Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

KINH NGHIỆM TÁI CẤU TRÚC NGÂN HÀNG CỦA THẾ GIỚI: (HOA KỲ, HÀN QUỐC, TRUNG QUỐC,…) VÀ HÀM Ý CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.43 KB, 44 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG

BÀI TẬP TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI SỐ 6:
KINH NGHIỆM TÁI CẤU TRÚC NGÂN
HÀNG CỦA THẾ GIỚI: (HOA KỲ, HÀN
QUỐC, TRUNG QUỐC,…)
VÀ HÀM Ý CHO VIỆT NAM
Nhóm thực hiện: Nhóm 31
Giảng viên: Nguyễn Thị Hai Hằng
TP.HỒ CHÍ MINH, năm 2013
DANH SÁCH NHÓM
Họ và tên: MSSV
Huỳnh Quang Huy K094040554
Nguyễn Khắc Thạch K094040596
Đỗ Huỳnh Khải Tú K094040627
MỤC LỤC
Đề tài 6 Trang 4
1. Tổng quan về tái cấu trúc ngân hàng nói chung và tại Việt Nam
1.1. Khái niệm tái cấu trúc NH:
Khu vực ngân hàng là một thành phần quan trọng của nền kinh tế, vì vậy việc tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng phải
được
nhìn nhận trên
phương
diện tổng thể. Nội dung và
trọng tâm trong tái cấu trúc khu vực ngân hàng không chỉ cần
được
xem xét từ góc độ vi
mô (từng ngân hàng), mà còn cả từ góc độ vĩ mô (nhà


nước,
chính phủ, nền kinh tế), theo
chiều sâu (theo dõi trên từng bước đi) và trên diện rộng (toàn bộ hệ thống ngân hàng).
Trước
hết, tái cấu trúc, theo nghĩa hẹp,
được
hiểu là quá trình tổ chức lại một tổ
chức nhằm tạo ra “trạng thái” tốt hơn cho tổ chức đó để thực hiện những mục tiêu đề
ra. Một chương trình tái cấu trúc có thể diễn ra một cách toàn diện trên hầu hết các
lĩnh vực
như
cơ cấu tổ chức, nguồn nhân lực, cơ chế quản lý, điều hành; các hoạt động
và các quá trình; các nguồn lực khác của tổ chức tái cấu trúc. Tái cấu trúc cũng có thể
được
triển khai một phần tại một hay nhiều mảng trong tổ chức
như
tài chính, nhân sự,
sản xuất… nhằm đạt mục tiêu là nâng cao “thể trạng” của bộ phận đó.
Suy rộng cho một hệ thống có nhiều tổ chức, tái cấu trúc là sắp xếp, tổ chức lại cơ
cấu thành phần các tổ chức trong hệ thống, hoặc thay đổi cách quản lý, cách hoạt động
của các tổ chức bộ phận nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động, thực hiện những mục
tiêu thống nhất của hệ thống.
Theo Margery Waxman et al. 1998, WB, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là các
gói giải về thể chế, tài chính và pháp lý nhằm cứu vãn những ngân hàng phá sản và khôi
phục hệ thống ngân hàng trở lại hoạt động bình thường.
Theo Claudia Dziobek và Ceyla Pazarbasioglu 1998, IMF, tái cấu trúc hệ thống
ngân hàng nhằm mục đích cải thiện hiệu quả của ngân hàng, có nghĩa là phục hồi khả
năng thanh toán và lợi nhuận, nâng cao năng lực của hệ thống ngân hàng để thực hiện
chức năng trung gian tài chính giữa người gửi tiết kiệm và người đi vay, đồng thời
khôi phục lòng tin của công chúng.

