được ưu ái của người tiêu dung. Và 1200 đã được
rất nhiều người tiêu dung tin tưởng và lựa chọn, để lại ấn tượng đẹp về một sản
phẩm bình dị: “KẾT NỐI THEO CÁCH CỦA BẠN”

KẾT LUẬN
GVHD: Lê Đức Lâm Lớp :CDTN12TH
SVTH : Nhóm 03

×