Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

lượn trống trong tang lễ của người tày ở bắc quang - hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.78 KB, 152 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
==========






HOÀNG NGUYỆT ÁNH




LƯỢN TRỐNG TRONG TANG LỄ CỦA
NGƯỜI TÀY Ở BẮC QUANG – HÀ GIANG







LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN














Thái Nguyên - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
==========






HOÀNG NGUYỆT ÁNH




LƯỢN TRỐNG TRONG TANG LỄ CỦA
NGƯỜI TÀY Ở BẮC QUANG – HÀ GIANG








LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN



Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.01










Thái Nguyên - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỤC LỤC

Phần I: Mở đầu……………………………………………………… … 3
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………… 3
2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………….4

3. Mục đích nghiên cứu………………………………………………… 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………… 6
5. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………… 7
6. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………… … 7
7. Phương pháp nghiên cứu………………………………………… … 7
8. Đóng góp của luận văn…………………………………………………7
9. Bố cục luận văn……………………………………………………… 8
Phần II: Nội dung……………………………………………………… … 9
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tế của việc tìm hiểu lƣợn trống trong
tang lễ ngƣời Tày ở Bắc Quang – Hà Giang…………………………… 9
1.1 . Tổng quan về tộc người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang………………… 9
1.1.1. Vài nét về cộng đồng người Tày ở Hà Giang……………………… 9
1.1.2. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế xã hội và đời sống văn hóa…….10
1.2. Khái quát về dân ca tang lễ và khái niệm lượn trống trong tang lễ… 18
1.2.1 Khái quát về dân ca tang lễ………………………………………… 18
1.2.2. Khái niệm lượn trống trong tang lễ……………………………… ….20
1.3. Hát lượn trống trong tang lễ của người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang…23
1.3.1. Sơ lược về diễn xướng của hát lượn trống……………………………23
1.3.2. Hát lượn trống trong đời sống văn hóa của người Tày ở Bắc quang - Hà
Giang…… …………….………………………………………………… 25
Tiểu kết……………………………………………………………… … 26
Chƣơng 2: Nội dung cơ bản trong những bài lƣợn trống của ngƣời Tày ở
Bắc Quang- Hà Giang 27
2.1. Ứng xử trong tang lễ của người Tày……………………… … …… 27
2.1.1.Ứng xử trong mối quan hệ gia đình………………… ……… …… 27
2.1.2.Ứng xử trong mối quan hệ cộng đồng…… ……………….…… … 31
2.2. Đề cao đạo lý của người đời……………………………………… … 36
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2

2.2.1. Kể về tấm gương hiếu nghĩa của Đống Vịnh….…………………… 36
2.2.2. Kể về tấm gương hiếu nghĩa của Mạnh Tông…… … ……. . ……40
2.3. Bày tỏ nỗi buồn thương tiếc của người thân trong gia đình đối với người
đã khuất…………………………………………………………………… 46
2.3.1. Tình nghĩa vợ chồng……………………………………… ……… .46
2.3.2. Tình cảm của con cái đối với cha mẹ………………… … ……….59
Tiểu kết………………………………………………… ……………… 66
Chƣơng 3: Nghệ thuật tiêu biểu trong những bài lƣợn trống của ngƣời
Tày ở Bắc Quang - Hà Giang………………………………………….… .67
3.1. Thể thơ thường dùng trong hát lượn trống…………………………… 67
3.1.1. Thể thơ bốn chữ…………………………………………… …. 68
3.1.2.Thể thơ hỗn hợp…………….………………………………… …… .71
3.2. Thời gian và không gian nghệ thuật trong hát lượn trống………………77
3.2.1. Thời gian nghệ thuật…………………………………………… ……77
3.2.2. Không gian nghệ thuật…………………………………… …….88
3.3. Nhân vật trữ tình trong hát lượn trống 97
3.3.1. Hình tượng nhân vật trữ tình xuất hiện trong vai trò là người thân 98
3.3.2. Hình tượng nhân vật trữ tình xuất hiện trong vai trò là con cháu, họ
hàng và trong vai trò là người diễn xướng 105
Tiểu kết 112
Kết luận 113
Tài liệu tham khảo 117
Phụ lục




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1 Về phƣơng diện khoa học.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc đa tộc, trong đó mỗi dân tộc đều
có một kho tàng di sản văn hóa mang đậm bản sắc riêng của mình. Đối với
dân tộc Tày nói chung, bên cạnh những làn điệu trữ tình mượt mà làm đắm
say, xiêu lòng bao người được lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác như
hát then, sli, lượn, khắp cọi… không thể không nhắc đến nhóm các bài ca
nghi lễ, trong đó gắn bó chặt chẽ với các hình thức nghi lễ như đám ma, đám
cưới, phong tục dân gian… của người Tày có ở nhiều nơi. Riêng ở huyện Bắc
Quang, Tỉnh Hà Giang vốn có một loại hình lễ nghi ít được nhiều người biết
đến, đó chính là lễ nghi tang ma với những bài lượn trống đặc sắc.
Do vậy việc tìm hiểu, nghiên cứu về nét đặc trưng văn hóa này là cấp
thiết không chỉ trong địa phương Bắc Quang, Hà Giang mà còn có ý nghĩa
rộng hơn trong kho tàng di sản văn hóa của dân tộc. Hơn nữa, những bài lượn
trống trong tang lễ của người Tày thuộc về nhóm các bài ca nghi lễ thường
thiên về đời sống tâm linh của người dân nên chỉ thu hút được một số nhà
nghiên cứu và mới chỉ dừng lại ở phạm vi rộng. Việc đi sâu vào tìm hiểu loại
hình này đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về nó ở địa phương
Bắc Quang, Hà Giang.
1.2 .Về phƣơng diện thực tiễn.
Lượn trống trong tang lễ là một loại hình dân ca từ lâu đã ăn sâu vào
tiềm thức của dân tộc Tày ở địa phương Bắc Quang, Hà Giang. Việc nghiên
cứu, tìm hiểu giá trị loại hình dân ca này sẽ góp phần khẳng định, gìn giữ, bảo
tồn và phát huy những giá trị văn hóa tinh thần độc đáo của dân tộc.
Xuất phát từ phương diện khoa học, thực tiễn nêu trên chúng tôi mạnh
dạn chọn “Lượn trống trong tang lễ của người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4

