Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

tài chính công ty đa quốc gia chuyển giá trong doanh nghiệp fdi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.22 KB, 53 trang )

I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP FDI
Nền kinh tế không bao giờ chịu nằm yên cũng như luôn biến đổi không ngừng,
sẵn sàng đào thải đi những nhân tố không tích cực để thay vào những quan điểm
tiến bộ cho một nền kinh tế lành mạnh và tiến bộ không ngừng. Tuy nhiên, vấn đề
nào cũng có hai mặt của nó, chính sự đào thải “ tự nhiên” này đã dẫn đến hàng
loạt các vấn đề phát sinh, khi mà các doanh nghiệp cố gắng để đứng vững và bước
đi lành mạnh thì đồng thời cũng rất nhiều doanh nghiệp “tận dụng” những thủ
thuật riêng, thậm chí là lách luật để nhằm thu được mức lợi nhuận cao và có thể
con số lên đến mức đáng kinh ngạc. Và “chuyển giá” chính là một trong các thủ
thuật như vậy. Không những thế, thủ thuật này ngày càng trở nên tinh vi, đa hình
thức, và được sử dụng một cách rộng rãi trong nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam
cũng không phải ngoại lệ khi bị cuốn vào vòng xoáy ấy, nhất là trong quá trình hội
nhập và mở cửa như hiện nay. Do đó, hiện tượng này khá là phổ biến trong các
doanh nghiệp FDI. Vậy chúng ta hãy cùng tìm hiểu xem thủ thuật này là gì, cũng
như tại sao lại có “ sức hấp dẫn” lớn như vậy đối với các doanh nghiệp.
1. Chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI
1.1. Khái niệm:
Doanh nghiệp FDI là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó , FDI
hay Đầu tư trực tiếp nước ngoài (tiếng Anh: Foreign Direct Investment, viết tắt
là FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước
khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước
ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Cũng theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO ) đưa ra định nghĩa như sau về
FDI:
1
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước
(nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng
với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các
công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà
người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp


đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là
"công ty con" hay "chi nhánh công ty"
1.2. Hiện tượng chuyển giá
Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch
vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới
không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia
(Multi Nations Company) trên toàn cầu. Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các
chủ thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong
quan hệ với các bên liên kết. Hành vi ấy có đối tượng tác động chính là giá cả. Hay
cụ thể hơn, chúng ta có thể hiểu chuyển giá là thủ thuật của công ty mẹ ở nước
ngoài. Công ty mẹ này sẽ thành lập một công ty con ở nước khác. Sau đó, công ty
con sẽ mua nguyên vật liệu với giá cao ngật ngưỡng. Điều này sẽ làm các nhà cung
cấp nguyên vật liệu sẽ sẵn sàng bán cho các công ty con này. Các công ty con sau
khi sản xuất ra sản phẩm lại bán với giá thấp ra thị trường để cạnh tranh, một phần
sản phẩm thì bán về cho công ty mẹ với giá thấp này. Kết quả là công ty con sẽ bị
lỗ dẫn đến không đóng thuế thu nhập doanh nghiệp cho nhà nước. Còn công ty mẹ
thì mua được hàng giá rẻ và bán với giá bằng giá thị trường nước ngoài. Trường
hợp khác là nước công ty mẹ chịu thuế cao còn nước công ty con chịu thế chấp.
Khi bán hàng ở nước của công ty con và chuyển lợi nhuận cho công ty mẹ, công ty
mẹ sẽ không đóng thuế do đã nộp thuế ở nước của công ty con. Kết quả, thất thoát
2
thuế nước của công ty con. Giá nguyên vật liệu tăng cao, giá hàng hóa giảm gây ra
cuộc chiến giá cả. Còn công ty mẹ thì tìm được một lợi nhuận lớn.
1.3. Động cơ khiến các FDI thực hiện chuyển giá
Như vậy với việc thực hiện thủ thuật chuyển giá các công ty đã kiếm về cho
mình một khoản tiền lớn khi số tiền nộp thuế thấp hơn rất nhiều. Tuy nhiên đồng
nghĩa với hành động trên là hàng loạt các quốc gia đã bị thâm hụt khá lớn trong
ngân sách và còn ảnh hưởng đến hàng hóa nội địa.
Vậy động cơ nào đã thôi thúc các doanh nghiệp thực hiện thủ thuật này,
trong khi điều này được coi là việc làm trái pháp luật ở rất nhiều quốc gia trên

thế giới. Mặc dù ở Việt nam chưa có bộ luật rõ ràng quy định về chống chuyển giá,
nhưng hoàn toàn không được khuyến khích hay thừa nhận, thậm chí nếu phát hiện
có hành vi gian lận sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lí nghiêm. Động cơ
thì có động cơ bên trong và bên ngoài. Trước tiên chúng ta hãy cùng tìm hiểu về
các động cơ bên trong các doanh nghiệp FDI để thấy được tại sao các doanh
nghiệp này lại sử dụng thủ thuật chuyển giá như vậy.
Mỗi công ty đều hy vọng vào sự phát triển của mình, đi kèm với đó là nguồn
lợi nhuận lớn nhằm thu hút được các cổ đông và tạo niềm tin cho họ đầu tư dài hạn
trong tương lai. Vì vậy, chuyển giá sẽ góp phần giúp họ có được một hình ảnh đẹp
về tình hình tài chính trước các cổ đông và các bên hữu quan khác. Trong một số
trường hợp khi FDI phạm phải các sai lầm trong kế hoạch kinh doanh, sai
lầm trong việc nghiên cứu và đưa sản phẩm mới vào thị trường làm cho
các chi phí quảng cáo, quảng bá sản phẩm quá cao, hậu quả là tình trạng
thua lỗ của FDI tại chính quốc hay tại các công ty thành viên trên các quốc gia
khác. Vì thế, để có một hình ảnh đẹp về tình hình tài chính trước các cổ đông
và các bên hữu quan khác thì chuyển giá là một giải pháp để có thể thực hiện
được ý đồ trên. Khi đó chuyển giá giúp các FDI chia sẻ việc thua lỗ với các thành
3
viên, nhờ vậy các khoản thuế phải nộp giảm xuống và tình hình kinh doanh trở nên
sáng sủa hơn một cách giả tạo, vi phạm pháp luật của các quốc gia.
Hơn nữa, thủ thuật này đồng thời giúp các doanh nghiệp chiếm lĩnh được thị
trường. Bởi vì, các doanh nghiệp FDI sẽ tăng cường các hoạt động quảng
cáo, quảng bá sản phẩm trong giai đoạn mới thâm nhập thị trường, làm cho
chính mình bị lỗ nặng và kéo dài. Bằng nguồn lực tài chính dồi dào của mình,các
FDI thực hiện hành vi chuyển giá bất hợp pháp để kéo dài tình trạng thua lỗ nhằm
chiếm lấy quyền kiểm soát và quyền quản lý công ty. Tồi tệ hơn là đẩy các đối tác
ra khỏi hoạt động kinh doanh và chiếm toàn bộ quyền kiểm soát cũng như
sở hữu công ty. Sau khi chiếm lĩnh được thị trường, các FDI thực hiện
nâng giá sản phẩm để bù đắp cho phần lỗ lúc trước. Tình trạng này thường
thấy ở các nước đang phát triển như Việt Nam, khi mà trình độ quản lý còn nhiều

