Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan luận văn “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa” là do Tôi nghiên cứu, sưu tầm tài liệu và xây dựng.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm toàn bộ về tính trung thực,
hợp pháp của vấn đề nghiên cứu.
Người thực hiện
Nguyễn Việt Hùng
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 5
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ 5
VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ 5
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ 5
1.2.1. Quan niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 13
1.2.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa 18
1.2.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá 20
1.2.5. Sự cần thiết đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa 30
1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 36
1.3.1. Kinh nghiệm của một số địa phương 36
1.3.2. Những bài học kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà huyện Yên Mô có thể tham khảo 44
CHƯƠNG 2 46
TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ HUYỆN YÊN MÔ,
TỈNH NINH BÌNH 46
2.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH BÌNH 46
2.1.1. Giới thiệu khái quát về huyện Yên Mô 46
2.1.2. Dân số, đặc điểm dân cư, nguồn nhân lực và các vấn đề về kinh tế - xã hội
huyện Yên Mô 49
2.2. THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH
BÌNH 52
2.2.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của ba ngành lớn (nông nghiệp,
công nghiệp, dịch vụ) 52
2.2.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp 54
2.2.3. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
xây dựng 62
2.2.4. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành dịch vụ 64
2.3. ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ CỦA
HUYỆN YÊN MÔ 68
2.3.1. Những thành tựu 68
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 69
CHƯƠNG 3 73
ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM 73
ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 73
YÊN MÔ, TỈNH NINH BÌNH THEO HƯỚNG 73
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 73
3.1. NHŨNG CĂN CỨ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ HUYỆN YÊN MÔ THEO
HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 73
3.1.3. Căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Ninh Bình đến
năm 2020 75
3.2. ĐỊNH HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH
BÌNH THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 76
3.2.1. Quan điểm, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế huyện Yên Mô
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa 76
3.2.1.1. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế huyện Yên Mô theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa 77
3.2.1.2. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Yên Mô theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa 77
3.2.2. Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
địa hóa ở huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình 79
3.3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ HUYỆN YÊN MÔ
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 88
3.3.1. Hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa 88
3.3.2. Tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư tạo điều kiện thuận
lợi cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa 92
3.3.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 95
3.3.4. Mở rộng thị trường tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa: 96
3.3.5. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ vào sản xuất, kinh
doanh 98
3.3.6. Đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa 99
KẾT LUẬN 102
DANH MỤC CÁC BẢNG
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 5
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ 5
VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ 5
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ 5
1.2.1. Quan niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 13
1.2.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa 18
1.2.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá 20
1.2.5. Sự cần thiết đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa 30
1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 36
1.3.1. Kinh nghiệm của một số địa phương 36
1.3.2. Những bài học kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà huyện Yên Mô có thể tham khảo 44
CHƯƠNG 2 46
TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ HUYỆN YÊN MÔ,
TỈNH NINH BÌNH 46
2.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH BÌNH 46
2.1.1. Giới thiệu khái quát về huyện Yên Mô 46
2.1.2. Dân số, đặc điểm dân cư, nguồn nhân lực và các vấn đề về kinh tế - xã hội
huyện Yên Mô 49
2.2. THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH
BÌNH 52
2.2.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của ba ngành lớn (nông nghiệp,
công nghiệp, dịch vụ) 52
2.2.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp 54
2.2.3. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
xây dựng 62
2.2.4. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành dịch vụ 64
2.3. ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ CỦA
HUYỆN YÊN MÔ 68
2.3.1. Những thành tựu 68
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 69
CHƯƠNG 3 73
ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM 73
ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 73
YÊN MÔ, TỈNH NINH BÌNH THEO HƯỚNG 73
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 73
3.1. NHŨNG CĂN CỨ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ HUYỆN YÊN MÔ THEO
HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 73
3.1.3. Căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Ninh Bình đến
năm 2020 75
3.2. ĐỊNH HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH
BÌNH THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 76
3.2.1. Quan điểm, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế huyện Yên Mô
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa 76
3.2.1.1. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế huyện Yên Mô theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa 77
3.2.1.2. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Yên Mô theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa 77
3.2.2. Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
địa hóa ở huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình 79
3.3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ HUYỆN YÊN MÔ
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 88
3.3.1. Hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa 88
3.3.2. Tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư tạo điều kiện thuận
lợi cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa 92
3.3.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 95
3.3.4. Mở rộng thị trường tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa: 96
3.3.5. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ vào sản xuất, kinh
doanh 98
3.3.6. Đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa 99
KẾT LUẬN 102
LỜI NÓI ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Sau hơn 20 năm, kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng
12-1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là đổi mới tư duy
về kinh tế. Nhờ có những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế
của đất nước không ngừng được phát triển, đời sống người dân được nâng lên rõ
rệt, tuy nhiên so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì đời sống người dân,
nhất là nông dân của nước ta còn thấp. Trong cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp vẫn
chiếm tỷ trọng cao. Trong nông nghiệp sản xuất chủ yếu vẫn tập trung vào trồng
trọt, chăn nuôi chưa phát triển, ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển còn chưa
vững chắc, quy mô nhỏ bé. Như vậy, để nhanh chóng phát triển kinh tế đòi hỏi cần
phải có sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế hợp lý. Đây là một vấn đề quan trọng
và có tính cấp thiết trong điều kiện hiện nay ở nước ta.