làm đề tài nghiên cứu của mình. Hy vọng công trình nhỏ bé này sẽ góp phần
vào việc gìn giữ và bảo vệ bản sắc văn hóa tinh thần của dân tộc Tày. Đồng
thời mong muốn những nét văn hóa ấy sẽ luôn được phát huy trong đời sống
cộng đồng, trên cơ sở đó góp phần vào sự phát triển về kinh tế và văn hóa, xã
hội ở địa phương mình.
2. Lịch sử vấn đề.
Kế thừa những tín ngưỡng từ xa xưa, dân gian cho rằng chết là do sự
chuyển đổi sang một dạng thức tồn tại khác ở cõi vĩnh hằng. Đặc biệt với ảnh
hưởng của Nho giáo, chữ hiếu được đề cao hết mức và biểu hiện cụ thể thành
những nghi lễ tiết với quan niệm “ sự tử như sự sinh”. Do đó đối với người
chết, người ta cũng làm đầy đủ những thủ tục như đón một con người sinh ra
trên cõi đời này.
Việc tang lễ là một nét sinh hoạt tâm linh văn hóa trong tập tục truyền
thống của cộng đồng, do đó nghiên cứu vấn đề về tang lễ của dân tộc Tày đã
thực sự thu hút được nhiều một số nhà nghiên cứu, có thể kể đến các tác giả
như:
- Năm 2002 trong cuốn “Văn hóa dân gian Tày” của các tác giả Hoàng
Ngọc La, Hoàn Hoa Toàn, Vũ Anh Tuấn đã khái quát, giới thiệu chung về
những bài ca tang lễ. Trong đó các tác giả có đề cập tới loại hình “văn tế, văn
than dùng để ngâm kể trước vong linh người đã khuất. Thể văn dùng thất
ngôn, vần lưng. Nội dung có thể dựa vào những khúc ngâm có sẵn trong sách
vở đã ghi chép lại hoặc tang chủ nhờ người có học soạn lại, có ý nghĩa nhiều
mặt: lẽ tử sinh, đạo hiếu nghĩa, niềm thương tiếc, sự nguyện cầu phù trợ cho
người mai hậu….mà ở mặt nào cũng xúc động, bi thương.” [10, tr.213]
- Cuốn “Văn học dân gian” do Đinh Gia Khánh chủ biên, phần dân ca
có giới thiệu khái quát về nhóm các bài ca tang lễ. Theo tác giả thì bên cạnh
việc bày tỏ tình cảm thương tiếc người đã khuất, các bài ca tang lễ còn thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5

hiện quan niệm về sự hình thành thế giới, hay về sự ra đời của con người…
những bài hát đó không làm chức năng cầu khẩn như những bài nghi lễ nông
nghiệp mà thực sự thuộc về tôn giáo và tín ngưỡng dân gian có chức năng tiễn
đưa linh hồn người chết về thế giới bên kia.[8, tr.312]
- Năm 1999, trong cuốn “Việc tang lễ cổ truyền của người Tày” tác giả
Hoàng Tuấn Nam có bài nghiên cứu khá chi tiết về việc tang lễ cổ truyền của
người Tày nhưng mới chỉ dừng lại ở phạm vi huyện Hòa An Cao Bằng.
Trong cuốn “Tín ngưỡng dân gian Tày Nùng” của Nguyễn Thị Yên
xuất bản năm 2009 có giới thiệu khá chi tiết về tang lễ cũng như trình tự các
thủ tục tiến hành tang lễ, thành phần tham gia vào tang lễ cổ truyền của người
Tày ở Cao Bằng. Đặc biệt, tác giả còn nhắc đến lối hát thợ và giới thiệu sơ
lược về hình thức diễn xướng của nhóm thợ trong đám tang của người Tày.
Thông thường thì nhóm thợ sẽ sử dụng 3 quyển sách chính vào nội dung hát
trong tang lễ xoay quanh vấn đề đạo hiếu. Tuy vậy tác giả cũng mới chỉ dừng
lại ở việc giới thiệu khái quát chung chứ chưa đi sâu vào phân tích, lý giải nội
dung của hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh này. [26, tr.567]
Ngoài ra còn có một số công trình sưu tầm, giới thiệu và dịch của một
số tác giả cũng đề cập tới bài ca tang lễ của người Tày như bài báo “Lễ báo
hiếu của người Tày ở Cao Bằng” của tác giả Vũ Diệu Trung in trong tạp chí
Văn hóa nghệ thuật, số 11- 2005. Nhưng tác giả mới chỉ dừng lại ở việc giới
thiệu thủ tục tiến hành nghi thức tang lễ ở Cao Bằng chưa đề cập gì đến các
bài ca trong tang lễ của dân tộc Tày nói chung.
Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình nào đi sâu vào nghiên
cứu, tìm hiểu về tang lễ cổ truyền của người Tày và những bài ca tang lễ của
người Tày nói chung. Đặc biệt là những bài lượn trống trong tang lễ ở địa
phương Bắc Quang Hà Giang lại càng ít được biết đến.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Đối với dân tộc Tày ở Bắc Quang, Lượn trống trong tang lễ là một hình

thức lễ nghi dùng để than, để kể về công lao, công đức trước vong linh người
đã khuất nhằm tỏ rõ tình cảm thương tiếc, xót thương và trách nhiệm báo hiếu
của con cháu đối với hương hồn của người qua đời. Vì vậy mà nó được ngâm,
kể, hát khi trong nhà có tang lễ. Đây chính là một nét văn hóa mang đậm màu
sắc dân tộc, chứa đựng bên trong là yếu tố tín ngưỡng đã chi phối đời sống
tinh thần của người Tày. Dù đã được nói đến, nhưng loại hình trữ tình dân
gian này vẫn chưa thực sự được khám phá, tìm hiểu, nghiên cứu có hệ thống.
Hiện nay mới chỉ có bản sưu tầm và dịch của bà Hoàng Thị Cấp, một
người Tày Ở Hà Giang chưa được in thành sách. Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn
xem thành quả của của những người nghiên cứu đi trước là những ý kiến gợi
mở quý báu giúp chúng tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích nghiên cứu.
- Tìm hiểu những bài lượn trống trong tang lễ của người Tày ở huyện Bắc
Quang, Hà Giang nhằm hiểu được bản sắc văn hóa của tộc người Tày về tâm
tư tình cảm, đạo lý, đạo hiếu mà người sống dành cho người đã mất.
- Hiểu thêm quan niệm của người Tày về cõi sống và cõi chết, cách ứng xử
của người Tày trong tang lễ.
- Góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của hát lượn trống
trong đời sống đương đại.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu nghiên cứu một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài.
- Sưu tầm một số bài lượn trống trong tang lễ của người Tày trong toàn
huyện. Phân tích khái quát, nghiên cứu tổng hợp những bài lượn trống trong
tang lễ của người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang.
- Nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật của những bài lượn trống trong
tang lễ của người Tày ở Bắc Quang – Hà Giang.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
5. Đối tƣợng nghiên cứu:

- Những bài lượn trống trong tang lễ của người Tày ở huyện Bắc Quang -
tỉnh Hà Giang.
- Trong điều kiện có thể, chúng tôi tìm hiểu thêm những bài lượn trống
trong tang lễ của người Tày ở huyện Quang Bình, Hà Giang để đối chiếu so
sánh.
6. Phạm vi nghiên cứu:
- Tư liệu nghiên cứu là những bài lượn trống trong tang lễ ở huyện Bắc
Quang, Hà Giang do bản thân sưu tầm được. Và tham khảo thêm bản sưu tầm
và dịch của Hoàng Thị Cấp (chưa in thành sách), của các thầy lễ, thầy mo… ở
địa phương.
- Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ, người viết tìm hiểu một số nội dung
cơ bản và nghệ thuật tiêu biểu trong những bài lượn trống của người Tày ở
Bắc Quang, Hà Giang.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
+ Phươg pháp điền dã
+ Phương pháp khảo sát, thống kê.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp.
+ Phương pháp tiếp cận hệ thống.
8. Đóng góp của luận văn:
Dựa trên nguồn tư liệu đã khảo sát từ thực tế tồn tại, phát triển của
những bài lượn trống trong tang lễ của người Tày ở huyện Bắc Quang - Hà
Giang, luận văn nhằm giới thiệu đời sống văn hóa cũng như văn học dân gian,
trong đó đi sâu vào tìm hiểu tập tục tang ma và nội dung của sinh hoạt hát
nghi lễ tâm linh của người Tày. Từ đó hi vọng sẽ góp phần vào việc bảo tồn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
phát huy gìn giữ nét đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc của các bài ca có nguy cơ bị
mai một trong thời kỳ hiện đại.

9. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu, phần nội dung chính, phần kết
luận, tài liệu tham khảo. phụ lục, luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và thực tế trong việc tìm hiểu lượn trống của người
Tày ở Bắc Quang - Hà Giang.
Chƣơng 2. Nội dung cơ bản của những bài lượn trống trong tang lễ của người
Tày ở Bắc Quang - Hà Giang.
Chƣơng 3. Nghệ thuật tiêu biểu của những bài lượn trống trong tang lễ của
người Tày ở Bắc Quang – Hà Giang












Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ CỦA VIỆC TÌM HIỂU
LƢỢN TRỐNG TRONG TANG LỄ NGƢỜI TÀY Ở BẮC
QUANG – HÀ GIANG
1.1. Tổng quan về tộc ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang.
1.1.1. Vài nét về cộng đồng người Tày ở Hà Giang.
Trong đại gia đình Việt Nam, dân tộc Tày là cư dân bản địa và lâu đời

ở nước ta. Họ có mặt ở hầu hết các tỉnh từ Bắc đến Nam nhưng tập trung nhất
vẫn là ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Riêng ở Hà Giang, dân tộc Tày có
khoảng 157.757 người, chiếm 25% dân số trong tỉnh, đứng sau dân tộc Mông
30,75% (năm 2001). Người Tày thường tập trung ở các huyện Bắc Quang (
51% dân số toàn huyện ), Vị Xuyên, Bắc Mê và ở hầu khắp các huyện, thị xã
trong tỉnh.
Ở Hà Giang theo các tài liệu lịch sử, khảo cổ học từ trước năm 1945 đến
nay đã phát hiện những hiện vật từ thời đồ đá cũ cho tới thời đại đồ đồng, đồ sắt,
báo hiệu quá khứ xa xưa của con người đã cư trú trên đất Hà Giang. Điều đó
chứng tỏ phần nào Hà Giang là vùng đất cổ có các cư dân sinh sống, trong đó có
dân tộc Tày. Theo các nhà nghiên cứu và các cụ già người Tày ở Vị Xuyên, Bắc
Quang kể lại thì ở Hà Giang tồn tại những cư dân Tày cổ ở vùng ba phương:
Phương Tiến, Phương Thiện, Phương Độ thuộc huyện Vị Xuyên ngày nay.
Ngoài ra họ còn cư trú ở vùng Bằng Hành, Vô Điếm, Đồng Yên, Xuân
Giang…của huyện Bắc Quang. Các cụ già ở xã Phương thiện nói: Họ biết họ
Nguyễn của dân tộc Tày đã sống ở đây cách đây 700 đến 800 năm.
Trong lịch sử nước ta, thời Lý -Trần là thời kỳ thịnh hành của phật giáo
cả nước, chùa chiền được tạo dựng khắp nơi, nhất là sau ba lần đại thắng quân
Nguyên Mông của triều Trần, hào khí Đông A vang vọng từ Thăng Long đến
các miền biên viễn xa xôi. Ở Hà Giang còn di tích 2 ngôi chùa cổ đó là chùa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Sùng Khánh ở bản Bang xã Đạo Đức huyện Vị Xuyên, chùa Bình Lâm ở xã
Phú Linh, thị xã Hà Giang cũng được xây dựng vào thời kỳ đó. Đặc biệt trên
tấm bia ở chùa Sùng Khánh dựng năm 1367 có ghi công lao của quan Phủ đạo
người Tày họ Nguyễn là Nguyễn Thiếp có công lao bảo vệ biên giới phía Bắc,
xây dựng làng xã ổn định phát triển, là nơi tin cậy của triều đình ở vùng biên
viễn xa xôi. [4, Tr.120].
Dân tộc Tày ở Hà Giang lâu nay vẫn được xem là một cộng đồng dân

tộc thống nhất. Tuy nhiên ở các vùng khác nhau, thậm chí ở cùng một huyện,
họ cũng có nét địa phương rõ rệt trong sinh hoạt và tiếng nói, nhất là cách
phát âm, từ vựng cũng rất khác nhau. Chẳng hạn như người Tày ở huyện Bắc
Quang, về tiếng nói có thể chia làm 3 vùng khác nhau: vùng Trọng Con, vùng
Xuân Giang - Yên Bình, vùng Gia Tự - Nguyễn Thái Học. Ngoài ra tiếng Tày
ở vùng Bắc Quang cũng có sự khác biệt với tiếng Tày ở huyện Vị Xuyên, Tày
Đăm ở huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần…
1.1.2. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế xã hội và đời sống văn hóa.
1.1.2.1. Sơ lược về điều kiện tự nhiên.
Nằm ở vị trí cửa ngõ phía Đông Nam của tỉnh Hà Giang, Bắc Quang là
huyện có địa hình thấp hơn so với các huyện bạn trong toàn tỉnh. Nằm trong
tọa độ địa lý từ 22
o
10’ đến 22
o
36’ độ vĩ Bắc và 104
o
43’ đến 105
o
07’ độ kinh
Đông, phía Bắc của huyện Bắc Quang giáp với Vị Xuyên, phía Đông, Đông
Nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía Tây, Tây Bắc
giáp huyện Hoàng Su Phì, trung tâm huyện là thị trấn Việt Quang cách thị xã
Hà Giang khoảng 60 km.
Địa vực cư trú của người Tày ở Bắc Quang rất thuận lợi cho việc phát
triển nông, lâm nghiệp toàn diện và là vùng cung cấp nguyên, vật liệu cho sự
phát triển công nghiệp chế biến khai thác khoáng sản của tỉnh nhà. Thiên
nhiên đã rất ưu ái tạo cho vùng này những bãi bồi phù sa màu mỡ dọc theo hệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


