Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Hiện tượng lóng sử dụng trên một số báo chí dành cho giới trẻ (xét trên bình diện cấu trúc và ngữ nghĩa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (830.18 KB, 141 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM




PHẠM THỊ THU HOÀI



HIỆN TƢỢNG “LÓNG” SỬ DỤNG
TRÊN MỘT SỐ BÁO CHÍ DÀNH CHO GIỚI TRẺ
(XÉT TRÊN BÌNH DIỆN CẤU TRÖC VÀ NGỮ NGHĨA)


Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGÔN NGỮ


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Phạm Văn Tình



THÁI NGUYÊN - 2010

THÁI NGUYÊN, THÁNG …/2010

LỜI CẢM ƠN



Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới
PGS.TS Phạm Văn Tình, người thầy đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá
trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy,
hướng dẫn, quan tâm đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp, các em
sinh viên khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã nhiệt tình
giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2010
Tác giả luận văn


Phạm Thị Thu Hoài













LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công bố
trong một công trình nghiên cứu nào khác.

Tác giả


Phạm Thị Thu Hoài



















MỘT SỐ QUY ĐỊNH
1. Các chữ viết tắt

HHT: Báo Hoa học trò
TGHĐ: Báo Thế giới học đường
2. Kí hiệu bảng biểu
Đánh số bảng biểu gắn với số chương, ví dụ Bảng 2.2. có nghĩa là bảng
thống kê số liệu thứ 2 trong Chương 2.




















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1.1. Lý do khách quan
Hiện nay, dư luận xã hội quan tâm nhiều đến tình hình phát triển của
tiếng Việt, đặc biệt là trong thời mở cửa của cơ chế thị trường. Để thích nghi
với sự năng động của cuộc sống, tiếng Việt đã có sự điều chỉnh, thay đổi,
trong đó có việc mở rộng và phát triển vốn từ sẵn có. Đây là một xu hướng
của ngôn ngữ nói chung. Thực tế hiện nay cho thấy, trong sinh hoạt thường
nhật cũng như trên văn bản báo chí, có một dạng ngôn từ đang chiếm ưu thế
với mật độ xuất hiện dày đặc và khá phổ biến đó là tiếng lóng (Slang).
Vốn chỉ là một “biệt ngữ” xã hội, tiếng lóng là một dạng ngôn ngữ hẹp
được sử dụng trong một nhóm hay cộng đồng nào đó, sống “kí sinh” trong
lòng ngôn ngữ toàn dân. Từ khi hình thành, tiếng lóng đã bị coi là “lệch
chuẩn” không được khuyến khích phát triển. Nhưng đến nay, lối nói “lóng
hoá” đang có cơ hội phát triển trong xã hội hiện đại. Hiện tượng này ngày
càng có xu hướng phát triển mạnh, nhất là với giới trẻ ở các đô thị, khi nhu
cầu giữ bí mật nội dung giao tiếp đang dần trở nên cấp thiết. Một bộ phận
không nhỏ tiếng lóng khi mất vai trò của mình, đã nhập vào ngôn ngữ toàn
dân với giá trị tích cực. Sự hiểu biết và vận dụng linh hoạt một bộ phận tiếng
lóng tạo nên sự phong phú trong vốn từ ở cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Trong xu hướng dân chủ hoá hoạt động sáng tạo văn chương nghệ thuật, tiếng
lóng ngày càng có vị trí và vai trò nhất định trọng cần được quan tâm.
1.2. Lý do chủ quan
Con người khi giao tiếp bằng ngôn ngữ luôn chú ý đến việc tổ chức lời
nói như thế nào cho tốt, cho hay để người nghe có thể tiếp nhận dễ dàng.
Thực tế tiếng Việt hiện đại cho thấy, tiếng lóng ngày càng được nhiều nhóm
xã hội sử dụng hơn. Không dừng lại trong ngôn ngữ của giới trẻ, tiếng lóng
đang xâm nhập nhiều vào tầng lớp doanh nhân, trí thức, cho dù cộng đồng
sử dụng nó có muốn hay không muốn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2

Hiện nay, báo chí đang đứng trước câu hỏi “viết cho ai”, “viết với mục
đích gì”, để thỏa mãn được yêu cầu đặt ra với nhiều đối tượng, thuộc các trình
độ văn hóa khác nhau không phải là điều dễ dàng. Tìm hiểu về “Hiện tượng
lóng trên ngôn ngữ báo chí” là bước chân vào địa hạt khá rộng, trên một nền
tư liệu lớn, đồ sộ bao gồm: báo in, báo phát thanh và báo hình. Tuy nhiên
trong phạm vi đề tài này, ngôn ngữ báo phát thanh và báo hình còn để ngỏ,
với lý do đối tượng nghiên cứu là “hiện tượng lóng”, một hiện tượng ngôn
ngữ “lệch chuẩn”, xuất hiện không nhiều lắm trên ngôn ngữ phát thanh
truyền hình. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi xin tập trung vào “hiện
tượng lóng” trên một số báo chí được giới trẻ hiện nay quan tâm, yêu thích
như: Tuổi trẻ cười, Sinh viên Việt Nam…và đặc biệt là báo Thế giới học
đường và Báo Hoa học trò.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Sưu tầm, biên soạn nghiên cứu hiện tượng “lóng” trong ngôn ngữ
nói chung
Tiếng lóng là slang, cant (tiếng Anh), là argot, jargon (tiếng Pháp).
Không biết chích xác từ slang xuất hiện khi nào, nhưng từ năm 1736 đã
xuất hiện từ điển Nathan Bailey‟s Canting Dictionary (thieving slang).
Trong từ điển này, người ta sưu tầm từ ngữ của bọn trộm cắp (foot-pads),
ăn mày (beggars), dân lang thang (gypsies), bọn lường gạt (cheats), bọn
đào ngạch, khoét vách, bẻ khóa (house-breakers), phu bốc vác (shop-
lifters), bọn cướp đường (highway-men)…Ban đầu phạm vi sử dụng của
tiếng lóng còn nhiều hạn chế, thường bắt gặp ở vỉa hè hay nơi chợ búa, dần
dần tiếng lóng đã xâm nhập sâu rộng hơn vào ngôn ngữ chung của cộng
đồng. Nó không bị điều khiển hay chịu sự đè nén của thực tế xã hội, có thể
tự do hình thành và biến mất.
Từ đầu thế kỷ XX, tiếng lóng Việt Nam đã được nhiều học giả trong và
ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Đây có thể coi là một chủ đề lý thú, nóng
bỏng, thu hút được sự tò mò của nhiều cây bút và đông đảo độc giả. Công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3
trình đầu tiên về tiếng lóng trong tiếng Việt là bài viết mang tựa đề L‟argot
annamite (tiếng lóng trong tiếng An Nam) được đăng năm 1905 trong tập san
BEFEO của trường Viễn Đông Bác Cổ (Hà Nội), của học giả nước ngoài J. N.
Cheon. Sau 20 năm - năm 1925, khảo luận L‟argot annamite de Hanoi (Tiếng
lóng Việt Nam ở Hà Nội) của Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố chính thức được
công bố… Trong thời gian qua, nhiều chuyên gia đầu ngành về Việt ngữ học
đã dồn nhiều tâm sức để nghiên cứu về vấn đề này. Song cho đến nay vẫn tồn
tại nhiều ý kiến trái chiều xoay quanh cách nhìn nhận, đánh giá về hiện tượng
ngôn ngữ phức tạp này.
Quan điểm thứ nhất lên án sự tồn tại của tiếng lóng, làm mất đi vẻ
đẹp thuần túy, trong sáng của tiếng Việt. Theo quan điểm này, Nguyễn
Văn Tu và Nguyễn Kim Thản cho rằng: Tiếng lóng là hiện tượng không
lành mạnh trong ngôn ngữ, nó chỉ tồn tại trong xã hội có giai cấp và dần
dần nó sẽ bị đào thải. Vì vậy quan điểm này triệt để chống tiếng lóng,
kiên quyết loại bỏ tiếng lóng ra khỏi ngôn ngữ cộng đồng. Quan điểm này
đã được hai tác giả đề cập trong ấn phẩm “Từ và vốn từ tiếng Việt hiện
đại” (NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp 1976) và “Tiếng Việt
trên đường phát triển” (NXB Khoa học xã hội 1982).
Đi ngược lại với quan điểm trên, nhiều học giả và các nhà nghiên cứu
tên tuổi đã lên tiếng bênh vực tiếng lóng, nhìn nhận tiếng lóng dưới cái nhìn
khách quan. Họ chấp nhận những giá trị tích cực, góp phần bổ sung và làm
sinh động hơn cho ngôn ngữ toàn dân của tiếng lóng. Đó là ý kiến phát biểu
của Trịnh Liễn và Trần Văn Chánh tại hội nghị “Giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt” tổ chức tại Hà Nội năm 1979. Đồng thuận với quan điểm trên,
Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn “Từ vựng tiếng Việt” cũng đã đưa ra lý lẽ của
mình bảo vệ một số tiếng lóng tốt, có giá trị thẩm mỹ và văn hóa. (NXB Đại
học và Trung học chuyên nghiệp 1985)
Từ trước tới nay, đã có không ít công trình bàn về tiếng lóng. Năm