Dù diễn đạt theo cách nào thì có thể thấy việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
liên quan đến việc thay đổi, sửa chữa các sai lầm trong cấu trúc hệ thống ngân hàng,
đưa
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 5
hệ thống vào cơ chế hoạt động hợp lý và có hiệu quả; làm tăng khả năng tiếp cận của
người
dân và doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với các dịch vụ
của ngân hàng, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển lành mạnh của hệ thống nói
riêng và của cả nền kinh tế nói chung.
Như
vậy, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là một quá trình lâu dài, bao gồm nhiều
biện pháp pháp lý, thể chế và tài chính
được
triển khai theo từng
bước,
từ những biện
pháp khẩn cấp lấy lại lòng tin, đảm bảo thanh khoản đến việc tạo dựng những cơ chế xử
lý những ngân hàng đổ vỡ và giải quyết tài sản tồn đọng. Đối
tượng
của việc tái cơ cấu
có thể là cả hệ thống ngân hàng hoặc cá thể các ngân hàng ở tất cả các loại hình
như
ngân hàng nhà nước (NHNN), ngân hàng thương mại (NHTM), ngân hàng có vốn đầu
tư trong
nước,
ngân hàng có vốn đầu
tư nước
ngoài…
Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng nếu có kế hoạch khả thi và

được
thực hiện tốt có
thể giúp hệ thống ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn, tăng lòng tin của
người
dân và nhà
đầu tư, tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trên thế giới, mang lại động lực
cho quá trình tái cấu trúc của cả nền kinh tế (thực chất là cải cách và đổi mới), góp
phần vào quá trình tăng trưởng bền vững cho quốc gia. Tuy vậy, sự thay đổi có tầm
ảnh
hưởng
quyết định đến sự thành bại của tái cấu trúc hệ thống ngân hàng lại nằm ở
phía Chính phủ nói chung và Ngân hàng trung
ương
(NHTW) nói riêng, mà đôi khi
việc thực hiện sao cho đúng đắn mang lại kết quả như mong muốn lại không hề đơn
giản.
Để thuận tiện hơn trong việc trình bày và theo dõi, trong phần sau của đề tài, thuật
ngữ “tái cấu trúc hệ thống ngân hàng”
được
viết gọn thành “tái cấu trúc”.
1.2. Nguyên nhân tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
Một nền kinh tế chỉ có thể khỏe mạnh khi
được
sự hỗ trợ của một hệ thống ngân
hàng khỏe mạnh.
Trước
diễn biến của khủng hoảng tài chính toàn cầu và các khó khăn
nội tại của nền kinh tế thì việc tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng một cách toàn diện
là việc làm cần thiết. Nếu hệ thống ngân hàng rơi vào khủng hoảng sẽ kéo theo nguy cơ
khủng hoảng kinh tế xã hội hoặc một ngân hàng lớn bị rơi vào khủng hoảng có nguy

cơ lan rộng ra toàn hệ thống. Nền kinh tế của một quốc gia khó có thể phát triển ổn
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 6
định và lành mạnh khi hệ thống ngân hàng tiềm ẩn nhiều bất ổn và hoạt động kém hiệu
quả.
Nhu cầu tái cấu trúc trở nên cần thiết khi hiện trạng của các ngân hàng gặp phải
nhiều vấn đề trong cơ cấu, hoạt động khiến ngân hàng hoạt động không hiệu quả; thậm
chí trì trệ, vốn yếu, thiếu hụt thanh khoản và chất
lượng
tài sản suy giảm đứng
trước
nguy cơ tan rã, phá sản,… những vấn đề trên xuất phát từ những yếu kém nội tại
của hệ thống ngân hàng. Nhiều nguyên nhân là do cơ cấu sai, không hợp lý, kém hiệu
quả, cụ thể: không xác định
được
chiến lược và kế hoạch, đội ngũ lãnh đạo làm việc
không hiệu quả, cơ cấu tài chính
chưa
phù hợp,
chưa
chuẩn mực và thiếu các hệ thống,
công cụ kiểm soát rủi ro cần thiết, quản trị nguồn nhân sự yếu kém, sự phối hợp hoạt
động không hiệu quả do cơ cấu
chưa
hợp lý, hoặc tính yếu kém của hệ thống ngân
hàng…
Ví dụ
như
sự phát triển nhanh chóng, dễ dãi trong việc thành lập ngân hàng cũng
nh

