Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

cuộc vận động chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học ở huyện chợ mới tỉnh bắc kạn từ năm 1998 đến năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.26 MB, 95 trang )




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM








ÂU SƠN HƯNG




CUỘC VẬN ĐỘNG CHỐNG MÙ CHỮ
VÀ PHỔ CẬP GIÁO DỤC TIỂU HỌC Ở HUYỆN CHỢ MỚI
TỈNH BẮC KẠN TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2011






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ








Thái Nguyên – Năm 2012




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM







ÂU SƠN HƯNG



CUỘC VẬN ĐỘNG CHỐNG MÙ CHỮ
VÀ PHỔ CẬP GIÁO DỤC TIỂU HỌC Ở HUYỆN CHỢ MỚI
TỈNH BẮC KẠN TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2011

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHI





Thái Nguyên – Năm 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu đề tài “Cuộc vận động chống mù
chữ và phổ cập giáo dục tiểu học ở huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn từ năm 1998
đến năm 2011” dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thị Phương Chi là
kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là
trung thực. Những chỗ sử dụng kết quả nghiên cứu của người khác đều trích
dẫn rõ ràng. Những tư liệu không có trích dẫn là do tác giả trực tiếp sưu tầm
trong quá trình sưu tầm tài liệu tại địa phương.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước nhà trường về sự cam đoan này.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012
Tác giả




Âu Sơn Hưng



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LỜI CẢM ƠN

Bằng tấm lòng thành kính và biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn
Cô giáo – PGS.TS Nguyễn Thị Phương Chi – Người Cô đã tận tình hướng
dẫn em hoàn thành luận văn này.
Em bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử - Trường
ĐHSP – Đại học Thái Nguyên, đã giảng dạy, giúp đỡ, động viên, khuyến
khích và hướng dẫn em suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Xin chân thành cảm ơn Trung tâm học liệu tỉnh Đai học Thái Nguyên,
Phòng tư liệu khoa Lịch sử Trường Đại học Sư phạm – ĐHTN, đặc biệt
Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn, Trường Tiểu học
Yên Hân, Trường tiểu học Hòa Mục huyện Chợ Mới – Bắc Kạn đã cung cấp
cho tôi nguồn tư liệu để thực hiện luận văn.
Trân trọng cảm ơn Ban Giám Hiệu trường Đại học Sư Phạm, Ban chủ
nhiệm khoa Lịch Sử đã tạo điều kiện cho tôi học tập, nghiên cứu. Cảm ơn gia
đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012
Tác giả




Âu Sơn Hưng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


i

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục i
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt ii
MỞ ĐẦU 1

Chương 1. KHÁI QUÁT HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH BẮC KẠN VÀ
TÌNH HÌNH GIÁO DỤC TRƯỚC NĂM 1998 7

1.1 Khái quát về huyện Chợ Mới 7

1.1.1. Khái quát vị trí địa lí - điều kiện tự nhiên 7

1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội huyện Chợ Mới từ 1998 đến 2011 10

1.2. Tình hình giáo dục Việt Nam và huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn trước
năm 1998 13


1.2.1. Khái quát tình hình giáo dục Việt Nam trong thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ 13

1.2.2. Tình hình giáo dục của huyện Chợ Mới trước năm 1998 20

Chương 2. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHỐNG MÙ CHỮ VÀ PHỔ
CẬP GIÁO DỤC TIỂU HỌC Ở HUYỆN CHỢ MỚI TỪ NĂM 1998
ĐẾN NĂM 2011 31

2.1. Thực hiện chống mù chữ - phổ cập giáo dục tiểu học trong giai đoạn 1
(1998 - 2005) 31

2.2. Thực hiện chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học trong giai
đoạn 2 (2006 - 2011). 41

Chương 3. THÀNH TỰU, HẠN CHẾ, Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM CỦA CUỘC VẬN ĐỘNG CHỐNG MÙ CHỮ VÀ PHỔ CẬP
GIÁO DỤC TIỂU HỌC Ở HUYỆN CHỢ MỚI 56

3.1. Thành tựu 56

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ii

3.2. Hạn chế 58

3.3. Ý nghĩa của cuộc vận động CMC – PCGDTH đối với kinh tế - xã hội
huyện Chợ Mới 60


3.4. Bài học kinh nghiệm 64

KẾT LUẬN Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 77

PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


iii


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

Ký hiệu, chữ viết tắt Tên đầy đủ
CMC Chống mù chữ
PCGD Phổ cập giáo dục
CMC - PCGDTH Chống mù chữ - Phổ cập giáo dục tiểu học
GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
CNH - HĐH Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
ĐĐT Đúng độ tuổi