1979, Trịnh Liễn và Trần Văn Chánh đã có báo cáo khoa học về vấn đề này;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
hay đi sâu vào thực tế sử dụng trong từng ngành nghề, Chu Thị Thanh Tâm có
bài “Tiếng lóng trong giao thông vận tải” (Ngôn ngữ và đời sống, 1998).
Song khách quan nhìn nhận mức độ nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở một vài
chương, đoạn trong các mục bàn về từ vựng học, tu từ học, phong cách
học…chưa đi vào thống kê số liệu, xử lí và giải mã các thông tin có liên quan.
Đến năm 2001, một chuyên luận độc lập nghiên cứu về tiếng lóng đã ra
đời và chính thức được phát hành rộng rãi. Đó là cuốn “Tiếng lóng Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Văn Khang do NXB Khoa học xã hội xuất bản. Cuốn sách
được chia làm hai phần: Phần I - Đặc điểm tiếng lóng Việt Nam, Phần II - Từ
điển từ ngữ lóng tiếng Việt. Sau đó, đến quý I năm 2008, Trung tâm Văn hóa
và Ngôn ngữ Đông Tây kết hợp với NXB Công an Nhân dân ấn hành cuốn
“Sổ tay từ - ngữ lóng tiếng Việt”. Đây là một đóng góp rất đáng quý cho ngôn
ngữ học, bởi tập hợp được nhiều nhất vốn từ ngữ lóng trong tiếng Việt với lời
giải nghĩa khá thỏa đáng.
2.2. Sưu tầm, nghiên cứu hiện tượng “lóng” trong ngôn ngữ báo chí
Đất nước đang phát triển đi lên, trong thời kỳ hội nhập quốc tế, bên
cạnh việc tiếp thu, chắt lọc nét đẹp tinh hoa ngôn ngữ của các quốc gia, dân
tộc trên thế giới thì sự trong sáng, chuẩn mực của tiếng Việt lại đang chịu tác
động ngược chiều, bởi không ít ảnh hưởng tiêu cực. Ngày nay, dư luận đang
lên tiếng cảnh báo về sử dụng tiếng Việt một cách tùy tiện, lai căng, vay
mượn ngôn ngữ vô lối xuất hiện ngày càng nhiều trong đời sống xã hội. Điều
đáng nói là ngay cả một số cơ quan ngôn luận như báo chí cũng chấp nhận sự
dễ dãi, bất chấp quy luật chuẩn mực của ngôn ngữ.
Báo chí ngoài chức năng cung cấp thông tin và định hướng dư luận còn
có trách nhiệm góp phần định hình ngôn ngữ cho độc giả, đặc biệt là báo viết
cho giới trẻ. Tuy nhiên, những năm gần đây nhiều tờ báo dùng cả thứ ngôn

ngữ chợ búa, mất thẩm mỹ lên các trang báo như “tanh tưởi”, “chuối”, “tởm
lợm”… lối nói chuyện tếu táo đường phố như “buồn như con chuồn chuồn”,
“chán như con gián”,… gây cảm giác khó coi, đôi khi phản cảm cho độc giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
lớn tuổi. Trong sự phát triển của ngôn ngữ, tiếng lóng cũng chỉ là một trong
nhiều hình thức ví von có thô tục, có thanh tao, có châm biếm,… nó chỉ phù
hợp trong những ngữ cảnh nhất, góp phần làm cho câu chuyện thêm phong
phú. Có thể nói, hiện tượng “lóng” là một nét văn hóa khá mới, đi liền với
cuộc sống, nó thỏa mãn nhu cầu của con người như vui vẻ, làm cho cách nghĩ
và sự tưởng tượng thêm linh hoạt, tuy nhiên cũng giống ẩm thực nếu “gia vị”
quá đậm sẽ khó được chấp nhận.
Tiếng lóng một hiện tượng ngôn ngữ xã hội khá phức tạp, đã được
nhiều tác giả dày công nghiên cứu. Tuy nhiên, việc gắn kết lý thuyết vào công
việc nghiên cứu cụ thể trên văn phong báo chí còn nhiều hạn chế, chưa mang
lại hiệu quả rõ rệt. Cho đến nay, chúng tôi chưa thấy một công trình nào dành
toàn bộ dung lượng để nghiên cứu và chỉ ra đặc điểm của ngôn ngữ “lóng”
trên báo chí. Một khối lượng lớn tiếng lóng vẫn trôi nổi, chưa được thống kê,
phân loại và nhận định đúng mức về giá trị sử dụng.
2.3. Đánh giá kết quả nghiên cứu của những người đi trước và những vấn
đề còn bỏ ngỏ
Ngôn ngữ lóng - loại khẩu ngữ đặc thù dùng trong giao tiếp phi chính
thức đã được quan tâm nghiên cứu từ khá sớm. Nhưng khoảng chục năm trở
lại đây, hiện tượng này mới thực sự dành được sự quan tâm của nhiều học giả
trong nước, với số lượng công trình và bài viết khá đáng kể. Theo nhìn nhận
khách quan của người nghiên cứu:
- Các tác giả đều thừa nhận sự tấn công mạnh mẽ của ngôn ngữ lóng
vào ngôn ngữ toàn dân.
- Bước đầu chỉ ra giá trị, vai trò cũng như hạn chế của nó trong hoạt

