Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý kinh doanh vàng theo chức năng của ngân hàng trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.35 KB, 100 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
Giai đoạn 1994-1996............................................................................................................................38
Giai đoạn 1997-1998 (Giai đoạn khủng hoảng tài chính khu vực).......................................................39


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DTNHNN
NHNN
HĐBT
NHTW
PBOC
SGE
IMF
TCTD
WGC
XHCN
USD
EUR
JPY
GBP
VND
GDP
TTNTLNH
VBĐQ
NHTM

Dự trữ ngoại hối Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước
Hội đồng Bộ trưởng


Ngân hàng Trung ương
Ngân hàng Trung ương Nhân dân Trung Hoa
Sàn giao dịch vàng Thượng Hải
Quỹ tiền tệ quốc tế
Tổ chức tín dụng
Hiệp hội vàng thế giới
Xã hội chủ nghĩa
Đồng Đô la Mỹ
Đồng Euro
Đồng Yên Nhật
Đồng Bảng Anh
Đồng Việt Nam
Tổng sản phẩm quốc nội
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Vàng bạc đá quý
Ngân hàng thương mại


DANH MỤC CÁC BẢNG
Giai đoạn 1994-1996............................................................................................................................38
Giai đoạn 1997-1998 (Giai đoạn khủng hoảng tài chính khu vực).......................................................39


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Theo thơng lệ quốc tế, đa số ngân hàng trung ương các nước đều được
giao nhiệm vụ quản lý dự trữ ngoại hối để thực hiện việc điều hành chính
sách tiền tệ và ổn định tỷ giá cũng như giá vàng trong nước. Trong cơ cấu đầu
tư dự trữ ngoại hối, ngoài các ngoại tệ mạnh chiếm tỷ trọng lớn trong thanh
toán xuất nhập khẩu, vay nợ và đầu tư, vàng cũng chiếm một tỷ trọng nhất

định với hầu hết các nước. Trong hoạt động quản lý vàng, hầu hết các nước
đều dự trữ vàng dưới hình thức vàng trên tài khoản và ít đầu tư vàng dưới
dạng vật chất.
Đối với Việt Nam, theo Luật NHNN (Điều 5), một trong những nhiệm
vụ được giao là quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh vàng đồng thời
NHNN cũng có nhiệm vụ quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước (DTNHNN) bao
gồm có vàng được đầu tư trên thị trường trong nước và quốc tế để đảm bảo
mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ và ổn định tỷ giá, giá vàng.
Tuy nhiên, việc quản lý vàng thuộc dự trữ ngoại hối nhà nước trong
thời gian qua cịn có những tồn tại, hạn chế sau:
- Tỷ trọng vàng trong DTNHNN rất thấp, không thay đổi về mặt hiện
kim (hiện chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 2% trong tổng DTNHNN) mặc dù tổng
DTNHNN trong thời gian qua tăng trưởng mạnh mẽ (đặc biệt là năm 2007).
- Vàng DTNHNN mới chỉ được quản lý dưới hình thức vàng vật chất
tại các kho vàng trong nước của NHNN, chưa được đầu tư một cách có hiệu
quả trên thị trường quốc tế.
- Hoạt động can thiệp bình ổn giá vàng của Quỹ Bình ổn tỷ giá và giá
vàng mới thực hiện dưới hình thức hỗ trợ bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp
nhập khẩu vàng mà không thực hiện can thiệp bán vàng trong khi vàng thuộc
DTNHNN chủ yếu là vàng vật chất.
Ngồi ra, về qui mơ đầu tư vàng thuộc DTNHNN, hiện nay, các nước
có những quan điểm dự trữ vàng rất khác nhau, một số nước dự trữ nhiều
1


vàng, trong khi đó một số nước lại dự trữ ít vàng. Ví dụ, Mỹ dự trữ vàng lên
tới trên 77% tổng dự trữ ngoại hối. Trong khi đó, NHTW Châu Âu lại dự trữ
khoảng 25%, còn với Thái lan và các nước Châu Á khác chỉ dự trữ ở mức
kiêm tốn 2-5% (số liệu vào cuối năm 2009, nguồn: Hiệp hội vàng thế giới
WGC). Bên cạnh việc nâng cao hiệu quả quản lý số vàng hiện có, NHNN

cũng cần phải có nghiên cứu tồn diện về tỷ lệ vàng thích hợp cần được duy
trì trong DTNHNN.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, nhiều ngân hàng và công ty
kinh doanh vàng thành lập sàn kinh doanh vàng trên tài khoản cũng như kinh
doanh vàng vật chất một cách tự phát với qui mơ lớn nhằm mục đích đầu cơ,
chứa đựng nhiều rủi ro, đe doạ đến sự an toàn của tổ chức tín dụng cũng như
tạo ra nguy cơ gây mất ổn định xã hội. Do vậy, có quá nhiều thành viên viên
bao gồm cả cá nhân tham gia hoạt động này và chưa có quy định các tỷ lệ an
tồn đối với các tổ chức tín dụng và công ty kinh doanh vàng khi cung ứng
hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản. Đồng thời, cững chưa có qui định
nào với các tổ chức này khi cho vay để ký quỹ đầu tư kinh doanh vàng trên
tài khoản.
Với mục tiêu nâng cao hiệu quả công tác quản lý DTNHNN trong thời
gian tới cũng như chấn chỉnh hoạt động kinh doanh vàng trong nước bao gồm
hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản, NHNN cần phải nghiên cứu để có
lộ trình nới lỏng hoạt động kinh doanh vàng trong nước, khắc phục những tồn
tại và hạn chế nêu trên nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý vàng theo
chức năng của NHTW.
Hiện nay, NHNN đang tiến hành việc sửa đổi các quy định pháp lý liên
quan đến dự trữ ngoại hối nàh nước cũng như chuẩn bị ban hành các văn bản
điều chỉnh hoạt động kinh doanh vàng nói chung, kinh doanh vàng trên tài
khoản nói riêng nên đề tài “Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý kinh
doanh vàng theo chức năng của Ngân hàng Trung ương” sẽ là một nghiên
cứu thiết thực, tạo tiền đề cho việc đề xuất các giải pháp cần thiết để nâng cao

2


hiệu quả quản lý vàng theo chức năng của NHTW nói chung và hiệu quả
quản lý vàng thuộc DTNHNN nói riêng.