Yên Mô nằm ở phía Đông nam tỉnh Ninh Bình, với diện tích tự nhiên
144,4.km
2
, dân số 120.160.000 người, là một huyện thuần nông, với trên 90% dân
số và lực lượng lao động nằm ở nông thôn và tham gia sản xuất nông nghiệp toàn
huyện còn chiếm tỷ lệ cao. Trong những năm qua huyện Yên Mô đã chú trọng tới
phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông thôn, theo hướng sản xuất hàng
hóa, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ; giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, nhưng
đã gặp phải một số khó khăn. Mặc dù cơ cấu ngành kinh tế nông thôn trong mấy
năm qua đã có chuyển biến tiến bộ, song còn chậm, đời sống người nông dân vẫn ở
mức thấp. Các tiềm năng kinh tế của khu vực nông thôn, đặc biệt là tiềm năng về
lao động, đất đai, vốn trong nông thôn chưa được khai thác đầy đủ. Bởi vậy, việc
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế huyện Yên Mô theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nhằm khai thác tối đa các tiềm năng kinh tế ở khu vực nông thôn là
điều kiện quyết định sự phát triển nông thôn ở Yên Mô và là một đòi hỏi cấp thiết
của thực tiễn.
1
Thực trạng xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện Yên Mô
cần có những giải pháp đồng bộ, là những vấn đề đặt ra cần phải được giải quyết và
là nội dung cơ bản trong việc xóa đói giảm nghèo, sẽ góp phần mang lại ý nghĩa
thực tế trong việc lãnh đạo, chỉ đạo điều hành các định hướng phát triển kinh tế xã
hội trong thời gian tới trên địa bàn huyện Yên Mô.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là vấn đề rộng, được nhiều người quan tâm nghiên
cứu, tiếp cận ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau, địa bàn nghiên cứu khác nhau.
Với chuyên ngành kinh tế chính trị đến nay đã có một số đề tài nghiên cứu như: Đề
tài luận văn thạc sỹ “ Định hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2003 – 2010” của
tác giả Nguyễn Văn Luận thực hiện năm 2003; Đề tài luận văn thạc sỹ “ Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn các huyện đồng bằng trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (lấy ví dụ ở huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương) của
Tác giả Nguyễn Trọng Thừa, thực hiện năm 2006; Đề tài luận văn thạc sỹ: “
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh
Hải Dương” của tác giả Nguyễn Văn Quế, thực hiện năm 2006…Tuy nhiên về vấn
đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện
Yên Mô chưa có đề tài nào đã nghiên cứu và công bố. Như vậy xét về phạm vi lý
luận, phạm vi không gian, thời gian, đề tài mà tác giả lựa chọn là không trùng lắp
với các đề tài đã được nghiên cứu và công bố.
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu, Trên cơ sở những kiến thức đã được học
tập nghiên cứu và những lý do đã nêu trên, Tôi đã chọn đề tài “Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” làm luận văn thạc sỹ.
3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI.
Trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đánh giá thực
trạng về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở huyện Yên Mô giai đoạn 2000 - 2009,
2
từ đó đưa ra các định hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế huyện Yên Mô theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Nhiệm vụ cụ thể
của luận văn là:
- Về lý luận: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề chủ yếu về cơ cấu
kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Về thực tiễn:
+ Khảo sát kinh nghiệm một số địa phương trong nước về chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; từ đó tổng kết thành bài
học kinh nghiệm làm cơ sở nghiên cứu để áp dụng cho huyện Yên Mô.
+ Nghiên cứu thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Yên Mô giai đoạn
2000 đến 2009.
- Đề xuất những định hướng và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn huyện
Yên Mô.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử làm cơ sở nền tảng; kết hợp giữa phương pháp logic và lịch sử, phương pháp
thống kê, phân tích và tổng hợp, sử dụng các thông tin, số liệu thống kê của huyện
và tự tiến hành điều tra để tiến hành phân tích, đánh giá, so sánh nhằm rút ra những
kết luận và đề xuất cần thiết; đồng thời luận văn cũng sử dụng phương pháp dự
đoán và dự báo, phương pháp chuyên gia để nghiên cứu.
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về lý luận: Chỉ dừng lại ở chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Không đi sâu vào việc nghiên cứu cơ cấu các thành
phần kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế.
3
+ Về thực tiễn: Lấy tình hình số liệu từ năm 2000 đến 2009 trên địa bàn huyện
Yên Mô, tỉnh Ninh Bình để nghiên cứu.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trên địa bàn huyện
Yên Mô. Tổng kết những thành tựu, hạn chế và chỉ ra được những nguyên nhân của
những hạn chế đó.
- Đề xuất những định hướng và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế trên địa bàn huyện Yên Mô theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Việc nghiên cứu khả thi của luận văn sẽ góp phần mang lại ý nghĩa thực tế
trong việc lãnh đạo, chỉ đạo điều hành các định hướng phát triển kinh tế xã hội
trong thời gian tới trên địa bàn huyện Yên Mô.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
CHƯƠNG 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Yên Mô, tỉnh
Ninh Bình theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa .
CHƯƠNG 3: Định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ
VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO HƯỚNG
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ
1.1.1. Quan niệm về cơ cấu kinh tế
Cơ cấu được dùng để chỉ về cách tổ chức cấu tạo, sự điều chỉnh các yếu tố tạo
nên một hình thể, một vật, một bộ phận. Sau này khái niệm cơ cấu được dùng rộng rãi
trong nhiều ngành khoa học, trong đó có các ngành kinh tế của nền kinh tế quốc dân.
Theo quan điểm triết học duy vật biện chứng, cơ cấu hay kết cấu dùng để
chỉ “cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu hiện sự thống nhất của
các mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của nó . Trong khi chi rõ
mối quan hệ biện chứng giữa bộ phận và toàn thể, nó biểu hiện ra như là một
thuộc tính của sự vật, hiện tượng, và biến đổi cùng với sự biến đổi của sự vật
hiện tượng. Như vậy, có thể thấy có rất nhiều trình độ, nhiều kiểu tổ chức cơ cấu
của các khách thể và các hệ thống.