yếu kém.
Ngoài ra, các doanh nghiệp FDI còn thực hiện việc chuyển giá nhằm
giảm thiểu rủi ro khi giaodịch các sản phẩm và dịch vụ có tính đặc thù
cao, độc quyền và tính bảo mật cao như trong các ngành công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, dầu khí, y dược …
1.4. Tác động của chuyển giá
Trên đây là nguyên nhân bên ngoài thúc đẩy các doanh ghiệp FDI thực hiện thủ
thuật chuyển giá, tuy nhiên ngoài những nhân tố nội tại bên trong bản thân doanh
nghiệp, thì các nguyên nhân bên ngoài cũng không kém phần quan trọng. Có lẽ
động cơ lớn nhất thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện thủ thuật này là giảm được
một lượng lớn số thuế cần phải nộp cho ngân sách nhà nước. Khi thực hiện chuyển
giá, dưới các hình thức của mình, các doanh nghiệp FDI có thể hạn chế một khoản
tiền lớn phải đóng góp, cụ thể chúng ta có thể thấy : ở Việt Nam hình thức này
xuất hiện ngày càng nhiều, đặc biệt là từ các năm 2007, 2008 khi mà nhiều doanh
4
nghiệp đầu tư nước ngoài ở TPHCM khai lỗ liên tục để trốn thuế giá trị gia tăng và
thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong năm 2009, cơ quan thuế đã mời hơn 40 doanh
nghiệp thuộc các ngành hàng và theo nhóm quốc tịch khác nhau, đưa tờ khai thuế
cho từng doanh nghiệp giải thích tại sao lỗ liên tục, năm sau lại cao hơn năm trước
và lỗ đến nỗi ăn vào vốn? Kết quả nhiều doanh nghiệp giải thích không thuyết
phục, cá biệt có doanh nghiệp Đài Loan lỗ trong 10 năm liền, lỗ tới 9.600 tỉ đồng
vẫn cố tình nói là làm ăn thua lỗ nặng mà doanh nghiệp vẫn phát triển sản xuất-
kinh doanh. Bằng biện pháp vận động, phần lớn doanh nghiệp kê khai lại và công
nhận là làm ăn có lãi, có doanh nghiệp chai lỳ cơ quan thuế chuyển qua cơ quan
chức năng xử lý. Nhờ đó năm 2008 có 53,7% doanh nghiệp đầu tư nước ngoài khai
lỗ đến năm 2009 giảm còn 52%, năm 2010 còn 46% và trong 8 tháng đầu năm
2011 số thuế thu được trong khu vực đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố đạt
85% so với kế hoạch cả năm, so với cùng kỳ tăng 70%, trong đó phải kể đến giải
pháp vận động doanh nghiệp tự khai lại thuế. Song song đó cơ quan thuế còn tổ
chức thanh tra, chủ yếu là kiểm tra những doanh nghiệp cố tình không khai lại đã

phát hiện và cắt giảm lỗ hơn 1.000 tỉ đồng. Từ tổ chức vận động và kiểm tra ,Cục
thuế TP cho rằng sở dĩ xảy ra tình hình trên là do có độ chênh lệch về sắc thuế ở
các quốc gia mới xuất hiện tình trạng chuyển giá để trốn thuế. Cũng vì thủ thuật
này mà ngân sách nhà nước đã chịu thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng. “ Bộ KH-ĐT cho
biết, qua kết quả thanh tra, kiểm tra về chuyển giá, cơ quan thuế đã làm giảm lỗ và
truy thu thuế số tiến lên tới hàng trăm nghìn tỷ đồng. Theo Tổng cục Thuế (Bộ Tài
chính), trong năm 2010, đã thanh kiểm tra thuế tại các sản xuất, lắp ráp ô tô và các
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chè tại Lâm Đồng truy thu hơn 133 tỷ đồng,
giảm lỗ hơn 1.400 tỷ đồng.
Thanh tra 575 doanh nghiệp FDI lỗ trong các năm từ 2005-2009, kết quả giảm
lỗ hơn 4.000 tỷ đồng và truy thu thuế hơn 212 tỷ đồng. Trong đó, phát hiện 43
5
doanh nghiệp FDI có quan hệ giao dịch liên kết có dấu hiệu chuyển giá, qua đó xử
phạt 37 doanh nghiệp, giảm lỗ 887 tỷ đồng, truy thu thuế và phạt 27 tỷ đồng.
Trong năm 2011, theo kế hoạch của Tổng cục Thuế, có 1.267 doanh nghiệp có
vốn FDI thuộc diện phải kiểm tra việc chuyển giá, trốn thuế. Tính đến tháng 9-
2011, toàn ngành đã thực hiện thanh tra 585 doanh nghiệp lỗ, trong đó có 76 doanh
nghiệp có dấu hiệu chuyển giá. Ngành Thuế đã có kết luận thanh tra và quyết định
xử lý 494 doanh nghiệp lỗ. Kết quả, đã giảm lỗ 3.754 tỷ đồng, truy thu thuế hơn
978 tỷ đồng, giảm khấu trừ 86,9 tỷ, xử phạt 272 tỷ.”
Như vậy có thể thấy được những thất thoát rất lớn trong ngân sách nhà nước
khi mà hoạt động chyển giá ngày càng diễn ra một cách mạnh mẽ. Nhất là với Việt
Nam- một quốc gia đang trên đà phát triển, nhu cầu ngân sách là vô cùng lớn,
thường xuyên phải chịu cảnh thâm hụt ngân sách, trong khi chi phí vay nợ lại cao
hơn so với các nước trong khu vực. Do đó, giải quyết được vấn đề này sẽ tạo ra cơ
hội lớn trong việc cải tạo vấn đề thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên đây vẫn là một
công việc hết sức nan giải và không thể triệt tiêu hoàn toàn, nhất là trong điều kiện
pháp luật Việt Nam còn nhiều lỗ hổng.
Không những thế, trên con đường hội nhập, Việt Nam cần huy động được
nguồn vốn lớn cho công cuộc phát triển bền vững, chính vì vậy, Việt Nam đã ban