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


1



MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm sự nghiệp giáo dục
và chỉ rõ: "Nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang , xây dựng kinh tế,
không có cán bộ không làm được. Không có giáo dục, không có cán bộ thì
cũng không nói gì đến kinh tế, văn hóa”
Qua lời dạy của Bác, chúng ta có thể thấy trình độ dân trí là một trong
những thước đo quan trọng nhằm đánh giá sự phát triển của mỗi Quốc gia.
Ngày nay, xu hướng toàn cầu hóa là xu hướng phát triển chung của thời đại,
đặt ra cho mỗi dân tộc thời cơ và thách thức mới. Muốn hòa nhập và phát
triển, không có con đường nào khác ngoài con đường nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. đó cũng chính là đường lối đổi mới của
Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đối với sự nghiệp phát triển giáo dục.
Huyện Chợ Mới là một huyện vùng cửa ngõ phía Nam của tỉnh Bắc Kạn
với các tỉnh miền xuôi, là một bộ phận của nước Việt Nam thống nhất. Nơi
đây là quê hương của 7 thành phần dân tộc anh em cùng chung sống, có
truyền thống yêu nước nồng nàn, tình đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, nhân dân các dân tộc Chợ
Mới đang ra sức xây dựng quê hương giàu đẹp theo con đường mà Đảng và
Bác Hồ đã lựa chọn. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên quê
hương, nhân dân Chợ Mới cần phải có trình độ học vấn cao, nắm bắt và áp
dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại. Trong khi đó, Chợ Mới
hiện tại là một trong những huyện gặp rất nhiều khó khăn vì trình độ dân trí
còn thấp. Vì vậy, trong các nghị quyết của Đảng bộ Chợ Mới từ khóa I đến
khóa III xác định nhiều nhiệm vụ quan trọng, trong đó có nhiệm vụ cấp bách
là: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đẩy mạnh sự
nghiệp giáo dục, mà trước hết là tiếp tục chương trình chống mù chữ và phổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



2

cập giáo dục tiểu học, từng bước thực hiện quá trình đổi mới giáo dục. Từ
năm 1998 đến nay, sự nghiệp giáo dục huyện Chợ Mới đã có nhiều chuyển
biến tích cực, trong đó có vấn đề chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học
đúng độ tuổi.
Vì vậy, nghiên cứu quá trình chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học
ở huyện Chợ Mới từ năm 1998 đến năm 2011 vừa có ý nghĩa khoa học, vừa
có giá trị thực tiễn to lớn.
Luận văn còn bổ sung nguồn tư liệu nghiên cứu lịch sử địa phương,
nghiên cứu sự nghiệp phát triển giáo dục huyện, góp phần vào việc nâng cao
nhận thức của nhân dân các dân tộc Chợ Mới về vai trò trách nhiệm của mình
đối với sự nghiệp phát triển giáo dục đào tạo, nhất là trong cuộc vận động
chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, từ đó đẩy mạnh phát triển kinh
tế, văn hóa xã hội của địa phương.
Là một người con được sinh ra và trưởng thành từ mảnh đất Chợ Mới,
tôi thấy mình có trách nhiệm cùng với các đồng nghiệp phải duy trì, nâng cao
chất lượng giáo dục - đào tạo cho đồng bào các dân tộc huyện nhằm đưa Chợ
Mới tiến nhanh theo kịp sự phát triển giáo dục ở miền xuôi, góp phần đưa Bắc
Kạn phát triển trên con đường CNH - HĐH.
Với những lí do trên, tôi chọn vấn đề về “Cuộc vận động chống mù chữ
và phổ cập giáo dục tiểu học ở huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn từ năm 1998
đến năm 2011” làm đề tài Luận văn thạc sĩ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Từ khi đất nước ta giành được độc lập (1945) đến nay, Đảng và Nhà
nước ta luôn quan tâm đầu tư cho giáo dục - đào tạo, coi đó là quốc sách hàng
đầu. Ngoài các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, VI, VII, VIII,
IX , đặc biệt là Nghị quyết TW 2 khóa VIII và Văn kiện Hội nghị lần VI của
BCH TW Đảng về Giáo dục đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơ quan chủ

quản về công tác giáo dục đã đưa ra nhiều nghị quyết, chỉ thị về xóa mù chữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3

và phổ cập giáo dục tiểu học. Đây là vấn đề được cả xã hội quan tâm và được
nhiều tác giả nghiên cứu.
Vấn đề xóa mù chữ và phổ biến chữ Quốc ngữ đã được đề cập trên tạp
chí: Nghiên cứu lịch sử; Nghiên cứu Giáo dục và các tạp chí chuyên ngành
khác. Đã có những Luận văn, Luận án tìm hiểu về chính sách, thành tựu và
biện pháp tiến hành xóa mù chữ: Luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Mạnh
Tùng viết năm 1998 đề cập đến công tác xóa mù chữ và bổ túc văn hóa ở Bắc
Bộ (1945 - 1954). Một số bài viết của các bậc tiền bối cách mạng đã phản ánh
công tác truyền bá chữ quốc ngữ ở Việt Nam trước và sau năm 1938. Tuy
nhiên các tác phẩm này cũng chỉ phản ánh trên bình diện chung về phổ biến
chữ Quốc ngữ và xóa mù chữ giai đoạn 1945 - 1954.
Trong các luận văn thạc sỹ lịch sử cũng đã có một số công trình nghiên
cứu về công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục: Công cuộc xóa nạn mù chữ
ở Thái Nguyên (1945-1954) của tác giả Nguyễn Xuân Hồng (2010); Cuộc vận
động chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học ở huyện Chiêm Hóa tỉnh
Tuyên Quang từ năm 1991 đến năm 2010 của tác giả Nguyễn Trung Phần.
Ở huyện Chợ Mới, trong những năm qua hoạt động nghiên cứu lịch sử
đã được một số cá nhân và tập thể thực hiện trên nhiều lĩnh vực kinh tế - văn
hóa- xã hội. Đã có một số ít công trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục tỉnh
Bắc Kạn, trong đó có huyện Chợ Mới.
Trong cuốn “Lịch sử Đảng bộ Thái Nguyên” tập 1 và tập 2 (1965 –
2005) (2005) của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã đề cập đến
chủ trương của Đảng bộ Bắc Thái (trong đó có Bắc Kạn) về Giáo dục và đào
tạo, thành tựu và những khó khăn của tỉnh trong lĩnh vực này. Tuy nhiên cuốn

sách này chỉ viết một cách khái quát.
Trong cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Thái”, tập II (1991) của Ban
nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Bắc Thái; và Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn
(tập I,II) đã đề cập đến những thành tựu trên lĩnh vực văn hoá giáo dục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