ư
việc mở rộng mạng
lưới
chi nhánh, các ngân hàng không có đủ lực
lượng
quản lý
được đào tạo bài bản về quản trị ngân hàng, điều này dễ dẫn đến các vụ lừa đảo, thất
thoát tài sản; đặc biệt, tình trạng thiếu minh bạch trong báo cáo tài chính bao gồm giấu
hoặc chuyển lỗ, không hạch toán đúng chi phí dự phòng tín dụng, đúng các khoản chi
phí và thu nhập… gây sức ép lên nền kinh tế, buộc chính phủ phải tìm cách tái cơ
cấu hệ thống ngân hàng thông qua tái cơ cấu các ngân hàng và các định chế tài chính.
Nếu không sàng lọc và tái cấu trúc sớm, các vụ đổ vỡ hàng loạt trong hệ thống TCTD
có thể xảy ra và sẽ khó kiểm soát.
Bên cạnh đó còn các yếu tố từ các chính sách điều tiết kinh tế mang tính chất vĩ
mô kém hiệu quả, khả năng dự báo yếu dẫn đến việc điều tiết không kịp thời; các quy
định về chính sách sai lệch, không chặt chẽ cũng sẽ làm cho hệ thống ngân hàng hoạt
động không hiệu quả. Ví dụ như khi nền kinh tế tăng trưởng cao, nếu chính phủ
khuyến khích các ngân hàng gia tăng tín dụng để mà không có chính sách kiềm chế hợp
lý thì điều này sẽ dẫn đến các ngân hàng dễ dãi trong việc cho vay dẫn đến tăng tỷ lệ nợ
xấu và nợ không hiệu quả (NPL), gây ra mất thanh khoản cho ngân hàng, từ đó có thể
ảnh
hưởng
đến toàn hệ thống.
Ngoài ra việc tái cơ cấu cũng bắt nguồn từ vấn đề mang tính bắt buộc để phù hợp
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 7
với xu hướng phát triển; ví dụ như xu hướng thay đổi cơ cấu tổ chức của hệ thống
ngân hàng trong xu hướng hội nhập đó là chuyển dần cơ cấu ngân hàng quốc doanh
sang ngân hàng dân doanh.
1.3. Mục tiêu tái cấu trúc hệ thống ngân hàng

1.3.1. Các mục tiêu ngắn hạn và trung hạn:
Thứ nhất, duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng, đảm bảo khả năng thanh
khoản, chi trả và hoạt động của các trung gian tài chính không bị đình trệ. Đây là mục
tiêu cơ bản nhất của việc tái cấu trúc nhằm bảo đảm tính ổn định trong hoạt động của hệ
thống ngân hàng và của cả nền kinh tế.
Thứ hai, giải quyết các vấn đề một cách kịp thời nhằm ngăn ngừa sự lây lan hoặc
các vấn đề mang tính hệ thống.
Thứ ba, khôi phục lại niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng. Khi hệ
thống ngân hàng
được
cơ cấu lại, tính thanh khoản của cả hệ thống ổn định, mức độ tín
nhiệm của ngân hàng
được
nâng cao sẽ tạo lòng tin của các thành phần kinh tế đối với
hệ thống ngân hàng.
Thứ tư, tối thiểu hóa chi phí tái cấu trúc đối với NHTW, bảo hiểm tiền gửi hay
chính phủ. Song song với những mục tiêu củng cố sức mạnh cho hệ thống ngân hàng thì
việc tái cơ cấu cũng nhằm mục đích giảm thiểu tới mức nhỏ nhất các chi phí liên quan
đến NHTW, bảo hiểm tiền gửi hay chính phủ, để mang lại hiệu quả cao nhất cho quá
trình tái cấu trúc.
1.3.2. Các mục tiêu dài hạn:
Thứ nhất, tạo ra một khuôn khổ quản lý nhà nước mới, phát triển
ph
ư
ơng
cách
quản trị theo hướng phù hợp hơn với chuẩn mực quốc tế, ngày càng đáp ứng đầy đủ
các yêu cầu của nền kinh tế. Theo đó, cần phải bảo đảm các nguyên tắc khi cho vay của
ngân hàng và khuyến khích các nguồn vốn mới của khu vực