2. Mục đích nghiên cứu của Đề tài
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý vàng thuộc DTNHNN và hoạt
động quản lý thị trường vàng trong nước của NHNN, đặc biệt là hoạt động
kinh doanh vàng trên tài khoản thời gian qua.
- Phân tích những bất cập, rủi ro trong công tác quản lý vàng thuộc
DTNHNN và hoạt động quản lý thị trường vàng trong nước thuộc chức năng của
NHNN, đặc biệt là hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản của các TCTD.
- Đề xuất các giải pháp và lộ trình thực hiện các giải pháp nâng cao
hiệu quả đầu tư vàng thuộc DTNHNN và nâng cao hiệu quả quản lý hoạt
động kinh doanh vàng theo chức năng của NHNN (bao gồm kinh doanh vàng
trên tài khoản của các TCTD).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Lý luận chung về vàng thuộc DTNHNN với những nội dung cơ bản
về khái niệm, vài trò của vàng trong DTNHNN, các hình thức đầu tư vàng
trên thị trường quốc tế.
- Kinh nghiệm quốc tế về quản lý vàng thuộc DTNHNN, xu hướng
quốc tế về dự trữ vàng và quản lý hoạt động kinh doanh vàng thuộc chức
năng của NHTW.
- Thực trạng công tác quản lý hoạt động kinh doanh vàng thuộc chức
năng quản lý của NHNN và việc quản lý vàng thuộc DTNHNN trong thời
gian gần đây. Từ đó, đề xuất cấc giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vàng
thuộc DTNHNN và hoạt động kinh doanh vàng trong nước thuộc chức năng
của NHNN.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng lý thuyết và kinh nghiệm tổng kết về quản lý vàng thuộc dự
trữ ngoại hối và quản lý vàng theo chức năng của NHTW.
- Đánh giá tình hình thực trạng và so sánh với kinh nghiệm quốc tế về
quản lý vàng thuộc DTNHNN và quản lý hoạt động kinh doanh vàng trong
nước nhằm đúc rút kinh nghiệm.
3



- Sử dụng trợ giúp kỹ thuật và tư vấn của các chuyên gia trong và ngoài
nước cũng như các tài liệu nghiên cứu trong và ngồi nước.
5. Những đóng góp của Đề tài
- Đề tài xây dựng một cơ sở lý thuyết về vai trò quản lý vàng thuộc
DTNHNN và hoạt động kinh doanh vàng thuộc chức năng của NHTW, lộ
trình tự do hố hoạt động quản lý vàng thuộc chức năng của NHTW mà các
nghiên cứu trước đây chưa đề cập rõ.
- Đề tài tổng kết được kinh nghiệm của một số nước về việc quản lý
vàng thuộc DTNHNN và hoạt động hinh doanh vàng trong nước thuộc
chức năng của NHTW mà các nghiên cứu trước đây chưa đề cập hoặc đề
cập sơ lược.
- Từ các nội dung nêu trên, đề tài gợi mở định hướng nới lỏng hoạt
động quản lý vàng thuộc DTNHNN và hoạt động kinh doanh vàng trong nước
thuộc chức năng của NHNN theo lộ trình.
- Đề tài tổng hợp được thực trạng cơng tác quản lý vàng thuộc
DTNHNN và hoạt động quản lý vàng trong nước thuộc chức năng của NHNN
cũng như chỉ ra được những bất cập, rủi ro, lỗ hổng pháp lý trong công tác
quản lý vàng thuộc DTNHNN và quản lý thị trường vàng thuộc chức năng
quản lý của NHTW mà các nghiên cứu trước chưa đề cập.
- Đề tài đề xuất các định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý
vàng thuộc DTNHNN và hoạt động kinh doanh vàng trong nước thuộc chức
năng quản lý của NHNN theo lộ trình và sự phối hợp với các bộ ngành mà
các đề tài trước đây chưa đề xuất.
6. Kết cấu của Đề tài
Chương I:

Cơ sở lý luận chung về vàng và quản lý hoạt động kinh
doanh vàng của Ngân hàng Trung ương.


Chương II:

Thực trạng công tác quản lý vàng thuộc Dự trữ ngoại hối Nhà
nước và quản lý hoạt động kinh doanh vàng tại Việt Nam.

Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vàng và hoạt động
kinh doanh vàng theo chức năng của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam.
4


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VÀNG VÀ QUẢN LÝ
VÀNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
1.1. Lịch sử, vai trò của vàng và chức năng quản lý vàng của Ngân
hàng Trung ương
1.1.1. Lịch sử tiền tệ của vàng
Việc sử dụng vàng như một loại tiền tệ đã trải qua quá trình lịch sử lâu
dài. Lịch sử tiền tệ của vàng có thể tóm tắt như trong bảng sau:
Bảng 1.1: Những mốc quan trọng trong lịch sử tiền tệ của vàng
5000 năm trước Công nguyên
700 năm trước Công nguyên

Vàng là phương tiện trung gian trao đổi.
Electrum- hợp kim tự nhiên giữa vàng và
bạc dùng để đúc những đồng tiền đầu tiên.
500 năm trước Công nguyên
Những đồng tiền đầu tiên được đúc bằng
vàng nguyên chất với trọng lượng và độ tinh
khiết được đảm bảo.

1300-1400 sau Công nguyên
Thời kỳ của tiền giấy cùng với những đồng
tiền vàng, bạc và tiền kim loại khác.
Từ năm 1850
Chuyển từ chế độ song bản vị tiền vàng và
bạc sang chế độ bản vị đơn: Chế độ bản vị
vàng đầy đủ.
Sau năm 1914
Chuyển đổi dần sang chế độ bản vị vàng
khối, giấy bạc được đảm bảo bằng vàng khối
với tỷ lệ do pháp luật quy định.
Sau năm 1925
Chuyển dần sang chế độ bản vị vàng chuyển
đổi, nguồn dự trữ tiền tệ có thể giữ dưới
dạng tiền đảm bảo bằng vàng. Sau năm
1940, đồng tiền duy nhất các NHTW có thể
dùng để mua vàng là USD với bản vị chuyển
đổi giá ngang nhau là 35USD/ oz.
Từ năm 1968
Bãi bỏ chế độ giá vàng ấn định 35USD/oz.
Thị trường vàng chia thành Thị trường chính
thức cho các giao dịch của NHTW với giá
ấn định cũ và Thị trường tự do cho các
thành viên khác.
Năm 1971
Mỹ bỏ chế độ chuyển đổi USD ra vàng.
Năm 1973
Các NHTW được quyền bán vàng ra thị
trường tự do, chế độ tỷ giá thả nổi.
Năm 1978

Các NHTW được mua vàng từ thị trường tự
do. Các nhà kinh doanh tư nhân và chính
thức được tự do kinh doanh vàng.
Nguồn: World Gold Council (WGC)
5


1.1.2 Vai trị của vàng
Vàng vừa có vai trị là một hàng hố đặc biệt vừa có vai trị là tiền tệ.
- Vai trị hàng hố của vàng:
Hàng hố là sản phẩm của lao động, được trao đổi, mua bán nhằm thoả
mãn nhu cầu nào đó của con người. Hàng hố có hai thuộc tính là giá trị sử
dụng hay ích dụng của hàng hoá thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và
giá trị hay lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng
hoá. Với cách hiểu này, vàng được coi là một loại hàng hố do có đầy đủ hai
thuộc tính kể trên.
Giá trị sử dụng của vàng rất đa dạng. Vàng trước tiên được dùng làm
đồ trang sức, mỹ nghệ do vàng có mầu sắc rực rỡ, dễ gia cơng và lâu bền với
thời gian. Đồ trang sức bằng vàng từ lâu đã được ưa chuộng nhờ tính thẩm
mỹ và độ bền của vàng, là biểu tượng của sự giàu có và quyền lực. Ngày nay,
với sự phát triển của trình độ kim hồn, sản phẩm trang sức bằng vàng có mẫu
mã ngày càng phong phú, thu hút được sự quan tâm của người tiêu dùng và
do đó nhu cầu vàng trang sức vẫn không ngừng tăng cao ở các quốc gia.
Ngồi được sử dụng làm đồ trang sức, vàng cịn là nguyên liệu quan
trọng trong các ngành dược, thực phẩm, cơ khí và điện tử.
- Vai trị tiền tệ của vàng:
Vàng có đầy đủ chức năng của tiền tệ đó là: thước đo giá trị, phương
tiện thanh toán, phương tiện cất trữ và tiền tệ thế giới. Vàng được dùng để
làm chuẩn đo giá trị của các tài sản khác đặc biệt là tài sản có giá trị lớn như
nhà cửa, đất đai… Việc sử dụng vàng là thước đo giá trị chung cho tất cả các