4

Cuốn “Huyện Chợ Mới – 10 năm xây dựng và phát triển” xuất bản năm
2008, của Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Ủy ban mặt
trận Tổ quốc. Nội dung cuốn sách trình bày tương đối hệ thống quá trình hình
thành và phát triển của Đảng bộ Chợ Mới trong 10 năm từ khi thành lập
huyện (1998), ghi lại quá trình xây dựng và trưởng thành của Đảng bộ và
nhân dân của các dân tộc từ ngày thành lập huyện, những thành tựu đạt được
trên các mặt chính trị, kinh tế, xã hội của huyện Chợ Mới, trong đó có công
tác chống mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, tiến tới phổ cập
bậc THPT.
Ngoài các công trình và bài viết nói trên, các bản báo cáo tổng kết của
ngành Giáo dục Bắc Kạn và ngành Giáo dục huyện Chợ Mới qua từng thời kỳ
từ 1998 - 2011 đã nêu một số đánh giá về tình hình giáo dục. Các bản báo cáo
sơ kết cuối kì, cuối từng năm học đều có những bảng biểu thống kê, so sánh
giữa các huyện trong tỉnh về chống mù và phổ cập giáo dục tiểu học.
Đến nay, chưa có công trình chuyên sâu nào về công tác vận động
chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học ở huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc
Kạn. Hơn nữa vấn đề chống mù chữ - phổ cập giáo dục tiểu học vẫn còn
đang được thực hiện nhằm duy trì kết quả xóa mù và phổ cập của từng năm
học. Đây cũng là một trong những khó khăn cho tác giả khi làm luận văn.
Tuy nhiên, những công trình, tài liệu liên quan đến đề tài đã được công bố
cũng là một trong những cơ sở khoa học giúp tôi hoàn thành luận văn này.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu.
- Đề tài tập trung nghiên cứu về công tác chống mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học ở huyện Chợ Mới.
* Phạm vi nghiên cứu.
- Về không gian: 15 xã và 1 thị trấn của huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


5

- Về thời gian: Đề tài chủ yếu nghiên cứu về quá trình vận động chống
mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học ở huyện Chợ Mới từ năm 1998 đến năm
2011. Tuy nhiên, để làm rõ thành tựu cuộc vận động chống mù chữ, Luận văn này
cũng trình bày khái quát tình hình giáo dục ở huyện Chợ Mới trước năm 1998.
* Nhiệm vụ của đề tài.
- Khái quát huyện Chợ Mới và tình hình giáo dục trước năm 1998.
- Trình bày toàn bộ quá trình vận động chống mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học ở huyện Chợ Mới từ năm 1998 đến năm 2011.
- Nêu những thành tựu đạt được, những hạn chế của quá trình vận động
xóa mù và phổ cập giáo dục tiểu học của huyện Chợ Mới.
- Bước đầu nêu được ý nghĩa và một số bài học kinh nghiệm và một số
kiến nghị về giải pháp nhằm duy trì kết quả chống mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học trong những năm tiếp theo.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.
* Nguồn tư liệu:
Để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, tôi sử dụng các nguồn tư liệu sau:
- Các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và
Đào tạo về công tác xóa mù và phổ cập giáo dục tiểu học.
- Các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng là cơ

sở lý luận để nghiên cứu đề tài.
- Các bản kế hoạch, định hướng của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Kạn, Huyện
ủy, UBND huyện Chợ Mới từ năm 1998 đến năm 2011.
- Các công văn báo cáo tổng kết hằng năm của Sở Giáo dục và Đào tạo
tỉnh Bắc Kạn, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Chợ Mới, Niên giám thống
kê của Chi cục Thống kê tỉnh Bắc Kạn.
- Các công văn, báo cáo một số trường học tiêu biểu.
- Các ấn phẩm và một số công trình về lịch sử tỉnh Bắc Kạn, huyện Chợ
Mới có liên quan đến giáo dục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


6

- Tài liệu khai thác từ khảo sát thực tế
* Phương pháp nghiên cứu.
- Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi sử dụng phương pháp lịch sử và
kết hợp với phương pháp lôgic là chủ yếu.
- Ngoài ra, một số phương pháp nghiên cứu bổ trợ khác như: Thống kê,
so sánh, đối chiếu, phân tích tổng hợp, khảo sát thực tế cũng được vận dụng.
5. Đóng góp của luận văn.
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối hệ
thống về quá trình vận động chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học ở
huyện Chợ Mới từ năm 1998 đến năm 2011.
- Nêu được những thành tựu cơ bản, những đóng góp của giáo dục nói
chung và cuộc vận động xóa mù, phổ cập giáo dục tiểu học trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa huyện nói riêng.
- Nêu lên một số hạn chế, đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần tiếp
tục duy trì quá trình chống tái mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, cho phù
hợp với xu thế phát triển chung của tỉnh Bắc Kạn cũng như cả nước.