động giao tiếp.
- Phân tích sự ảnh hưởng của yếu tố ngôn ngữ này trong hoạt động giao
tiếp trên hai khía cạnh là ảnh hưởng tích cực và tiêu cực.
- Thiết lập được hệ thống từ ngữ lóng thường dùng và bước đầu chỉ ra ý
nghĩa biểu hiện của chúng trong văn cảnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Một số điều còn bỏ ngỏ
- Các tác giả mới chỉ quan tâm đến hiện tượng “lóng” dưới dạng chữ
viết, chưa chú ý tới các dạng biểu hiện khác như mật mã, kí tự lóng.
- Các tác giả chưa đặt hiện tượng lóng vào từng văn phong cụ thể, để
chỉ ra sắc thái biểu cảm và ý nghĩa tinh tế của nó.
- Các tác giả đã chỉ ra vai trò của hiện tượng “lóng” song chưa thật đầy
đủ và sâu sắc.
- Nhiều ý kiến đánh giá về hiện tượng này còn phiến diện, một chiều.
Từ thực tiễn sinh động đó đã thôi thúc chúng tôi bắt tay tìm hiểu về
hiện tượng “lóng” sử dụng trên một số báo chí dành cho giới trẻ hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thống kê, phân loại, miêu tả và đánh giá các hiện tượng “lóng” sử
dụng trên báo chí về các phương diện ngôn ngữ, cho thấy sự phong phú, sinh
động của hiện tượng “lóng” trong thực tế nói chung và trên báo chí nói riêng.
Trên cơ sở đó, chúng tôi muốn góp phần làm sáng rõ đặc điểm và cách thức
sử dụng của hiện tượng này trên báo chí.
Ngoài mục đích nói trên, khi nghiên cứu vấn đề này, người viết hy
vọng luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cho những ai muốn tìm hiểu về
hiện tượng “lóng” trong tiếng Việt và nghệ thuật sử dụng hiện tượng này
trên báo chí hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hóa một số khái niệm liên quan đến hiện tượng “lóng”.
- Thống kê các hiện tượng “lóng” sử dụng trên báo chí và tiến hành
miêu tả, phân loại.
- Tìm hiểu vai trò, chức năng và nghệ thuật của hiện tượng “lóng”, qua đó
đưa ra những nhận xét bước đầu về xu hướng phát triển của hệ thống từ vựng này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Bước đầu khảo sát các biểu hiện của hiện tượng “lóng” trên một số báo
chí dành cho giới trẻ. Các chuyên mục được lựa chọn khảo sát là những trang
thông tin, giải trí, bài viết chia sẻ hiểu biết, kinh nghiệm…của tuổi mới lớn.
Những chuyên mục này sẽ giúp luận văn có một nguồn tư liệu khá phong phú
khi tìm hiểu vấn đề về hiện tượng lóng. Thêm nữa, luận văn có ý muốn chọn
đối tượng nghiên cứu là các báo gần gũi với học sinh THPT, bởi ở lứa tuổi
này ngôn ngữ “lóng” xuất hiện nhiều và sinh động hơn cả. Cụ thể các chuyên
mục được lựa chọn khảo sát bao gồm:

STT
TÊN CHUYÊN MỤC
BÁO HOA HỌC TRÕ
THẾ GIỚI HỌC ĐƢỜNG
1
Forum Teen
Chuyển động học đường
2
Thông tin – Quảng cáo
Xa lộ giải trí
3

Truyện ngắn
Tuổi trưởng thành
4
Chánh văn
Tổng đài Teen
5
5TV
Đối thoại
6
Văn phòng Divu
Cẩm nang Body
7
Những trái tim đang lớn
Tisp shopping
8
Đường dây nóng
Rubic tình yêu
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Hiện tượng “lóng” được sử dụng khá phổ biến, đặc biệt là trong giao
tiếp thường nhật. Song khác các nghiên cứu trước đây, từ lóng được mở rộng
trên toàn phạm vi ngôn ngữ để phân tích. Trong luận văn này, chúng tôi chỉ đi
sâu tìm hiểu hiện tượng “lóng” trên báo chí, đặc biệt là các báo dành cho giới
trẻ (Hoa Học Trò, Thế giới học đường) từ 2006 trở lại đây.
Từ việc nghiên cứu ngôn ngữ “lóng” với tư cách là một bộ phận từ
vựng, chúng tôi đi vào miêu tả hiện tượng này trên các bình diện cấu trúc
và ngữ nghĩa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
5.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp nghiên cứu này được chúng tôi dùng để thống kê, phân
loại những hiện tượng “lóng” đã sử dụng trên báo chí.
5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Trước hết, chúng tôi dùng phương pháp này để phân tích các kết quả
khảo sát. Qua đó, chúng tôi tiến hành tổng hợp chúng lại thành từng nhóm và
tổng kết các kết quả đã nghiên cứu được.
5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu này, chúng tôi muốn đối chiếu, so
sánh cách thức sử dụng hiện tượng “lóng” trực tiếp và gián tiếp, từ đó tìm ra
giá trị tích cực và tiêu cực của hiện tượng “lóng” trên báo chí.
6. Những đóng góp của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Các kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung vào hệ thống
lí luận của ngôn ngữ học xã hội qua hiện tượng “lóng”, từ đó làm sáng rõ
những mặt tích cực, hạn chế của bộ phận từ vựng này.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được vận dụng để góp phần
làm phong phú thêm cho các chuyên đề dạy học về từ vựng. Đồng thời, đưa ra
hướng tạo lập và phát triển vốn ngôn ngữ hiện nay.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết
Chƣơng 2: Cấu trúc của hiện tượng “lóng” sử dụng trên một số báo chí
dành cho giới trẻ.
Chƣơng 3: : Đặc điểm ngữ nghĩa của hiện tượng “lóng” sử dụng trên
một số báo chí dành cho giới trẻ.
Cuối cùng là Thư mục tham khảo và Phụ lục.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Khái quát về ngôn ngữ báo chí
1.1.1. Ngôn ngữ báo chí
Trong thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay, thông tin nhanh là một trong
những yếu tố quan trọng quyết định nên sự thành bại của nhiều lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa…và phương tiện đắc lực, hữu hiệu đưa thông tin đến với
độc giả chính là ngôn ngữ báo chí.
Ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn học có sự giao thoa ở phương
diện ngôn ngữ. Ngôn ngữ báo chí có nhiều điểm giống ngôn ngữ văn học
như cùng dùng văn tự, từ ngữ để chuyển tải nội dung, song lại có những
điểm khác biệt cơ bản.
Trước hết, ngôn ngữ văn học giàu tính hình tượng, giàu khả năng gợi
cảm. Thứ hai, ngôn ngữ văn học giàu tính biểu cảm. Thứ 3, ngôn ngữ văn học
giàu tính hàm súc, cô đọng. Trong khi đó, ngôn ngữ báo chí lại có những nét
đặc trưng khác biệt. Ngôn ngữ báo chí phải là ngôn ngữ của những sự kiện,
cần phải mang tính chính xác, cụ thể, không hư cấu, luôn phản ánh chính xác
hiện thực. Ngôn ngữ báo chí cần phải có tính chất định lượng rõ ràng. Ngôn
ngữ báo chí phải là ngôn ngữ có tính chất bình giá, ngôn ngữ báo chí cần phải
mang tính khuôn mẫu.
Ảnh hưởng qua lại giữa văn học và báo chí là ảnh hưởng song phương,
đa chiều. Tuy nhiên cũng phải khách quan thừa nhận rằng, văn học môn khoa
học cơ bản với bề dày lịch sử lâu đời đã trở thành cái gốc, dòng sữa mẹ trong
lành nuôi dưỡng báo chí phát triển. Hướng tác động từ văn học tới báo chí là
hướng tác động thuận chiều: vừa mạnh mẽ hơn, vừa sâu sắc hơn.
Đi theo sự phát triển của nhiều loại hình thông tin đại chúng, ngôn ngữ
báo chí cũng dần tách ra theo từng ngành riêng. Trong đó, ngôn ngữ báo viết