11
thống sông Lô, sông Bạc, sông Sảo… thuận lợi cho việc phát triển cây lúa
nước với những vựa lúa màu mỡ ở các xã trong huyện như Vĩnh Phúc, Đồng
Yên, Quang Minh, Hữu Sản, Liên Hiệp… địa hình nơi đây cũng rất thích hợp
cho các loại hoa màu và cây công nghiệp phát triển. Các cánh đồng giữa núi
có đất đai phì nhiêu, địa hình đồi tương đối thấp, thoải hay lượn đều cho khả
năng trồng trọt hoặc chăn nuôi.
Với điều kiện địa lý tự nhiên như trên, cư dân Tày ở Bắc Quang có điều
kiện thuận lợi để phát triển nền kinh tế to lớn và toàn diện bền vững lâu dài.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi cơ bản, môi trường tự nhiên cũng
gây ra không ít khó khăn cho sản xuất và đời sống của cư dân Tày. Do địa hình
tương đối phức tạp như đồi núi cao, thung lũng sâu, mưa nhiều…đã tác động
không nhỏ trong giao thông đi lại, hay hiện tượng lũ quét, ngập úng nhiều trong
mùa mưa là đều không tránh khỏi và gặp nhiều khó khăn, hạn chế.
1.1.2.2. Vài nét về đặc điểm kinh tế - xã hội, văn hóa.
+ Về kinh tế - xã hội:
Với địa bàn cư trú chủ yếu là ở các thung lũng nhiều đồng ruộng nên rất
thuận lợi cho việc phát triển nền kinh tế nông, lâm nghiệp toàn diện. Bởi từ xa
xưa, tộc người Tày đã biết sống dựa vào trồng trọt và cày cấy, biết khai khẩn
các thung lũng ven sông, ven suối lớn tạo thành những cánh đồng, ruộng bậc
thang trồng trọt phì nhiêu màu mỡ. Đặc biệt còn biết tạo ra hệ thống “dẫn nhập
thủy điền” với mương, máng, phai, cọn… khá hoàn thiện phục vụ cho việc sinh
hoạt, tưới tiêu. Bên cạnh đó việc chăn nuôi gia súc, gia cầm đa dạng phong
phú, các ngành thủ công như đan lát, dệt, rèn đúc… cũng khá phát triển.
Huyện Bắc Quang từ lâu đã là vùng đất có nhiều dân tộc sinh sống. Cùng
với người Việt, người Nùng, người Dao, người Mông…, người Tày có quá
trình gắn bó lâu dài hòa hợp cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần từ đời này
sang đời khác cùng chung vun đắp quê hương giàu đẹp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


12
Dân tộc Tày sống từng thôn, bản có từ ba đến năm gia đình lớn, có làng
đông tới hàng chục nóc nhà quy tụ với nhau thành làng lớn. Nhiều gia đình rất
đông, có tới bốn đến năm thế hệ song sống phổ biến vẫn là hai đến ba thế hệ
trong cùng một mái nhà.
Hầu hết các gia đình người Tày đều được xây dựng theo thể chế và tục
lệ hôn nhân một vợ một chồng, mang tính chất phụ hệ. Nếu đi sâu vào tìm
hiểu mối quan hệ gia đình của người Tày ta có thể thấy, ở đó bao trùm một
tinh thần tương thân tương ái, bình đẳng dân chủ nội bộ khá sâu sắc giữa
chồng và vợ, giữa nam và nữ. Vì người Tày trân trọng, yêu quý người đàn bà,
người mẹ, người vợ, và con gá.
Từ những đặc điểm trên phải chăng những hình thức sinh hoạt văn hoá, văn
nghệ, văn hóa tín ngưỡng trong đó có hát Lượn trống… ra đời nhằm đáp ứng
nhu cầu giải toả những khát vọng tâm linh và tinh thần của họ.
+ Về đời sống văn hóa:
Cư dân người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang từ lâu vốn đã có một nền
văn hóa đa dạng và phát triển khá sớm cả về văn hóa vật chất lẫn văn hóa tinh
thần mang những nét rất độc đáo, phong phú riêng. Mặc dù người Tày giao
tiếp chủ yếu bằng ngôn ngữ hệ Tày - Thái, nhóm ngôn ngữ rất gần với Tiếng
Việt về hệ thống ngữ pháp và âm thanh. Tuy nhiên chỉ những từ ngữ về thiên
nhiên, về sự vật hiện tượng trong sinh hoạt giao tiếp mới là của người Tày,
còn đa số là vay mượn của Tiếng Việt, tiếng Hán hoặc từ Hán Việt.
Ngoài ra, về chữ viết của người Tày trong thời kỳ cổ đại do không có nên lịch
sử thành văn của dân tộc rất ít ỏi và gần như không có. Bước sang giai đoạn
trung đại mới xuất hiện chữ Nôm Tày, chữ Nôm Tày là thứ chữ phỏng theo
chữ Hán của người Trung Quốc mà đặt ra. Theo nhiều nhà nghiên cứu, nhìn
từ góc độ văn tự, thứ chữ này cũng có một vài nét khác với chữ Nôm Việt.
Học giả Nguyễn Văn Huyên là người đầu tiên có công nghiên cứu về kiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