- Luận văn góp phần cung cấp thêm tư liệu phục vụ cho công tác nghiên
cứu, giảng dạy lịch sử địa phương.
6. Bố cục của luận văn.
- Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận
văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn và tình hình giáo
dục trước năm 1998.
Chương 2: Quá trình thực hiện chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu
học ở huyện Chợ Mới từ năm 1998 đến năm 2011.
Chương 3: Thành tựu, hạn chế, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của
cuộc vận động chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học ở huyện Chợ Mới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


7


Chương 1
KHÁI QUÁT HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH BẮC KẠN
VÀ TÌNH HÌNH GIÁO DỤC TRƯỚC NĂM 1998

1.1 Khái quát về huyện Chợ Mới
1.1.1. Khái quát vị trí địa lí - điều kiện tự nhiên.
Về địa giới hành chính, huyện Chợ Mới trước năm 1965 thuộc huyện
Bạch Thông (Châu Bạch Thông chính thức từ thời Lê, đời Hồng Đức thứ 21,
vào năm 1490). Từ năm 1967 đên 1997 thì 09 xã và 01 thị trấn phía Nam của
huyện Bạch Thông sát nhập về huyện Phú Lương (gồm Nông Hạ, Nông

Thịnh, Thanh Bình, Yên Đĩnh, Như Cố, Quảng Chu, Bình Văn, Yên Hân,
Yên Cư và thị trấn Chợ Mới). Theo Nghị quyết kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa
IX, tỉnh Bắc Kạn được tái lập. Sau khi tỉnh Bắc Kạn được tái lập năm 1997,
địa giới hành chính huyện Bạch Thông điều chỉnh tiếp nhận 09 xã và 01 thị
trấn phía Bắc của huyện Phú Lương. Thực hiện Nghị định số 46-NĐ/NP ngày
06/7/1998 của Chính phủ, huyện Chợ Mới được thành lập trên cơ sở tách 16
xã, thị trấn phía Nam của huyện Bạch Thông.
Huyện Chợ Mới có tổng diện tích tự nhiên là 60,716.08 ha, gồm 16 đơn
vị hành chính (15 xã và 01 thị trấn). Thị trấn Chợ Mới là trung tâm huyện lỵ
cách thị xã Bắc Kạn 42 km về phía Bắc và cách thủ đô Hà Nội 142 km về
phía Nam.
Huyện có vị trí địa lý tương đối thuận lợi. Là huyện cửa ngõ phía Nam
của tỉnh Bắc Kạn, phía Đông giáp huyện Na Rì (Bắc Kạn), Võ Nhai (Thái
Nguyên); phía Tây giáp huyện Định Hóa (Thái Nguyên); phía Nam giáp
huyện Đồng Hỷ và huyện Phú Lương (Thái Nguyên); phía Bắc giáp huyện
Chợ Đồn, Bạch Thông và Thị xã Bắc Kạn.
Đường Quốc lộ 3 đi qua 7 xã, thị trấn. sông Cầu chảy qua 9 xã trong
huyện. Thị trấn Chợ Mới nằm trên địa phận hợp lưu của sông Cầu và sông
Chu. Địa hình của huyện khá đa dạng và phức tạp, chia thành 3 vùng chủ yếu:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


8

Khu vực phía Đông của huyện gồm các xã: Như Cố, Bình Văn, Yên Hân,
Yên Cư, Tân Sơn. Địa hình của vùng này được tạo bởi các núi đá và thung
lũng nhỏ, có nhiều thác ghềnh.
Khu vực phía Tây của huyện gồm các xã: Thanh Mai, Thanh Vận, Mai
Lạp. Địa hình núi đất và các thung lũng nhỏ tương đối thuận lợi cho phát triển
trồng rừng.

Khu vực dọc theo đường Quốc lộ 3 gồm các xã: Hòa Mục, Cao Kỳ,
Nông Thịnh, Thanh Bình, Yên Đĩnh, Quảng Chu và thị trấn Chợ Mới, chủ
yếu là đồi núi được cấu tạo từ nham thạch cổ xưa, xem kẽ với núi đá vôi,
ngăn cách bởi những thung lũng. Có những thung lũng trải rộng, kéo dài
thành những cánh đồng tương đối bằng phẳng dọc theo triền sông, suối. Địa
hình miền núi nhiều mưa, mật độ sông, suối, nguồn nước khá lớn, lượng nước
lưu chuyển khá dồi dào, phân phối đều giữa các khu vực trong huyện.
Huyện Chợ Mới có hệ thống sông, suối được phân bố đều khắp. Con
sông lớn nhất là sông Cầu. Sông Cầu có vai trò to lớn trong đời sống cư dân
hầu hết các xã trong huyện. Nguồn nước thủy lợi dồi dào, đường giao thông
ngược xuôi và nguồn thủy sản phong phú. Hàng năm, dòng sông này bồi đắp
cho các xã dọc lưu vực một lớp phù xa khá màu mỡ. Ngoài tác dụng đó, sông
Cầu còn đáp ứng được một phần quan trọng sự thông thương nguồn hàng giữa
huyện Chợ Mới với các địa phương khác trong và ngoài tỉnh. Trong kháng
chiến chống thực dân Pháp, sông Cầu đóng vai trò vận tải gạo, muối và nhiều
vật dụng khác từ miền xuôi đến bến Chợ Mới bằng các thuyền ván lớn, nhỏ;
trong hòa bình lại vận chuyển tre, nứa, gỗ từ Bắc Kạn về xuôi.
Là huyện nằm ở cửa ngõ phía Nam của tỉnh Bắc Kạn nên mạng lưới giao
thông ở Chợ Mới tương đối phát triển. Hiện nay 100% số xã có đường ô tô
đến tận trung tâm xã nên giao thông liên lạc khá thuận tiện.
Quốc lộ 3 là con đường giao thông huyết mạch chạy dọc theo chiều dài
của huyện Chợ Mới. Nhờ con đường này, từ Chợ Mới có thể đi lại một cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9

dễ dàng từ phía Nam xuống thủ đô Hà Nội, phía Bắc lên tận tỉnh Cao Bằng.
Ngoài ra còn một hệ thống đường liên xã, tạo nên mạng lưới giao thông phục
vụ đời sống, kinh tế và văn hóa – xã hội cho nhân dân các dân tộc trong vùng.