và ngôn ngữ báo mạng phục vụ nhu cầu đọc của công chúng bằng thị giác.
Do đó, nó cần rõ ràng, khúc chiết và có thể sử dụng kèm nhiều hình ảnh bổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
trợ. Trái lại, ở ngôn ngữ báo phát thanh, chỉ thông qua thính giác, người nghe
có thể tưởng tượng ra hình thái, quy mô, diễn biến của sự kiện đang xảy ra.
Đối với thể loại này, ngoài nghệ thuật sử dụng từ ngữ là các từ tượng hình,
tượng thanh cần quan tâm đến trật tự câu sao cho thật ngắn gọn, dễ hiểu.
Ngôn ngữ báo hình thu hút được sự quan tâm của công chúng nhiều hơn cả.
Lợi thế lớn nhất của thể loại này là những hình ảnh sống động, ngôn từ
bám sát khuôn hình và dễ nảy sinh cảm xúc cho người xem.Việc tiếp nhận
thông tin bằng thị giác bao giờ cũng sâu hơn, hiệu quả hơn bằng thính giác.
Hơn nữa, đối với thể loại báo hình, công chúng có sự phối kết hợp giữa
xem bằng mắt và nghe bằng tai nên lợi thế hơn nhiều so với các thể loại
báo khác. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi dành sự quan tâm cho thể
loại báo in được xuất bản định kỳ (đặc biệt là các báo in dành cho giới trẻ).
Tiêu chí lựa chọn của chúng tôi xuất phát từ cách thức trình bày, báo in thể
hiện nội dung trực tiếp trên bề mặt câu chữ, người đọc không khó khăn
trong việc tìm kiếm và lưu trữ.
1.1.1.1. Chức năng của ngôn ngữ báo chí
1.1.1.1.1 Chức năng cung cấp thông tin
Báo chí ra đời trước hết do nhu cầu nắm bắt thông tin của cuộc sống
hiện đại. Hàng ngày, con người giao tiếp, trao đổi thông tin thường xuyên với
nhau về mọi lĩnh vực của cuộc sống như: các sự kiện chính trị - xã hội, kiến
thức chuyên ngành hay những vấn đề tâm lý được người đọc quan tâm… Xã
hội đang phát triển lên từng ngày, nhu cầu về sự hiểu biết ngày một tăng cao,
báo chí trở thành công cụ đắc lực, hữu hiệu trong việc chia sẻ thông tin, khắc
phục tình trạng nghèo nàn tri thức cho độc giả.
Cung cấp thông tin là chức năng đầu tiên của báo chí. Để thực hiện tốt

chức năng này ngôn ngữ phải đảm bảo tính khách quan, trung thực. Các thông
tin được lựa chọn đảm bảo tính xác thực, lành mạnh, mở rộng sự hiểu biết,
hướng tới sự phát triển toàn diện cho con người. Ngôn ngữ phải lý trí, không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
nặng tính cá nhân và gạt ra ngoài những suy nghĩ mang tính chủ quan của
người làm báo.
1.1.1.1.2. Chức năng tác động và định hướng dư luận
Hiện nay cuộc sống đang hối hả với sự bùng nổ của các thông tin, sự
kiện trong và ngoài nước. Những sự kiện ấy được công chúng biết đến qua
những kênh thông tin khác nhau (kênh chữ, kênh hình) và đưa ra những nhận
xét, bình luận. Điểm đáng lưu ý là bất kỳ một sự kiện chính trị - xã hội nào
khi đưa lên trang báo, đều mang cái nhìn, thái độ của cả một cơ quan ngôn
luận làm ra nó. Vì thế, đây không phải là sản phẩm ngôn ngữ của riêng cá
nhân, mà của một tập hợp những phát ngôn viên có cùng chính kiến.
Chức năng tác động và định hướng dư luận luôn đi kèm với chức năng
cung cấp thông tin. Thực tế cho thấy, khi lĩnh hội thông tin bao giờ tâm lý
người đọc cũng đi qua các bước: sự tiếp nhận và sự phản hồi. Trước một sự
kiện, người ta có thể phản ứng theo cách này, cách kia tùy theo quan niệm và
sự hiểu biết của mình. Tuy nhiên, phần lớn sự phản ứng đều đi theo hai
hướng, sự kiện ấy ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến mình và vấn đề về
quyền lợi được quan tâm hơn cả.
Chức năng tác động và định hướng dư luận là chức năng quan trọng
của ngôn ngữ báo chí. Bởi dưới sự tác động và định hướng của báo chí, con
người ta biết đến sự kiện và hiểu được bản chất sự kiện, biết phân biệt đâu là
cái đúng cái sai, đâu là thật, đâu là giả…từ đó bạn đọc có được cái nhìn rõ
ràng, không mơ hồ và gắn liền với thực tế.
1.1.1.1.3. Chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng
Khi thực hiện chức năng tác động và định hướng dư luận, báo chí tự nó