nhân, đồng thời phân bố
thiệt hại cho cổ đông.
Thứ hai, xây dựng tính cạnh tranh và khả năng chống chịu của hệ thống ngân
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 8
hàng; bảo đảm hệ thống ngân hàng đủ tiềm lực để có thể đạt các chuẩn mực của quốc tế;
tăng cường sức mạnh nội tại của ngân hàng, chống lại các mầm mống bất ổn và
khủng hoảng.
Thứ 3, tăng cường cơ sở hạ tầng tổng thể của hệ thống tài chính; góp phần thúc
đẩy hệ thống tài chính phát triển, tạo cơ sở cho sự ổn định lâu dài của toàn bộ nền
kinh tế. Đồng thời góp phần nâng cấp việc tiếp cận với các dịch vụ tài chính.
1.4. Các biện pháp tái cấu trúc ngân hàng
1.4.1. Cơ cấu lại vốn tự có của các ngân hàng
Nguồn vốn tự có (hay còn gọi là vốn chủ sở hữu) của các ngân hàng
sau
khi
trích lập dự phòng đầy đủ cho các khoản nợ và giảm giá tài sản là điều
khiến
Chính phủ
quan tâm vì đây là căn cứ để đưa ra các biện pháp cụ thể như yêu
cầu
các ngân hàng
tăng vốn, cho vay thêm hoặc yêu cầu các ngân hàng có mức
an
toàn vốn thực tế dưới
mức tối thiểu theo luật định phải sáp nhập hoặc giải
thể.
Ở các quốc gia như Mỹ, Châu Âu và một số nước phát triển ở khu
vực
Châu

Á, chính phủ ưu tiên thực hiện biện pháp quốc hữu hóa các ngân
hàng
bằng cách
đầu tư vào cổ phần của các ngân hàng này sau đó bán lại cho tư
nhân
sau khi ngân
hàng đó dần đi vào ổn định. Với vai trò là cổ đông chính sở
hữu
phần lớn vốn cổ
phần, Chính phủ sẽ yêu cầu các ngân hàng bị quốc hữu
hóa
thực hiện các chương
trình tái cấu trúc tài sản và nguồn vốn. Một ví dụ điển
hình
là việc Chính phủ Anh đã
mua cổ phiếu của Royal Bank of Scotland và
ngân
hàng Lloyds năm 2008, khiến
cho tỷ lệ sở hữu cổ phần của Chính phủ
tương
ứng trong hai ngân hàng này là 67%
và 43%. Tại Châu Á, các quốc gia
như
Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia và Thái Lan
cũng đã thực hiện biện pháp
này,
trong đó tiêu biểu là sự kiện Thái Lan đã mua cổ
phần của 7 ngân hàng
thương
mại và 12 công ty tài chính vào năm 1998. Khi đó,

Chính phủ Thái Lan đã
buộc
các ngân hàng thương mại phải hạch toán các khoản dự
phòng nợ xấu vào
khoản
mục chi phí, từ đó làm giảm vốn chủ sở hữu. Điều này là có
lợi cho Chính
phủ
vì khi đó chỉ cần một lượng vốn nhỏ bổ sung vào vốn điều lệ cũng
có thể sở
hữu
phần lớn cổ phần trong các ngân hàng này, từ đó dễ dàng can thiệp để
điều
chỉnh
hoạt động của các ngân
hàng.
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 9
Bên cạnh giải pháp quốc hữu hóa các ngân hàng thương mại, Chính
phủ
các
nước cũng áp dụng biện pháp kêu gọi các nhà đầu tư trong nước và
nước
ngoài tài
trợ tăng vốn cho các ngân hàng gặp khó khăn bằng cách đưa ra
các
điều kiện có lợi.
Hình thức này gọi là vốn đối ứng hay thực chất là đồng tài
tr