Chợ Mới nằm trong khu vực khí hậu gió mùa, hàng năm chia hành bốn
mùa: xuân, hạ, thu, đông. Mùa hạ trùng với gió mùa đông nam, nhiệt độ trung
bình từ 25 độ C đến 28 độ C. Mùa đông trùng với gió mùa đông bắc, tiết trời
giá rét, nhiều khi có sương muối, gây ảnh hưởng xấu đến độ sinh trưởng của
cây trồng và gia súc.
Là một huyện miền núi phía Nam của tỉnh Bắc Kạn, đất rộng, người
thưa. Dân số toàn huyện ngày đầu mới thành lập (1998) là 37.998 người tăng
lên 38.205 người (2005) và đến 2008 là 29.468 người.
Trong bức tranh của cộng đồng dân cư, huyện Chợ Mới hiện nay có các
dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Mông, Hoa, Sán Chay và một số ít dân tộc
khác thuộc các ngữ hệ và các nhóm ngôn ngữ khác nhau:
Ngữ hệ Nam Á với các nhóm: Việt - Mường (Kinh); Mông – Dao
(Mông, Dao).
Ngữ hệ Thái – Ka đai (Tày, Nùng).
Ngữ hệ Hán (Hoa và nhóm Sán Chỉ thuộc dân tộc Sán Chay).
Người Kinh chiếm khoảng 20% dân số, chủ yếu sinh sống tập trung ở
vùng thấp và thị trấn.
Người Tày chiếm khoảng 56,9 % dân số, phân bố hầu khắp các địa bàn
trong huyện. Đây là lớp dân cư bản địa, có trình độ phát triển kinh tế - xã hội
cao trong vùng. Ngôn ngữ Tày cùng với tiếng phổ thông đóng vai trò quan
trọng trong giao tiếp giữa các dân tộc trong khu vực.
Người Nùng có mới quan hệ lịch sử với người Tày, cư trú xem kẽ với
người Tày và người Kinh, với dân số khoảng 3,62 %.
Người Dao cũng như người Mông sinh sống chủ yếu ở cùng cao quanh
chân núi, chiếm khoảng 17,3% dân số.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


10


Người Mông, Sán Chay, Hoa và một số dân tộc khác có mặt muộn hơn
với dân số ít (~2,03%).
Mỗi dân tộc ở Chợ Mới dù số lượng nhiều ít khác nhau, nhưng đều có
sắc thái dân tộc độc đáo, phong tục tập quán khác nhau tạo nên bức tranh văn
hóa nhiều màu sắc. Nhiều giá trị văn hóa vật thể vẫn còn bảo lưu như nếp nhà
sàn truyền thống, các bộ trang phục đậm đà sắc thái dân tộc. Lễ hội “lồng
tồng” (xuống đồng) vào mùa xuân với ý nghĩa cầu mùa là hình thưc sinh hoạt
văn hóa dân gian độc đáo. Hát Páo dung của người Dao, múa khèn của người
Mông, hát Sli, lượn của người Tày – Nùng trong các lễ hội, chợ phiên hay
trong đám cưới.
Trải qua quá trình lịch sử cùng sinh sống trên vùng đất Chợ Mới, nhân
dân các dân tộc ở đây đã tạo nên những giá trị văn hóa mang đặc trưng dân
tộc, đồng thời làm phong phú thêm văn hóa của cộng đồng dân cư.
1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội huyện Chợ Mới từ 1998 đến 2011
Trong hơn 10 năm qua, tốc độ phát triển kinh tế tăng khá, năm sau tăng
hơn năm trước. Qua 3 kỳ đại hội Đảng bộ huyện đều xây dựng cư cấu kinh tế
là : Nông – Lâm nghiệp – Dịch vụ - Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Cơ
cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông, lâm nghiệp. Khu vực công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng từ 15% năm 2000 lên 25% năm 2005; khu
vực dịch vụ tăng từ 25% năm 2000 lên 30% năm 2005 và khu vực nông, lâm
nghiệp giảm từ 60% năm 2000 xuống còn 45% năm 2005.
Dù là một huyện mới thành lập và còn không ít khó khăn nhưng Đảng bộ
huyện đã quan tâm, chỉ đạo phát triển và nuôi dưỡng nguồn thu ngân sách.
Cùng với thu ngân sách, huyện quan tâm chỉ đạo vận động thu hút, huy động
các nguồn vốn, tập trung cho vay để phát triển kinh tế - xã hội nên công tác
tài chính, tiền tệ được đánh giá là tốt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