loại hàng hoá giúp cho việc trao đổi được thực hiện dễ dàng thông qua
phương tiện thanh tốn là vàng.
Ngồi ra, vàng cịn là phương tiện cất trữ phổ biến hơn bất kỳ loại tiền
tệ nào do tính chất vật lý bền vững của vàng trước nguy cơ xảy ra thiên tai,
chiến tranh, hoả hoạn. Đồng thời, tiền vàng khác tiền giấy ở chỗ tiền vàng
luôn giữ được giá trị lâu dài, không phải là tài sản nợ của bất kỳ quốc gia nào
do đó giá trị tiền vàng khơng phụ thuộc vào tình hình chính trị và sự kiểm
6


sốt của các quốc gia như tiền giấy. Đó chính là lý do vàng được lựa chọn là
phương tiện cất trữ phổ biến, đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế hay
leo thang chính trị.
Vàng cũng đóng vai trị tiền tệ thế giới do vàng được chấp nhận thanh
toán ở các quốc gia, không phân biệt biên giới lãnh thổ. Do vậy, vàng thường
được NHTW các nước nắm giữ như một tài sản dự trữ quốc tế bên cạnh các
đồng tiền mạnh để hỗ trợ cán cân thanh toán trong trường hợp đối mặt với
khủng hoảng, thiên tai hay chiến tranh.
1.1.3. Chức năng quản lý vàng của Ngân hàng Trung ương
Như đã phân tích tại phần vai trị của vàng, một trong hai vai trò quan
trọng của vàng là vai trò tiền tệ. Trên thực tế, mặc dù vai trị tiền tệ của vàng
có giảm theo thời gian cùng với sự phát triển của tiền giấy nhưng khơng thể
hồn toàn mất đi đặc biệt là chức năng cất trữ giá trị và tiền tệ quốc tế. Do
vậy, với chức năng là cơ quan thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, hầu hết
NHTW các nước đều có chính sách quản lý vàng thông qua việc quản lý vàng
thuộc dự trữ ngoại hối quốc gia và quản lý thị trường vàng trong nước.
Đối với hoạt động quản lý vàng thuộc dự trữ ngoại hối quốc tế, hầu hết
NHTW các nước đều được giao quản lý tài sản dự trữ trong đó có vàng để
thực thi chính sách tiền tệ.
Đối với hoạt động quản lý thị trường vàng trong nước, tuỳ vào mức độ

sử dụng vàng như một loại tiền tệ ở từng quốc gia mà chính sách quản lý cũng
khác nhau.
Ở những nước phát triển, giá trị đồng nội tệ ổn định hoặc có đồng nội tệ
là đồng tiền tự do chuyển đổi, thị trường tài chính và các cơng cụ đầu tư tài
chính phát triển thì vàng chỉ đóng vai trị là hàng hố hoặc cơng cụ đầu tư tài
chính thơng thường. Do vậy, thường khơng cịn hạn chế đối với hoạt động
kinh doanh vàng ở các thị trường này. Ở rất nhiều nước, vàng được giao dịch
như hàng hố tại các Sở giao dịch hàng hố chính thức. Các Sở giao dịch
hàng hoá được thành lập dưới dạng cơng ty, có tư cách pháp nhân độc lập, do
tư nhân đầu tư 100% hoặc kết hợp giữa vốn tư nhân và Nhà nước. Hoạt động
7


của Sở do các Uỷ ban chuyên trách như Uỷ ban chứng khoán và hàng hoá
giám sát và quản lý. Khi đó, NHTW khơng thực hiện chức năng quản lý đối
với hoạt động kinh doanh vàng. Dưới đây là một số Sở giao dịch hàng hố lớn
có giao dịch vàng trên thế giới:
Bảng 1.2. Một số Sở giao dịch hàng hố lớn có giao dịch vàng trên thế giới
Sở giao dịch
New York Mercantile
Exchange (CME Group)
Dubai Gold &
Commodities Exchange
Hong Kong Mercantile
Exchange
Multi Commodity
Exchange
National Multi-

Tên viết

tắt
NYMEX
DGCX

MCX

Exchange Limited
Tokyo Commodity
Exchange

NCEL

Hàng hoá giao dịch

New York,

Energy, Precious Metals,

US

Industrial Metals

Dubai

Precious Metals

HKMEx Hong Kong

Commodity Exchange of NMCE
India Ltd

National Commodity

Địa điểm

India

India

Pakistan

Gold
Energy, Precious Metals,
Metals, Agricultural
Precious Metals, Metals,
Agricultural
Precious Metals,
Agriculture
Energy, Precious Metals,

TOCOM Tokyo,Japan Industrial Metals,

London Metal Exchange LME
Nguồn: Tổng hợp

Agricultural
London, UK Industrial Metals, Plastics

Ngược lại, ở những nước đang phát triển, các phương tiện thanh tốn,
đầu tư cịn nghèo nàn, giá trị đồng bản tệ kém ổn định thì việc dùng vàng làm
phương tiện cất trữ giá trị, tự bảo hiểm chống lạm phát còn rất phổ biến khiến

vai trò tiền tệ của vàng được phát huy. Do vậy, NHTW các nước này (ví dụ
như Trung Quốc, Myanma, Việt Nam,...) thường có chính sách quản lý chặt
chẽ đối với hoạt động kinh doanh vàng để bảo đảm thực thi hiệu quả chính
sách tiền tệ quốc gia. Cụ thể, trong Luật NHTW Trung Quốc, Myanma và
8