13
chữ Nôm Tày và sau này được học giả Đào Duy Anh tiếp tục nghiên cứu và
khẳng định ý kiến của Nguyễn Văn Huyên: “Chữ Nôm Tày do ảnh hưởng chữ
Nôm Việt mà ra và có cấu tạo như chữ Nôm Việt” [15, tr 210-220]
Chữ Nôm Việt xuất hiện vào khoảng thế kỷ XIII đến XV sang đến cuối
thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII khi Mạc Kính Cung chuyển vương triều lên Cao
Bằng đã để lại dấu tích về chữ Nôm Tày. Do đó có thể khẳng định chữ Nôm
của người Tày ra đời không muộn hơn so với chữ Nôm Việt thế kỷ XVI.
Bước sang giai đoạn hiện đại, việc sử dụng chữ Nôm gặp nhiều khó
khăn do vốn từ tiếng Tày còn nghèo nàn trong các ngành hoạt động hành
chính cũng như khoa học. Năm 1954, một lớp trí thức Tày đã tự sáng tạo ra
chữ La tinh Tày nhưng cũng không được phổ biến nhiều. Đến năm 1960,
Đảng và Nhà nước ta mới có chủ chương quan tâm xây dựng hệ thống chữ
viết cho dân tộc Tày theo lối chữ Quốc Ngữ bằng chữ cái La tinh.
Ở những vùng dân cư Tày tập trung cư trú và sinh sống, thì việc sử
dụng song ngữ và chữ viết Tày - Việt đã trở thành nét đặc thù phổ biến trong
đời sống ngôn ngữ. Vì vậy cần có một kế hoạch sưu tầm các văn bản văn học
dân gian được ghi lại bằng chữ Nôm Tày và đào tạo lớp trí thức mới từng bước
khai thác di sản văn hóa này. Đặc biệt chữ Tày hiện đại cũng cần được chỉnh
lý, sửa chữa để có thể sủ dụng góp phần xây dựng nền văn hóa mang bản sắc
Tày trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam nói chung. Từ đó có thể nói, chữ
viết ra đời là một trong những thành tựu hết sức to lớn, là điều kiện vô cùng
quan trọng không thể thiếu trong việc lưu giữ bảo tồn và phát triển nền văn hóa
văn học đa dạng của các dân tộc nói chung, cư dân Tày Bắc Quang nói riêng.
+ Văn hóa vật chất:
Bản là đơn vị cư trú của người Tày, thường ở chân núi, cạnh cánh đồng
hay ven sông, suối lớn. Tên bản thường đặt theo tên đồng ruộng, khúc sông.
đồi núi như: Nà Ngần, Nà Đon, Nà Tông, Nà Cải… Mỗi bản trung bình có từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


14
25 đến 30 nhà, bản lớn có tới 60, 70 nhà, thậm chí có tới 100 nhà, có bản chỉ
có người Tày, có bản sống xen kẽ với các dân tộc khác. Nhà cửa của người
Tày ở đây thường dựng theo thế đất, đằng sau dựa vào đồi núi, phía trước
thường nhìn ra cánh đồng, sông suối, bên cạnh nhà có máng nước, ao cá,
hướng nhà thường căn cứ vào tuổi gia chủ…Nhà ở của họ phổ biến nhất là
nhà sàn, lợp lá cọ, nhà có điều kiện thì làm nhà gỗ tất cả xà, cửa…đều làm
bằng gỗ tứ thiết được bào nhẵn, ghép mộng cầu kỳ, kiến trúc trạm trổ đẹp
mắt, nhiều hoa văn. Nhà nghèo thì làm gỗ kê đá, lợp lá cọ, phên vách bằng
nứa đan… nhà thường chia làm 3 - 5 - 7 gian, có khi còn làm bếp riêng liền
với nhà chính từ 2 đến 3 gian. Xung quanh nhà được lắp cửa sổ bằng ván
hoặc tre nứa, mở thông thoáng nhìn ra phía trước, đằng sau nhà… Nhà sàn
của người Tày là loại nhà tổng hợp, gian giữa thường để bàn thờ tổ tiên, bếp
lửa, gian đầu nhà chỗ cầu thang lên thường là nơi tiếp khách, các gian phía
trong là chỗ ngủ của các thành viên trong gia đình, có bếp nấu ăn và cũng là
nơi tiếp khách của nữ giới, có gác để thóc ngô cùng các đồ dùng khác. Bên
cạnh nhà có chuồng chăn nuôi, ngày xưa nhiều nhà còn sử dụng ngay gầm sàn
để chuồng gia súc, công cụ sản xuất rất mất vệ sinh… nhưng ngày nay cùng
với sự phát triển của kinh tế xã hội đời sống văn minh hơn, chuồng lợn, chuồng
trâu, bò… đã được xây dựng riêng cách xa nhà để đảm vệ sinh phòng bệnh.
Trang phục của người Tày cũng rất độc đáo và khác biệt so với các dân
tộc khác. Y phục truyền thống của nam, nữ Tày ở đây chủ yếu mặc quần áo
vải chàm, cùng một kiểu: áo dài 5 thân, quần lá toạ. Đàn ông quấn khăn hay
chít khăn kiểu chữ nhân. áo nữ dài tới bắp chân, ống tay hẹp, xẻ nách phải, cài
5 khuy, thắt lưng bằng vải lanh hay đũi màu xanh, đỏ dài khoảng hai sải tay,
đặc biệt họ thường tự tay mình dệt thêm những dải dây nhỏ, dài có nhiều hoạ
tiết đẹp để trang trí cho áo thêm đẹp. Chị em phụ nữ thường đeo vòng cổ,
vòng tay và mang xà tích bằng bạc hoặc vàng, đầu đội nón cọ tự làm…Họ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


15
thường chọn những bộ trang phục đẹp nhất để diện trong các dịp có lễ hội, đi
chợ, các cuộc hát giao duyên.
Đặc biệt khác với trang phục truyền thống là y phục mặc trong tang ma,
y phục của thầy Tào, bà then… y phục trong tang ma của người Tày hoàn toàn
bằng vải trắng. Quần áo tự cắt và khâu lộn ngược lại với trang phục hằng ngày.
Sau hai từ “cộng đồng” người Tày là cả một màn sân khấu, trên sân
khấu là cả một xã hội thu nhỏ mang màu sắc riêng. Điều này ắt hẳn có tác
động trực tiếp và mạnh mẽ đến bộ phận dân ca tang lễ - phong tục nói chung
của cả nước trong đó có những bài lượn trống trong tang lễ cổ truyền của
người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang.
+ Văn hoá ứng xử:
Trong mối quan hệ xã hội nhìn chung đồng bào Tày ở đây khá phát
triển nhưng không đồng đều. Ở vùng thấp, dọc các đường giao thông, gần các
thị trấn thị xã trình độ phát triển về các mặt gần bằng các vùng đồng bằng.
Tuy nhiên ở những vùng giữa, vùng cao xa xôi hẻo lánh, tính chất phụ quyền
trong gia đình người Tày thể hiện rất rõ trong quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình như vợ phải nghe lời chồng, giữa con dâu và các bậc trên có sự
cách biệt nghiêm ngặt như không được ngồi ngang hàng, ăn cùng mâm, ngồi
cùng chiếu với bố, anh chồng… Đó là biểu hiện của những lễ giáo phong kiến
có ảnh hưởng và chi phối nặng nề đời sống của người Tày.
Trước cách Mạng tháng Tám, cư dân Tày ở đây có một số tầng lớp
theo học chữ Nho, chữ Nôm Tày, họ trở thành tầng lớp trí thức của dân tộc và
đội ngũ các thầy Mo, Then, Tạo, Pụt…Đây chính là tầng lớp có sự đóng góp
to lớn cho nền văn hoá nghệ thuật của bản địa.
Về quan hệ giữa các gia đình trong thôn bản, làng xóm tuy chịu ảnh
hưởng bởi nền kinh tế tư hữu phong kiến song chế độ công xã nông thôn vẫn
còn tồn tại dưới dạng tàn tích. Bà con xóm giềng sớm tối có nhau, thường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