11

Huyện Chợ Mới có 38/164 thôn, bản, tổ dân phố là thôn định canh định
cư. Huyện xác định công tác định canh, định cư là một nhiệm vụ quan trọng
trước mắt và lâu dài. Chính vì vậy Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa I đã
ra Nghị quyết về công tác định canh, định cư – kinh tế mới. Sau hơn 10 năm
đã thu được những kết quả quan trọng: Số gia đình đồng bào định canh, định
cư có thu nhập khá, đời sống ngày càng ổn định, góp phần giảm hộ nghèo khu
vực định canh, định cư từ 57% năm 2001 xuống còn 45,65% năm 2007.
Cấp ủy huyện rất quan tâm đến vấn đề tạo việc làm mới cho người lao
động nhằm tăng thu nhập ổn định, đến năm 2010 đã tạo việc làm cho 2.638
lao động có việc làm ổn định. Cùng với việc quan tâm vấn đề lao động việc
làm thì huyện đã lãnh đạo công tác xóa đói giảm nghèo có hiệu quả bằng các
biện pháp và nhiệm vụ cụ thể. Năm 1998 tỷ lệ hộ đói, nghèo toàn huyện là
21,6% theo tiêu chí cũ, đến tháng 12 năm 2007 tỷ lệ hộ nghèo là 30,54% theo
tiêu chí mới. Bình quân từ năm 1998 đến năm 2005 hàng năm giảm 6,73%
hộ nghèo theo tiêu chí cũ, từ năm 2005 đến 2007 bình quân tăng hàng năm
giảm 9,11% hộ nghèo theo tiêu chí mới.
Sự nghiệp giáo dục của huyện có bước phát triển khá. Quy mô phát triển
trường lớp và học sinh không ngừng mở rộng. Chất lượng giáo dục của các
bậc học được nâng lên. So với năm 1998, năm học 2007 – 2008 toàn huyện có
42 trường tăng 13 trường. Có 16 trường mầm non, 15 trường tiểu học, 06
trường THCS, 03 trường PTCS, 02 trường THPT, có 3 trường đạt chuẩn
Quốc gia.
Số lượng cán bộ, giáo viên không ngừng tăng lên. Ngành giáo dục quan
tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ, giáo viên. Đến nay, tỷ lệ
giáo viên đạt chuẩn ở tất cả các cấp học đều trên 97%. Toàn ngành có 05 thạc
sĩ. Công tác xã hội hóa giáo dục có chuyển biến đã góp phần quan trọng cho
phát triển sự nghiệp giáo dục của huyện. Đến nay 100% xã có Hội khuyến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



12

học và có Trung tâm học tập cộng đồng. Toàn huyện có 22% số lao động qua
đào tạo nghề. Từ ngày thành lập đến nay có 02 học sinh đạt học sinh giỏi
quốc gia; tỷ lệ học sinh thi đỗ các trường cao đẳng, đại học ngày càng tăng.
Hết năm 1998 huyện đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học – xóa
mù chữ. Hết năm 2007 toàn huyện có 16/16 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về
phổ cập trung học cơ sở.
Về công tác y tế - chăm sóc sức khỏe nhân dân. Ngoài việc đầu tư xây
dựng các cơ sở vật chất, bổ sung trang thiết bị hiện đại là việc quan tâm bồi
dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ y tế.
Năm 1998 còn 2 xã chưa có trạm xá, nhiều nhà trạm xuống cấp, chưa có bệnh
viện chỉ có bệnh viện vùng cao Yên Cư, trung tâm y tế huyện vừa làm chức
năng quản lý nhà nước và khám chữa bệnh, toàn huyện mới có 05 bác sỹ. Đến
nay, tất cả các xã, thị trấn đều có trạm y tế, 10/16 xã có bác sỹ. Bệnh viện
huyện có trên 50 giường bệnh, tất cả các trạm y tế xã được xây dựng kiên cố;
100% thôn bản, tổ dân phố có cán bộ y tế. Đến nay toàn ngành có 133 cán bộ,
trong đó có 07 bác sỹ chuyên khoa cấp I; các chương trình y tế được triển
khai có hiệu quả. Công tác phòng, chống dịch bệnh được quan tâm. Hội Đông
y huyện thành lập và hoạt động từ tháng 10/2004, đến nay có 16/16 xã, thị
trấn có hội Đông y. Công tác quản lý đội ngũ y dược được tiến hành thường
xuyên. Đến nay toàn huyện có 7 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Về dân số - kế hoạch hóa gia đình cũng có những kết quả đáng khích lệ.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên được hạn chế. Công tác gia đình được quan tâm chỉ
đạo với mục tiêu gia đình “Ấm no – Bình đẳng – Tiến bộ - Hạnh phúc”. Đến
nay trên 75% số gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa. Công tác chăm sóc,
bảo vệ trẻ em thu được kết quả khá. Các mục tiêu giáo dục, mục tiêu chăm
sóc sức khỏe, phòng chống suy dinh dưỡng, chăm lo trẻ em khuyết tật, cô đơn

được quan tâm chu đáo. Toàn xã hội, cộng đồng tham gia quản lý, giáo dục
trẻ em.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