hành nhiều chính sách cho phép ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh
nghiệp FDI, ưu đãi về tiếp cận đất đai, cho phép chuyển lỗ năm trước sang năm
sau,… nên có không ít các trường hợp doanh nghiệp FDI sau khi tận dụng hết
những ưu đãi thì cũng đã hoàn vốn đầu tưchính vì vậy, Việt Nam đã ban hành
nhiều chính sách cho phép ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh
nghiệp FDI, ưu đãi về tiếp cận đất đai, cho phép chuyển lỗ năm trước sang năm
sau,… nên có không ít trường hợp doanh nghiệp FDI sau khi tận dụng hết những
ưu đãi thì cũng đã hoàn vốn đầu tư, có lợi nhuận nên đã giải thể hoặc là chuyển
6
hướng kinh doanh hoặc tiếp tục thua lỗ để không phải nộp khoản thuế thu nhập
doanh nghiệp từ những khoản đầu tư khổng lồ. Đây như là một điều kiện thuận lợi
giúp các doanh nghiệp này tận dụng được cơ hội. Có lẽ phía Việt nam cần xem xét
để ra những quyết định phù hợp hơn, vừa đảm bảo thu hút vốn đầu tư nước ngoài,
vừa hạn chế số lượng các thủ thuật mà các doanh nghiệp FDI áp dụng nhờ việc
“tận dụng” các khe hở chính sách ưu đãi của mình.
Ngoài ra, nhằm tăng cường tỷ lệ vốn góp trong hoạt động liên doanh
liên kết, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn định giá thật cao
các yếu tố đầu vào từ công ty mẹ đẻ nắm quyền quản lý, từ đó gia tăng chi phí, do
vậy đã làm giảm số thuế phải nộp cho ngân sách nhà nước.
Lạm phát cũng là một nhân tố khiến cho các doanh nghiệp này tiến hành
chuyển giá. Họ sẽ tiến hành chuyển giá ở các nước có tỷ lệ lạm phát cao để bảo
toàn số vốn đầutư và lợi nhuận trong điều kiện đồng tiền nước đang đầu tư bị mất
giá.
Tình hình kinh tế - chính trị cũng là một nhân tố bên ngoài quan trọng tạo
tiền đề cho các công ty này thực hiện chuyển giá nhằm chống lại các tác
động bất lợi của các chính sách kinh tế ở nước đang đầu tư, mặt khác hoạt
động chuyển giá làm giảm các khoản lãi dẫn đến giảm áp lực đòi tăng lương của
lực lượng lao động.
Đồng thời, chính yếu tố pháp lí, và bộ máy quản lí cũng như kinh nghiệm
chuyên môn trong phát hiện và giải quyết vấn đề ở Việt Nam còn yếu kém và nhiều

bất cập cũng tạo đà cho thủ thuật chuyển giá được thực hiện. Bởi lẽ chuyển giá
của FDI giống như chuyện mà ai cũng biết, cũng thấy, cũng rõ như ban ngày,
nhưng với quân số, kinh nghiệm của cán bộ rồi khung pháp lý Việt Nam hiện nay,
xem ra đây thực sự là bài toán hóc búa, thậm chí đôi khi càn chịu cảnh lực bất tòng
tâm.
7
Hơn nữa, khi nhận định một doanh nghiệp cụ thể, chúng ta có thể đoán là đúng
có chuyển giá thật nhưng muốn kết tội, phải có bằng chứng cụ thể. Tìm được bằng
chứng lại là việc không đơn giản vì khi có hành vi gian lận thì các doanh nghiệp
này lại rất tinh vi, còn bên ta thì thiếu nhiều thứ. Vì vậy để thực hiện triệt để được
vấn đề này đòi hỏi thời gian và công sức, cũng cần hoàn thiện nhiều mặt trong bộ
máy quản lí và khung pháp lí. Bởi vì thậm chí ngay cả những cơ quan chuyên môn
có nghiệp vụ như thuế cũng còn phải thừa nhận là vấn đề rất khó, không đơn giản.
Trên đây chúng ta đã có những cái nhìn chung nhất về thủ thuật chuyển giá
trong các doanh nghiệp FDI. Tuy nhiên đây cũng chỉ là nhìn nhận, còn việc đi vào
thực tiễn có nhiều vấn đề cần suy ngẫm hơn nữa.
2. Hoạt động chống chuyển giá của một số nước trên thế giới – Rút kinh
nghiệm cho Việt Nam
Chuyển giá bắt đầu xuất hiện nhiều ở Việt Nam từ năm 2007, cho tới nay chưa
quá dài, vì vậy chúng ta còn khá bỡ ngỡ trong vấn đề tìm hiều cũng như đề ra các
biện pháp xử lí các trường hợp vi phạm. Vậy hãy cùng xem kinh nghiệm mà một
số nước trên thế giới đã thực hiện với thủ thuật này, mà tiêu biểu là Mỹ và Trung
Quốc, 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Từ đó rút ra kinh nghiệm cho chính chúng ta.
Ở Mỹ, báo cáo của Cơ quan thuế nội địa Mỹ (IRS), từ năm 1998
tới 2005,khoảng 2/3 các công ty Mỹ và khoảng 68% các công ty nước ngoài
hoạt động kinh doanh tại Mỹ trốn thuế TNDN thông qua việc chuyển một
lượng lớn thu nhập ra nước ngoài để tránh một khoản tiền thuế lên đến 8 tỷ
USD mỗi năm.Thực tế cho thấy, thuế suất ở Mỹ khoảng 40% cao hơn nhiều quốc
gia khác, vì vậy hiện tượng chuyển giá của các tập đoàn đa quốc gia hoạt
động tại Mỹ là khá phổ biến. Nhằm chống lại hiện tượng trên, Mỹ

đã có một số biện pháp chốngchuyển giá tương đối nghiêm ngặt.Đạo luật
cơ bản và đầy đủ nhất về việc chống chuyển giá Mỹ ban hành đạo luật IRS Sec
8
482. Đạo luật này quy định nguyên tắc căn bản giá thị trường là cơ sở cho thực
hiện định giá chuyển giao giữa các Công ty đa quốc gia (MNC) với nhau nhưng
đồng thời cổ vũ cho việc vận dụng phương pháp định giá chuyển giao trên cơ sở
chiết tách lợi nhuận Mỹ quy định cụ thể các nguyên tắc chế tài dành cho hành vi
chuyển giá. Đó là phạt chuyển giá trong giao dịch (Transaction penalty): là loại
hình chế tài khi có chênh lệch đáng kể trong giá chuyển giao nếu so sánh
với căn bản giá thị trường theo quy định IRS Sec 482, mà hậu quả là số
thu nhập chịu thuế không phản ánh đúng thực tế của nghiệp vụ phát sinh. Do
đó, với mức sai phạm trọng yếu đáng kể: mức phạt chuyển giá 20%
dànhcho trường hợp có sai sót đáng kể do chuyển giá vượt quá 200% (hay dưới
50%) so với mức mà IRS Sec 482 xác định được. Với tổng mức sai phạm trọng
yếu: mức phạt chuyển giá 40% dành cho trường hợp có sai sót đáng kể do
chuyển giá vượt quá 400% (hay dưới 25%) sovới mức mà IRS xác
định được. Đồng thời, có hình thức phạt bổ sung (Net Adjustment
Penalty)được áp dụng nếu phần thu nhập chịu thuế sau khi tính lại theo IRS Sec
482 tăng vượt mức quy định có thể cho trước với khoản phạt bổ sung 20% trên số
thuế truy thu sẽ áp dụng trong trườnghợp phần thu nhập tăng thêm vượt quá
mức thấp nhất trong hai mức sau: 5 triệu USD hoặc 10% trên tổng số thuế
phải nộp và phạt bổ sung 40% trên số thuế truy thu sẽ áp dụng trong
trường hợp phần thu nhập tăng thêm vượt quá mức thấp nhất trong hai
mức sau – 20 triệu USD hoặc 20% trên tổng số thuế phải nộp.
Để đánh giá và phát hiện hành vi chuyển giá, Mỹ sử dụng 6 phương pháp định
giá bao gồm: phương pháp giá tự do có thể so sánh được (Comparable
Uncontroller Price – CUP); phương pháp giá bán lại (Resales Price Method);
phương pháp chi phí cộng thêm vốn (Cost Plus Method); phương pháp chiết tách
lợi nhuận (Profit Split Method); phương pháp chiết tách lợi nhuận có thể
9