16
xuyên cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau rất đoàn kết hòa thuận. Cư dân ở đây
thường có tục “Tối vằn lèng” (Đổi công) để giúp nhau làm những việc cần
đông người như cấy, gặt hái, đám cưới…hay tục “Kết tồng” ( kết bạn) cùng
tuổi, cùng năm sinh tháng đẻ, không phân biệt dân tộc miễn là hợp nhau, khi
đã kết bạn tồng thì mọi công việc lớn nhỏ trong hai gia đình đều có nhau. Tình
bạn này rất được coi trọng dù đó là “Tồng” của con cái, vợ chồng hay ông bà…
Ngày nay những tục lệ này vẫn được giữ gìn và phát huy trong cộng đồng cư
dân ở đây. Sau những ngày làm việc vất vả, nặng nhọc thì những ngày ôn lại
truyền thống ông cha mình gắn liền với phong tục là các lễ nghi như trong đám
cưới, tang lễ… Trong tang lễ thì gồm nhiều bước, nhiều nghi thức và nhiều bài
ca được hát lên khi hành lễ, bởi người Tày ở đây có quan niệm riêng về cái
chết, về đạo hiếu của người thân dành cho người đã khuất.
Gia đình của người Tày ở Bắc Quang cũng giống như cư dân Tày ở
một số nơi khác rất đông, có tới 4 - 5 thế hệ (cụ kị, ông bà, cha mẹ, con cái,
cháu chắt) nhiều đời cùng chung sống trong một mái nhà, song sống phổ biến
nhất vẫn là 2-3 thế hệ sống cùng nhau. Trong gia đình người Tày ở đây đều
được xây dựng theo thể chế và tục lệ hôn nhân một vợ, một chồng, còn mang
tính tách biệt nghiêm ngặt. Một biểu hiện nữa của tính chất phụ hệ trong các
gia đình của người Tày là cách đặt tên và lấy họ cho con. Cũng giống như
người Kinh ở chỗ, sinh con ra đều lấy theo dòng họ và dân tộc của người cha.
Việc con cái lấy theo dòng họ ông - cha cũng chính là cách xác lập huyết
thống, tông tộc, giống nòi. Đi liền với thể chế này là những quy định về quyền
và nghĩa vụ của người con trai (kế thừa tài sản và chịu trách nhiệm cúng giỗ
cha mẹ khi mất). Còn đối với con gái không được hưởng gia sản, trừ khi bố
mẹ cho làm của hồi môn và phụ thuộc vào người chồng của mình. Tuy vậy,
người Tày không chuyên quyền độc đoán, gia trưởng mà những việc lớn
chồng đều tham khảo ý kiến của vợ, người vợ có vai trò quan trọng hỗ trợ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


17
chồng trong sản xuất, quản lý gia đình, tài sản, nuôi dạy con cái trưởng thành.
Người Tày rất coi trọng việc giáo dục, dạy dỗ con cái về đạo đức, nề nếp gia
phong, đi đứng ở trong nhà và ngoài xã hội. Trong vùng của người Tày ở Bắc
Quang và một số huyện khác trong tỉnh thường có lời răn dạy con cháu bằng
thơ gọi là “ bách giáo” ( 100 câu răn dạy) khuyên bảo con cháu về lối sống
đạo đức và các quan hệ xã hội.
+ Văn hoá tinh thần:
Tín ngưỡng văn hoá của người Tày mang tính chất phức tạp, do cuộc
sống tồn tại trên cơ sở nền nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, mang tính chất tự
cung tự cấp… cho nên tàn dư của các tín ngưỡng nguyên thuỷ còn tồn tại
trong đời sống tâm linh của họ như: Vật linh giáo, ma thuật, bái vật giáo( thờ
cây đa to, thờ hòn đá kì dị…) và các lễ nghi liên quan đến sản xuất nông
nghiệp, săn bắn, đánh bắt… tiêu biểu nhất trong tín ngưỡng, tôn giáo người
Tày là thờ cúng tổ tiên, bắt nguồn từ thờ cúng gia tộc, thị tộc ở thời kỳ trước
là tín ngưỡng tôn giáo gần như duy nhất thể hiện đạo lý “uống nước ngớ
nguồn” của mỗi người, mỗi gia đình, dòng họ. Linh hồn luôn giữ vai trò là
nhân vật chính trong các bài ca cầu cúng này. Ở mỗi thôn bản họ còn thờ thủ
công (cốc bản), thổ đại, thờ các vị thánh trong vùng mà họ gọi là thần, được
cúng vào dịp tết và rằm tháng 7 hàng năm. Thổ công có miếu thờ đặt ở gốc
cây to đầu làng, mỗi làng, bản còn có các vị thần thánh ở các khu rừng hay
núi cao gọi là Đông thấn, Pù thấn. Hệ thống điện thần của cư dân Tày ở đây
phát triển khá cao, có đủ mặt các vị từ Ngọc Hoàng, Nam tào, Bắc đẩu, thần
sông, thần núi, thần sấm, thần sét…cho tới các loại thần thánh, ma quỷ ở địa
phương. Hàng năm vào mùa xuân, người ta tổ chức cúng trên một đám ruộng
nhất định ở trước bản, mỗi gia đình đều có mâm lễ rượu, thịt, xôi, bánh đem
đến để cúng. Lễ hội này được gọi là hội Lồng tồng( xuống đồng), thầy cúng
sính tất cả các thần thánh, ma quỷ ở địa phương, cầu khấn trời đất mưa thuận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


