Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.21 KB, 17 trang )

TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI, SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC HY
LẠP CỔ ĐẠI
1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài
và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên trong
lịch sử chế độ chiếm hữu nô lệ.
Hy Lạp cổ đại trước đây là một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm phần đất
liền và vô số hòn đảo lớn nhỏ trên biển Egie, vùng duyên hải Ban căng và Tiểu Á.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng phát
triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá. Vì
vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người có dịp bay
bổng, để thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong lịch sử tư tưởng của nhân loại xứng đáng là chiếc nôi của nền văn minh Châu
Âu và của cả nhân loại. Đúng như Ph.Ăngghen nhận xét: “Không có chế độ nô lệ
thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp, không có
chế độ nô lệ thì không có đế quốc La Mã mà không có cái cơ sở là nền văn minh
Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết
quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác
dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa học tự
nhiên).
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để con
người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà còn là nơi thể
hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt của đời sống
thường ngày. Thần thoại là nơi đầu tiên để tư duy triết học ra đời và từng bước triết
học tách khỏi thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức, về xã hội, về lẽ
sống, về chân lý, về con người…
Những tinh hoa về toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường, lịch
pháp,…đã xuất hiện do nhu cầu buôn bán, vượt biển đến các nước phương Đông.
Vì vậy, các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cũng là những người đã nhiều lần


đến phương Đông và nhiều vùng đất khác.
Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất
yếu, đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại. C.Mác viết: “Các nhà
triết học không phải những cây nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm của thời đại
mình, dân tộc mình mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất và khó nhìn thấy
nhất đã được suy tư trong các khái niệm triết học”.
2. Sự hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Lịch sử triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại có thể chia làm ba thời kỳ. Xuyên
suốt ba thời kỳ ấy là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
mà đỉnh cao là cuộc đấu tranh giữa đường lối duy vật của Đê-mô-crít và đường lối
duy tâm của Pla-tôn.
Thời kỳ thứ nhất (thế kỷ VI tr.CN): Đây là thời kỳ chế độ chiếm hữu nô lệ
mới hình thành. Do sự phát triển của sản xuất, thế giới quan cũ có tính chất tôn
giáo, thần thoại dần dần nhường chỗ cho những hiểu biết khoa học về con người,
về vũ trụ. Trên cơ sở đó, triết học với tư cách là một khoa học bao quát mọi tri thức
(khoa học của khoa học) ra đời. Ba nhà triết học duy vật thuộc trường phái Mi-lê
(tên một đô thị cổ Hy Lạp) là Talét, Anaximăngđrơ và Anaximen cho rằng có
những thực thể vật chất đầu tiên, vĩnh viễn vận động tạo ra mọi vật trên thế giới.
Theo Talét đó là nước, theo Anaximăngđrơ đó là một thực thể vô định và vô hạn,
theo Anaximen đó là không khí. Hêraclít không thuộc trường phái nói trên, ông
cũng cho rằng bản nguyên của vũ trụ là lửa, lửa thông qua sự đấu tranh giữa các
mặt đối lập mà sinh ra vạn vật. Ngược lại, một số nhà triết học thuộc trường phái
Êlê (tên một đô thị cổ ở miền nam nước Ý) như Xênôphan, Pácmênít, Dênông và
trường phái Pitago lại có những quan điểm duy tâm, siêu hình về nguồn gốc vũ trụ.
Họ cho rằng, thế giới là một tồn tại bất động và bất biến (trường phái Êlê), con số
là bản nguyên của vũ trụ (trường phái Pitago).
Thời kỳ thứ hai (bắt đầu từ thế kỷ V. tr.CN): Đây là thời kỳ chế độ chiếm
hữu nô lệ phát triển đến hình thức cao và cũng là thời kỳ phồn vinh của triết học cổ
đại Hy Lạp. Thời kỳ này, đối tượng nghiên cứu của triết học được mở rộng sang
các vấn đề về kết cấu của vật chất, nhận thức luận và đời sống chính trị. Trong đó,