Cũng theo quan điểm duy vật biện chứng và lí thuyết hệ thống cơ cấu kinh tế
là một hệ thống tổng thể được hợp thành bởi nhiều yếu tố của nền kinh tế quốc dân.
Các yếu tố tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau cả về mặt số
lượng và chất lượng trong những không gian, thời gian và những điều kiện kinh tế
xã hội cụ thể. Theo quan điểm đó cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh
mối quan hệ giữa các yếu tố, bộ phận cấu thành nền kinh tế; cũng vì thế mà cơ cấu
kinh tế phản ánh tương đối đầy đủ chất lượng, quy mô, trình độ CNH của các nền
kinh tế .
Theo C.Mác, cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù
hợp với quá trình phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất. Mác đồng
thời nhấn mạnh, khi phân tích cơ cấu, phải chú ý đến cả hai khía cạnh là chất lượng
5
và số lượng, cơ cấu chính là sự phân chia về chất và tỉ lệ về số lượng của những quá
trình sản xuất xã hội. Như vậy, cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ
phận kinh tế với vị trí, tỉ trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương
đối ổn định hợp thành.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam thì cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành,
lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành.
Theo Giáo sư, tiến sỹ Đỗ Hoài Nam: “Cơ cấu ngành của nền kinh tế là tổ hợp các
ngành họp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ giữa các ngành đó của nền
kinh tế quốc dân”.
Như vậy, có thể hiểu: Cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân là hình thức
cấu tạo bên trong của nền kinh tế quốc dân, đó là tổng thể các quan hệ chủ yếu về
số lượng và chất lượng tương đối của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong
một hệ thống tái sản xuất xã hội với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
Xét về mặt chất thì cơ cấu kinh tế là mối quan hệ gắn bó giữa các yếu tố kinh
tế trong một chỉnh thể thống nhất. Về mặt lượng, đó là quan hệ tỷ lệ giữa các yếu tố
cấu thành nền kinh tế.Cơ cấu kinh tế có ý nghĩa thiết thực trong việc thúc đẩy nền
kinh tế phát triển đa dạng, năng động, phát huy tiềm năng lợi thế của vùng, quốc gia
về nguồn nhân lực, vật lực, trí lực…
Thuật ngữ “cơ cấu kinh tế” vận dụng không chỉ ở góc độ của toàn bộ nền kinh
tế quốc dân mà còn vận dụng ở phạm vi một địa phương, một ngành, một lĩnh vực
nào đó của nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế được hình thành một cách khách quan do sự phát triển của lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Do sự phân công lao động xã hội, các
ngành trên hình thành và phát triển tương đối độc lập với nhau, nhưng lại gắn bó
mật thiết với nhau. Trong từng ngành nhánh ngành khác nhau. Việc hình thành mỗi
quan hệ và tỷ lệ giữa các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ có ý nghĩa rất
quan trọng đối với việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Nền kinh tế quốc dân dưới giác độ cấu trúc là sự đan xen của nhiều loại cơ cấu
khác nhau, có mối quan hệ chi phối lẫn nhau trong quá trình phát triển của nền kinh tế.
6
Cơ cấu kinh tế không chỉ giới hạn về các mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành mà
nó còn bao gồm cả mối quan hệ tỷ lệ giữa các vùng, giữa các thành phần kinh tế và
mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố đó.
Cơ cấu kinh tế không có tính chất cố định mà luôn luôn vận động, thay đổi để
phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong từng thời kỳ, nhằm mục tiêu
tăng trưởng kinh tế nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội.
Chỉ có cơ cấu hợp lý mới cho phép khai thác và phát huy tối nhất các nguồn
lực bên trong và bên ngoài để phát triển kinh tế nhằm đẩy nhanh quá trình tái sản
xuất mở rộng nền kinh tế tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá đáp ứng nhu cầu vật chất
cũng như tinh thần. Cơ cấu kinh tế hợp lý là một cơ cấu kinh tế phù hợp với các
quy luật khách quan, phản ánh được khả năng khai thác, sử dụng nguồn lực kinh tế
trong nước, đáp ứng được nhu cầu cần hội nhập với quốc tế và khu vực nhằm tạo ra
sự cân đối, phát triển bền vững và phải phù hợp với xu thế kinh tế - chính trị trong
khu vực và trên thế giới. Sự thay đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay chậm
phải dựa vào sự biến động của điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội để cơ cấu kinh tế đó
luôn là cơ cấu kinh tế hợp lý trong từng thời kỳ, của từng địa phương cụ thể.
1.1.2. Phân loại cơ cấu kinh tế
Xét dưới giác độ khác nhau, thì cơ cấu kinh tế được phân thành các dạng sau:
- Cơ cấu ngành kinh tế.
- Cơ cấu vùng lãnh thổ.
- Cơ cấu thành phần kinh tế xã hội.
* Cơ cấu ngành kinh tế:
Cơ cấu ngành kinh tế phản ảnh mối quan hệ giữa các ngành kinh tế chủ yếu.
Cơ cấu ngành kinh tế phản ánh trình độ phân công lao động và trình độ phát triển
lực lượng sản xuất của nền kinh tế. Trong hệ thống cơ cấu kinh tế thì cơ cấu các
ngành kinh tế vẫn là quan trọng nhất, nó được coi là bộ khung của nền kinh tế. Một
cơ cấu ngành hợp lý sẽ là điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
Ngành kinh tế là một bộ phận của nền kinh tế chuyên tạo ra hàng hoá và dịch
vụ. Trong nền kinh tế phong kiến, cơ cấu kinh tế còn nghèo nàn , hoạt động kinh tế
7
còn manh mún, lạc hậu ngành kinh tế khi đó chủ yếu là Nông nghiệp và thương
mại. Từ những năm 1980 đến ngày nay các ngành kinh tế mới phát triển đa dạng.