đã có sức quy tụ bạn đọc hướng về phía mình. Sự thu hút của ngôn ngữ báo
chí tạo nên khả năng tập hợp, tổ chức quần chúng. Bởi lẽ, bạn đọc không phải
là đối tượng “nói sao cũng được, bảo gì nghe đấy”,… ngày nay độc giả
không chỉ đọc thuần túy, mà gắn với tư duy “đọc - hiểu”, do đó người cầm bút
phải có sự hiểu biết sâu rộng, nắm được tâm lý của đối tượng mình đang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
hướng đến. Tạo được niềm tin từ phía bạn đọc, báo chí đã góp phần tạo nên
sức mạnh to lớn, chuyển hóa sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất.
Bạn đọc tìm đến với báo chí nhiều hơn, tương ứng với số lượng báo xuất bản
của tòa soạn tăng lên, người viết có điều kiện tốt để yên tâm sáng tác.
Để thực hiện tốt chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng, ngôn ngữ
báo chí thiên về việc kêu gọi mang tính chất mệnh lệnh, cầu khiến như: “hãy,
không thể, phải đoàn kết…”. Nhưng độc giả sẽ không tin vào những khẩu
hiệu hô hào “suông”, muốn biến lời nói thành hành động đòi hỏi phải có “sản
phẩm”, kết quả nghiên cứu cụ thể, đó là những bài viết có chất lượng, đáp ứng
thị hiếu của người đọc trong những hoàn cảnh và điều kiện nhất định.
1.1.1.2. Đặc trưng của ngôn ngữ báo chí
1.1.1.2.1. Tính thẩm mỹ và giáo dục
Báo chí muốn trở thành món ăn tinh thần của đông đảo bạn đọc đòi hỏi
ngôn ngữ được sử dụng phải mang vẻ đẹp ngôn từ. Trên các trang báo, dù
người viết muốn đưa ra những ý kiến tranh luận thẳng thắn, mang tính gay gắt
thì cũng phải đảm bảo nguyên tắc tôn trọng tính thẩm mỹ, không dung tục hay
phát ngôn thô lỗ. Muốn làm được điều này, người viết phải có sự suy nghĩ,
lựa chọn ngôn từ phù hợp, để vấn đề cần bàn đảm bảo rõ nghĩa mà vẫn giữ
được tính thẩm mỹ cần có.
Tính thẩm mỹ trong ngôn ngữ báo chí phải đi liền với tính giáo dục. Dù
là trao đổi hay tranh luận thì hướng cuối cùng mà báo chí hướng tới là chân lý
và lẽ phải. Bởi báo chí là phương tiện giúp con người mở mang sự hiểu biết,

thức tỉnh con người khi suy nghĩ còn mơ hồ lệch lạc và góp phần điều chỉnh
con người theo các quy phạm xã hội về nhân phẩm, đạo đức,…
Người làm báo không thể đứng ra tuyên bố “bài viết này của tôi mang
tính giáo dục”, bởi phát ngôn như vậy không tạo được niềm tin của số đông.
Nghĩa là tính giáo dục không thể hiện rõ nét trên bề mặt ngôn từ mà chìm sâu
dưới tầng lớp ý nghĩa của câu chữ. Do đó, trong quá trình đọc, người đọc tự
hiểu và tự rút ra ý nghĩa cho bản thân mình. Để đảm bảo tính giáo dục, việc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
đưa tin phải trung thực, không biến tấu, “sao chép thất truyền” mang tính
khách quan và lành mạnh.
1.1.1.2.2. Tính hấp dẫn và thuyết phục
Báo chí muốn nhận được sự mong đợi và đón đọc của đông đảo công
chúng cần có sức hấp dẫn và thuyết phục. Đây có thể coi là điều kiện sinh tồn
của từng loại báo. Không ai có thể đủ kiên nhẫn là bạn đọc trung thành của
loại báo mà nội dung trang nào cũng nghèo nàn, nhàm chán. Sức hấp dẫn,
thuyết phục thể hiện trên hai phương diện là nội dung và hình thức.
Về phương diện nội dung: các tin được lựa chọn đăng tải phải đổi mới
từng ngày, đa dạng và phong phú. Tin đưa phải có tính nhanh nhạy và cập
nhật. Nội dung phản ánh phải mở rộng tới nhiều đối tượng, tạo ra nhiều chiều
hướng trong dư luận, không bó hẹp hoặc dừng lại ở suy nghĩ riêng của tác giả.
Về phương diện hình thức: Ngôn từ phải đi kèm với cách thể hiện có
sức cuốn hút. Từ cách lựa chọn nội dung đăng tải đến hình thức trình bày, tất
cả phải mang tính đồng sáng tạo, có khả năng tạo nên sự kết hợp bất ngờ, gây
ấn tượng và tác động mạnh đến tri giác của độc giả.
Tính hài hòa, hấp dẫn về nội dung và hình thức sẽ giúp báo chí chinh
phục được cả những độc giả khó tính nhất. Cùng một đề tài như nhau, nhưng
cách khai thác khác nhau sẽ gây được cảm tình và sức thuyết phục khác nhau.
Sử dụng thành thạo và nhuần nhuyễn các biện pháp chơi chữ, với những ngôn

từ “bất thường” đầy cá tính sẽ tạo nên sở trường và phong cách riêng cho
từng chuyên mục.
Về vấn đề này Hoàng Trọng Phiến đã cho rằng những hiện tượng bất
thường trong sử dụng ngôn ngữ có thể xem như biện pháp hấp dẫn của ngôn
ngữ báo chí. Tuy nhiên, đó phải là những hiện tượng bất thường mang tính
sáng tạo và có mục đích chứ không phải là hiện tượng sai về kết hợp từ. Đảm
bảo được điều này sẽ tạo điều kiện cho báo chí phát huy được tính hấp dẫn
lành mạnh, sáng tạo và có định hướng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
1.1.1.2.3. Tính ngắn gọn và biểu cảm
- Ngắn gọn là xu hướng chung của báo chí hiện đại. Điều này thể
hiện rõ qua việc khảo sát các bản tin, một dạng chuyên mục thuộc loại khô
khan của phong cách báo chí. Tính ngắn gọn là yêu cầu mang tính tất yếu,
xuất phát từ chức năng đầu tiên của báo chí là đưa tin nhanh. Đặc trưng này
thể hiện ở việc sử dụng các câu có cấu trúc cú pháp ngắn, ít mở rộng các
thành phần phụ như định ngữ, bổ ngữ,… thường xuất hiện các kiểu câu rút
gọn, tỉnh lược.
- Tính biểu cảm trong ngôn ngữ gắn liền với việc sử dụng các từ ngữ,
cách nói mới lạ, giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân. Nguồn gốc của tính
biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí rất phong phú và đa dạng. Đó có thể là sự
kết hợp linh hoạt ngôn ngữ báo chí với thành ngữ, tục ngữ, ca dao hay là sự
vay mượn các hình ảnh, từ ngữ, cách diễn đạt trong văn học nghệ thuật. Ngoài
ra, tính biểu cảm còn thể hiện khá rõ nét ở lối chơi chữ, cách nói lái, dùng từ
ẩn ngữ hay đơn giản là việc thể hiện ý kiến bình giá mang tính cá nhân. Nếu
ngôn ngữ không có tính biểu cảm, ngôn từ khô khan thì chúng chỉ có thể tác
động một chiều vào thị giác người đọc, khó có thể đạt được hiệu quả như
mong muốn. Tính biểu cảm là nhân tố tác động mạnh mẽ đến lý trí và tình
cảm của bạn đọc, làm cho họ đạt tới một trạng thái tâm lý, cảm xúc mà người