18
gió hoà, cuộc sống ấm no, mùa màng bội thu, hạnh phúc. Ngày nay lễ hội
Lồng tồng vẫn được lưu giữ, phát huy và bảo tồn.
Văn học nghệ thuật và tri thức dân gian của người Tày rất phong phú
như kho tàng truyện thần thoại, cổ tích: Quả bầu, Pú luông – Gia cải, Nàng
Kháy,…còn lại các truyện phần lớn xuất hiện trong xã hội có giai cấp, mâu
thuẫn, xung đột, đấu tranh xã hội gay gắt như các truyện Thạch Sanh, Tống
Lăn, Hán xuân - Lưu Đài, Phạm Tứ - Ngọc Hoa, Quảng Chân - Ngọc
Nương… Ngoài ra còn có nhiều truyện cười, ca dao, tục ngữ, thành ngữ…
Đặc biệt người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang cũng như ở một số nơi khác có
một số loại hình dân ca đáng coi trọng đó là Hát Lượn cọi, Hát Iếu, Hát quan
Làng, Hát lượn trống trong tang lễ,…
Tất cả những điều kiện trên tạo cho cư dân Tày ở Bắc Quang phát triển
một nền kinh tế toàn diện với nền văn hoá nông nghiệp lúa nước đa dạng,
phong phú; sản sinh ra nhiều hình thức sinh hoạt văn học, nghệ thuật giàu bản
sắc được lưu chuyển trong đời sống dân gian.
1.2. Khái quát về dân ca tang lễ và khái niệm lượn trống trong tang lễ.
1.2.1. Khái quát về dân ca tang lễ.
Trong quan niệm của người dân Việt Nam đặc biệt là dân tộc Tày, khi
nói đến sinh hoạt lễ nghi là nói tới một biểu hiện của mối quan hệ giữa con
người với con người, con người với thế giới tự nhiên và mối quan hệ giữa con
người với các thế lực siêu nhiên do chính con người tạo ra, mà ở đó thì mỗi
loại hình sinh hoạt nghi lễ thì lại luôn song hành với các hoạt động là các bài
ca nghi lễ.
Nhắc tới các bài ca nghi lễ hay dân ca nghi lễ đã có nhiều định nghĩa và
nhiều cách hiểu khác nhau. Song đầy đủ và dễ hiểu nhất có lẽ là định nghĩa
của giáo sư Đinh Gia Khánh trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam,
theo giáo sư : “Dân ca là những bài hát, câu hát dân gian trong đó có cả phần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


19
lời và phần giai điệu đều có vai trò quan trọng đối với việc xây dựng hình
tượng hoàn chỉnh của tác phẩm”, [8, tr. 657]. Nói như vậy thì khi nói tới dân
ca Việt Nam ta không chỉ nói đến những bài hát, câu hát nhất định mà còn nói
đến hình thức sinh hoạt dân ca nhất định nữa.
Dân ca tang lễ từ lâu đã được coi là một phần nằm trong bộ phận dân
ca nghi lễ phong tục của dân tộc. Đây là bộ phận cổ xưa trong kho tàng dân ca
Việt Nam, dưới sự chi phối của vạn vật hữu linh và thông qua các biện pháp
tín ngưỡng ma thuật con người tin rằng thần linh có thể giúp đỡ người ta vượt
qua nhiều khó khăn và đạt được nhiều ước mơ cao đẹp trong cuộc sống. Vì
vậy để đáp ứng nhu cầu này đã có nhiều bài ca xuất hiện, trong đó bao gồm
các nhóm sau:
- Nhóm bài ca nông lễ: phục vụ các tiết lễ trong sản xuất nông nghiệp
- Nhóm bài ca hôn lễ: hát quan làng trong đám cưới, trong những ngày
hội, ngày lễ, tết…
- Nhóm các bài ca tang lễ: là những bài hát do các thầy mo, thầy lễ hát
khi hành lễ trong tang ma.
Trong nhóm bài hát trong tang lễ, thì các bài ca nghi lễ được hát lên
trong đám tang khi hành lễ bao gồm có cả phần lời và phần nhạc khi diễn
xướng do một nhóm thợ đảm nhiệm. Các bài ca được hát trong tang lễ thường
có nguồn gốc từ thời công xã nguyên thủy được hát trong lúc đưa linh cữu
người chết từ nhà tới đến huyệt hay trong khi tế linh hồn người chết. Những bài
ca này chủ yếu mang âm hưởng thê lương, buồn bã, tiếc thương người đã mất.
Trong dòng họ hay trong gia đình của người Tày, việc tang lễ là một
biểu hiện của mối quan hệ giữa những người đang sống với người đã khuất.
Xét về hình thức thì tang lễ hay tang ma, ma chay là một hoạt động nghi lễ,
tín ngưỡng được tồn tại lâu đời trong tiềm thức, quan niệm của họ; Song xét
về nội dung thì đó lại là công việc đề cao đạo lý làm người ở đời: ăn quả nhớ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


20
kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn hay nói cách khác thì đó là việc đề cao
chữ hiếu, đề cao tình cảm gia đình, tình vợ chồng, cha mẹ con cái và anh chị
em - đề cao tình và nghĩa giữa người sống với người đã khuất.
Ngoài ra ta còn thấy rằng, khi đề cập đến việc tang lễ thì các nhà
nghiên cứu đều gắn nó với các tín ngưỡng, tôn giáo liên quan đến người chết.
Nói đến tôn giáo có nghĩa là chúng ta đã có sự tư duy về hai thế giới: thế giới
hiện thực và thế giới phi hiện thực - một thế giới chứa đựng nhiều điều bí ẩn
nhưng lại tồn tại trong tâm thức của đồng bào Tày và cả đồng bào Nùng. Vì
vậy mà mới có nhận định sau: “Ở nhiều dân tộc chúng ta còn nhận thấy rằng
dân ca tang lễ còn gắn chặt trong khuôn khổ các nghi lễ ma chay theo tập tục
truyền thống của cộng đồng trong đó ít nhiều có tính chất huyền bí của tư duy
vạn vật hữu linh của các tín ngưỡng dân gian nhiều khi che lấp hoặc lấn át các
yếu tố hiện thực, những cảm xúc thẩm mỹ tư duy sáng tạo nghệ thuật. Còn ở
một số dân tộc khác thì dân ca nghi lễ đã có ít nhiều thoát khỏi sự ràng buộc
của tín ngưỡng tôn giáo sơ khai để vươn tới những tình cảm chân thực của
con người. Ở đây dân ca nghi lễ mang phong cách trữ tình đậm đà, nhiều khi
đạt đến mức gây những cảm xúc thẩm mỹ khá sâu sắc của những sáng tạo
nghệ thuật ngôn từ, được thể hiện qua những cách diễn xướng sinh động khác
nhau” [8, tr.687].
Từ những khái quát, nhận định trên, chúng tôi nhận thấy dân ca
tang lễ là hệ thống những lời ca nhằm bày tỏ tình cảm, thái độ, sự trân trọng
của người sống khóc thương người đã chết và qua đó thể hiện được quan
niệm, tín ngưỡng, phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc Việt Nam
1.2.2. Khái niệm lượn trống trong tang lễ.
1.2.2.1. Khái niệm “Lượn”
Khái niệm “Lượn” từ lâu đã trở thành một loại hình dân ca độc đáo của
dân tộc Tày và được biết đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu khoa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