Sự phân loại các ngành cũng theo đặc điểm của từng quốc gia. Tuỳ theo đặc điểm
của mỗi quốc gia, trong từng thời kỳ khác nhau, cũng như tuỳ cách tiếp cận khác
nhau mà có cách phân loại ngành kinh tế khác nhau. Ở Việt Nam hiện nay trong các
chương trình nghiên cứu về mặt lý luận cũng như định hướng về mặt hoạt động
thực tiễn các ngành kinh tế được hợp thành ba lĩnh vực chủ yếu: Ngành nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Như vậy: Cơ cấu ngành kinh tế là tổng thể các mối quan hệ tác động giữa các
ngành chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân. Trong các nội dung cơ bản của cơ cấu
kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế phản ánh tương đối toàn diện trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất trong nền kinh tế. Ở đây cơ cấu ngành kinh tế thể hiện dưới hình
thức các ngành lớn: Nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ.
* Cơ cấu vùng lãnh thổ:
Là loại cơ cấu phản ánh những mỗi quan hệ kinh tế giữa các vùng, lãnh thổ
của một quốc gia. Sự phân công lao động theo ngành kéo theo sự phân công theo
lãnh thổ, đó là 2 mặt của quá trình gắn bó hữu cơ với nhau, thúc đẩy quá trình tiến
hoá của nhân loại. Sự phân công lao động theo ngành bao giờ cũng diễn ra trên
vũng lãnh thổ nhất định, như vậy cơ cấu các vùng lãnh thổ chính là việc bố trí các
ngành sản xuất và dịch vụ theo không gian cụ thể nhằm khai thác mọi ưu thế, tiềm
năng sẵn có ở đây.
Nghiên cứu cơ cấu này nhằm phân tích, đánh giá những tiềm năng và thế
mạnh của từng vùng để hình thành phương án phân bổ lực lượng sản xuất nhằm
phát huy hiệu quả tối đa sức mạnh kinh tế của từng vùng cũng như cả nước. Ngoài
những vấn đề về kinh tế, nghiên cứu cơ cấu vùng kinh tế cũng nhằm đẩy mạnh sự
phát triển xã hội ở những vùng có điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, qua đó
làm động lực cho cả nền kinh tế nhất là các vùng có điều kiện khó khăn, lạc hậu
trong mối tương quan với các vùng khác để nâng cao mức độ đồng đều về phát
triển KT – XH của cả nước.
8
Xu thế chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ theo hướng đi vào chuyên môn hoá
và tập trung hoá sản xuất và dịch vụ, hình thành những vùng sản xuất hàng hoá lớn,
tập trung có hiệu quả cao, mở rộng mối quan hệ với các vùng chuyên môn hoá
khác, gắn với cơ cấu kinh tế của từng khu vực với cả nước. Trong từng vùng lãnh
thổ cần coi trọng chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp và đa dạng. Theo
kinh nghiệm lịch sử để hình thành cơ cấu vùng lãnh thổ hợp lý, trước hết cần hướng
vào các khu vực có lợi thế so sánh, đó là những khu vực có điều kiện đất đai, khí
hậu tốt, có vị trí địa lý, giao thông thuận lợi, là nhiều vùng gần với các trục đường
giao thông, huyết mạch, cửa sông, cửa biển gần các thành phố và khu công nghiệp
lớn, sôi động có điều kiện phát triển và mở rộng giao lưu kinh tế với các vùng bên
trong và bên ngoài, có khả năng tiếp cận và hoà nhập nhanh chóng vào các thị
trường hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên, so với cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ
có tính trì trệ hơn, có sức ì hơn.
Trên phạm vi cả nước, cũng như từng địa phương trong quá trình sản xuất
hàng hoá đã từng bước hình thành các vùng và tiểu vùng sản xuất chuyên môn hoá,
sản xuất ra những nông sản hàng hoá ngày một lớn với chất lượng cao, đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Cơ cấu kinh tế nông thôn của mỗi vùng
thường có những đặc trưng rất khác nhau phụ thuộc vào 2 nhóm nhân tố.
- Thứ nhất: Yêu cầu của thị trường tác động đến cơ cấu của vùng.
- Thứ hai: Khả năng, điều kiện riêng của từng vùng, nhằm tìm kiếm những lợi
thế trong sản xuất kinh doanh để thoả mãn, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Đương
nhiên, việc xác định cơ cấu kinh tế vũng lãnh thổ không hoàn toàn thụ động chỉ biết
lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên, điều kiện đặc thù mà dẫn đến sự khiếm khuyết
trong việc xây dựng cơ cấu kinh tế, mà phải kết hợp lợi dụng tổng thể các yếu tố để
khắc phục những mặt hạn chế, lấy mục tiêu hiệu quả tổng hợp làm định hướng cho
cơ cấu kinh tế mới.
* Cơ cấu thành phần kinh tế:
Cơ cấu thành phần kinh tế là nội dung quan trọng của qúa trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông thôn nói riêng ở nước ta. Trong một
9
thời gian tương đối dài, chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình Liên Xô,
hướng vào nền kinh tế thuần nhất với 2 loại hình kinh tế: Kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định việc chuyển nền kinh tế
nước ta từ nền kinh tế chỉ huy bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước và coi trọng phát triển nhiều thành phần kinh tế. Thực ra các thành phần
kinh tế được hiểu như thế nào cũng đang là vấn đề được tiếp tục làm rõ thêm, vì vấn
đề sở hữu cho đến nay chưa đủ lý giải toàn bộ bức tranh phức tạp của nền kinh tế.