viết mong muốn, điều đó cũng có nghĩa là người viết đã thực hiện được mục
đích mà mình đặt ra.
1.1.2. Những quan niệm về ngôn ngữ sử dụng trên báo chí
1.1.2.1. Sự chuẩn mực của ngôn ngữ báo chí
Chuẩn mực của ngôn ngữ hay gọi tắt là chuẩn ngôn ngữ được xét trên
hai phương diện: chuẩn phải mang tính chất quy ước xã hội và chuẩn phải phù
hợp với quy luật phát triển nội tại của ngôn ngữ trong từng giai đoạn lịch sử.
Theo Vũ Quang Hào (trong “Ngôn ngữ báo chí”), cho đến nay xoay
quanh vấn đề chuẩn ngôn ngữ còn khá nhiều điều chưa thống nhất. Việc bàn
bạc, tranh luận diễn ra khá sôi nổi và phức tạp không chỉ đối với các nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
nghiên cứu nước ngoài, mà đây cũng là một vấn đề hấp dẫn đối với các nhà
nghiên cứu ở Việt Nam.
+ Nhóm các nhà khoa học Nga Xô Viết (U-sa-cốp, Ô-giê-gốp, Pô-
li-va-nốp,…) nhấn mạnh đến tính chất xã hội của chuẩn ngôn ngữ, xem
chuẩn là hiện tượng xã hội và phát triển có tính lịch sử. Quan niệm này
đúng nhưng có phần hơi phiến diện, vì nó đã bỏ qua quy luật phát triển bên
trong của cấu trúc ngôn ngữ.
+ Cô-sê-ri-u (Tiệp Khắc cũ) xem chuẩn là tổng hợp những sự thể hiện
các yếu tố trong cấu trúc ngôn ngữ đã được tách ra và củng cố trong thực tế
sử dụng. Điều đó có nghĩa hệ thống ngôn ngữ là những hình mẫu trừu tượng,
còn chuẩn ngôn ngữ là sự thể hiện hình mẫu đó bằng chất liệu ngôn ngữ.
+ Trường phái ngôn ngữ học Praha coi chuẩn là một hiện tượng bên
trong của cấu trúc ngôn ngữ, còn việc thể hiện chuẩn là một hiện tượng ngoài
ngôn ngữ, có tính chất xã hội. Trường phái này không chấp nhận có một cái
chuẩn chung tổng hợp, theo họ không thể đánh giá đồng đều những biểu hiện
ngôn ngữ bằng những tiêu chuẩn định sẵn, mà phải dựa trên chức năng hoạt
động của các yếu tố ngôn ngữ.

+ Kô-xtô-ma-rốp và Lê-ôn-chép,… cũng đồng quan điểm với trường
phái Praha. Theo đó, chuẩn ngôn ngữ chỉ có thể được xác định trong bối cảnh
giao tiếp cụ thể. Quan điểm này cho rằng, không có cái chuẩn chung cho ngôn
ngữ sử dụng giống nhau ở mọi tình huống giao tiếp, mà chỉ có hệ thống chuẩn
được áp dụng tùy vào từng tình huống và tính chất giao tiếp.
+ Phần lớn các tài liệu ngôn ngữ học ở Việt Nam đều cho rằng:
chuẩn ngôn ngữ là mẫu ngôn ngữ đã được xã hội đánh giá, lựa chọn và sử
dụng. Sự đánh giá lựa chọn đó không thể đạt được sự nhất trí hoàn toàn, do
vậy tính chất bắt buộc cũng như tính chất ổn định của chuẩn chỉ là tương
đối. Chuẩn không phải là quy định mà là quy ước, không phải là luật mà
chỉ mang tính chất chỉ dẫn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Chuẩn ngôn ngữ báo chí, hiểu một cách đơn giản là ngôn ngữ được
xuất hiện trên trang báo, phải là những ngôn từ dễ hiểu, dễ tiếp nhận đối với
công chúng. Hiểu được nội dung từ bề mặt ngôn từ sẽ giúp độc giả hiểu được
các kênh thông tin mà người viết muốn truyền tải.
Tuy nhiên, nếu coi chuẩn ngôn ngữ là mẫu ngôn ngữ đã được xã hội
đánh giá, lựa chọn và sử dụng, thì sự lựa chọn nói trên không những không
loại trừ mà còn cho phép, thậm chí đòi hỏi sự lựa chọn của cá nhân trong
phạm vi giao tiếp nhất định. Khi sự lựa chọn đạt đến trình độ sáng tạo, được
cộng đồng đón nhận, thì đây cũng chính là cơ hội tiếp sức cho “lệch chuẩn”
mới ra đời.
1.1.2.2. Hiện tượng “lệch chuẩn” trên ngôn ngữ báo chí
Ngôn ngữ trên báo chí hiện nay đang rơi vào thời kỳ khủng hoảng.
Nguyên nhân chính là do sự phân biệt ranh giới chưa thật rạch ròi giữa
“chuẩn” và “lệch chuẩn”. Chuẩn ngôn ngữ trên báo chí bao gồm hai nội dung
cơ bản là cái đúng và sự thích hợp. Viện sĩ V.Vi-mô-gra-đốp đã lấy cấu trúc
ngôn ngữ làm tiêu chuẩn đánh giá cái đúng. Ông cho rằng “Tất cả những cái