13

Về chính sách xã hội, chính sách người có công được giải quyết kịp thời.
Công tác chăm sóc người có công, gia đình thương binh hàng năm được chăm
lo chu đáo. Chương trình xóa nhà tạm, dột nát được hoàn thành cuối năm
2005. Đến nay toàn huyện đã làm được hơn 100 ngôi nhà tình nghĩa, hỗ trợ
nhà ở cho 739 hộ nghèo
Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội được chỉ đạo triển khai tích cực có
hiệu quả. Tệ nạn ma túy, mại dâm, số đề từng bước được ngăn chặn. Các
điểm kinh doanh có dấu hiệu vi phạm được kiểm tra truy quét. Huyện vừa tập
trung tuyên truyền vận động, vừa tăng cường truy quét các tụ điểm ma túy
trên địa bàn.
Các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao có nhiều khởi sắc. Hệ
thống thông tin bước đầu đáp ưng nhu cầu nhanh chóng, kịp thời đến đông
đảo nhân dân trong huyện. Đến nay toàn huyện có 100% xã, thị trấn có báo
đọc trong ngày, 16/16 xã, thị trấn có trạm truyền thanh. Tất cả các cơ quan,
trường học được quan tâm, quy hoạch lâu dài.
Những thành tựu về kinh tế - xã hội của huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn là
cơ sở cho sự phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo của huyện [57].
1.2. Tình hình giáo dục Việt Nam và huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn trước
năm 1998
1.2.1. Khái quát tình hình giáo dục Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Đến năm 1884,
với Hiệp ước Patơnôt, về cơ bản thực dân Pháp đã hoàn thành việc xâm lược

nước ta. Từ sau đó, chúng bắt tay vào việc tổ chức và thi hành những biện
pháp thống trị nhân dân ta trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn
hoá, giáo dục.
Trước Cách mạng tháng 8- 1945, nền giáo dục nước ta nói chung thực
chất là một nền giáo dục phản động, lạc hậu với tỉ lệ thất học trên 90% trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


14

nhân dân. Theo Niên giám thống kê Đông Dương các năm 1936 - 1937 và
1941 - 1942, số người biết chữ chỉ chiếm 2% dân số. Nha Học chính Đông
Dương phải thú nhận: “95% dân chúng Việt Nam không biết một thứ chữ gì”
[29]. Cũng theo tài liệu thống kê của cơ quan Bình dân học vụ, đến trước
Cách mạng tháng Tám 1945, cả nước có hơn 90% dân số mù chữ. Rõ ràng,
chính sách hạn chế giáo dục là một bộ phận cấu thành chính sách cai trị của
thực dân Pháp ở Việt Nam
Nhằm đầu độc nhân dân về mặt văn hóa, thực dân Pháp khuyến khích
duy trì những phong tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời, mê tín dị đoan, tuyên
truyền lối ăn chơi trụy lạc. Chúng dùng thuốc phiện để đầu độc nhân dân
ta nhằm làm suy yếu giống nòi, thuốc phiện được bầy bán công khai ở các
tiệm hút nhằm lôi kéo thanh niên vào con đường nghiện ngập, ăn chơi sa
đọa, mỏi mòn về thể xác, tinh thần, lãng quên con đường đấu tranh cách
mạng. Thực trạng này càng khẳng định thêm lời tố cáo đanh thép của
Nguyễn Ái Quốc được nêu trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp:
“Lúc ấy, cứ một nghìn làng thì có đến một nghìn năm trăm đại lí bán lẻ
rượu và thuốc phiện. Nhưng cũng trong số một nghìn làng đó lại chỉ có vẻn
vẹn 10 trường học Hằng năm người ta đã tọng từ 23 đến 24 triệu lít rượu
cho 12 triệu người bản xứ, kể cả đàn bà và trẻ em” [65; tr 2]
Chính sách giáo dục của thực dân Pháp đi ngược với quyền lợi của nhân

dân Việt Nam. Vì vậy, ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, các nhà nho yêu
nước Việt Nam đã nhận thấy sự cần thiết phải gắn việc canh tân giáo dục với
cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc. Tháng 3 năm 1907, một số nhà
nho yêu nước tiến bộ như Lương Văn Can, Nguyễn Quyền đã mở trường
Đông Kinh nghĩa thục. Hoạt động chính của trường nhằm mở mang việc học
tập bằng chữ quốc ngữ cho nhân dân. Mặc dù chỉ tồn tại trong vòng 8 tháng
(từ tháng 3 đến tháng 11 năm 1907), nhà trường đã tạo ra một phong trào học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


15

chữ Quốc ngữ có khí thế hào hứng, có nội dung, phương pháp và tổ chức mới
khác với học chữ Hán nặng tính hư văn.
Sau đó, Nguyễn Ái Quốc- nhà yêu nước Việt Nam, trong quá trình hoạt
động cách mạng, đã tố cáo chính sách giáo dục ngu dân của thực dân Pháp ở
Việt Nam và đề ra yêu sách về mở mang giáo dục. Năm 1919, trong bản yêu
sách nổi tiếng gồm 8 điểm gửi tới Hội nghị Véc – xai, Nguyễn Ái Quốc đòi
tự do học tập và mở các trường cho người bản xứ ở khắp các tỉnh.
Năm 1927, trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh” Nguyễn Ái Quốc nêu
vấn đề:
“1. Lập trường học cho công nhân
2. Lập trường cho con cháu công nhân” [65; tr.3]
Năm 1929, chương trình của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã
ghi rõ: “bỏ những trường học cũ của đế quốc và thay bằng trường học cách
mạng không phải trả tiền”
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và nắm quyền lãnh đạo
cách mạng. Từ đây, các hoạt động giáo dục trở thành một mặt trận đấu tranh
của nhân dân ta chống thực dân Pháp đồng thời gắn bó chặt chẽ với các mặt
trận đấu tranh khác. Trong Chính cương vắn tắt - văn kiện đầu tiên của Đảng,

xác định mục tiêu đấu tranh trên lĩnh vực giáo dục cũng là một mặt trận. Chủ
trương tiến hành“Phổ thông giáo dục theo công nông hoá” trong 10 khẩu
hiệu thì khẩu hiệu thứ 9 ghi là: “Thực hành giáo dục toàn dân”.
Trong phong trào Đông Dương đại hội thời kỳ vận động dân chủ 1936
– 1939, trong những lá đơn thỉnh nguyện đều có các mục nói về văn hoá,
giáo dục.
Năm 1936, Đảng ta đưa ra yêu sách 12 điểm , trong đó nêu rõ phải mở
rộng nền giáo dục, sửa đổi những thể lệ vào trường học, lên lớp, thi cử, cưỡng
bách giáo dục bằng tiếng mẹ đẻ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