Điều đáng chú ý trong quá trình chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế trong đó
nổi lên các xu thế sau: Đó là sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh
tế hộ tự chủ là đơn vị sản xuất kinh doanh, lực lượng chủ yếu, trực tiếp tạo ra các
sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản cho nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình đó diễn ra
xu thế chuyển dịch kinh tế hộ tự cung cấp sang sản xuất hàng hoá, từng bước giảm
tỷ lệ hộ thuần nông, tăng tỷ lệ số hộ kiêm và chuyên làm nghề thủ công dịch vụ. Để
có sản xuất nông nghiệp hàng hoá lớn, nông nghiệp nước ta không dừng lại ở kinh
tế hộ sản xuất hàng hoá nhỏ mà phải tiến lên xây dựng kinh tế nông trại với quy mô
liên hộ, đặc trưng của kinh tế nông trại là sản xuất hàng hoá lớn. Tỷ trọng khu vực
quốc doanh trong nông nghiệp nông thôn có xu thế giảm.
Cần rà soát lại, sắp xếp và củng cố để các đơn vị kinh tế nhà nước trong nông
nghiệp phát triển có hiệu quả. Những đơn vị yếu kém cần phải có giải pháp tích cực
hoặc có thể chuyển sang hình thức sở hữu khác phù hợp. Đối với khu vực kinh tế
hợp tác, cần thiết đổi mới cơ bản các hợp tác xã kiểu cũ chuyển từ chức năng điều
hành sản xuất sang hoạt động dịch vụ. Trên cơ sở nguồn vốn và quỹ hiện có. Ban
quản lý hợp tác xã điều hành hoạt động nay có hiệu quả, coi đó là thước đo của việc
đổi mới và hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ. Đồng thời khuyến khích mở rộng và
phát triển các hình thức hợp tác xã kiểu mới, đó là các hợp tác xã có hình thức và
tính chất đa dạng, quy mô và trình độ khác nhau, hợp tác xã và hộ nông dân cùng
tồn tại và phát triển trên cơ sở tự nguyện của các hộ thành viên và đảm bảo lợi ích
thiết thực.
10
Tóm lại, cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế nông
thôn là ba bộ phận hợp thành kinh tế nông thôn.Trong đó, cơ cấu ngành kinh tế có
vai trò quan trọng nhất, nó trực tiếp giải quyết mối quan hệ Cung-Cầu trên thị
trường, đảm bảo sự phát triển cân đối của nền kinh tế. Vì vậy, đề tài chỉ đi sâu
nghiên cứu cơ cấu ngành và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.1.3. Đặc trưng của cơ cấu kinh tế
Từ khái niệm của cơ cấu kinh tế, có thể rút ra các đặc trưng chủ yếu cơ cấu
kinh tế như sau:
* Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, được hình thành trên cơ sở phát triển
của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.
Ở mỗi một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất sẽ có một cơ
cấu kinh tế cụ thể tương ứng. Điều đó khẳng định rằng việc xác lập cơ cấu kinh tế
cần tôn trọng tính khách quan của nó và cũng không thể áp đặt một cách chủ quan
duy ý trí. Trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động
xã hội, tự nó các mối quan hệ kinh tế đã có thể xác lập những tỷ lệ nhất định mà ta
gọi là cơ cấu. Các Mác viết " Trong sự phân công lao động xã hội thì con số tỷ lệ là
một con số tất yếu, không sao tránh khỏi. Một tất yếu thầm kín yên lặng". Vì thế
một cơ cấu kinh tế cụ thể như thế nào và xu hướng chuyển dịch của nó ra sao là phù
thuộc và chịu sự chi phối của điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội nhất định chứ không
phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
Tuy nhiên, không giống các quy luận tự nhiên, các quy luật kinh tế nó được
biểu hiện và vận động thông qua hoạt động của con người. Vì vậy, quá trình xác lập
và biến đổi cơ cấu kinh tế nông thôn ở mỗi thời kỳ khác nhau, ít nhiều đều chịu sự
tác động của con người. Con người có thể tác động góp phần thúc đẩy hay hạn chế
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hợp lý hoặc ngược lại.
Để có hiệu quả thiết thực, đúng mục tiêu thì sự tác động của con người phải tôn
trọng tính khách quan của cơ cấu kinh tế và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
11
* Cơ cấu kinh tế bao giờ cũng mang tính lịch sử và xã hội nhất định.
Cơ cấu kinh tế như đã phân tích ở trên là tổng thể các mối quan hệ kinh tế
được xác lập theo những tỷ lệ nhất định về mặt lượng trong những thời gian, cụ thể
nhất định. Tại thời điểm đó, do những điều kiện cụ thể về kinh tế, xã hội và tự nhiên
các tỷ lệ đó được xác lập và hình thành theo một cơ cấu kinh tế nhất định. Song một
khi có những biến đổi trong các điều kiện nói trên thì lập tức các mối quan hệ này
cũng thay đổi và hình thành một cơ cấu kinh tế mới thích ứng. Do vậy cơ cấu kinh
tế phản ánh tính quy luật chung của quá trình phát triển kinh tế - xã hội và nó được
biểu hiện cụ thể trong những không gian và thời gian không hoàn toàn giống nhau.
Tuỳ hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của mỗi vùng quốc gia trong mỗi thời kỳ
nhất định mà cơ cấu kinh tế có những đặc trưng nhất định. Không thể có một cơ cấu
kinh tế mẫu làm chuẩn mực cho mọi quốc gia. Mỗi một quốc gia, mỗi một vùng
phải lựa chọn cho mình một cơ cấu kinh tế phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất
định. Có như vậy mới xác định được một cơ cấu kinh tế hợp lý và hiệu quả.
* Cơ cấu kinh tế không ngừng vận động biến đổi và phát triển theo hướng
ngày càng hoàn thiện hợp lý và hiệu quả.