so sánh được (Comparabable Profit Split Method); và phương pháp lợi
nhuận có thể so sánh (The Comparable Profit Method). Trong đó, phương pháp
được sử dụng rộng rãi nhất là phương pháp giá bán lại(Resales price method) và
phương pháp giá phí cộng thêm (cost plus method) vì những tài liệu cần
thiết không quá phức tạp khi thu thập. Thực tế cho thấy, phương pháp chiết tách lợi
nhuận (Profit split method) là phương pháp dễ áp dụng và ít tốn kém nhất ở Mỹ.
Tuy nhiên do tính chính xác không cao nên đã bị chỉ trích khá nhiều bởi
các công ty.
Tại đây không có một chương trình chính thức trong việc ưu tiên xem
xét người nộp thuế ở góc độ một ngành công nghiệp cụ thể mà tổ chức dưới góc
độ 5 nhóm ngành chính.Trong đó, hầu hết việc kiểm toán chuyển giá xuất
hiện ở 2 trong 5nhóm ngành này: thông tin liên lạc, công nghệ và truyền
thông, và nhóm ngành bán lẻ, thực phẩm, dược và nhóm ngành công nghiệp
chăm sóc sức khỏe.
Ngoài ra, Mỹ cũng liên tục nâng cao số lượng và trình độ của đội ngũ nhân
viên thuế vụ nhằm phục vụ cho việc điều tra chống chuyển giá được thực hiện
chính xác và chặt chẽhơn. Năm 2009, cơ quan thuế tuyển chọn thêm 1.200 nhân
viên và dự định thêm800 nhân viên trong năm 2010 để thực hiện rà soát,
giám sát giá chuyển nhượng.
Trên đây là cái nhìn tổng quan về thủ thuật chuyển giá với những diễn
biến và biện pháp đo lường cũng như giải pháp của nền kinh tế lớn nhất
thế giới, vậy phía Trung Quốc thì sao? Phải chăng cũng tương tự như vậy
hay sẽ có những diễn biến mới. Trong năm 2009, khi cuộc khủng hoảng kinh
tế tài chính lan rộng làm vốn FDI toàn thế giới giảm gần 40%, nền kinh tế
Trung Quốc vẫn giữ được vị trí thứ 2 về thu hút vốn FDI với tổng vốn là
90 tỷ USD. Đây thực sự là một thị trường đầy tiềm năng về nguồn lực cũng
10
như thị trường tiêu thụ rộng lớn. Một cuộc khảo sát năm 2007 của Cục Thống kê
quốc gia đã cho thấy rằng: gần 2/3 doanh nghiệp nước ngoài thua lỗ rõ ràng
là đã cố tình thực hiện báo cáo sai sự thật và đã sử dụng chuyển giá để tránh

nộp 30 tỷ Nhân Dân Tệ (khoảng4,39 tỷ USD) trong lĩnh vực thuế. Do đó
chính phủ Trung Quốc cũng đã tăng cường các quy định định giá chuyển
giao và tích cực hơn trong điều tra chuyển giá. Cơ quan thuế thông báo
rằng trước năm 2005 họ điều tra khoảng 1.500 trườ ng hợp thì có 1.200
trường hợp bị xử phạt và mang lại doanh thu thuế bổ sung khoảng 460
triệu Nhân Dân Tệ. Các hành động tích cực trong năm 2007 dẫn đến kết
quả là 192 trường hợp, và mang lại doanh thu 987 triệu Nhân Dân Tệ.
Trước năm 2008, Trung Quốc duy trì song song hai hệ thống thuế, một
cho doanh nghiệp trong nước và một cho các doanh nghiệp nước ngoài. Một cuộc
khảo sát năm 2005 cho thấy hai hệ thống thuế tạo ra một sự chênh lệch về thuế suất
có hiệu lực gần 10% giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước, điều
này được các doanh nghiệp nước ngoài ưa chuộng. Tuy nhiên, ngày 16 tháng
3 năm 2007, Quốc hội đã ban hành Luật TNDN mới đã thống nhất một mức thế
suất chung cho hai hệ thống này. Thuế TNDN có hiệu lực từ ngày 01/01/2008, áp
đặt một mức thuế suất thống nhất 25% cho tất cả các doanh nghiệp, trong nước và
nước ngoài. Mục đích của thuế TNDN là để mang lại nhiều quy định về giá
chuyển giao cho Trung Quốc phù hợp với các quy tắc áp dụng trong các nền kinh
tế phát triển khác trên thế giới. Nó cung cấp cho SAT cơ sở để điều chỉnh
thu nhập chịu thuế của người nộp thuế khi họ thực hiện các giao dịch với các
bên liên kết chưa đúng theo hướng dẫn của “nguyên tắc ALP”. Luật thuế này cũng
yêu cầu những người nộp thuế có liên quan đến giao dịch với các bên liên kết phải
gửi tài liệu trình bày rõ về giao dịch với bên liên kết đó cùng với tờ khai thuế hàng
năm của họ. Người nộp thuế cũng được yêu cầu nộp các tài liệu liên quan
về giao dịch với các bên liên kết như giá cả, tiêu chuẩn xác định chi phí,
11
phương pháp tính toán và giải thích khi được kiểm toán. Cụ thể Luật thuế
TNDN qui định như sau: các doanh nghiệp có các giao dịch tài sản hữu
hình liên quan đến các bên liên kết có giá trị hằng năm trên 200 triệu Nhân
Dân Tệ hoặc có các giao dịch giữa các bên liên kết trên 40 triệu Nhân Dân Tệ phải
chuẩn bị tài liệu đương thời giải trình rõ. Các qui định chống chuyển giá của Trung

Quốc cũng xây dựng dựa trên cở sở hướng dẫn của OECD, tuy nhiên luật chống
chuyển giá của Trung Quốc có một số điểm khác cơ bản so với luật chống chuyển
giá của Mỹ như sau:
Nghĩa vụ nộp thuế ở Trung Quốc không được hợp nhất, nếu một tập
đoàn kinh tế có các chi nhánh tại các tỉnh thành khác nhau của
Trung Quốc sẽ chịu thanh tra về thuế chống chuyển giá nhiều lần.
Một điểm khác nữa là, khi cơ quan thuế của tỉnh này chấp nhận một vấn đề nào
đó về thuế thì chưa chắc cơ quan thuế ở địa phương khác chấp nhận. Điều này
khác hoàn toàn nếu các tập đoàn kinh tế có nhiều chi nhánh tại Mỹ, các vấn đề về
thuế được cơ quan thuế tiểu bang chấp nhận thì xem như là được chấp nhận tại các
tiểu bang khác. Điều này giúp chính phú Trung Quốc có thể linh hoạt điều chỉnh
chính sách để thu hút lượng vốn FDI về từng vùng một cách phù hợp dựa
trênviệc thắt chặt hoặc nới lỏng hoạt động chống chuyển giá.
Nếu bị xác định là có hành vi chuyển giá tại công ty, thì các điều chỉnh về định
giá chuyển giao do cơ quan thuế Trung Quốc đưa ra sẽ được áp đặt cho tất cả các
loại thuế có liên quan như: thuế TNDN, thuế GTGT, thuế xuất nhập
khẩu…Trong khi tại Mỹ chỉ áp đặt tính lại thuế TNDN mà thôi
Tại Mỹ, các chỉ số về mức nâng giá hợp lý do cơ quan thuế lập nên dựa trên
các nguồn thông tin đại chúng và mọi người đều biết. Nhưng tại Trung
Quốc thì cơ quan thuế Trung Quốc xây dựng các nguồn dữ liệu từ việc so sánh bí
mật.
12
Để xác định mục tiêu cho việc kiểm toán điều tra giá chuyển nhượng dễ dàng
hơn, điều 29 của Guoshuifa số 2 (2009) vạch ra 7 tiêu chuẩn được sử dụng. 3
tiêuchuẩn chính trong 7 tiêu chuẩn đó là : người đóng thuế có lợi nhuận thấp
hoặc bị lỗ liên tiếp trong 1 thời kì dài hoặc có các khoản thu nhập không phù
hợp; người nộp thuế có một khối lượng lớn các giao dịch với các công ty đặt tại
thiên đường thuế; doanh nghiệp không tuân thủ báo cáo các giao dịch với bên liên
hết với các cơ quan Thuế.
Đặc biệt ngoài việc có lợi nhuận thấp hoặc lỗ, SAT còn tập trung vào các công