21
học. Thế nhưng cho đến nay thì nhiều người vẫn chưa định nghĩa được rõ
ràng về loại hình nghệ thuật dân ca này. Tuy nhiên qua quá trình nghiên cứu,
khảo sát và tham khảo ý kiến của một số người đi trước, chúng tôi xin được
đưa ra những ý kiến cũng như định nghĩa về Lượn như sau:
Trước hết là các ý kiến của các cụ nho học:
+ Lượn là do từ “luân” và giải thích “luân” nguyên nghĩa là cái bánh
xe đang lăn. “Làm lượn” thì phải có bên lượn đi bên lượn lại, quay đi quay
lại… không khác gì cái bánh xe lăn hết vòng này lại đến vòng khác. Nghĩa là
đối đáp không dứt.
+ Lượn là do từ chữ “luyến” mà ra. Luyến có nghĩ là móc vào nhau.
Cũng như người ta “ làm lượn” với nhau thì câu nị phải “móc” (ăn nhập) vào
câu kia và cả hai bên cũng đều muốn gắn bó với nhau. Tác giả cho rằng việc
tìm nguồn gốc từ lượn từ một nguồn gốc Hán là không thoả đáng, đành rằng
tiếng Tày, Nùng vay mượn tiếng Hán khá nhiều. Những loại ý kiến trên phần
lớn là phỏng đoán theo cảm tính, thiếu căn cứ chắc chắn thuyết phục.
Và cũng theo ý kiến cắt nghĩa từ nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc Tày,
Nùng, tác giả đã đơn cử hai ý kiến sau đây:
+ Lượn chính là do từ “lặn” mà ra. Lặn trong tiếng Tày, Nùng có
nghĩa là một vòng khép kín, “lặn” là một vòng tròn hoặc là hai lượt đi về giữa
hai địa điểm hoặc giữa hai đầu nút. Và họ giải thích: lượn thì phải có “câu trai
câu gái”, nghĩa là từng “lặn” từng lượt.
Cuối cùng tác giả nghiêng về ý kiến của cụ Nông Nguyễn Mô người
Hoà An - Cao Bằng : “Từ Lượn và từ “vjén” vốn cùng một nghĩa. Ngày xưa
người ta thường nói : “Lượn lủc” hay “Vjén lủc” - nghĩa là ru con - đều được
cả. Sau này người ta cũng gọi là “lượn bạn” hay “vjén bạn” cũng thế”. Tác giả
còn giải thích thêm từ “Vjén” trong tiếng Tày, Nùng hiện đại có nghĩa là ru.
“Vjén” có nghĩa là khuyên bảo dỗ dành. Nội dung những bài lượn đúng là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


22
những lời khuyên bạn, là lời gọi rủ bạn tình, lời dỗ dành vỗ về bạn bè đồng
bào, đồng loại thân thương. Trong rất nhiều bài lượn những từ “khuyên bạn”,
“khuyên em” rồi những nhóm từ cố định : Rủ bạn, rủ anh, rủ em cùng đi vào
con đường tình nghĩa luôn luôn lặp đi lặp lại.
Theo nghĩa rộng lượn chỉ toàn bộ kho tàng dân ca người Tày, bao gồm
cả Then (lượn then), hát đám cưới (lượn quan làng), phuốc pác (lượn Phuối
pác) và phong slư (lượn phong slư), cọi (lượn cọi)…Theo nghĩa hẹp lượn chỉ
là những điệu hát giao duyên của người Tày. Cả hai cách hiểu trên đều có lí,
song có lẽ phổ biến hơn cả là cách gọi tên lượn theo nghĩa hẹp, tức là bộ phận
hát giao duyên đối đáp của người Tày.[Wikipedia Bách khoa toàn thư mở]
Về bản chất lượn ở các vùng về hình thức đều giống nhau, có khác là
khác ở giai điệu, tiết tấu.
1.2.2.2. Lượn trống trong tang lễ của người Tày.
Từ những khái niệm như đã trình bày ở trên về Lượn, hiểu theo nghĩa
rộng cũng như nghĩa hẹp thì Lượn là một loại hình sinh hoạt phong phú nằm
trong kho tàng dân ca người Tày từ lâu đã ăn sâu vào tiềm thức người dân và
trở thành nét sinh hoạt văn hóa không thể thiếu trong đời sống tinh thần của
dân tộc Tày nói chung.
Nếu như khái niệm lượn được xem là bộ phận hát giao duyên đối đáp
của người Tày thì khái niệm lượn trống trong tang lễ được hiểu như thế nào?
Hiện nay chưa có một định nghĩa cụ thể nào về khái niệm này và tên gọi của
nó chỉ xuất phát trong địa phương của người Tày ở Bắc Quang Hà Giang từ
lâu nay vẫn truyền nhau, tiếng Tày gọi lượn trống có nghĩa là “lượn tổng”.
Tuy nhiên qua tham khảo nhiều ý kiến của các nghệ nhân ở địa phương cũng
như những người đi trước chúng tôi xin được đưa ra cách hiểu về khái niệm
lượn trống trong tang lễ của người Tày như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23

Lượn trống là lối hát cổ truyền trong tang lễ của người Tày được ca lên
khi hành lễ do nghệ nhân hát kèm theo tiếng trống. Lời hát chủ yếu bằng tiếng
địa phương nên dễ hiểu, và dễ đi vào lòng người dân.
Người Tày có quan niệm về sự tồn tại cuộc sống của linh hồn sau cái
chết. Chính vì vậy các nghi lễ xoay quanh đám tang của người Tày nói chung
đều liên quan đến các thủ tục tiễn đưa linh hồn người chết về trời. Đây cũng
là nội dung cơ bản và quan trọng nhất trong diễn xướng hát lượn trống của
người Tày. Đó thường là một loạt các bài ca kể về các tấm gương hiếu nghĩa
khá cảm động của người xưa, hay là tình cảm anh em máu chảy ruột mền
cũng được ca ngợi qua các bài tế ca về sự hòa thuận, đoàn kết nhất trí giữa
các anh chị em trong gia đình.
“Nghĩa tử là nghĩa tận” nên cũng như các dân tộc khác, tang lễ của người
Tày thường thu hút được sự quan tâm giúp đỡ của người dân trong ngoài làng
bản. Sự giúp đỡ vô điều kiện này được thể hiện qua nội dung các bài lượn trống
nói về lời tạ của vong đối với bà con làng bản. Qua đó phần nào góp phần ca
ngợi tình cảm xóm làng lúc tắt lửa tối đèn có nhau của người Tày.
1.3. Hát lượn trống trong tang lễ ở Bắc Quang - Hà Giang.
1.3.1. Sơ lược về diễn xướng của hát lượn trống.
Trong một đám tang thông thường của người Tày khi hành lễ sẽ bao gồm
một thầy cả và các đệ tử. Trước đây đội hát thợ gồm 8 người nay rút xuống
còn 4 người được phân công cụ thể như sau:
+ Một thầy cả chỉ huy chung
+ Hai thợ hát kiêm đánh trống
+ Một thợ hát kiêm thổi kèn
Đám tang của người Tày trước kia sẽ được nhóm thợ sử dụng ba quyển sách
chính vào nội dung của tang lễ. Có thể nói công việc chính của nhóm thợ là
góp phần giúp con cháu trả ơn báo hiếu cho cha mẹ thông qua các công việc
cụ thể như sau:

×