Như chúng ta đã biết một cơ cấu kinh tế hợp lý là một cơ cấu kinh tế luôn phù
hợp với điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội ở mọi thời kỳ và nó là một cơ cấu kinh tế
hiệu quả nhất. Sự biến đổi và phát triển của cơ cấu kinh tế nói chung luôn phụ
thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, mà lực
lượng sản xuất ngày càng phát triển, phân công lao động ngày càng phức tạp. Vì
vậy, tất yếu sẽ dẫn tới sự biến đổi của cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hoàn
thiện để phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao
động xã hội.
Tóm lại, sự vận động và biến đổi của cơ cấu kinh tế là một tất yếu, phản ánh
sự phát triển không ngừng của nền văn minh nhân loại.
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một qúa trình.
Cơ cấu kinh tế sẽ vận động phát triển từ cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế
mới đòi hỏi phải có thời gian và phải qua những bậc thang nhất định của sự phát
12
triển. Đầu tiên là sự thay đổi về lượng, khi lượng đã được tích luỹ đến độ nhất định
tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất. Đó là quá trình chuyển hoá dần cơ cấu kinh
tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới phù hợp và có hiệu quả hơn. Tất nhiên quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay chậm còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố, trong
đó sự tác động của con người có ý nghĩa quan trọng. Đặc biệt là phải có được các
giải pháp, chính sách và cơ chế quản lý thích ứng để định hướng cho quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mọi sự nóng vội hoặc bảo thủ trì trệ trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đều gây phương hại đến sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân.
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH
KINH TẾ THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.2.1. Quan niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế là luôn vận động, phát triển; vận động và chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế là một quá trình khách quan. Cơ cấu ngành kinh tế luôn thay đổi theo từng
thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu ngành kinh tế không phái là cố định,
bất biến. Sự thay đổi đó có tính khách quan và tuân theo những xu hướng có tính quy
luật. Đó là sự thay đổi về số lượng các ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các
ngành, các vùng, các thành phần kinh tế do sự xuất hiện hoặc biến mất của một số ngành
và tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế là không đồng đều. Như
vậy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này
sang trạng thái khác hợp lý, hiệu quả, phù hợp với xu thế, điều kiện và môi trường phát
triển được gọi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Theo từ điển kinh tế học Oxford thì chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: “là một quá
trình thay đổi chính trong nền kinh tế của một quốc gia. Chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế là một quá trình chuyển từ trạng thái cơ cấu cũ sang cơ cấu mới phù hợp với
sự phát triển tiến bộ của khoa học công nghệ, nhu cầu thị trường và nhằm sử dụng
hiệu quả mọi yếu tố nguồn lực của đất nước.
Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở đây không đơn thuần là sự thay đổi vị
trí mà là sự biến đổi cả về lượng và chất trong nội bộ cơ cấu. Việc chuyển dịch cơ
13
cấu kinh tế trước hết được bắt đầu từ sự thay đổi về lượng bên trong của các yếu tố
cấu thành nên tổng thể nền kinh tế. Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về
chất. Nếu sự thay đổi về lượng chưa đủ mức, chưa đạt yêu cầu của mối quan hệ biện
chứng giữa các bộ phận thì chưa tạo ra sự chuyển dịch về chất. Trạng thái của cơ
cấu - sự biểu hiện ra bên ngoài của những sự biến đổi bên trong - vẫn là trạng thái
cũ; cơ cấu kinh tế vẫn là cơ cấu kinh tế ban đầu. Trong quá trình tái sản xuất xã hội,
sản xuất là giai đoạn, là khâu động nhất; xét trong phạm vi hẹp của một quá trình
sản xuất tạo ra một sản phẩm cụ thể hay trên toàn bộ phạm vi nền kinh tế thì sản
xuất đều là điểm mở đầu của sự thay đổi. Dưới tác động của thị trường, thông qua
các quy luật và phạm trù, thị trường đặt ra cho sản xuất những nhu cầu mới về sản
phẩm. Để thỏa mãn những đòi hỏi của thị trường, quá trình sản xuất có sự thay đổi.
Khởi đầu là sự thay đổi công cụ lao động, đối tượng lao động, và cùng với nó là sự
thay đổi về kỹ năng, phương pháp lao động sẽ cho ta những sản phẩm mới, các
kết quả mới. Trên cơ sở sự thay đổi của giai đoạn sản xuất, các yêu cầu về phân
phối, trao đổi, dịch vụ cũng như tiêu dùng sẽ được vận động, biến đổi theo. Sự thay
đổi của quá trình sản xuất sản phẩm sẽ lôi kéo, mở rộng thị trường yếu tố đầu vào,
làm tăng dung lượng của thị trường đầu ra và làm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của
xã hội, làm tăng nhu cầu động lực tiêu dùng mới của xã hội. Quy mô của sản xuất
thay đổi, mở rộng tất yếu đòi hỏi sự mở rộng tương ứng về hạ tầng kỹ thuật, về các
khâu, các ngành dịch vụ cung cấp đầu vào cũng như thỏa mãn được yêu cầu đầu ra.