ty chi trả số lượng lớn tiền bản quyền cho các bên liên quan ở nước ngoài
hoặc một tỷ lệ lớn các hoạt động kinh doanh chính của họ là giao dịch với các bên
liên quan.
Trung Quốc đồng thời cũng đưa ra các biện pháp xử phạt cụ thể đối
với hành vi chuyển giá. Điều 60-73 của Luật quản lý thuế quy định rằng
hành vi vi phạm luật có thể bị phạt tiền, và những vi phạm nghiêm trọng
như trốn thuế, gian lận thuế có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Luật
thuế TNDN Trung Quốc cũng nêu rõ, từ sau ngày 01 tháng 1 năm 2008 các
khoản thuế bị trả thiếu liên quan đến giao dịch giữa các bên liên kết sẽ phải chịu
một khoản lãi phí. Khoản lãi suất này được tính bằng lãi suất cho vay cơ
bản Nhân dân tệ của Ngân hàng Nhân Dân Trung Quốc cùng kì cộng
5% phí. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp cung cấp được các tài liệu và thông tin
liên quan khác theo quy định này thì 5% phí tăng thêm này có thể được giảm
bớt hoặc loại bỏ hoàn toàn.
Trong năm 2009, cơ quan Thuế Trung Quốc đã đặc biệt tập trung vào các chủ
thể, công ty có giao dịch với các khu vực có luật thuế thấp hoặc có giao dịch với
các thiên đường thuế. Ngoài ra, các phòng thuế tại các thành phố thuộc Bắc Kinh
và Thượng Hải và tại các tỉnh ven biển cũng đã rất tích cực trong việc
13
thực hiện hoạt động kiểm toán giá chuyển nhượng, các giao dịch
liên quan đến tiền bản quyền và phí dịch vụ lao động cũng được kiếm
soát chặt chẽ (đây là kết quả khảo sát chuyển giá toàn cầu, Ernst & Young,
2009). Cũng theo đó, trong những năm vừa rồi, cơ quan thuế đã tập trung vào các
ngành may mặc, điện tử và viễn thông, thực phẩm và nước giải khát, bán lẻ, công
nghiệp, ô tô, dược phẩm, và các ngành công nghiệp dịch vụ, cũng như về các
vấn đề tài chính liên quan đến xây dựng cơ sở hạ tầng và các công ty có vốn
đầu tư ra bên ngoài. Hiện nay, các phòng thuế cũng tăng cường các công cụ
như công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu để hỗ trợ cho công tác chống tránh
thuế. Phòng thuế cũng đang gia tăng huấn luyện cho các chuyên gia chống trốn
thuế bao gồm cả đào tạo ngắn hạn và dài hạn, cả đào tạo trong nước và đào tạo

nước ngoài. Ngoài ra, các sở thuế cũng đã tuyển dụng thêm sinh viên tốt
nghiệp đại học các ngành liên quan để bổ sung thêm vào lực lượng chống
trốn thuế.
Trên đây là quá trình và một số quy định trong việc chống chuyển giá ở Mỹ và
Trung Quốc. Qua đó Việt Nam có thể rút ra rất nhiều bài học cũng như kinh
nghiệm trong công cuộc chống chuyển giá sao cho phù hợp với diễn biến và hoàn
cảnh nội tại của mình. Đồng thời thấy được yếu điểm trong chính sách cũng như
bộ máy pháp lí và khung hình phạt khi phát hiện và xử lí thủ thuật trên. Đồng thời
cần xây dựng được cơ quan chuyên trách xử lí cũng như đào tạo được một đội ngũ
cán bộ có trình độ và kinh nghiệm cho việc phát hiện và đề ra biện pháp xử lí phù
hợp với điều kiện đất nước.
II. THỰC TRẠNG CHUYỂN GIÁ Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam.
1.1. Tình hình thu hút vốn FDI ở Việt Nam.
14
Với xu thế toàn cầu hóa,xu hướng đầu tư cũng chuyển từ đầu tư trong nước sang
đầu tư quốc tế, đó cũng chính là cơ hội cho Việt Nam tận dụng được luồng vốn từ
nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế,xây dựng cơ sở hạ tầng và thưc hiện những
chính sách kinh tế -xac hội khác. Trong những năm gần đây Việt Nam luôn được giới
đầu tư nước ngoài đánh giá cao, đứng thứ 1 trong ASEAN về mức độ hấp dẫn đầu tư
và là một trong 10 nền kinh tế hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài. Để thấy rõ hơn
về thực trạng thu hút vốn đầu tư tại Việt Nam hãy cùng xem xét những con số thống
kê và những đánh giá của các chuyên gia.
 Vốn đầu tư nước ngoài lũy kế:
Tính đến ngày 15/12/2011, Việt Nam có 13.667 dự án còn hiệu lực với tổng
vốn đăng ký 198 tỷ USD, trong đó công nghiệp và xây dựng chiếm 54%.
Singapore là nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký 24 tỷ USD,
tiếp theo lần lượt là Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Thành phố Hồ Chí Minh
vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút FDI với 32,67 tỷ USD còn hiệu lực, tiếp
theo là Bà Rịa-Vũng Tàu, Hà Nội, Đồng Nai và Bình Dương.