Việt Nam có quy định rõ một trong những chức năng của cơ quan này là quản
lý và giám sát thị trường vàng.
Tuy nhiên, cùng với xu thế tự do hóa thị trường tài chính của các nước
đang phát triển, chính sách quản lý hoạt động kinh doanh vàng của các nước
cũng ngày càng được nới lỏng. Thông thường quá trình tự do hố thị trường
vàng trải qua ba giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Nền kinh tế đóng cửa, các hoạt động về vàng bị cấm
hoàn toàn.
+ Giai đoạn 2 : Các quy định về hạn chế hoạt động kinh doanh vàng
được nới lỏng dần trong một mơi trường có sự quản lý của Nhà nước.
+ Giai đoạn 3: Không có cản trở gì trong hoạt động kinh doanh vàng
(hồn toàn tự do), kể cả trong quan hệ xuất nhập khẩu.
1.2. Các hình thức đầu tư, kinh doanh vàng thuộc dự trữ ngoại hối
và trên tài khoản
1.2.1. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới giá vàng
Cũng giống như các loại hàng hố khác, giá vàng cũng được hình thành
từ quan hệ cung cầu về vàng. Nguồn cung vàng bao gồm: lượng vàng đã khai
thác đang được các nhà đầu tư nắm giữ và sản lượng vàng khai thác mới hàng
năm. Theo số liệu của Hiệp hội vàng quốc tế, sản lượng vàng khai thác hàng
năm tương đối ổn định, vào khoảng 2.500 tấn/năm trong vòng 10 năm gần
đây. Trong đó, khoảng 2.000 tấn được sử dụng làm đồ trang sức, sử dụng
trong các ngành cơng nghiệp, cịn lại 500 tấn được đưa vào thị trường để mua
bán. Như vậy, mặc dù lượng vàng bổ sung vào thị trường mỗi năm không lớn

nhưng trải qua một thời gian dài, lượng vàng đã từng khai thác hiện nay đang
được nắm giữ bởi các nhà đầu tư ước tính vào khoảng 158.000 tấn (số liệu
cuối năm 2006). Điểm khác biệt về cung vàng so với cung các loại hàng hố
khác chính là ở chỗ lượng vàng đã khai thác vẫn luôn tồn tại và chiếm tỷ lệ
lớn so với sản lượng khai thác hàng năm. Lượng vàng này có thể quay lại
tham gia mua bán trên thị trường bất kể lúc nào nhà đầu tư có nhu cầu.
9


Xét về nhu cầu vàng, nhu cầu vàng vật chất để sử dụng chế tác đồ trang
sức và phục vụ trong các ngành công nghiệp hàng năm vào khoảng 2.000 tấn.
Tuy nhiên, tổng khối lượng vàng được mua bán trên các sàn vàng trên thế
giới ước tính vào khoảng 3.500 tấn/ năm. Như vậy, có một lượng vàng lớn
khoảng 1.500 tấn vàng được mua bán trên thị trường với mục đích đầu cơ và
tích trữ.
Từ phân tích những đặc điểm riêng khác như trên cho thấy cung cầu
đối với vàng phụ thuộc không lớn vào sản lượng khai thác hàng năm cũng
như cầu đối với vàng vật chất mà thực tế yếu tố đầu cơ, tích trữ hay kỳ vọng
mới là nguyên nhân cơ bản tác động tới cung cầu và từ đó ảnh hưởng tới giá
vàng. Ngồi ra, do giá vàng thường được quy đổi ra đô la Mỹ nên giá vàng
cũng phụ thuộc vào giá đô la Mỹ.
Không tính những biến động về sản lượng khai thác tại một thời điểm
nào đó hoặc nhu cầu vàng trang sức tăng theo mùa như lễ hội, cưới hỏi vào
cuối năm có thể tác động nhất định tới giá vàng, những yếu tố cơ bản ảnh
hưởng tới tâm lý tích trữ hoặc bán ra vàng của nhà đầu tư gồm:
- Biến động của đồng đô la Mỹ:
Đồng đô la Mỹ mất giá sẽ khiến giá vàng quy đổi ra USD tăng lên và
ngược lại. Do vậy, giá vàng sẽ có xu hướng tăng khi nhà đầu tư kỳ vọng vào
sự giảm giá của đồng bạc xanh khi nhìn vào các chỉ số kinh tế như lạm phát,
lãi suất tiền gửi của Mỹ… Kỳ vọng lạm phát tăng trong tương lai dẫn tới lo

ngại về sự mất giá của USD sẽ khiến nhà đầu tư từ bỏ đầu tư vào đồng tiền
này. Tương tự như vậy, khi lãi suất USD thấp sẽ khiến đồng tiền này trở
thành kênh đầu tư kém hấp dẫn hơn so với các đồng tiền khác, từ đó có thể
dẫn tới sự giảm giá của đồng USD. Tóm lại, bất kể yếu tố nào có thể ảnh
hưởng tới sự lên giá hay mất giá của đồng USD đều là yếu tố ảnh hưởng tới
giá vàng.
- Biến động của các thị trường hàng hoá:

10


Do vàng vừa có vai trị là hàng hố vừa có vai trị tiền tệ nên sự biến
động giá cả trên thị trường hàng hoá ảnh hưởng rất lớn tới giá vàng. Khi giá
các hàng hoá chủ chốt như dầu thơ sụt giảm thì nhà đầu tư sẽ tìm đến hàng
hoá khác thay thế hoặc đầu tư vào thị trường tiền tệ. Trong cả hai trường hợp
này thì vàng vẫn là một kênh đầu tư thay thế hấp dẫn.
- Biến động của thị trường chứng khoán (thị trường vốn):
Bên cạnh thị trường tiền tệ, thị trường hàng hoá, thị trường vốn cũng là
một kênh đầu tư thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhà đầu tư. Do đó, sự biến
động của thị trường chứng khốn tồn cầu đặc biệt là thị trường chứng khoán
Mỹ là yếu tố quan trọng tới tâm lý của nhà đầu tư. Sự sụt giảm của các chỉ số
chứng khốn do tín hiệu bi quan về triển vọng phát triển của các doanh
nghiệp sẽ khiến nhà đầu tư tìm đến các kênh đầu tư thay thế khác trong đó có
vàng. Đồng thời, thị trường chứng khoán với tư cách là hàn thử biểu của nền
kinh tế nếu liên tục đi xuống sẽ là dấu hiệu không khả quan cho sự phát triển
của các nền kinh tế, từ đó gây cho nhà đầu tư tâm lý ngại đầu tư vào các tài
sản rủi ro và tìm đến cơng cụ an tồn hơn là vàng.
- Diễn biến bất thường của nền kinh tế:
Khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng hoặc có xảy ra chiến tranh, thiên
tai, hoả hoạn… thì vai trị của vàng với tư cách là phương tiện cất trữ giá trị

được đánh giá cao hơn bao giờ hết. Kinh tế khủng hoảng khiến tiền giấy mất
giá hoặc biến cố thay đổi về chính trị có thể gây nguy cơ biến đồng tiền của
chế độ cũ trở thành vơ giá trị thì tích trữ vàng rõ ràng là sự lựa chọn an toàn.
Bên cạnh các trường hợp đó, khi xảy ra thiên tai, hoả hạn có thể gây hư hỏng
tiền giấy nhưng vàng thì khơng.
Do vậy, để đề phòng các trường hợp khẩn cấp, bất thường xảy ra đối
với nền kinh tế như các trường hợp kể trên, dân chúng đặc biệt là chính phủ
các nước thường có tâm lý tích trữ vàng vì vàng luôn là vàng, luôn giữ được
giá trị trong mọi trường hợp và là tiền tệ quốc tế trong trao đổi hàng hoá giữa
các quốc gia. Điều này lý giải tại sao giá vàng thường lên cao kỷ lục trong