kết cấu của vật chất là vấn đề trung tâm của nhiều trường phái triết học. Theo
khuynh hướng duy vật. Ămpeđôclơ cho rằng, bản nguyên của vũ trụ không phải
chỉ là một thực thể riêng biệt (như trường phái Milê) mà là gồm 4 thực thể: đất,
nước, lửa, không khí. Anaxago lại cho rằng, mọi vật đều được cấu tạo từ hạt cực
nhỏ nhờ quá trình phân giải và đồng nhất của chúng. Đạt tới đỉnh cao nhất của chủ
nghĩa duy vật thời kì này là học thuyết về nguyên tử của Đêmôcrít. Theo ông, tất
cả mọi vật đều được cấu thành từ những nguyên tử. Nguyên tử là những phần tử
vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được, chúng vĩnh viễn vận động, không có
điểm kết thúc. Đối lập lại chủ nghĩa duy vật trên đây là chủ nghĩa duy tâm khách
quan của Platôn. Ông là đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại Hy
Lạp. Ông đã xây dựng học thuyết về ý niệm để chống lại chủ nghĩa duy vật. Theo
ông, giới tự nhiên bắt nguồn từ ý niệm. Dao động giữa đường lối duy vật của
Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Platôn là Arixtốt. Ông là một nhà triết học lớn,
bộ óc bách khoa thời cổ đại Hy Lạp - La Mã, nhưng là một nhà triết học không
triệt để. Một mặt, ông bác bỏ thuyết ý niệm của Platôn; mặt khác ông lại chủ
trương hình thức là bản chất của mọi sự vật, mà hình thức của mọi hình thức là tư
duy (hình thức thuần tuý).
Thời kỳ thứ ba (từ thế kỷ thứ III TCN): Đây là thời kỳ khủng hoảng và suy
vong của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp - La Mã. Cùng với sự suy tàn đó, nền
văn hoá mà nó sản sinh ra cũng suy tàn theo. Vào cuối thế kỷ này, chỉ còn Êpiquya
và học trò của ông là Lucơrexơ là tiếp tục đường lối duy vật của Đê-mô-crít. Triết
học Hy Lạp - La Mã cổ đại đã đặt ra hầu hết các vấn đề triết học mà người ta
thường thấy mối quan hệ của nó với các khuynh hướng, các trào lưu triết học sau
này. Trong những thành tựu triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại, học thuyết về nguyên
tử của Đêmôcrít, tư tưởng biện chứng của Hêraclít và lôgích học của Arixtốt là
những cống hiến xuất sắc đối với sự phát triển của tư tưởng triết học nhân loại.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học
Hy Lạp-La Mã cổ đại chứng tỏ rằng, ngay từ đầu, lịch sử triết học là lịch sử đấu
tranh giữa hai thế giới quan, hai phương pháp luận đối lập nhau. Cuộc đấu tranh ấy
phản ánh lợi ích của những tầng lớp, những giai cấp khác nhau trong xã hội có giai

cấp đối kháng.
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý
nhất của nhận thức nhân loại từ phương thức sản xuất thứ nhất đến phương thức
sản xuất thứ hai ở phương Tây vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề cơ bản
của thế giới quan và là một hệ thống tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con người,
mặc dầu chưa thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc nhưng cũng vô cùng phong
phú, muôn hình muôn vẻ…Ph. Ăngghen nhận xét như sau: “Chính vì trong các
hình thức muôn vẻ của triết học Hi Lạp đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết
tất cả các loại thế giới quan sau này”.
Đặc điểm thứ hai, triết học Hi Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người,
khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù vậy,
con người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở khía
cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, Triết học Hi Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và
biện chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy
nhất thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư
tưởng biện chứng của triết học Hi Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của
phép biện chứng.
III. MỘT SỐ TRIẾT GIA TIÊU BIỂU
1. HÊRACLIT (khoảng 540 – 475 TCN)
Ông xuất thân trong một gia đình quý tộc ở Ionia nhưng ông sống một cuộc
đời rất nghèo khổ và cô độc. Về cơ bản, ông là một nhà triết học duy vật và được
coi là ông tổ của phép biện chứng. Những tư
tưởng biện chứng của ông rất sâu sắc, tuy vậy
cách thức thể hiện lại rất phức tạp và khó hiểu vì
vậy ông thường được gọi là là nhà triết học tối
nghĩa.
a. Bản thể luận:
Hêraclit đã đứng trên lập trường duy vật cổ đại để giải quyết vấn đề “cơ sở

đầu tiên” của thế giới từ một dạng vật chất cụ thể. Ông cho rằng lửa chính là bản
nguyên của thế giới, là cơ sở duy nhất và phổ biến của tất cả mọi sự vật, hiện
tượng tự nhiên. Ông phát biểu rằng: “Tất cả đều trao đổi với lửa và lửa trao đổi với
tất cả như vàng thành hàng hoá và hàng hoá thành vàng”. Theo ông, mọi sự vật vật
chất đều phát sinh từ lửa. Dưới tác động của dạng lửa, đất trở thành nước và nước
trở thành không khí và ngược lại, tuỳ theo độ lửa mà mọi vật có thể chuyển hoá
từ trạng thái này sang trạng thái khác theo hai hướng: lửa - đất - nước - không khí
(là con đường đi lên) hoặc chuyển hoá đi xuống theo hướng ngược lại. Hêraclit cho
rằng vũ trụ không phải do một lực lượng siêu nhiên, thần bí nào sáng tạo ra mà nó
“mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh viễn đang không ngừng bừng cháy và tàn
lụi”. Trong quan niệm của ông, lửa không phải theo nghĩa thông thường mà là lửa
vũ trị, sản sinh ra các sự vật vật chất, hiện tượng tinh thần, kể cả linh hồn con
người.
Tuy chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống các luận điểm như sau này
nhưng phép biện chứng của Hêraclit đã đề cập tới hầu hết những luận điểm cốt lõi
của phép biện chứng dưới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca và triết lý.
Thứ nhất, ông quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Theo Hêraclit
không có sự vật, hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt đối mà trái lại, tất cả
đều ở trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại. Ông nói:
“Nước sinh ra từ cái chết của đất, không khí sinh ra từ cái chết của nước, lửa sinh
ra từ cái chết của không khí” và ngược lại; “chúng ta không thể tắm hai lần trên
cùng một dòng sông vì nước mới không ngừng chảy trên sông”; “ngay cả mặt trời
cũng mỗi ngày một mới”. Theo quan điểm về vận động của ông, lửa chính là gốc
của mọi sự thay đổi. Tất cả các dạng khác nhau của vật chất chỉ là trạng thái
chuyển hoá của lửa mà thôi. Ông đã nêu lên khá rõ nét về tính thống nhất của vũ
trụ: Vũ trụ là một ngọn lửa duy nhất.
Thứ hai, Hêraclit đã nêu lên tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu
thuẫn trong mọi sự vật hiện tượng. Điều đó thể hiện trong những phỏng đoán của
ông về vai trò của những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên, về
“sự trao đổi của những mặt đối lập”, về sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối

lập. Ông nói: “Cùng một cái ở trong chúng ta: sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già,
vì rằng cái này biến đổi thì thành cái kia và ngược lại”, “từ mọi vật sinh ra duy
nhất, từ duy nhất sinh ra mọi vật”, “mọi vật sinh ra qua đấu tranh”, “bệnh tật làm
cho sức khoẻ quý hơn, cái ác làm cho cái thiện cao quý hơn”. Như vậy, Hêraclit đã
có phỏng đoán về sự phân đôi của một cái thống nhất thành những mặt đối lập, bài
trừ nhau nhưng gắn liền với nhau về sự đấu tranh và thống nhất của những mặt đối
lập ấy. ở thời cổ đại, xét trong nhiều hệ thống triết học khác, không có tư tưởng
biện chứng sâu sắc như vậy. Đương thời, nhiều người gọi triết học của ông là “tối
nghĩa” nhưng chính những tư tưởng sơ khai của ông đã được các nhà biện chứng
cổ điển Đức kế thừa và các nhà sáng lập triết học macxit đánh giá cao.
Thứ ba, Hêraclit cho rằng sự vận động, phát triển không ngừng của thế giới
do quy luật khách quan (logos) quy định. Logos khách quan là trật tự khách quan
của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ, học thuyết, lời nói
và suy nghĩ của mọi người. Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan
nhưng nó biểu hiện ở từng người có khác nhau. Người nào càng tiến gần tới logos
khách quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu.
Với nội dung triết học được diễn đạt bằng hình ảnh là điểm mạnh đồng thời
cũng là hạn chế của Hêraclit. Điểm mạnh của việc diễn đạt khái niệm bằng hình
ảnh là cùng một lúc có thể thu tóm được các mặt đối lập, biểu diễn được cái chung
và cái riêng, gây được những ấn tượng trực quan sinh động, những mối liên tưởng
so sánh nhưng do tính chất đa nghĩa của nó, khó có thể diễn tả chính xác bản chất
của vấn đề vì vậy thường phải viện dẫn đến những nghịch lý, châm ngôn, một kiểu
làm quen thuộc của văn học chứ không phải triết học.
b. Nhận thức luận
Theo Hêraclit, nhận thức khởi đầu từ cảm tính thông qua các giác quan để
con người nhận thức các sự vật cụ thể. Ông cũng nhận thấy vai trò không giống
nhau giữa các giác quan trong nhận thức “mắt và tai là người thầy tốt nhất nhưng
mắt tốt hơn tai”.
Ông chia nhận thức thành hai cấp độ là nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính. Nhận thức cảm tính chỉ là sự tiếp cận với logos nhưng không chắc chắn. Ông

đề cao con đường đạt tới chân lý phải thông qua nhận thức lý tính.
Về nhân bản học: ông coi con người là sự thống nhất của hai mặt đối lập ẩm
ướt và lửa. Linh hồn của con người là biểu hiện của lửa. Lửa đưa con người đến
điều thiện, làm cho con người trở nên hoàn hảo, lửa là thôi thúc ở trong tim để
ngăn ngừa những cám dỗ vì chống lại khoái cảm còn khó hơn chống lại sự giận dữ.
Theo ông, hạnh phúc không phải là sự hưởng lạc về mặt thể xác thoả mãn dục
vọng mà ở chỗ phải biết vượt lên trên mình biết nói, biết suy nghĩ, hành động theo
logos. Quan niệm linh hồn là vật chất, là một trạng thái quá độ của lửa mặc dù sai
lầm nhưng giá trị triết học của nó nằm ở chỗ: Ông tìm bản chất của tinh thần không
phải là ở ngoài vật chất mà là ở chính thế giới vật chất, giá trị ấy có tính chất định
hướng cho sự tìm tòi bản chất đích thực của đời sống tinh thần.
Tóm lại, Hêraclit được xem là một trong những người sáng lập ra phép biện
chứng. Ông cũng là người đóng góp cho quan điểm duy vật thông qua việc khẳng
định thế giới được cấu thành từ các hạt vật chất, thế giới vật chất tồn tại độc lập
nhưng con người có thể nhận thức được. Mác và Ăng ghen coi ông là đại biểu xuất
sắc của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại, đồng thời hai ông cũng vạch rõ những hạn
chế, sai lầm của Hêraclit về mặt chính trị trong quan niệm phản dân chủ, thù địch
với nhân dân do ông chủ.
2. ĐÊMOCRIT (khoảng 460-370 TCN)
Đêmocrit là một nhà triết học kiệt xuất của triết học Hy Lạp cổ đại. Trong
bối cảnh của thời kỳ thứ hai trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, khi mà kết cấu
của vật chất là vấn đề trung tâm của nhiều trường phái triết học, thì học thuyết về
nguyên tử của Đêmocrit có thể nói đã đạt đến đỉnh cao nhất của chủ nghĩa duy vật
thời kỳ này. Bên cạnh đó thì những tư tưởng về vũ trụ học cũng như những lý luận
về nhận thức của Đêmocrit cũng được đánh giá là những đóng góp hết sức có ý
nghĩa đối với lịch sử triết học.
a. Bản thể luận
Đêmocrit đưa ra học thuyết nguyên tử khẳng định rằng nguyên tử là căn
nguyên, là cơ sở, nguồn gốc của thế giới vạn vật. Cả linh hồn cũng do nguyên tử
tạo ra. Ông cho rằng vật được sinh ra và tồn tại là do các nguyên tử liên kết tạo