 Về vốn đăng ký năm 2011:
Tính đến 15/12/2011, vốn đăng ký mới và tăng thêm tại Việt Nam đạt 14,7 tỷ
USD, bằng 74% so với năm 2010. Riêng vốn đăng ký mới đạt 11,6 tỷ USD,
bằng 65% năm 2010 nhưng đã có những chuyển biến theo hướng tích cực. Vốn
đăng ký năm 2011 tập trung 76,4% vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, cao
hơn hẳn tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực này năm 2010 (54,1%). Đầu tư vào lĩnh
vực kinh doanh bất động sản năm 2011 chỉ chiếm 5,8% tổng vốn đăng ký (trong
khi năm 2010 lĩnh vực này chiếm 34,3% tổng vốn đăng ký). Vốn đăng ký tăng
thêm đạt 3,1 tỷ USD, tăng 1,65 lần mức vốn đăng ký tăng thêm của năm 2010
(1,89 tỷ USD). Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài vẫn có sự đánh giá
tích cực về môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
15
 Về vốn thực hiện và kết quả hoạt động của doanh nghiệp FDI năm 2011:
Vốn thực hiện của khu vực FDI tại Việt Nam năm 2011 ước đạt 11 tỷ USD,
bằng với mức thực hiện của năm 2010 và đóng góp 25,9% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội.
Xuất khẩu của khu vực FDI (kể cả dầu thô) ước đạt 54,5 tỷ USD, chiếm 59%
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 39,3% so với năm 2010, cao hơn mức
tăng trưởng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước. Giá trị kim ngạch xuất khẩu
khu vực FDI (không kể dầu thô) ước đạt 47,2 tỷ USD. Góp phần làm giảm gánh
nặng cho cán cân thương mại. Nhập khẩu của khu vực FDI là 47,8 tỷ USD, tăng
29,3% so với năm 2010.
Thu nội địa từ khu vực FDI năm 2011 khoảng 3,5 tỷ USD, tăng 15% so với
năm 2010 (3,04 tỷ USD). Thu từ dầu thô vượt dự toán năm gần 44% và ước đạt 4,8
tỷ USD. Khu vực FDI góp phần đáng kể tăng thu ngân sách và do đó, làm giảm bội
chi ngân sách nhà nước.
Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, Việt Nam vẫn là địa chỉ hấp dẫn đầu tư
đối với các nhà đầu tư thế giới. Điều tra triển vọng đầu tư thế giới (WIPS) 2010-
2012 của Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD) cho thấy
Việt Nam đã thăng hạng 3 bậc, đứng thứ nhất trong ASEAN về mức độ hấp dẫn

FDI và là một trong 10 nền kinh tế hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư nước ngoài,
đặc biệt là đối với các nhà đầu tư Nhật Bản và các nền kinh tế đang phát triển ở
Châu Á. Việt Nam vẫn tiếp tục là điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Nhật
Bản như kết quả điều tra đầu tư hải ngoại của JETRO đối với các doanh nghiệp
công nghiệp chế biến. Kết quả điều tra trực tuyến của Thời báo Kinh doanh Nikkei,
Việt Nam được lựa chọn là địa điểm đầu tư hấp dẫn nhất để mở cơ sở sản xuất, trên
cả Ấn Độ và Thái Lan. Với tư cách là thị trường tiêu thụ, Việt Nam là điểm đầu tư
hấp dẫn thứ ba sau Ấn Độ và Indonesia.
16
 Nhận định về những kết quả đạt được.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là khu vực phát triển năng động,
ngày càng phát huy vai trò quan trọng và có những đóng góp đáng kể trong sự phát
triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đáng kể như:
Thứ nhất, ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư phát triển,
đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế. Trong bối cảnh tích lũy không đáp ứng nhu
cầu về đầu tư, nguồn vốn ĐTNN đã thực sự là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho
đầu tư phát triển. Trong giai đoạn 2001 – 2005, ĐTNN đã đóng góp 16% tổng vốn
đầu tư toàn xã hội và tỷ trọng này tăng lên 24,8% trong thời kỳ 2006 – 2011.
Thứ hai, ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực sản
xuất công nghiệp. Cơ cấu kinh tế cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ theo hướng tích
cực. Tỷ trọng ngành nông nghiệp từ chỗ chiếm 80% trong năm 1988, đến năm
2011 chỉ còn chiếm 22%, công nghiệp – dịch vụ chiếm 78%. Tốc độ tăng trưởng
công nghiệp của khu vực có vốn ĐTNN luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng công
nghiệp chung của cả nước. Năm 1996, tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực
ĐTNN là 21,7% trong khi tốc độ tăng trưởng công nghiệp cả nước là 14,2%. Năm
2000 tốc độ này tương ứng là 21,8% và 17,5%. Năm 2005 là 21,2% và 17,1%, năm
2010 là 17,2% và 14,7%.
Thứ ba, ĐTNN đóng góp đáng kể vào thu ngân sách và các cân đối vĩ mô.
Trong 5 năm 2006 - 2010, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn
10,5 tỷ USD, tăng bình quân trên 20%/năm. Trong năm 2011, thu nộp ngân sách

của khu vực ĐTNN (không kể thu từ dầu thô) đạt 3,5 tỷ USD.
Thứ tư,ĐTNN đóng góp quan trọng vào kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt
Nam. Khu vực ĐTNN chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam. Nếu như năm 1995, khu vực ĐTNN, kể cả dầu thô, chỉ chiếm
27% tổng xuất khẩu cả nước, thì đến năm 2011 đã chiếm 59%.
17
Thứ năm, ĐTNN đóng vai trò nổi bật trong đổi mới và chuyển giao công nghệ ở
Việt Nam. ĐTNN đã tác động trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động đổi mới công
nghệ, chuyển giao công nghệ ở Việt Nam và góp phần vào việc tăng cường cơ sở
vật chất cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Thứ sáu, ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất
lao động, góp phần đào tạo và cải thiện nguồn nhân lực. Tính đến nay, khu vực có
vốn ĐTNN đã tạo việc làm cho khoảng 2 triệu lao động trực tiếp và một số lượng
lớn lao động gián tiếp khác.
Thứ bảy, ĐTNN đã đưa Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc
tế và mở rộng quan hệ đối ngoại. Cùng với các nhân tố khác, ĐTNN đã góp phần
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ tám, bên cạnh những yếu tố có thể lượng hóa được nêu trên, vai trò của
ĐTNN còn thể hiện thông qua những yếu tố không lượng hóa được. Đó là, ĐTNN
đã mang đến một phương thức đầu tư kinh doanh mới, từ đó có tác động lan tỏa
đến các thành phần kinh tế khác của nền kinh tế, khơi dậy các nguồn lực đầu tư
trong nước. Thông qua sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh
nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực quản lý, kinh doanh được chuyển giao
từ doanh nghiệp FDI sang các doanh nghiệp trong nước. Mặt khác, các doanh
nghiệp ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước
nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa, qua đó nâng cao được năng lực của
các doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, ĐTNN đã mở rộng quy mô thị trường
trong nước, thúc đẩy sự hình thành và phát triển của nhiều ngành, lĩnh vực dịch vụ
cũng như sản phẩm mới. Đồng thời, ĐTNN cũng đóng vai trò quan trọng trong
việc giới thiệu, đưa các sản phẩm hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam vào thị trường

quốc tế; tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam; đẩy nhanh tốc độ mở
cửa thương mại; tăng khả năng ổn định cán cân thương mại của đất nước.
18
1.2. Một số hạn chế và nguyên nhân trong thực tế thu hút vốn FDI ở Việt
Nam.
Ở trên chúng ta đã cùng xem xét và phân tích những thành tựu mà Việt Nam đạt
được trong việc thu hút vốn FDI, song bên cạnh những thành tựu đó vẫn còn
những kết quả không mong muốn có thể do khách quan hay chủ quan đến từ phía
Việt Nam hay từ chính những nhà đầu tư nước ngoài.
 Một số hạn chế trong việc thu hút vốn FDI ở Việt Nam
Mặc dù nhận định được tầm quan trọng của nguồn vốn FDI đối với phát triển
kinh tế -xã hội của Việt Nam song việc thu hút, sử dụng,quản lý nguồn vốn này
còn nhiều hạn chế. Có thể nêu ra những điểm hạn chế đặc trưng như sau:
 Đó là khả năng hấp thụ nguồn vốn còn khiêm tốn, đồng nghĩa với việc
chưa tận dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn này trong khi Việt Nam đang
có nhu cầu lớn về vốn.
 Chất lượng của nguồn vốn chưa cao.
 Việc thu hút các dự án đầu tư công nghệ cao còn hạn chế.
 Chuyển giao công nghệ còn chậm; còn có doanh nghiệp ĐTNN sử
dụng công nghệ lạc hậu, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.
 Việc sử dụng tài nguyên đất đai, khoáng sản chưa thực sự hiệu quả; mối
liên kết ngang và dọc giữa các doanh nghiệp ĐTNN và doanh nghiệp trong
nước chưa cao.
 Tình trạng tranh chấp lao động và đình công còn diễn ra ở một số nơi,
ảnh hưởng không tốt đến môi trường đầu tư.
 Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế trên.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên của khu vực FDI có nguyên nhân từ sự yếu
kém nội tại của nền kinh tế cũng như những hạn chế trong việc hoạch định và
thực thi chính sách, pháp luật về đầu tư nước ngoài. Các nguyên nhân chủ yếu
là:

 Hệ thống, pháp luật chính sách liên quan đến đầu tư chưa đồng bộ và thiếu
nhất quán.
19
Trong 25 năm qua, hệ thống pháp luật về đầu tư nói chung và đầu tư
nước ngoài nói riêng không ngừng được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát
triển. Tuy nhiên, trên thực tế, các văn bản pháp luật hiện hành về hoạt động
ĐTNN chưa thực sự đồng bộ, rõ ràng, các văn bản pháp luật còn chồng
chéo, tạo ra các cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng ở các cấp.
 Chính sách ưu đãi đầu tư chưa đủ sức hấp dẫn.
Tuy các chính sách ưu đãi của ta thường xuyên được rà soát sửa đổi,
bổ sung nhưng còn dàn trải, chưa tập trung đúng mức vào những ngành, lĩnh
vực và địa bàn cần thu hút đầu tư. Ví dụ: chính sách ưu đãi đối với đầu tư
trong lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ chưa có sự khác biệt, đủ
sức hấp dẫn so với các ngành khác; chính sách ưu đãi vào những địa bàn cần
thu hút đầu tư còn dàn trải giữa các địa bàn khác trong cả nước hoặc có khác
thì cũng chưa nổi trội, chưa có tính đột phá. Bởi lẽ, trong 63 tỉnh/thành phố
thì hầu hết tỉnh/thành phố nào cũng có địa bàn kinh tế xã hội khó khăn và
đặc biệt khó khăn.
 Sự phát triển của cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển
của nền kinh tế cũng như chưa tạo điều kiện tốt để dòng vốn ĐTNN phát huy
hiệu quả.
Hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam, mặc dù đã được đầu tư nhiều
trong những năm gần đây, nhưng nhìn chung vẫn còn yếu kém, chưa đáp
ứng được nhu cầu của nhà đầu tư, đặc biệt là hệ thống cấp điện, nước, đường
giao thông, cảng biển, hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công
nghiệp.
 Hạn chế về nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực của Việt Nam dồi dào nhưng tỷ lệ lao động qua đào
tạo thấp, nguồn nhân lực có trình độ cao còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu
cầu về lao động của các doanh nghiệp nói chung, trong đó có doanh nghiệp

ĐTNN. Đây là hạn chế đã tồn tại từ nhiều năm trước, nhưng trong thời gian
gần đây càng trở nên bức xúc hơn khi thu hút ĐTNN các dự án sử dụng
20
công nghệ cao, hiện đại. Trong một nghiên cứu mới đây do Cục Đầu tư nước
ngoài phối hợp với Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO)
tiến hành, thì 32% các nhà đầu tư nước ngoài cho rằng thiếu công nhân lành
nghề là nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho họ không sử dụng hết công
suất. Vì vậy, lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào với chi phí thấp của Việt
Nam đang giảm dần.
 Sự phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ còn hạn chế.
Các ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam phát triển chậm, chưa
đáp ứng được nhu cầu về nguyên liệu đầu vào cho sản xuất của các doanh
nghiệp ĐTNN. Do đó, các doanh nghiệp phải nhập khẩu phần lớn các linh
phụ kiện đầu vào, làm tăng chi phí, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu về việc hình thành chuỗi giá trị.
 Chưa thực hiện tốt công tác phân cấp quản lý ĐTNN.
Việc phân cấp cho UBND các địa phương và Ban quản lý KCN –
KCX trong quản lý ĐTNN là chủ trương đúng đắn, tạo thế chủ động và nâng
cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý địa phương trong công tác quản lý
hoạt động ĐTNN. Tuy nhiên, việc phân cấp phải đi kèm với luật pháp chính
sách rõ ràng, hệ thống quy hoạch đồng bộ; năng lực của các cơ quan được
phân cấp phải được nâng cao; công tác báo cáo, cung cấp thông tin của địa
phương lên trung ương phải kịp thời; công tác thanh, kiểm tra và xử lý vi
phạm phải được thực hiện triệt để; tăng cường sự phối hợp hàng ngang và
hàng dọc giữa các cơ quan quản lý chung và cơ quan quản lý chuyên ngành,
giữa cơ quan quản lý ở Trung ương với cơ quan quản lý ở địa phương.
Nhưng, trên thực tế, những công tác này chưa được thực hiện tốt trong thời
gian qua, đồng thời có hiện tượng một số địa phương trong quá trình xử lý
còn thiên về lợi ích trước mắt mà chưa tính đến lợi ích lâu dài, vì lợi ích địa
phương mà bỏ qua lợi ích tổng thể quốc gia. Điều này, đã có những ảnh

hưởng không tốt đến các cân đối tổng thể của nền kinh tế, ví dụ, có địa
21
phương cấp phép nhiều dự án thép, xi măng làm mất cân đối nguồn cung cấp
điện và gây ô nhiễm môi trường.
 Công tác kiểm tra, giám sát về việc thực hiện các quy định về bảo về môi
trường của các doanh nghiệp còn nhiều bất cập.
Thời gian qua, công tác này tuy đã được quan tâm hơn nhưng vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Bên cạnh những doanh nghiệp chấp
hành tốt các quy định về bảo vệ môi trường vẫn còn nhiều doanh nghiệp, dự
án ĐTNN chưa chấp hành tốt các quy định này, dẫn đến tình trạng gây ô
nhiễm môi trường, sinh thái, ảnh hưởng lâu dài tới đời sống của người dân
và làm xấu hình ảnh của ĐTNN.
 Công tác xúc tiến đầu tư chưa hiệu quả.
Trong thời gian qua, công tác vận động xúc tiến đầu tư đã có nhiều cải
tiến, được tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở trong nước và nước ngoài
bằng các hình thức đa dạng. Tuy nhiên, hiệu quả của công tác này chưa cao,
hoạt động xúc tiến đầu tư còn giàn trải, phân tán nguồn lực, chưa tập trung
vào các đối tác, lĩnh vực trọng điểm; chưa có sự thống nhất điều phối để
đảm bảo sự tập trung thực hiện đúng mục tiêu thu hút ĐTNN trong từng thời
kỳ, từng địa bàn, từng đối tác.
2. Thực trạng hoạt động chuyển giá hiện nay ở Việt Nam.
Không thể phủ nhận các đóng góp mà các doạnh nghiệp FDI đã đóng góp cho
toàn bộ nền kinh tế nói chung như xuất khẩu, việc làm, tăng trưởng giá trị sản xuất
công nghiệp.Tuy nhiên chúng ta cần nhìn thẳng vào sự thật rằng, hiện nay bằng
những thủ đoạn tinh vi, những hành vi chuyển giá có tổ chức mà ngân sách quốc
gia đang phải đối mặt với một khoản thất thu tiền thuế khổng lồ từ khu vực này.
Một cách cơ bản , sản phẩm của khu vực FDI thường được chia làm ba loại:
+ Thứ nhất là sản phẩm trung gian.
22
+ Thứ hai là sản phẩm cuối cùng nhưng được tiêu thụ ở thị trường nước ngoài