11


những thời kỳ khủng hoảng, chẳng hạn khủng hoảng tài chính thế giới bùng
nổ năm 2008 đã đẩy giá vàng vượt qua mốc 1.000USD/ounce.
Như vậy, giá vàng thường xuyên biến động do phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố kinh tế, chính trị khác nhau. Từ đó dẫn tới việc dự báo giá vàng thường
rất khó đạt kết quả chính xác.
1.2.2. Lý do đầu tư vào vàng
Vàng đã hấp dẫn nhà đầu tư trong nhiều thế kỷ qua và vẫn là công cụ
đầu tư hấp dẫn các nhà đầu tư hiện đại mặc dù vai trò tiền tệ của vàng đã
giảm bớt và nhu cầu về vàng vật chất đáp ứng nhu cầu sử dụng cũng khơng
lớn như các hàng hố thơng thường khác. Chính tính chất đặc biệt của vàng
vừa là tiền tệ vừa là hàng hoá là lý do hấp dẫn các nhà đầu tư khi muốn tìm
kiếm lợi nhuận từ chênh lệch giá vàng và phòng ngừa rủi ro cho danh mục
đầu tư.
- Đầu tư vàng để hưởng chênh lệch giá:
Cũng giống như hoạt động đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu hay đầu tư
vào thị trường hàng hoá, nhà đầu tư lựa chọn vàng với kỳ vọng vào sự tăng

giá của loại tài sản này. Mặc dù giá vàng thường xuyên biến động, khó dự báo
nhưng những nhà đầu tư có kinh nghiệm sẽ tận dụng chính đặc điểm thường
xuyên biến động này của giá vàng để tìm kiếm chênh lệch giá trong chiến
lược đầu tư ngắn hạn.
Đồng thời, do sản lượng khai thác không phải là vô tận trong khi nhu
cầu về vàng vật chất phục vụ các ngành công nghiệp, dược phẩm vẫn tăng lên
đều đặn thì xu hướng vàng tăng giá trong dài hạn là hiển nhiên.
Do đó, cả nhà đầu tư ngắn và dài hạn đều có thể tìm đến vàng như là
cơng cụ đầu tư nhằm hưởng chênh lệch giá.
- Đầu tư vào vàng như phương tiện phòng ngừa rủi ro:
Một danh mục đầu tư bao gồm vàng thường lành mạnh và ít biến động
hơn danh mục đầu tư không chứa vàng do đầu tư vào vàng sẽ hạn chế rủi ro
lạm phát khi tiền tệ mất giá và rủi ro giảm giá danh mục tài sản.

12


Do vàng là một loại hàng hoá nên khi xảy ra lạm phát khiến đồng tiền
mất giá, giá cả hàng hố tăng cao thì giá vàng cũng sẽ tăng. Nhờ đó, danh
mục đầu tư gồm tiền và vàng sẽ hạn chế được rủi ro lạm phát. Đặc biệt, vàng
là công cụ hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro mất giá của đồng đô la Mỹ hơn bất
kỳ tài sản nào khác do giá vàng phụ thuộc chặt chẽ và diễn biến theo chiều
ngược với giá USD.
Đồng thời, với vai trò tiền tệ, vàng là cơng cụ phịng ngừa rủi ro giảm
giá của danh mục tài sản. Giá vàng ít biến động hơn so với các chỉ số giá cả
hàng hoá và chứng khoán. Do vậy, trong trường hợp do diễn biến kém khả
quan của tình hình kinh tế dẫn tới sự sụt giảm của các loại chứng khoán, dầu
mỏ hay các hàng hố khác thì vàng sẽ đóng vai trị hạn chế sự sụt giảm giá trị
của toàn bộ danh mục.
Như vậy, nhờ tính chất vừa là hàng hố vừa là tiền tệ nên khi có diễn biến

bất lợi đối với giá trị tiền tệ hay giá cả hàng hoá thì giá vàng vẫn được củng cố,
nhờ đó sẽ hạn chế được rủi ro tổng thể đối với toàn bộ danh mục đầu tư.
1.2.3. Các hình thức kinh doanh vàng
Hình thức kinh doanh vàng ngày càng phát triển đa dạng và phong phú
cùng với sự phát triển của thị trường tài chính nói chung. Về cơ bản, nhà đầu
tư có thể kinh doanh vàng vật chất hoặc vàng tài khoản thơng qua các hình
thức dưới đây:
1.2.3.1. Kinh doanh vàng vật chất
Kinh doanh vàng vật chất là việc nhà đầu tư mua và nắm giữ vàng vật
chất dưới dạng tiền vàng, vàng thỏi, vàng miếng nhằm bảo toàn giá trị hoặc
bán ra khi có biến động có lợi về giá. Việc mua bán vàng vật chất sẽ đi cùng
với việc giao nhận vàng trên thực tế. Hoạt động này có thể diễn ra tại các cửa
hàng kinh doanh vàng bạc nhỏ lẻ đối với thị trường chưa phát triển nơi nhà
đầu tư trực tiếp tới cửa hàng để mua bán vàng hoặc thông qua các sàn giao
dịch kim loại quý tại các thị trường phát triển. Lúc này, vàng được giao dịch
cũng như các loại hàng hố thơng thường khác.

13


Ưu điểm của kinh doanh vàng vật chất là nhà đầu tư có thể bảo tồn
lượng vàng vật chất nắm giữ và hạn chế rủi ro khi có biến động lớn về giá do
nhà đầu tư sử dụng 100% vốn của mình để thực hiện hoạt động đầu tư mà
khơng sử dụng địn bẩy tài chính do các tổ chức kinh doanh vàng cung cấp.
Tuy nhiên, mua bán vàng vật chất phát sinh những chi phí đáng kể liên quan
tới giao nhận, bảo quản. Đồng thời, việc không sử dụng địn bẩy tài chính
cũng hạn chế quy mơ giao dịch của các thành viên trên thị trường.
1.2.3.2. Gửi tiết kiệm vàng
Gửi tiết kiệm vàng là việc nhà đầu tư gửi tiết kiệm bằng vàng tại các
ngân hàng có uy tín và được nhận lãi như các khoản tiền gửi thông thường

khác. Đến kỳ đáo hạn, nhà đầu tư có thể rút cả gốc lẫn lãi bằng vàng.
Ưu điểm của hình thức gửi tiết kiệm vàng là nhà đầu tư vẫn có thể bảo
tồn được trạng thái vàng vật chất mà họ muốn duy trì, vừa có thể hưởng lãi
từ tài khoản gửi tiết kiệm, đồng thời hạn chế được rủi ro và chi phí trong việc
tự cất trữ vàng. Ngồi ra, mặc dù được đã gửi tiết kiệm có kỳ hạn tại các ngân
hàng nhưng tính thanh khoản của vàng trên tài khoản tiết kiệm vẫn được đảm
bảo thông qua việc mua bán, chuyển nhượng hay cầm cố các chứng chỉ tiền
gửi do ngân hàng huy động phát hành.
Tuy nhiên, do tính an tồn tương đối cao nên mức lợi nhuận thu được
từ việc gửi tiết kiệm vàng thường thấp hơn các hình thức kinh doanh khác.
1.2.3.3. Cho vay vàng
Cho vay vàng là việc người nắm giữ vàng cho người có nhu cầu sử
dụng hoặc đầu tư vay trong kỳ hạn và với mức lãi suất nhất định được quy
định tại hợp đồng vay. Hợp đồng cho vay thường được ký kết giữa bên cho
vay là các NHTW và bên vay là các định chế tài chính trung gian (ngân hàng,
cơng ty tài chính...) hoặc giữa bên cho vay là các định chế tài chính trung gian
và bên đi vay là các tổ chức kinh doanh vàng.
Lợi ích của việc cho vay vàng cũng tương tự gửi tiết kiệm vàng Đó là
khả năng bảo tồn trạng thái vàng vật chất, thu lãi từ hợp đồng vay và hạn chế

14


rủi ro, chi phí bảo quản vàng vật chất. Ngồi ra, cho vay vàng thường có mức
lợi tức cao hơn so với gửi tiết kiệm vàng.
Tuy nhiên, tính thanh khoản của hợp đồng cho vay vàng thấp hơn so
với gửi tiết kiệm vàng do bên cho vay không thể lấy lại lượng vàng cho vay
trước khi hợp đồng vay đến hạn trong khi người gửi tiết kiệm có thể rút gốc
trước kỳ đáo hạn. Điều này ảnh hưởng tới quyết định cho vay vàng của các
nhà đầu tư khi cân nhắc tính thanh khoản của tài sản.