gì mới, đang phát triển, được các quy luật nội tại của quá trình phát triển
ngôn ngữ thừa nhận, phù hợp với cấu trúc của nó, dựa vào những xu thế sáng
tạo của nhân dân, dựa vào các quá trình mang tính tích cực trong lĩnh vực
ngữ pháp, ngữ nghĩa, sử dụng từ,… đều không thể bị cho là không đúng,
không thể bị phủ nhận căn cứ vào thị hiếu và thói quen cá nhân”.[23,17] Như
vậy có thể hiểu rằng cái đúng là cái được cộng đồng ngôn ngữ hiểu và chấp
nhận. Nó là một trong những điều kiện để công nhận tính chuẩn mực của
ngôn ngữ. Từ đây có thể suy ra cái sai, cái “lệch chuẩn” là cái mà người tiếp
nhận không hiểu, không chấp nhận, bởi nó không phù hợp với chuẩn mực
chung, không được thừa nhận và lựa chọn sử dụng một cách chính thống.
Điều bất thường trong xã hội hiện nay là các nhà báo trẻ khá ưa dùng
cách nói “lệch chuẩn” và bình thản sử dụng tạo nên phong cách của riêng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
mình. Thống kê sự khủng hoảng của tiếng Việt ở mọi phương diện trên báo
chí là một việc làm công phu và tỉ mỉ. Thực tế cho thấy, sự khủng hoảng này
đang diễn ra ở mọi cấp độ, mọi lúc - mọi nơi và biến dạng dưới mọi hình
thức. Hiện tượng phổ biến trong văn phong của các nhà báo trẻ là biến cái sai
thành thói quen có hệ thống, dần dần từ thói quen nghiễm nhiên biến nó trở
thành cái đúng. Ví dụ xì – tin (style), là một từ sai nhưng lại được sử dụng với
mật độ dày đặc trên các báo (đặc biệt là báo Hoa học trò), nhưng cho đến nay
không có một tiếng nói nào đề nghị sửa đổi và nó vẫn được đông đảo bạn trẻ
ưa chuộng sử dụng.
Ví dụ sự quy ước 1 xịch = 1 chục, 1 lít = 1 trăm, 1 củ = 1 triệu đang
được sử dụng phổ biến, rộng rãi. Lúc đầu, đây chỉ là sự quy ước riêng của một
nhóm người, song với nét cá tính mới mẻ, hiện đại nó nhanh chóng lan tràn
trong cộng đồng ngôn ngữ. Cho đến nay, cách dùng này đã trở thành một thói
quen “khó sửa đổi”, trong bất cứ hoàn cảnh nào, nó cũng được vận dụng một
cách có hệ thống. Xin dẫn ra một ví dụ làm minh chứng: “Zời ạh! Phóng xe

vượt đèn đỏ 50 xịch, không gương không giấy tờ 4,5 lít; cố ý gây tai nạn 3
củ…vị chi là 3 củ rưỡi. Thế có chết tôi không!”.
Mặc dù bị coi là thứ ngôn ngữ phi chính thống, phi chuẩn mực nhưng
“tiếng lóng” có một đời sống vô cùng sôi động. Khó có thể thống kê chính
xác mỗi ngày một người sử dụng trung bình bao nhiêu tiếng lóng, cũng như
tần xuất nó góp mặt trên một số báo. Nhưng phải thừa nhận rằng ngoài lý do
giữ bí mật nội dung giao tiếp, tiếng lóng còn có khả năng nói tránh, thay thế
cho những từ ý nhị, khiếm nhã. Bởi thế mà “tiếng lóng” giàu sắc thái biểu
cảm hơn so với những từ nguyên nghĩa, việc tìm hiểu trở nên lý thú và không
rơi vào trạng thái nhàm chán. Cách nói “hàng mới quen, đảm bảo còn nguyên
đai nguyên kiện”, cánh mày râu sẽ thấy thú vị hơn so với cách nói “cô gái
này mới quen,vẫn còn trong trắng”. Chính bởi ngôn từ phong phú, cách
truyền tải nội dung linh hoạt, tinh tế mà tiếng lóng được đông đảo tầng lớp
trong xã hội sử dụng. Ngày nay, hiện tượng lóng được đưa vào văn phong báo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
chí như một phương tiện tu từ, phản ánh chân thực tính cách nhân vật và hiện
thực đời sống.
1.1.3. Thực trạng ngôn ngữ sử dụng trên báo chí hiện nay
Chưa bao giờ vấn đề sử dụng ngôn ngữ trên báo chí lại bị lên án gay
gắt như hiện nay. Đã có nhiều lời cảnh báo về việc sử dụng ngôn từ thiếu
chọn lọc, dập khuôn theo mô típ, chưa kể đến những lối diễn đạt vụng về,
thiếu trong sáng. Thực trạng trên đang trở thành vấn nạn, được đưa ra góp bàn
tại những hội thảo chuyên đề có liên quan. Qua phân tích, cắt nghĩa, nguyên
nhân chính là do những “căn bệnh” đã ăn sâu, khó sửa chữa như căn bệnh
sính ngoại, bệnh dùng từ không đại chúng, bệnh bắt chước, bệnh cẩu thả trong
lựa chọn câu từ…
Căn bệnh phổ biến cần nhắc tới đầu tiên đó là “bệnh sính ngoại”. Đây
là căn bệnh thường bắt gặp ở những cây bút trẻ. Biểu hiện dễ thấy là sử dụng

một cách tràn lan, vô tội vạ ngôn ngữ ngoại quốc, đặc biệt là tiếng Anh.
Những từ được “chêm” một cách tự do, bất quy tắc xuất hiện ngày một nhiều,
không chỉ đan cài trong nội dung mà hiên ngang xuất hiện trên các trang bìa,
tít báo. Qua khảo sát một số tờ báo Sinh viên Việt Nam năm 2009, chúng tôi
nhận thấy mật độ sử dụng tiếng Anh trên báo này rất cao. Dẫn chứng báo Sinh
viên Việt Nam số 45 tháng 12/2009 qua các tiêu đề: “Phải trở thành Manager
trẻ”, “Làm caddie trên sân golf đồi cù”, “Đại sứ S. class”… không biết mục
đích cụ thể của tác giả là gì, song vô tình đã trở thành rào cản ngôn ngữ không
đáng có cho độc giả. Những từ, cụm từ nhiều âm tiết trong tiếng Việt được
thay thế bằng những từ tiếng Anh có phát âm ngắn, cấu tạo đơn giản. Hiện
nay báo chí thay khu nghỉ dưỡng bằng resort, gọi người hâm mộ là fan, gọi
giới trẻ là teen. Đây có thể coi là căn bệnh sính ngoại hay lối nói “nửa tây,
nửa ta” trong giao tiếp. Ví dụ “mày ok hay không ok cũng phải call lại cho nó
chứ. Chẳng pro chút nào cả”. Những tiếng lóng, tiếng bồi được sử dụng một
cách vô tội vạ nhiều khi gây nên sự ức chế, phản cảm. Cách nói chếch ao,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
chếch in (làm thủ tục trả hoặc lấy phòng khách sạn), so - ri em, anh pho - ghét
mất (anh xin lỗi em, anh quên mất), hay nêm cạc (name card – danh thiếp)…
những cách nói khó hiểu là nguyên nhân dẫn tới hiểu nhầm tệ hại.
Thiết nghĩ, chúng ta nên cổ vũ sự sáng tạo của giới trẻ, vì ngôn ngữ nào
cũng cần có sự thay đổi, biến chuyển. Song khách quan nhìn nhận, việc kết
hợp tự do tiếng nước ngoài chỉ đem lại những cách hiểu không rõ ràng, đặc
biệt là trên ngôn ngữ báo chí chính thống. Báo chí được xuất bản để phục vụ
cho số đông, mà quần chúng biết và sử dụng thành thạo tiếng Anh không
nhiều. Người Việt không thể lúc nào cũng mang bên mình cuốn từ điển tiếng
Anh để đọc một tờ báo Việt. Vậy nên những người cầm bút nếu muốn sử
dụng theo mục đích của mình cần chú thích rõ ràng để mọi người cùng hiểu.
Căn bệnh thứ hai phải kể đến đó là “bệnh dùng từ không đại chúng”.