thành, khi các nguyên tử phá vỡ liên kết thì vật mất đi, chuyển hóa thành vật khác.
Theo ông, nguyên tử là phần tử nhỏ bé không thể phân chia được nữa, mắt thường
không nhìn thấy được, nguyên tử tồn tại vĩnh viễn, không biến đổi thành cái khác.
Nguyên tử vận động không ngừng trong không gian và trong quá trình đó chúng va
chạm vào nhau, kết hợp với nhau sinh ra sự vật. Nguyên tử không màu, không mùi,
không vị, nó tồn tại vĩnh viễn, chỉ có sự vật do nó tạo ra mới biến đổi, chuyển hoá.
Thừa nhận vũ trụ là vô tận và vĩnh cửu, Đêmocrit cho rằng có vô số thế giới
vĩnh viễn phát sinh, phát triển và tiêu diệt. Những hành tinh xuất hiện và mất đi
một cách tự nhiên, không do thần thánh hoặc một ai tạo ra. Ông phỏng đoán rằng,
vận động không tách rời vật chất, đó là một phỏng đoán thiên tài. Theo ông, vận
động của những nguyên tử là vĩnh viễn, không có điểm kết thúc.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Đêmocrit nêu ra khái niệm không gian.
Theo ông, không gian là khoảng chân không rộng lớn, trong đó những nguyên tử
vận động vĩnh viễn. Không gian là những khoảng trống giữa các vật thể, nhờ đó
các vật thể có thể tụ lại hoặc giãn ra. Xuất phát từ học thuyết nguyên tử, Đêmmocit
cho rằng không gian là gián đoạn và có thể phân chia vô tận.
Những phán đoán trên đây về nguyên tử và không gian của Đêmocrit tuy
còn nhiều điểm hạn chế (hạt vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được), nhưng
nó đã khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, vũ trụ là vô cùng, vô tận. Hơn
nữa, mặc dù Đêmôcrít chưa giải thích được nguyên nhân của vận động, nhưng ông
đã gắn liền vận động với nguyên tử, và nó cũng vô cùng, vô tận như nguyên tử. Đó
là một đóng góp hết sức quan trọng đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên và
triết học duy vật.
Bên cạnh đó, đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa duy vật Đêmôcrit là quyết định
luận (thừa nhận sự ràng buộc theo luật nhân quả và tính quy luật của các hiện
tượng tự nhiên) nhằm chống lại mục đích luận (là quan điểm duy tâm cho rằng cái
thống trị trong tự nhiên không phải là tính nhân quả mà có tính mục đích). Sự thừa
nhận tính nhân quả, tính tất yếu và tính quy luật trong giới tự nhiên là một trong
những thành quả có giá trị nhất của triết học duy vật Hi Lạp cổ đại.
b. Nhận thức luận

Theo ông, nhận thức của người ta bắt nguồn từ cảm giác. Nhờ sự vật tác
động vào các giác quan mà ta có cảm giác về chúng. Những cảm giác này có nội
dung chân thật, nhưng không đầy đủ, không sâu sắc, nó chỉ là sự phản ánh cái vỏ
bên ngoài của sự vật, chưa phản ảnh được bản chất của sự vật. Bởi vì, nó chỉ phản
ánh được mùi vị, âm thanh, mầu sắc, hình dáng của sự vật, mà không phản ánh
được nguyên tử và chân không. Hơn nữa, mọi nguyên tử đều giống nhau về chất,
bản thân chúng không có mùi vị, mầu sắc, âm thanh và không trông thấy được. Bởi
vậy, những cảm giác này chỉ là chủ quan của con người. Theo ông, muốn nhận
thức được nguyên tử và chân không, tức là muốn nhận thức bản chất của sự vật,
con người ta không được dừng lại ở cảm giác, mà phải biết quy nạp, so sánh, phán
đoán, tức là phải đẩy tới nhận thức lý tính. Do đó, ông chia nhận thức làm hai
dạng: dạng nhận thức "mờ tối"(nhận thức cảm tính) và dạng nhận thức “trí tuệ”.
Theo ông, dạng nhận thức thứ hai là chủ yếu, đáng tin cậy hơn.
Mặt tích cực trong quan điểm trên đây là ở chỗ, ông coi đối tượng của nhận
thức là thế giới khách quan do nguyên tử và chân không tạo ra. Tuy chưa nhận
thức được sự chuyển hoá giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, nhưng ông
đã thấy được vị trí của từng dạng nhận thức, đặc biệt là nhận thức lý tính. Song mặt
hạn chế trong quan niệm này là ở chỗ, ông coi các thuộc tính khách quan của sự
vật như âm thanh, mùi vị, mầu sắc chỉ là những quy ước chủ quan của con người.
Hạn chế này đã mở đường cho những quan niệm duy tâm cho rằng chất tách rời sự
vật, chất có trước và chất có sau của sự vật.
Từ chỗ coi trọng vai trò của nhận thức lý tính, Đêmôcrít đã có một công lao
to lớn nữa đối với triết học, đó là lôgíc học (Tác phẩm "Bàn về lôgíc học" (Canon);
tác phẩm này đã bị thất lạc, người ta chỉ biết về nó một cách gián tiếp qua lời của
Arixtốt, Platôn). Theo đó thì ông đã nêu ra nhiều vấn đề về lôgíc học như định
nghĩa khái niệm, phương pháp so sánh, quy nạp, giả thiết.v.v, trong đó phương
pháp quy nạp có vị trí nổi bật. Arixtốt đã coi Đêmôcrít là tiền bối của mình về
lôgíc học, là người đầu tiên nghiên cứu lôgíc của khái niệm, lôgíc quy nạp.
Về nhân bản học: Theo ông, linh hồn không phải là cái siêu vật chất, mà là
cái bản nguyên bằng lửa trong cơ thể; nó cũng được cấu tạo từ các nguyên tử hình