1.2.3.4. Mua các chứng chỉ quỹ đầu tư vàng
Quỹ đầu tư vàng (Gold exchange-traded fund –GETF) là quỹ đầu tư
huy động vốn của nhà đầu tư để kinh doanh vàng vật chất. Các quỹ đầu tư
phát hành chứng chỉ quỹ để huy động vốn và niêm yết chứng chỉ quỹ trên các
sàn chứng khoán lớn trên thế giới như một loại chứng khoán. Các nhà quản lý
GETF là những chuyên gia kinh doanh vàng, họ theo dõi sát biến động giá
vàng và kiếm lời từ những biến động này. Hiện nay, trên thế giới có các
chứng chỉ GETF nổi tiếng đang được giao dịch như Gold Bullion Securities,
SPDR Gold Trust, Dubai Gold Securities, Gold Bullion Securities Australia,
NewGold... ,trong đó SPDR Gold Trust là quỹ đầu tư vàng vật chất lớn nhất
thế giới (theo số liệu trên website của Quỹ, tại thời điểm cuối tháng 7/2010,
Quỹ đang nắm giữ khoảng 1.300 tấn vàng, trị giá tương đương trên 48 tỷ
USD). Chứng chỉ Quỹ này hiện đang được niêm yết tại thị trường chứng
khoán New York, Singapore, Nhật Bản và Hồng Kông.
Nhà đầu tư mua chứng chỉ quỹ đầu tư vàng sẽ thu được lợi nhuận từ
chênh lệch giá mua bán chứng chỉ quỹ và lãi đầu tư hàng năm theo quyết định
của hội nghị nhà đầu tư. Giá chứng chỉ quỹ biến động phụ thuộc vào kết quả
kinh doanh của quỹ thể hiện qua sự biến động của tổng tài sản ròng. Tài sản
ròng của quỹ ngày càng tăng thì giá chứng chỉ quỹ đó sẽ có xu hướng tăng và
ngược lại.
Ưu điểm của hình thức kinh doanh này là nhà đầu tư có thể tham gia
vào thị trường vàng vật chất một cách gián tiếp, tận dụng được trình độ, kinh
nghiệm của các nhà quản lý quỹ cũng như giảm thiểu chi phí trong giao nhận,
15


bảo quản vàng vật chất. Do vậy, hiệu quả kinh doanh thường cao hơn so với
việc nhà đầu tư cá nhân trực tiếp tham gia kinh doanh vàng vật chất, đặc biệt
với những nhà đầu tư nhỏ lẻ, khơng có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh
vàng. Đồng thời, tính thanh khoản của chứng chỉ đã được niêm yết trên các sở

giao dịch chứng khoán là cao.
Tuy nhiên, nhà đầu tư khi mua chứng chỉ quỹ sẽ không chắc chắn thu
được một tỷ lệ lợi nhuận nhất định như gửi tiết kiệm hoặc cho vay vàng. Nhà
đầu tư sẽ gặp rủi ro khơng bảo tồn được tài sản khi quỹ hoạt động khơng
hiệu quả, tài sản rịng ngày càng sụt giảm. Do vậy, nhà đầu tư cần lựa chọn
những quỹ có uy tín, kết quả hoạt động tốt, có chế độ công bố thông tin minh
bạch, rõ ràng để uỷ thác đầu tư.
1.2.3.5. Kinh doanh vàng trên tài khoản
Khác với kinh doanh vàng vật chất thơng qua 4 hình thức như đã nêu
(tự kinh doanh, gửi tiết kiệm, cho vay và uỷ thác cho quỹ đầu tư), kinh doanh
vàng trên tài khoản là việc nhà đầu tư mở tài khoản (thông thường mở 01 tài
khoản vàng và 01 tài khoản tiền với số dư nhất định ban đầu để thực hiện đầu
tư) tại các ngân hàng hay tổ chức được phép kinh doanh vàng và tiến hành các
giao dịch mua bán trên tài khoản để đầu cơ chênh lệch giá. Kinh doanh vàng
tài khoản không đi kèm với việc giao nhận vàng trên thực tế, tài khoản vàng
chỉ sử dụng để ghi chép việc mua bán các giao dịch vàng mà không được rút,
chuyển nhượng hay chuyển thành vàng vật chất. Do đó, đây đơn thuần chỉ là
hoạt động đầu cơ chênh lệch giá hay một công cụ đầu tư tài chính phái sinh từ
hoạt động kinh doanh vàng vật chất.
Thông thường, các tổ chức cung cấp dịch vụ kinh doanh vàng tài khoản
sẽ cung cấp địn bẩy tài chính cho các nhà đầu tư thông qua việc quy định tỷ
lệ ký quỹ. Chẳng hạn, nếu tỷ lệ ký quỹ là 10% thì nhà đầu tư có số dư tương
đương 10 lượng vàng sẽ được phép vay 90 lượng để giao dịch với trị giá
lên tới 100 lượng. Kinh doanh vàng tài khoản là kênh đầu tư tài chính hấp dẫn
giúp nhà đầu tư có thể tối đa mức lợi nhuận thu được bằng việc sử dụng đòn

16


bẩy tài chính. Đồng thời khơng phát sinh các chi phí vận chuyển, bảo quản

vàng vật chất.
Tuy nhiên, kinh doanh vàng tài khoản đi kèm với sử dụng đòn bẩy tài
chính cao tiềm ẩn rủi ro thua lỗ lớn đối với nhà đầu tư đặc biệt là nhà đầu tư
thiếu kiến thức, kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh vàng do giá vàng biến
động thường xuyên và rất khó dự báo.
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý vàng thuộc dự trữ ngoại hối,
quản lý thị trường vàng và bài học rút ra
Tiếp theo, đề tài sẽ nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong việc quản lý
vàng thuộc dự trữ quốc tế và quản lý thị trường vàng để có cơ sở đưa ra định
hướng đối với chính sách quản lý vàng của Việt Nam. Đối với kinh nghiệm
quản lý thị trường vàng, đề tài tập trung nghiên cứu kinh nghiệm quản lý giao
dịch hàng hoá trên các thị trường được cấp phép (trong đó có Sở giao dịch
vàng và hàng hoá Dubai) của Tiểu vương quốc Ả rập như một ví dụ cho hoạt
động của thị trường vàng phát triển và kinh nghiệm quản lý thị trường vàng
của Trung Quốc như một ví dụ cho hoạt động của thị trường vàng ở các nước
đang phát triển.
1.3.1. Quản lý vàng thuộc Dự trữ quốc tế
- Quy mô vàng thuộc Dự trữ quốc tế:
Bảng 1.3: Quy mô vàng thuộc Dự trữ quốc tế của các nước từ 2000-2009
2000