Đây là một trong những căn bệnh khá phổ biến trên báo chí hiện nay, biểu
hiện của nó là sử dụng nhiều những ngôn từ khó hiểu, gây nhiễu, những thuật
ngữ chuyên ngành, từ bản địa… xa lạ với độc giả. Điều này đã vi phạm
nguyên tắc hoạt động của báo chí là “tính nhân dân, tính đại chúng”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh - người thầy của báo chí Cách mạng Việt Nam cũng đã đưa ra
yêu cầu đối với nội dung của bài báo “viết sao cho đơn giản, dễ hiểu, thiết
thực, sao cho mỗi đồng bào, mỗi chiến sĩ đều đọc được, hiểu được”. Ngày
nay trình độ dân trí và nhận thức của đại bộ phận nhân dân cũng đã tăng lên
đáng kể, song cũng chưa phải đã đồng đều giữa các vùng miền, các nền văn
hóa. Do đó, cần phải lựa chọn ngôn từ mang tính phổ quát, ai đọc cũng có thể
hiểu được nội dung báo muốn truyền tải.
Ngoài những căn bệnh trên, nhà báo hiện nay còn mắc nhiều lỗi vụng
về trong cách diễn đạt, câu từ không gọt giũa, trau chuốt, thành phần trong
câu tự do chuyển đổi vị trí mà không mang lại hiệu quả nghệ thuật. Cẩu thả
trong cách lựa chọn ngôn từ, bắt chước những môtíp có sẵn, cách đặt vấn đề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
“cũ kỹ” tạo ra sự sói mòn, nhàm chán như “có một kiểu thăng quan như
thế!”, “có một giáo sư như thế!”, “có một thời kỳ như thế!”…
Ngôn ngữ Việt Nam giàu và đẹp, nghề báo là nghề dùng ngôn từ để
khởi tạo dư luận, những gì báo chí viết ra được coi là chuẩn mực, người đọc
nghe theo, học theo và làm theo; Bởi vậy, những người làm báo cần phải có
trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn và phát huy vốn ngôn ngữ của dân tộc, làm cho
báo chí đến gần độc giả hơn và được công chúng đón nhận nhiệt thành hơn.
Thực tế, hiện nay sự “lệch chuẩn” trên báo chí đang thịnh hành và phát
triển thành một xu hướng mới, được đông đảo bạn đọc đón nhận với biểu hiện
hứng thú. Ngôn từ bị biến tấu theo những phong cách riêng, trẻ trung, mới
mẻ. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi xin đi sâu tìm hiểu về
hiện tượng “lóng”, một hiện tượng ngôn ngữ sinh động, đang lấn sân vào văn

phong báo chí một cách hết sức tự nhiên.
1.2. Khái quát về hiện tƣợng lóng
1.2.1. Những cách hiểu về hiện tượng lóng
Tiếng lóng xuất hiện từ lâu và khá phổ biến, ra đời và phát triển như
một phương tiện giao tiếp có tính khu biệt. Ban đầu phạm vi sử dụng của
tiếng lóng còn nhiều hạn chế, thường bắt gặp ở vỉa hè hay nơi chợ búa; đối
tượng sử dụng chủ yếu là các nhóm tội phạm, dân chơi, buôn bán… Dần dần
tiếng lóng xâm nhập sâu rộng hơn vào ngôn ngữ chung của xã hội, nó không
bị điều khiển hay chịu sự đè nén của thực tế xã hội, tự do hình thành và biến
mất. “Thông thường tiếng lóng được hiểu là những từ ngữ của lớp người phe
phẩy, lưu manh, trụy lạc muốn che đậy những hành động bất chính và cũng là
hậu quả của cách ăn nói suồng sã, thô tục, phản ánh lối sống thấp kém, thiếu
văn hoá” .[31.26,27]
Nói “lóng” là một hiện tượng không phải là cách nói quá, bởi ngôn ngữ
này khá phổ biến trong giới trẻ và được sử dụng rộng rãi như một trào lưu
mới. Điểm khác biệt so với các ngôn ngữ khác là hiện tượng lóng chấp nhận
cả cách nói sai, nó phá vỡ chuẩn mực của những quy tắc đã trở nên cố hữu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
Chẳng hạn, nhiều câu thành ngữ, tục ngữ, giới trẻ có thể thay đổi bằng cách
làm “teen hóa” nó. Có thể dẫn ra đây một ví dụ, ông cha ta có câu “đàn gảy
tai trâu” ám chỉ những người chậm hiểu, hay khó nắm bắt một vấn đề không
thuộc thế mạnh của mình. Để thay cho cách nói truyền thống giới trẻ phát
ngôn thành “muỗi đốt inox”. Về nội dung không khác nhưng về cách thể hiện
đã khác nhau rất nhiều. Cách nói của các bạn trẻ có phần hiện đại, dí dỏm và
hài hước đúng chất tuổi teen Song không ít người coi đây là một hiện tượng
xuyên tạc ngôn ngữ, ngôn từ không lành mạnh làm cho ngôn ngữ thêm tối
tăm, cần gạt nó ra ngoài ngôn ngữ giao tiếp. Bàn về hiện tượng ngôn ngữ này
cho đến nay vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất.

V. Huygô nhận định rằng: Tiếng lóng là gì? Là quốc gia, đồng thời là
quốc âm; đó là sự đánh cắp dưới hai hình thức: nhân dân và ngôn ngữ. Tiếng
lóng vừa là một hiện tượng văn học, vừa là một kết quả xã hội. Tiếng lóng
căn bản là gì? Là ngôn ngữ của khốn cùng. Mọi nghề, mọi nghiệp, có thể mọi
ngẫu nhiên của hệ thống xã hội và hết thảy các hình thức của trí tuệ, đều có
tiếng lóng của nó. Về phương diện thuần túy văn học, nghiên cứu tiếng lóng
có thể kỳ thú hơn nhiều khoa học khác.
Các nhà nghiên cứu Việt Nam những năm gần đây cũng dành rất nhiều
thời gian bàn luận về hiện tượng này. Theo các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ
Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến: “Tiếng lóng nói cho giản dị là một bộ phận
từ ngữ do những nhóm, những lớp người trong xã hội dùng để gọi tên những
sự vật, hiện tượng, hành động,… vốn đã có tên gọi trong vốn từ chung nhằm
giữ bí mật trong nội bộ nhóm mình”.[17.224]
Theo Đỗ Hữu Châu trong cuốn “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt”:
“Tiếng lóng bao gồm các đơn vị từ vựng thuộc loại thứ hai trong biệt ngữ tức
là tên gọi “chồng lên” những tên gọi chính thức. Hiện tượng tiếng lóng là
phổ biến đối với mọi tập thể xã hội. Hầu như tất cả các tập thể xã hội nào đã
có cái gì chung về sinh hoạt hay về sản xuất, làm việc thì đều có những tiếng
lóng của riêng mình…”. [13.253]

×