cầu giống như lửa và có tốc độ vận động lớn hơn các nguyên tử khác. Sự sống và
con người không phải do thần thánh tạo ra mà là kết quả của quá trình biến đổi của
chính tự nhiên, được phát sinh từ những vật thể ẩm ướt dưới tác động của nhiệt độ.
Theo ông, con người là một loại động vật, nhưng về khả năng có thể học được bất
kỳ cái gì nhờ có tay chân, cảm giác và năng lực trí tuệ trợ giúp. Đêmôcrit đứng trên
lập trường vô thần phủ nhận thượng đế và thần linh; Ông cho rằng sở dĩ con người
tin vào thần thánh là vì con người bất lực trước những hiện tượng khủng khiếp của
tự nhiên. Theo ông, thần thánh chỉ là sự nhân cách hoá những hiện tượng tự nhiên
hay là những thuộc tính của con người. Thí dụ, mặt trời mà tôn giáo Hi Lạp đã thần
thánh hoá thì ông cho đó chỉ đơn thuần là một khối lửa.
Tóm lại, triết học Đêmôcrít là sự kế thừa và phát triển lên một trình độ cao
các quan điểm duy vật (của trường phái Milê) và tư tưởng biện chứng (của
Hêraclít) trước đó, đưa triết học của ông trở thành đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật
thời cổ đại. Sau này, Êpiquya và Lucơrexơ đã khắc phục những hạn chế của ông và
phát triển học thuyết nguyên tử hơn nữa. Lơxíp, Đêmôcrít, Êpiquya trở thành
những tên tuổi đại biểu cho phái nguyên tử luận thời cổ đại Hy Lạp - La Mã.
3. PLATÔN (427-347 TCN)
Platôn là người đầu tiên xây dựng hệ thống hoàn
chỉnh của chủ nghĩa duy tâm khách quan, đối lập với
thế giới quan duy vật. Ông đã tiến hành đấu tranh gay
gắt chống lại chủ nghĩa duy vật, đặc biệt là chống lại
những đại biểu của chủ nghĩa duy vật thời bấy giờ như
Hêraclit, Đêmôcrit.
a. Bản thể luận
Học thuyết triết học của ông dựa trên tiền đề lý luận về cái phổ biến của
Xôcrat, lý luận về tồn tại duy nhất bất biến của trường phái Êlê và lý luận về con
số của phái Pitago. Ông xem nhẹ vai trò của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hoá vai
trò của nhận thức lý tính, của khái niệm. Ông chia thế giới làm hai loại: Thế giới ý
niệm (là thế giới tồn tại chân thực, bất biến, vĩnh viễn, tuyệt đối, là cơ sở tồn tại
của thế giới các sự vật cảm tính, nó có trước giới tự nhiên, sinh ra giới tự nhiên và