2001

2002

2003

2004

2005


2006

2007

2008

2009

32.78

32.41

31.86

31.34

30.74

30.38

29.87

29.73

30.19

4

4


5

6

33.0

Nghìn

6

Tấn

2

Tỷ USD
%

2

36

831

91.7

91.4

1.8


26.4

38.9

07.0

17.3

800.8

.3

1,055.4

11.5

10.8

11.4

10.8

9.2

9.6

9.7

9.9


9.8

9.9

so

với tổng
DTNH

Nguồn: WGC
Theo số liệu của Hiệp hội vàng Thế giới (World Gold Council - WGC),
quy mô vàng được nắm giữ bởi NHTW của khoảng 107 nước trên thế giới và
IMF tương đối ổn định qua các năm từ 2000 đến 2009, giữ ở mức trên dưới
17


30 nghìn tấn. Quy mơ này khơng có sự thay đổi lớn so với quy mô vàng dự
trữ 60 năm trước mặc dù có những thời điểm NHTW các nước giảm mạnh
lượng vàng nắm giữ để đảm bảo thanh khoản cho đồng tiền sắp ra đời như
vào thời điểm ra đời đồng tiền chung Châu Âu năm 1999.
Nếu xét về con số tương đối khi so sánh với tổng dự trữ quốc tế thì tỷ lệ
vàng cũng giữ ở mức ổn định, khoảng trên dưới 10%. Điều đó chứng tỏ vai
trò quan trọng của vàng trong dự trữ quốc tế của các quốc gia bên cạnh dự trữ
bằng ngoại tệ và các tài sản khác. Điều này càng được khẳng định trong giai
đoạn khủng hoảng tài chính tồn cầu xảy ra từ cuối năm 2008 và năm 2009
khi đồng đôla Mỹ mất giá đã đẩy giá vàng đạt mốc cao kỷ lục là
1.215USD/oz vào ngày 2/12/2009. Mặc dù giá vàng lên cao nhưng các
nước có dự trữ vàng lớn khơng có động thái bán vàng ra, đồng thời, một số
NHTW có động thái mua vàng vào (Ấn Độ, Nga và Srilance mua khoảng
400 tấn vàng của IMF). Do vậy, tổng lượng vàng nắm giữ chính thức của

các cơ quan tiền tệ vào cuối năm 2009 đã tăng 460 tấn so với năm 2008, lên
mức 30.186 tấn.
Lý do cơ quan tiền tệ các nước duy trì tỷ lệ vàng cao ổn định là do dự
trữ vàng bảo đảm những mục tiêu cơ bản của việc duy trì dự trữ quốc tế nhằm
bảo đảm hỗ trợ cán cân thanh toán quốc tế và đối phó với khủng hoảng hay
các sự cố đặc biệt như thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh. Với vai trò là tiền tệ
quốc tế, vàng được chấp nhận thanh tốn trên mọi lãnh thổ và do đó NHTW
có thể sử dụng vàng để hỗ trợ cán cân thanh toán khi khủng hoảng cán cân
tạm thời xảy ra thông qua việc thực hiện thanh toán bằng vàng hoặc dùng
vàng làm tài sản thế chấp cho các khoản vay nước ngoài. Đặc biệt, khi xảy ra
các sự cố đặc biệt như chiến tranh, hoả hoạn, thiên tai thì vai trị của vàng
càng trở lên quan trọng hơn tiền giấy hay các loại tài sản khác nhờ tính chất
vật lý bền vững của kim loại quý này.
Tuy nhiên, lượng vàng được nắm giữ không đều giữa các quốc gia.
Theo số liệu của WGC, tại thời điểm cuối năm 2009, 6 quốc gia có dự trữ
vàng trên 1.000 tấn là Mỹ (8.133,5 tấn), Đức (3.406,8 tấn), Ý (2.451,8 tấn),
18


Pháp (2.435,4 tấn), Trung Quốc (1.054,1 tấn), Switzerland (1.040,1 tấn) và
Quỹ tiền tệ quốc tế IMF (3.005,3 tấn) đã nắm giữ tới 21.527 tấn vàng, chiếm
đến trên 71% tổng lượng vàng được nắm giữ bởi các cơ quan tiền tệ trên
thế giới.
Xét về con số tương đối so với quy mơ dự trữ quốc tế, tỷ lệ này cũng có
sự khác biệt lớn giữa các quốc gia. Dưới đây là bảng số liệu minh hoạ lượng
vàng nắm giữ và tỷ lệ so với tổng dự trữ của một số nước thuộc các khu vực
khác nhau tại thời điểm cuối năm 2009:
Bảng 1.4: Lượng vàng nắm giữ và tỷ lệ so với tổng dự trữ của một số nước
cuối năm 2009
Quốc gia

Mỹ
Một sô nước Châu Âu
Đức
Ý
Pháp
Eurozone (bao gồm ECB)
Anh
Một số nước Bắc Á
Trung Quốc
Hàn Quốc
Nhật
Một số nước Đông Nam Á
Thái lan
Malaysia
Indonesia
Singapore
Nguồn: WGC

Tổng lượng
vàng (tấn)
8.133,5

Tỷ lệ so với tổng
dự trữ (%)
77,4

3.406,8
2.451,8
2.435,4


69,2
66,6
70,6

10.797,9
310,3

59,7
17,6

1.054,1
14,4
765,2

1,9
0,2
2,3

84
36,4
73,1
127,4

2,1
1,2
3,9
2,2

Từ bảng số liệu trên chúng ta thấy đứng đầu về tỷ lệ dự trữ vàng là Mỹ
(77,4%) sau đó các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu xấp xỉ

(60%) trong đó có Đức và Pháp (xấp xỉ 70%), Ý (66,6%). Anh mặc dù thuộc
châu Âu nhưng tỷ lệ dự trữ vàng thấp hơn các nước thuộc eurozone, chỉ ở
mức 17,6%. Một số nước thuộc khu vực Châu Á mặc dù có mức dự trữ quốc
tế lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc nhưng đều duy trì tỷ lệ dự trữ
19