theo đơn đặt hàng của công ty mẹ.
+Thứ ba là các sản phẩm được tiêu thụ trong nước.
Với loại sản phẩm thứ nhất, các doanh nghiệp FDI như những công xưởng với
nguyên vật liệu chính được nhập khẩu, toàn bộ giá trị của sản phẩm được xuất khẩu
để đi qua các công đoạn tiếp theo, từ đó mới hình thành giá bán. Như vậy, về thực
chất toàn bộ hoạt động của loại doanh nghiệp này hầu như không hạch toán lợi
nhuận. Phía Việt Nam không những không thu được đồng thuế giá trị gia tăng nào mà
ngược lại các doanh nghiệp FDI được hoàn thuế; thuế thu nhập doanh nghiệp cũng
coi như không có vì không có lợi nhuận .
Với loại sản phẩm thứ hai, doanh nghiệp FDI tuy có chút lãi nhưng không đáng
kể, đó là một quy trình gần như khép kín. Về hạch toán lợi nhuận phía Việt Nam
không được phép biết hoặc tham gia gì vì vốn của chủ doanh nghiệp nước ngoài, như
vậy việc xuất khẩu được bao nhiêu cũng không đóng góp giá trị gia tăng trong GDP.
Với loại sản phẩm thứ ba, tuy được tiêu thụ trong nước, nhưng hầu hết các nguyên
vật liệu chính đều được nhập khẩu từ bên ngoài. Chẳng hạn như bột ngọt gần như
100% nguyên vật liệu là nhập khẩu, da cứng chiếm 83%; giày thể thao là 76%; sứ vệ
sinh 74%; sơn hóa học 68,3%; bột giặt 56% Do quá trình hạch toán lợi nhuận khép
kín của các doanh nghiệp FDI, nên dù là tiêu thụ trong nước cũng được xem thực
chất là nhập khẩu.
Thống kê của Cục thuế thành phố Hồ Chí Minh về kết quả kinh doanh năm 2009
của DN FDI cho thấy 60% doanh nghiệp báo cáo thua lỗ.Năm 2008, tỉ lệ DN FDI ở
thành phố Hồ Chí Minh thua lỗ cũng chiếm tới 61,3% và trước đó, năm 2007 - năm
23
hưng thịnh của nền kinh tế Việt Nam, vẫn có gần 70% DN thuộc khu vực kinh tế này
lỗ. Kết quả trên đồng nghĩa với việc thành phố Hồ Chí Minh không thu được một
khoản thuế thu nhập doanh nghiệp nào từ những công ty này Thêm vào đó, số DN
FDI có số lỗ lũy kế vượt vốn chủ sở hữu trong ba năm gần đây liên tục tăng, nếu như
năm 2007 có 141 DN thì năm 2009 đã tăng gần gấp đôi với 232 trường hợp.
Có thể nói, “Điệp khúc” thua lỗ không chỉ diễn ra tại riêng thành phố Hồ Chí
Minh mà còn ở nhiều tỉnh thành trên cả nước. Trong các năm 2005-2008 chỉ dao

động quanh 9-10% tổng thu ngân sách của quốc gia.
Trong những năm gần đây tỷ lệ đóng góp của FDI vào ngân sách đã có những
biểu hiện cải thiện nhưng vẫn là con số quá ít so với những gì lẽ ra nó phải nạp.
2.1. Các trường hợp chuyển giá ở Việt Nam.
Để làm rõ hơn những hình thức chuyển giá đã đề cập ở phần 1 nhóm sẽ tiếp
cận các phương thức chuyển giá này thông qua thực tế ở Việt Nam trong thời gian
qua.
 . Chuyển giá thông qua việc nâng giá trị vốn góp.
Việc định giá cao thiết bị máy móc đầu tư ban đầu đã giúp cho các FDI chuyển
một lượng tiền đi ngược trở ra cho công ty mẹ ngay từ lúc đầu tư và thông qua chi
phí khấu hao hàng năm tăng lên từ đó làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp
khiến một lượng tiền thuế thu nhập doanh nghiệp bị thất thu.
Để minh chứng, một khách sạn liên doanh giữa Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn và
Vina Group đã xác định giá trị đưa vào góp vốn của Vina Group là 4,34 triệu USD.
Nhưng theo sự thẩm định giá của công ty giám định giá Quốc Tế thì giá trị tài sản
góp vốn của Vina Group chỉ có giá trị là 2,99 triệu USD. Như vậy trong nghiệp vụ
định giá giá trị góp vốn liên doanh này phía Việt Nam đã bị thiệt 1,35 triệu USD
tương đương 45.2%. Theo một báo cáo giám định của công ty kiểm định Quốc Tế về
24
việc xác định giá trị vốn góp của các bên liên doanh thực hiện vào năm 1993 cho ta
kết quả trong bảng số liệu dưới đây:
Bảng: Xác định giá trị vốn góp của các bên liên doanh
Stt Tên dự án liên doanh Giá trị thiết bị
khai báo
Giá trị thiết bị
thẩm định
Chênh lệch do
khai khống
Tỷ lệ khai
khống

1 Liên doanh k/s Thăng
Long (tp HCM)
496.906 306.900 190.006 40.43%
2 Công ty ô tô Hòa Bình
(Hà Nội)
5.823.818 4.221.520 1.602.298 27.51%
3 Công ty BGI Tiền
Giang
28.461.914 20.667.436 7.794.478 27.38%
4 Nhà máy sợi Joubo
(Tp HCM)
3.497.848 3.003.930 493.918 14.12%
5 K/s Hà Nội (Hà Nội) 2.002.612 1.738.752 263.860 13.17%
6 TT quốc tế DV-VP Hà
Nội
1.288.170 1.028.170 260.000 21.16%
7 Công ty Sài Gòn
Vewong Tp HCM
4.972.072 4.612.640 359.433 7.22%
(Nguồn: Báo cáo kết quả giám định của SGS năm 1993)
Tình trạng nâng giá tài sản góp vốn trên mang lại sự thiệt hại cho cả 3 đối tượng
là phía liên doanh góp vốn Việt Nam, chính phủ Việt Nam và cả người tiêu dùng Việt
Nam. Bên liên doanh Việt Nam bị thiệt trong phần vốn góp, làm cho tỷ lệ góp vốn
nhỏ lại; Chính phủ Việt Nam bị thất thu thuế; còn người tiêu dùng Việt Nam phải tiêu
dùng sản phẩm với giá cả đắt hơn giá trị thực tế của sản phẩm.
Do nâng giá trị tài sản góp vốn nên tỷ lệ vốn cao hơn phía Việt Nam, vì vậy bên
đối tác nước ngoài thường sẽ nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Đối
25

×