nằm ngoài con người.) và thế giới của các sự vật cảm tính (là thế giới tồn tại không
chân thực, thường xuyên biến đổi, phụ thuộc vào thế giới ý niệm, do các ý niệm
sản sinh ra).
Khác với các nhà triết học duy vật, Platon không xuất phát từ vật chất để
giải thích nguồn gốc của thế giới, ông không khẳng định thế giới này là thế giới vật
chất và duy nhất. Theo ông, thế giới ý niệm là nguyên mẫu, nó có trước và thế giới
vật chất là cái được sinh ra, nó là thế giới cảm tính. Thế giới vật chất chẳng qua là
cái bóng, là sự mô phỏng, bắt chước thế giới ý niệm, thế giới ý niệm quyết định thế
giới vật chất, không có thế giới ý niệm thì không có thế giới vật chất. Cũng từ đây,
Platon đã đưa ra hai khái niệm: tồn tại (là thế giới ý niệm) và không tồn tại (là thế
giới các sự vật cảm tính). Ông đã lấy ví dụ về cái hang để minh hoạ cho quan điểm
duy tâm khách quan của mình: Có một đoàn người đi qua cửa một cái hang tối và
qua ánh ánh sáng mặt trời chiếu vào, người ta chỉ nhìn thấy bóng của đoàn người
đó in trên vách hang. Ông cho rằng, thế giới các sự vật hiện tượng chỉ là cái bóng
in trên vách hang còn thế giới ý niệm mới chính là đoàn người thực đi ở bên ngoài
cửa hang.
Như vậy, khi giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, Platon cho
rằng ý niệm là cái có trước, là nguyên nhân, là bản chất của sự vật. Còn sự vật chỉ
là cái có sau, là cái bắt chước, cái mô phỏng, là bản sao của ý niệm.
b. Nhận thức luận
Từ cách giải quyết duy tâm khách quan như trên về bản thể luận, khi nói về
nhận thức luận, Platon cũng rơi vào quan niệm duy tâm, thần bí về linh hồn. Theo
ông, linh hồn gồm 3 bộ phận: xúc cảm (chết cùng thân xác), cảm tính (chết cùng
thân xác) và lý tính (trí tuệ - không chết cùng thân xác).
Platon quan niệm thể xác của con người được cấu tạo từ đất, nước, lửa,
không khí và thể xác chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn. Linh hồn của con
người là sản phẩm của linh hồn vũ trụ được Thượng đế tạo ra từ lâu. Sau khi được
tạo ra, mỗi linh hồn trú ngụ ở một vì sao trên trời, sau đó dùng cánh bay xuống trần
gian và nhập vào thể xác con người. Khi nhập vào thể xác con người thì nó quên
hết mọi quá khứ, do đó nhận thức của con người không phải là sự phản ánh thế

giới vật chất mà là sự hồi tưởng của linh hồn bất tử, hồi tưởng lại những gì mà linh
hồn bất tử đã quên đi khi nằm trong thế giới ý niệm. Linh hồn bất tử vốn thuộc về
thế giới ý niệm, khi đó nó biết hết tất cả những gì thuộc về thế giới ý niệm nhưng
vì thế giới ý niệm luôn vận động nên linh hồn bất tử vận động xuống mặt đất, nhập
vào con người, biến con người từ một thực thể bất động vô tri, vô giác thành một
cơ thể năng động và có tri giác. Nhưng cũng từ đó linh hồn bất tử quên hết những
gì biết được ở thế giới ý niệm, khi nó hồi tưởng những gì đã biết thì tạo ra sự nhận
thức. Tóm lại, Platon đã quy toàn bộ quá trình nhận thức thành quá trình hồi tưởng
của linh hồn bất tử, rất thần bí.
Đồng thời, Platon chia nhận thức thành 2 dạng: nhận thức mờ nhạt (do nhận
thức cảm tính tạo ra, không đạt được chân lý) và nhận thức chân lý (do nhận thức
lý tính tạo ra). Ông cho rằng nhận thức cảm tính có sau nhận thức lý tính, nhận
thức cảm tính không phải là nguồn gốc của tri thức chân thực, mà tri thức chân
thực - nhận thức ý niệm - chỉ có thể đạt được bằng nhận thức lý tính và thể hiện
trong khái niệm.
Quan niệm này của Platon có một số yếu tố hợp lý khi ông đề cao vai trò của
tư duy, sự tác động trở lại của tư duy đối với vật chất nhưng do ông đề cao quá
theo hướng tuyệt đối hoá nên trở thành duy tâm; đồng thời khi thừa nhận linh hồn
bất tử biết hết mọi điều trong thế giới ý niệm là ông đã khẳng định con người có
khả năng nhận thức hoàn toàn về thế giới.
Platon là một trong những nhà triết học xuất sắc nhất trong nền triết học Hy
Lạp cổ đại, là một trong những đại biểu của triết học duy tâm trong lịch sử triết
học, là một trong những bộ óc bách khoa của Hy Lạp cổ đại. Hệ thống triết học của
ông đề cập đến nhiều học thuyết như ý niệm, nhận thức luận và dù cho còn có
hạn chế nhưng ông là người có công lớn trong việc nghiên cứu các vấn đề về ý
thức xã hội, đặt nền tảng cho việc xây dựng các khái niệm, phạm trù và tư duy lý
luận.
4. ARIXTỐT (384 - 322 TCN)
Arixtôt là một trong những nhà triết học xuất sắc nhất của Hy Lạp cổ đại, là
một đại diện tiêu biểu của trào lưu triết học nhị nguyên. Ông là một trong hai nhà