vàng thấp khoảng 2%. Trung bình mức dự trữ vàng của các nước thuộc khu
vực ASEAN cũng chỉ ở mức 2% so với dự trữ ngoại hối của các quốc gia này.
Có thể thấy những nước có tỷ lệ vàng so với tổng dự trữ ngoại hối cao
là những nước có đồng nội tệ được sử dụng chủ yếu trong dự trữ ngoại hối
quốc tế như USD, EUR. Đồng bảng Anh GBP và Yên Nhật JPY cũng là đồng
tiền mạnh nhưng tỷ lệ sử dụng trong dự trữ quốc tế cịn thấp nên Anh và Nhật
vẫn duy trì dự trữ ngoại tệ lớn so với vàng. Những nước khơng có đồng tiền
mạnh như Trung Quốc, Hàn Quốc và các nước Đơng Nam Á cũng duy trì tỷ
lệ vàng trong dự trữ thấp. Lý do chủ yếu là vì những nước có đồng nội tệ yếu
hơn có nhu cầu nắm giữ ngoại tệ mạnh để đảm bảo khả năng thanh khoản, hỗ
trợ cán cân thanh tốn cao hơn những nước có đồng nội tệ mạnh.
Tỷ lệ dự trữ vàng của các nước trên trong khoảng 10 năm trở lại đây từ
2000-2009 duy trì ở mức ổn định. Một số nước như Trung Quốc, Thái lan có
mức dự trữ quốc tế tăng mạnh qua các năm thì lượng vàng nắm giữ về con số
tuyệt đối cũng tăng theo nhưng tỷ lệ vàng trên tổng dự trữ quốc tế khơng có
sự thay đổi đáng kể. Điều này có thể giải thích là do tính thanh khoản cũng
như khả năng sinh lời của vàng thấp hơn so với các ngoại tệ mạnh như USD,
EUR, JPY, GBP.
Như vậy, mặc dù các nước có tỷ lệ dự trữ vàng khác nhau tuỳ theo sức
mạnh của đồng nội tệ và mục tiêu chính sách quản lý dự trữ của từng nước
nhưng vàng vẫn đóng vai trị quan trọng trong dự trữ ngoại hối quốc tế. Tổng
lượng vàng dự trữ trên tồn thế giới vẫn có xu hướng ổn định qua thời gian,
đặc biệt những nước có quy mô dự trữ quốc tế tăng mạnh cũng tăng dần

lượng vàng nắm giữ trong cơ cấu dự trữ của họ.
1.3.2. Quản lý giao dịch hàng hoá trên các thị trường được cấp phép
của Tiểu vương quốc Ả rập
Tại Tiểu vương quốc Ả Rập, các thị trường được cấp phép trong đó có
Sở giao dịch vàng và hàng hố Dubai chịu sự quản lý và giám sát của Uỷ ban
chứng khoán và hàng hoá (The Emirates Securities & Commodities Authority
– ESCA, dưới đây gọi tắt là “Uỷ ban”). Uỷ ban là pháp nhân 100% vốn Nhà
20


nước thực hiện chức năng quản lý, giám sát hoạt động của các thị trường
được cấp phép nhằm giúp thị trường hoạt động an tồn, hiệu quả, bảo đảm lợi
ích của các thành viên tham gia thị trường, hướng tới sự ổn định của thị
trường tài chính và nền kinh tế nói chung.
Uỷ ban thực hiện chức năng quản lý, giám sát hoạt động của các thị
trường được cấp phép thông qua các quy định cụ thể sau:
- Cấp phép thành lập thị trường: Việc thành lập Thị trường phải được
Uỷ ban cấp phép, không giao dịch nào được phép thực hiện trên một Thị
trường chưa được cấp phép. Điều kiện cấp phép bao gồm: (i) thành lập dưới
hình thức 100% vốn Nhà nước hoặc vốn Nhà nước chiếm đa số hoặc hình
thức khác do Uỷ ban chấp thuận; (ii) có địa điểm thích hợp với các trang thiết
bị kỹ thuật cần thiết.
- Hoạt động thanh tra, giám sát: Thị trường phải hoạt động dưới sự
giám sát của Uỷ ban. Trong trường hợp cần thiết, Uỷ ban có quyền tiến hành
điều tra, thanh tra việc tuân thủ các Luật và các quy định có liên quan.
- Giám sát các quy định của Thị trường: Thị trường được phép đưa ra
các quy định đối với hoạt động trên Thị trường nhưng các quy định này phải
được sự xem xét chấp thuận của Uỷ ban.
- Chế độ thông tin, báo cáo:
Thị trường phải cung cấp cho Uỷ ban bảng cân đối kế tốn, báo cáo tài

chính đã được kiểm tốn bởi tổ chức kiểm tốn quốc tế trong vịng 3 tháng
sau khi kết thúc năm tài chính. Uỷ ban cũng có quyền yêu cầu Thị trường
cung cấp thông tin bổ sung bất kể lúc nào nếu cần thiết. Đồng thời, khi có bất
kể sự thay đổi nào ảnh hưởng tới tình hình tài chính, Thị thường có nghĩa vụ
báo cáo ngay lên Uỷ ban.
Thị trường phải cung cấp cho Uỷ ban các báo cáo giao dịch định kỳ
như:
+) Báo cáo giao dịch hàng ngày gồm có báo cáo về loại hàng hố hoặc
hợp đồng hàng hoá được giao dịch, giá cả, số lượng và tổng số giao dịch
trong ngày;
21


+) Báo cáo giao dịch hàng tháng bao gồm số lượng giao dịch, giá trị
giao dịch trong tháng và giá đóng cửa cuối cùng.
+) Báo cáo giao dịch hàng năm bao gồm số lượng giao dịch của các
loại hàng hoá, giá trị giao dịch và số lượng giao dịch của năm so với năm
trước đó, đồng thời, đưa ra những biến động nổi bật của Thị trường trong
năm, ảnh hưởng đối với Thị trường và đề xuất của Ban lãnh đạo nhằm hạn
chế những ảnh hưởng tiêu cực của những biến động đó.
- Phối hợp giữa các Thị trường: Theo sự chỉ đạo của Uỷ ban, Thị
trường phải phối hợp với các thị trường khác và các cơ quan quản lý nước
ngoài khi cần thiết để điều tra hoặc tiến hành các vụ kiện liên quan đến nhiều
Thị trường.
- Đình chỉ giao dịch, Luật lệ và quy định liên quan đến Thị trường:
Ban giám đốc Uỷ ban có quyền, với đa số phiếu đồng thuận, buộc Thị
trường tạm dừng toàn bộ giao dịch hoặc dừng giao dịch đối với một hàng hố
hoặc hợp đồng hàng hố nào đó nếu xảy ra sự cố đe doạ tới hoạt động thông
thường của Thị trường.
Đồng thời, Ban giám đốc Uỷ ban có quyền đình chỉ hoặc huỷ bỏ các

luật lệ và quy định liên quan tới Thị trường nếu thấy không phù hợp.
- Áp dụng các hình thức phạt: Trong trường hợp Thị trường vi phạm
việc đóng tiền cho Uỷ ban, Ban giám đốc Uỷ ban có quyền áp một trong các
hình thức phạt sau:
• Gửi thơng báo nhắc nhở;
• Gửi thơng báo u cầu Thị trường đóng tiền trong vịng 30 ngày
kể từ ngày thơng báo;
• Áp dụng các tỷ lệ phạt 1%, 2%, 5% số tiền phải đóng tương ứng
với thời gian chậm thanh toán là 1 tháng, 2 tháng và trên 2 tháng.
Ngồi ra, Uỷ ban cũng có thể quyết định tạm đình chỉ giao dịch đối với
những vi phạm về tài chính này.
Như vậy, hoạt động của Sở giao dịch vàng và hàng hoá Dubai là một
thị trường được cấp phép sẽ chịu sự quản lý, giám sát của cơ quan chuyên
22


×