Do đó, sự thay đổi của các khu vực Dịch vụ, hạ tầng, cũng như các yếu tố trong lĩnh
vực tiêu dùng lại có tác động trở lại đối với sản xuất; nó góp phần làm cho giai đoạn
sản xuất hoàn thành nhiệm vụ của mình nhanh hoặc chậm để lại tiếp tục cho chu kỳ
sản xuất sau. Nếu các ngành dịch vụ, các ngành hỗ trợ sản xuất hoặc các ngành phụ
trợ không phát triển tương ứng tất yếu làm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
hoặc xảy ra chậm, hoặc không thực hiện được; thậm chí có khi còn xảy ra khủng
hoảng do sự không ăn khớp giữa các ngành, các lĩnh vực. Sự tác động qua lại như
vậy giữa các bộ phận, các yếu tố của nền kinh tế làm cho cơ cấu kinh tế chuyển
dịch, thay đổi. Chính sự thay đổi của cơ cấu sản xuất thúc đẩy sự thay đổi của toàn
bộ cơ cấu kinh tế. Ngược lại, các bộ phận khác của cơ cấu kinh tế cũng thay đổi
14
tương xứng, phù hợp với cơ cấu sản xuất thì toàn bộ cơ cấu kinh tế mới chuyển dịch
nhanh chóng và hiệu quả. Sự trì trệ hay yếu kém của một bộ phận nào đó đều làm
ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Như vậy, quá trình phát triển kinh tế
không phải bao giờ cũng đồng đều và nhịp nhàng với nhau, vì trong quá trình ấy có
nhiều yếu tố tác động khác nhau đến xu hướng phát triển của mỗi bộ phận, yếu tố
cấu thành. Do đó cơ cấu kinh tế cũng có sự biến đổi, song nếu những yếu tố, những
bộ phận cơ bản của cơ cấu kinh tế vẫn thích ứng, chưa gây ra những trở ngại cho
việc phát triển của từng bộ phận và cả tổng thể, thì chưa tạo ra sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chỉ diễn ra khi có những thay đổi lớn về
điều kiện phát triển; có những khả năng và giải pháp mới làm thay đổi phương thức
khai thác các điều kiện hiện tại; trong quan hệ phát triển giữa các ngành của cơ cấu
kinh tế có trở ngại dẫn đến hạn chế lẫn nhau làm ảnh hưởng đến sự phát triển
chung. Quan điểm này tạo cơ sở khoa học cho ta tiếp cận phương pháp phân tích
nguyên nhân chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm chạp hoặc kém hiệu quả của nhiều
địa phương ở nước ta cũng như đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung
cả về mặt lượng và mặt chất. Đó là sự phát triển thiếu đồng bộ giữa sản xuất với hệ
thống hạ tầng kỹ thuật, giữa sản xuất với lĩnh vực lưu thông tiêu thụ sản phẩm;
giữa sản xuất với sản xuất Tình trạng phổ biến là sản xuất kỹ thuật lạc hậu, chất
lượng sản phẩm không phù hợp với nhu cầu thị trường, chi phí sản xuất cao. Sản
xuất chưa đóng vai trò chuyển dịch thực chất, và do đó không tạo ra động lực thúc
đẩy quá trình chuyển dịch. Cũng có tình trạng một số địa phương, một số khu vực,
một số ngành sản xuất khá phát triển, nhưng các ngành phụ trợ và Dịch vụ không
phát triển tương xứng nên thất bại trong quá trình cơ cấu lại sản xuất. Tình trạng
này phổ biến xảy ra trong Nông nghiệp hoặc thường ở vùng sâu, vùng xa chưa có
sự phát triển của giao thông vận tải và công nghệ thông tin cũng như bảo đảm các
nguồn năng lượng cho yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2.2. Khái niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Từ cuối thế kỉ thứ XVIII đến nay, trong lịch sử đã diễn ra các loại công nghiệp
hoá khác nhau : Công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa và công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa. Các loại công nghiệp hoá này, xét về mặt lực lượng sản xuất, khoa học và
15
công nghệ là giống nhau. Song chúng có sự khác nhau về mục đích, về phương thức
tiến hành, về sự chi phối của quan hệ sản xuất thống trị. Công nghiệp hoá diễn ra ở
các nước khác nhau, vào những thời điểm lịch sử khác nhau, trong những điều kiện
kinh tế-xã hội khác nhau, do vậy nội dung khái niệm có sự khác nhau.
Tuy nhiên, theo nghĩa chung, khái quát nhất, công nghiệp hoá là quá trình biến
một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp.
Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về
công nghiệp hoá vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta hiện nay, Đảng ta nêu ra
quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá như sau : Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh,
dịch vụ và quản lí kinh tế-xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp
tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công
nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Quan niệm nêu trên cho thấy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước
ta phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong quá
trình phát triển. Qúa trình ấy, không chỉ đơn thuần phát triển công nghiệp mà còn
phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền
kinh tế quốc dân theo hướng kĩ thuật và công nghệ hiện đại. Qúa trình ấy không chỉ
tuần tự trải qua các bước cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, mà còn sử dụng kết
hợp thủ công truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở
những khâu có thể và mang tính quyết định.
Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất - kĩ thuật
tương ứng. Cơ sở vật chất - kĩ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố
vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kĩ thuật ( công nghệ )
tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất đáp
ứng nhu cầu xã hội.
Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất - kĩ thuật của một xã hội là
sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học - kĩ thuật;
tính chất và trình độ của các quan hệ xã hội; đặc biệt là quan hệ sản xuất thống trị.
16
Nói cơ sở vật chất - kĩ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói cơ sở
vật chất - kĩ thuật đó đã đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương
thức sản xuất đó.
Đặc trưng của cơ sở vật chất - kĩ thuật của các phương thức sản xuất trước chủ
nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Đặc trưng của cơ sở vật
chất - kĩ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hoá.
Chủ nghỉa xã hội - giai đoạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn chủ
nghĩa tư bản - đòi hỏi một cơ sở vật chất - kĩ thuật cao hơn trên cả hai mặt : trình độ
kĩ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học - kĩ thuật
hiện đại.