bách khoa toàn thư của Hy Lạp cổ đại, là học trò của Platôn và là một trong những
người sáng lập và giảng dạy tại Viện Hàn lâm Aten, ông từng làm gia sư cho
vương triều Maxêđoan. Cống hiến nổi bật của Arixtốt là ông đã phê phán một cách
cặn kẽ học thuyết về ý niệm của Platôn, đã đặt nền móng cho khoa học lôgíc thời
cổ đại. Nhưng vì dao động giữa hai đường lối duy vật và duy tâm, nên triết học của
ông mang tính chất chiết trung, không triệt để.
a. Bản thể luận
Arixtốt là học trò xuất sắc của Platôn, nhưng chính ông lại nhận ra sai lầm
của thầy học mình về học thuyết ý niệm. Sai lầm của Platôn là ở chỗ, ông đã tách
rời bản chất khỏi cái có bản chất đó, và biến ngay cái chung (khái niệm) thành cái
riêng bên cạnh thế giới cảm tính, quyết định thế giới cảm tính. Nghĩa là, Platôn đã
biến những khái niệm được hình thành trong quá trình nhận thức thành một thế
giới riêng biệt, siêu cảm giác, tồn tại một cách độc lập đối với những sự vật được
phản ánh.
Như vậy, một là, thế giới của các ý niệm (khái niệm) là tồn tại tối cao, còn
thế giới các sự vật cảm tính chỉ là một tồn tại cấp thấp. Hai là, nếu thế giới các ý
niệm độc lập và tách rời thế giới các sự vật cảm tính, thì các khái niệm, phạm trù
chẳng có vai trò gì đối với nhận thức cả. Ba là, nếu cho rằng thế giới của các ý
niệm là độc lập đối với các sự vật, nhưng các sự vật lại là cái bóng, là bản sao của
ý niệm, thì rõ ràng là tự mâu thuẫn với mình, vì như thế là chúng có chỗ tương
đồng. Sự phê phán trên đây của Arixtốt đối với thuyết ý niệm của Platôn đã vạch ra
một cách tài tình căn nguyên nhận thức luận của chủ nghĩa duy tâm nói chung.
Theo Arixtốt, bản chất tồn tại (chứa đựng) ngay trong bản thân sự vật.
Những bản chất này được nhận thức của con người khái quát thành những cái
chung, cái phổ biến dưới dạng, các khái niệm, các phạm trù, các quy luật. Vì vậy,
không phải khái niệm phạm trù, quy luật là cái có trước, sinh ra sự tồn tại của sự
vật, mà ngược lại. Trong tác phẩm "Các phạm trù", Arixtốt khẳng định: "Khái
niệm không bao giờ lại là nguyên nhân của sự tồn tại của sự vật, mà sự vật, có thể
gọi là nguyên nhân chân chính của khái niệm". Quan niệm đó được Lênin đánh giá
là đã tiến sát đến chủ nghĩa duy vật.

Trên cơ sở phê phán học thuyết ý niệm của Platôn, Arixtốt đã xây dựng hệ
thống triết học riêng của mình, ông thừa nhận giới tự nhiên tồn tại một cách khách
quan với những sự vật hết sức đa dạng. Vật lý học nghiên cứu các dạng tồn tại cụ
thể của nó; ông coi đây cũng là triết học, nhưng là "triết học thứ hai". Siêu hình
học nghiên cứu bản chất của tồn tại nói chung và được ông coi là "triết học thứ
nhất".
Khi giải thích về bản chất của tồn tại, của sự vật, ông thường đặt các câu hỏi
(vì sao, vì cái gì) để giải thích nguyên nhân tồn tại của chúng. Từ đó ông đưa ra 4
nguyên nhân của tồn tại nói chung: Nguyên nhân vật chất, nguyên nhân hình dạng,
nguyên nhân vận động, nguyên nhân mục đích. Ví dụ, cái nhà mà có được, là nhờ
vật liệu (vật chất), hình thức của nó (hình dạng), hoạt động của thợ (vận động), nhà
để ở (mục đích). Trong những nguyên nhân ấy, nguyên nhân thứ nhất và thứ hai là
cơ bản, trong đó, nguyên nhân hình dạng là cái quyết định, là cái bản chất của sự
vật. Thí dụ, bức tượng bằng đồng, cái chén bằng bạc. Đồng và bạc chỉ là vật liệu
tham gia vào sự vật, còn cái quyết định là hình dạng. Sở dĩ nó là bức tượng, cái
chén, vì nó có hình dáng bức tượng, hình dáng cái chén. Nếu ta đem đồng và bạc
làm cái khác thì nó không còn là bức tượng, cái chén nữa. Và theo ông, hình thức
của mọi hình thức là tư duy, là lý tính, sự suy nghĩ, là thượng đế. Quan niệm trên
đây của Arixtốt cho thấy ông đã dao động, do dự giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm, hoà nhập vào thần học, trở lại gần gũi với Platôn, thầy học của ông.
Về vấn đề linh hồn, Arixtốt cho rằng con người có phần linh hồn và phần thể
xác, tựa như mỗi sự vật đều được hình thành từ vật chất và hình thức. Ông phê
phán Platôn xem “thể xác chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn bất tử ". Theo
ông, linh hồn không có trong cơ thể chết; không thể có linh hồn nếu không có vật
chất. Nhưng ông lại chia linh hồn làm 3 loại: linh hồn thực vật có hoạt động nuôi
dưỡng và sinh sản; linh hồn động vật có khả năng cảm ứng với môi trường xung
quanh; linh hồn con người có hoạt động lý tính, đây là loại linh hồn cao nhất.
Trong con người có cả ba loại linh hồn nói trên. Khi người ta chết, riêng linh hồn
lý tính còn tồn tại bất diệt. Quan niệm về linh hồn như trên chứng tỏ rằng Arixtốt
là nhà triết học không triệt để, vừa phê phán Platôn, vừa kế thừa quan điểm duy