16

Đầu năm 1938, theo đề nghị của đồng chí Trường Chinh, Xứ ủy Bắc Kỳ
quyết định vận động một tổ chức công khai chống nạn mù chữ. Thực hiện chủ
trương này, Hội Truyền bá Quốc ngữ được thành lập, do Nguyễn Văn Tố làm
Hội trưởng, ông Phan Thanh làm Tổng thư ký. Mục đích của Hội Truyền bá
quốc ngữ là: “Dạy cho người Việt Nam biết đọc, biết viết và giúp cho họ
thông thái những kiến văn thường thức cần cho cuộc sống mới”[29].
Trước sự đấu tranh của quần chúng và của Hội Truyền bá quốc ngữ,
ngày 29/7/1938, Thống sứ Bắc Kì buộc phải kí giấy công nhận sự hoạt động
hợp pháp của Hội. Ngày 9/9, Hội khai giảng khóa học đầu tiên.
Tháng 11 - 1939, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng ra nghị
quyết chỉ rõ: “cứ mở rộng những tổ chức văn hóa như Hội Truyền bá quốc
ngữ, lớp dạy tối ”. Sang tháng 11/1940, Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương nhấn mạnh: “Cưỡng bách giáo dục tới bậc sơ học, thủ tiêu nạn
mù chữ” [29]. Nhờ có sự quan tâm của Đảng, đến trước tháng 8/1945, Chi hội
Truyền bá quốc ngữ được thành lập ở nhiều nơi.
Tóm lại, dưới ách thống trị của thực dân phong kiến, nhân dân ta bị kìm

hãm trong vòng ngu dốt, lạc hậu. Từ khi có ánh sáng của Đảng Cộng sản Việt
Nam rọi tới, cùng với quá trình tuyên truyền, giác ngộ về con đường đấu tranh
tự giải phóng, nhân dân ta từng bước được học hành, mở mang dân trí.
Cách tháng Tám năm 1945 thành công là một sự kiện vĩ đại trong lịch sử
dân tộc Việt Nam. Sau khi ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng
trước một tình thế hết sức hiểm nghèo. Bên cạnh giặc ngoại xâm, là “giặc
đói” “giặc dốt” do chế độ thực dân phong kiến để lại. Hơn 90% dân số
không biết chữ, các tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, nghiện hút và mê
tín dị đoan còn rất phổ biến.
Diệt “giặc dốt”, xóa nạn mù chữ đã trở thành một trong những nhiệm vụ
quan trọng của Nhà nước và nhân dân ta, nhằm giáo dục cho quần chúng nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


17

dân, đặc biệt là đông đảo quần chúng lao động, hiểu biết về tình hình đất nước
– để động viên lòng yêu nước, hun đúc ý chí xây dựng và bảo vệ chế độ mới.
Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ lâm
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra 6 việc cấp bách trước mắt cần giải quyết
ngay, trong đó vấn đề xóa nạn mù chữ Người nhận xét: “Muốn giữ vững nền
độc lập, làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết
quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham
gia vào công cuộc xây dựng kiến thiết nước nhà, và trước hết phải biết đọc,
biết viết chữ quốc ngữ ” [67; tr.8]. Một tuần lễ sau khi giành độc lập, ngày
8 tháng 9 năm 1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đã ban hành 4 sắc lệnh về vấn đề xóa mù chữ và Ban “Thanh tra học vụ”.
Sắc lệnh số 16/SL: Đặt ra trong toàn cõi Việt Nam ngạch “Thanh tra học
vụ” để kiểm soát việc học theo đúng chương trình giáo dục của Chính phủ
dân chủ cộng hòa. Ông Đặng Thai Mai là Tổng Thanh tra.

Sắc lệnh sô 17/SL: Thành lập Nha Bình dân học vụ, quy định rõ nhiệm
vụ của Nha này là chuyên lo việc học cho nhân dân.
Sắc lệnh số 19/SL: Quy định trong 6 tháng, làng nào và đô thị nào cũng
phải có ít nhất là một lớp học dạy được ít nhất 30 người.
Sắc lệnh số 20/SL: Việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không
phải mất tiền cho tất cả mọi người. Toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi
phải biết đọc và biết viết chữ quốc ngữ.
Các sắc lệnh của Chính phủ chứng tỏ việc chống nạn mù chữ trở thành
một chính sách lớn của Nhà nước, do Nhà nước tổ chức đảm nhiệm, có những
thể chế đảm bảo thực hiện, mà trước đây dưới chính quyền phong kiến, thực
dân không thể có được. Các Sắc lệnh trên có tác dụng làm thay đổi quan niệm
và nhận thức của các cấp chính quyền và đoàn thể nhân dân đối với các vấn
đề học chữ Quốc ngữ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

×