Do vậy, có thể hiểu, cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công
nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lí, có trình độ xã hội hoá cao dựa trên
trình độ khoa học - công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và
thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách
quan, một quy luật kinh tế mang tính phổ biến và được thực hiện thông qua công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đối với các nước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, dù đã có
công nghiệp, có cơ sở vật chất- kĩ thuật của chủ nghĩa tư bản tiến bộ đến đâu cũng
chỉ là những tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở vật chất- kĩ thuật của chủ nghĩa
xã hội, các nước này phải thực hiện quy luật nói trên bằng cách tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất; tiếp thu vận dụng và phát triển cao hơn
những thành tựu khoa học- công nghệ vào sản xuất; hình thành cơ cấu kinh tế mới
xã hội chủ nghĩa có trình độ cao và tổ chức, sắp xếp lại nền đại công nghiệp tư bản
chủ nghĩa một cách hợp lý, hiệu quả hơn.
Đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
như nước ta, xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện
từ đầu, từ không đến có, từ gốc đến ngọn thông qua công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
17
Bởi vì, cơ sở vật chất kĩ thuật là điều kiện trọng yếu nhất, quyết định nhất có
liên quan tới sự phát triển về vật chất đối với lực lượng sản xuất năng suất lao động
xã hội, đối với việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã
hội và đối với sự thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội.
1.2.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
Theo xu thế phát triển kinh tế, xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá thì cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo xu
hướng sau:
Thứ nhất, đối với các nước đang phát triển, khu vực kinh tế nông thôn, nông
nghiệp vẫn là ngành sản xuất chủ yếu, trong khi đó công nghiệp và dịch vụ rất nhỏ
bé. Đối với các nước phát triển, thu nhập của người dân cao thì tỷ lệ chi tiêu cho
lương thực, thực phẩm trong nông nghiệp sẽ giảm đi, đồng thời tỷ lệ chi tiêu cho
các sản phẩm của công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Từ đó tất yếu sẽ dẫn tới tỷ trọng
nông nghiệp sẽ giảm đi, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên.
Thứ hai, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cùng với việc ứng dụng
khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất ngày càng nhiều từ đó dẫn đến năng suất lao
động nông nghiệp và xã hội sẽ tăng lên. Kết quả là để đảm bảo lương thực thực
phẩm cho xã hội sẽ không cần đến lực lượng lao động như cũ, có nghĩa là nông
nghiệp và nông thôn ngày càng được giải phóng để bổ sung cho phát triển công
nghiệp và đô thị. Như vậy tỷ lệ lao động trong nông nghiệp sẽ giảm, đồng thời tỷ lệ
lao động được thu hút vào công nghiệp và dịch vụ ngày tăng lên. Đó chính là tính
quy luật của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Thứ ba, ở mỗi vùng, mỗi địa phương luôn có các tiềm năng thế mạnh khác
nhau. Vì vậy cơ cấu ngành kinh tế luôn chuyển dịch theo xu hướng tăng dần những
ngành có lợi thế nhằm khai thác được các tiềm năng, thế mạnh của vùng, điạ
phương, đồng thời giảm dần những ngành không có lợi thế.
Tóm lại, việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ngày càng theo hướng tích cực,
nghĩa là cơ cấu ngành kinh tế luôn chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng các
18
ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm dần tỷ trọng
ngành nông nghiệp nhằm phát triển nhanh kinh tế nông thôn, góp phần tạo thêm việc
làm tăng năng suất lao động, tăng thu nhập và nâng cao đời sống nhân dân.
Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa cho thấy rõ tính quy luật của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Dù thực
hiện theo mô hình nào thì quá trình chuyển dịch cũng bắt đầu từ Nông nghiệp chuyển
sang Công nghiệp và Dịch vụ. Sự phát triển của ngành dịch vụ thể hiện một trình độ phát
triển cao hơn của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, của phân công lao động. Sự
xuất hiện và phát triển của ngành dịch vụ với tính cách là ngành độc lập được tách ra từ
sản xuất và tiêu dùng nhằm mục đích phục vụ sản xuất và tiêu dùng là sự thể hiện sâu
sắc quá trình phát triển của phương thức sản xuất, của phân công lao động xã hội, và
cũng chính là quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế về cả lượng và chất.
Đương nhiên trong thực tiễn phát triển, không có một quốc gia nào tồn tại độc lập,
phân chia một cách rạch ròi các giai đoạn của quá trình chuyển dịch hoặc phân công lao
động. Trái lại, các giai đoạn đó đan xen vào nhau, hòa lẫn với nhau do quy luật phát triển
không đều; do các nước đi sau biết kế thừa, học tập các quốc gia phát triển trước nên
trong cùng một thời gian, tính quy luật phổ biến là sự tồn tại đồng thời nhiều quá trình
chuyển dịch, nhiều quá trình phân công lao động, nhiều giai đoạn phát triển.
Với đặc trưng của từng mô hình, vấn đề rút ra là không thể thực hiện chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế một cách nóng vội, chủ quan, duy ý chí mà phải tuân theo
tính quy luật khách quan. Tuy nhiên do điều kiện của từng quốc gia, mỗi nước cũng
như mỗi vùng có thể vận dụng một hoặc một số mô hình để thực hiện chuyển dịch
cơ cấu kinh tế có lợi nhất, có hiệu quả nhất. Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hóa,
việc tham gia hội nhập khu vực và thế giới là yêu cầu khách quan. Vì vậy chủ động
tham gia hội nhập, lựa chọn mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế dựa trên những lợi
thế so sánh là con đường ngắn nhất để phát triển. Việc xác định đúng đắn tiềm
năng, lợi thế cũng như xác định chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng đắn sẽ
cho phép các nước đi sau, các nước chậm phát triển rút ngắn khoảng cách với các
nước phát triển, thoát khỏi lạc hậu và tụt hậu. Vì vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế được coi là thành công khi và chỉ khi đảm bảo các yêu cầu: sử dụng
19