tâm của Platôn.
b. Nhận thức luận
Lý luận về nhận thức của Arixtốt là đỉnh cao của sự phát triển các tư tưởng
về nhận thức luận thời cổ đại Hy Lạp chứa đựng nhiều tư tưởng hợp lý và nhiều
yếu tố duy vật.
Khác với Platôn coi ý niệm là đối tượng của nhận thức, ông khẳng định rằng
thế giới khách quan là đối tượng của nhận thức, là nguồn gốc của kinh nghiệm; tự
nhiên là tính thứ nhất, tri thức là tính thứ hai. Theo ông, mọi tri thức đều bắt nguồn
từ cảm giác về những sự vật đơn nhất được khái quát lại mà có. Ông kịch liệt phê
phán quan niệm của Platôn coi nhận thức chỉ là sự hồi tưởng của linh hồn. Ông
khẳng định rằng, nhận thức của con người không có tính chất bẩm sinh, linh hồn
con người khi mới sinh ra hoàn toàn không có tri thức, nó tựa như một tấm bảng
sạch chưa có vết phấn (nguyên lý Tabula rasa).
Theo ông, đối tượng của nhận thức là ở bên ngoài con người, quá trình nhận
thức là quá trình phản ánh đối tượng bên ngoài ấy và trải qua nhiều cấp độ từ thấp
đến cao, chưa hoàn thiện đến hoàn thiện theo trình tự : Cảm giác, biểu tượng, kinh
nghiệm, nghệ thuật, khoa học. Ông coi cảm giác là khởi nguồn của mọi nhận thức,
khoa học là cấp độ cao nhất của quá trình nhận thức. Từ đó ông chia ra hai cấp độ
nhận thức: cấp thấp (bao gồm các khoa học cụ thể), cấp cao (bao gồm triết học và
toán học), đây là đóng góp của ông trong phân loại các khoa học. Điều hợp lý
trong nhận thức luận của ông còn do ông khẳng định: Mọi tri thức của con người
đều do những hiểu biết về mọi mặt khách quan bên ngoài của sự vật. Ông đã đặt ra
những vấn đề hệ trọng về nhận thức luận, như các vấn đề: đối tượng của nhận thức,
khả năng nhận thức của con người, vấn đề chân lý và khoa học về tư duy. Điểm
đặc sắc trong lý luận nhận thức của ông là phương pháp suy luận ba bước (tam
đoạn luận) của lôgíc hình thức.
Ông là người có quan niệm rành mạch về quá trình nhận thức đi từ cảm tính
đến lý tính. Tuy hết sức coi trọng nhận thức cảm tính, nhưng theo ông nhận thức
cảm tính không có khả năng đi sâu vào bản chất của sự vật. Nếu chỉ bằng cảm giác,
con người ta không thể nắm được định lý về tổng các góc của một tam giác bằng

hai góc vuông và không giải thích được các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực. Vì
vậy, để đạt đến chân lý, nhận thức phải đi từ cảm tính đến lý tính. Đó là quá trình
đi từ những cảm giác đơn lẻ, ngẫu nhiên đến cái chung, cái phổ biến, cái bản chất
dưới dạng khái niệm, phạm trù, quy luật. Nhưng như đã nói ở trên, ông đã tuyệt
đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, coi lý tính là hình thức của mọi hình thức,
quyết định bản chất của sự vật.
Trên con đường tư duy lý tính, Arixtốt rất quan tâm đến phương pháp tư
duy: theo ông, cái được coi là chân lý phải là cái phù hợp giữa tư tưởng và thực tế.
Muốn vậy, mọi tư duy đáng tin cậy phải được diễn đạt chính xác, có nội dung đáng
tin cậy và vững chắc. Từ đó, ông đã nêu lên những nguyên tắc rất cơ bản để xây
dựng khái niệm, phạm trù. Ông cũng đã nêu lên những quy luật cơ bản của tư duy
logíc (quy luật đồng nhất, quy luật cấm mâu thuẫn trong tư duy, quy luật loại trừ
cái thứ ba). Ông đã nêu lên phương pháp suy luận ba bước (tam đoạn luận). Trong
đó, kết luận được rút ra từ hai tiền đề đã có (Nếu A thuộc B, B thuộc C, thì A thuộc
C. Ví dụ: Đồng là kim loại, mọi kim loại đều dẫn điện, vậy đồng cũng dẫn điện).
Tuy mới đề cập được một số nguyên tắc của tư duy lôgíc, nhưng ông được coi là
người sáng tạo ra lôgíc hình thức cổ điển. Những nguyên tắc lôgíc học của ông, sau
này được Bêcơn, Đềcác và các nhà triết học cổ điển Đức kế thừa và phát triển lên
một trình độ cao hơn.
Tóm lại: Arixtốt là nhà triết học vĩ đại nhất của Hy Lạp cổ đại. Ph. Ăngghen
đã gọi ông là con người có “ khối óc toàn diện nhất”. Còn C. Mác đã đánh giá: “
tư tưởng thâm thúy của Arixtốt vạch ra những vấn đề trừu tượng nhất một cách
thật đáng kinh ngạc ” Tư tưởng của ông có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển
của triết học và khoa học tự nhiên sau này.
**
*
Như vậy, nét nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại là đã đặt ra hầu hết các vấn
đề cơ bản của triết học mà sau này các học thuyết triết học khác sẽ từng bước giải
quyết theo nội dung của thời đại mình, nó bao chứa mầm mống của tất cả thế giới
quan về sau này. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,

giữa phép biện chứng và phép siêu hình được thể hiện rất rõ. Những thành tựu triết
học cơ bản của nó xứng đáng ghi một mốc son trong lịch sử triết học của loài
người.

×