.
Theo đó, khi nhà đầu
tư bỏ vốn tài trợ cho một ngân hàng gặp khó khăn
thì
Chính phủ cũng cam kết
góp vốn vào ngân hàng đó theo một tỷ lệ nhất
định
dưới vai trò nhà đầu tư thứ hai
đồng tài trợ. Điều này không những tạo niềm
tin
cho nhà đầu tư về khả năng vực dậy
của ngân hàng mà còn làm giảm lượng
vốn
Chính phủ cần bỏ ra để cải thiện tình hình
tài chính của ngân hàng
đó.
Để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, Chính phủ một số
nước
cũng
tiến hành nâng hạn mức sở hữu nước ngoài lên một mức cao và
trong
một
khoảng thời gian tương đối dài. Tiếp đó, nhằm tránh tình trạng rủi ro
gia
tăng khi bị
các cổ đông nước ngoài chi phối, sau khoảng thời gian đã cam
kết
ban đầu, các nhà
đầu tư nước ngoài phải bán lại cổ phần của mình cho các
nhà

đầu tư trong nước để
giảm tỷ lệ sở hữu nước ngoài xuống một mức hợp lý
theo
luật định. Mở rộng hạng mức
sở hữu nước ngoài là một trong những giải
pháp
được một số nước như Thái Lan,
Thổ Nhĩ Kỳ và Brazil áp dụng thành
công.
Năm 1998, Chính phủ Brazil đã nâng
hạn mức sở hữu nước ngoài từ 7%
(được
áp dụng từ năm 1994) lên tới 14% để tăng
nguồn tài trợ vốn tự có cho các
ngân
hàng thương mại trong nước. Một ví dụ khác, Thái
Lan cho phép các nhà đầu

nước ngoài nắm giữ cổ phần chi phối đối với các ngân
hàng thương mại
trong
nước với khoảng thời gian là 10 năm, sau đó phải bán lại cổ
phần cho các
cổ
đông trong nước để giảm tỷ lệ sở hữu nước ngoài xuống hạn mức mà
pháp
luật
quy
định.
1.4.2. Mua lại, hợp nhất và sát nhập:

Trước khi tiến hành các hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại,
ngân
hàng
trung ương các nước thường tiến hành sàng lọc ra các ngân hàng yếu
kém
bằng cách
đưa ra một khung các tiêu chuẩn phân loại hoạt động. Theo đó,
những
ngân hàng không
đáp ứng đủ các tiêu chuẩn an toàn bị buộc chấm dứt hoạt
động
để ngân hàng có tình
hình tài chính tốt hơn mua lại. Với những ngân hàng
đang
gặp khó khăn nhưng có khả
năng phục hồi sẽ được yêu cầu sáp nhập, hợp
nhất
với nhau. Nhờ đó, số lượng ngân
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 10
hàng sau tái cấu trúc giảm xuống nhưng
quy
mô vốn, chất lượng tài sản, năng lực
cạnh tranh và khả năng sinh lợi được
cải
thiện rõ
rệt.
Trong lịch sử ngành ngân hàng, đã có những vụ sáp nhập nổi tiếng
diễn
ra. Đầu

tiên là vụ sáp nhập giữa hai ngân hàng hàng đầu Châu Âu là ngân
hàng
ABN AMRO
của Hà Lan và Barclays PLC của Anh vào năm 2007, hình
thành
nên tập đoàn ngân
hàng hàng đầu thế giới tính theo số vốn hóa thị trường.
Tiếp
sau đó là vụ sáp nhập của
hai ngân hàng Mỹ Bank of America và Merrill
Lynch
năm 2008, giúp Bank of America
trở thành ngân hàng nội địa số một tại Mỹ
nếu
xét theo tiêu chí tiền gửi và lượng vốn
hóa thị trường. Bên cạnh đó, không
thể
không kể đến vụ sáp nhập của UFJ Holding
với Mitsubishi Tokyo
Financial
Group vào năm 2006 để hình thành Mitsubishi UFJ
Financial Group hùng
mạnh
nhất thế giới, vượt qua Citigroup về giá trị tài sản Trong
bối cảnh khủng
hoảng,
việc tiến hành mua lại, hợp nhất và sáp nhập không đơn giản chỉ
là các hoạt
động
mang tính chất tự nguyện của các ngân hàng tham gia mà còn là các

biện pháp
tái
cấu trúc ngân hàng phổ biến đã được tiến hành tại nhiều quốc gia trên
thế
giới,
xuất phát từ ý chí chủ quan của chính phủ nhằm giải cứu các ngân hàng yếu
kém
để cứu hệ thống ngân hàng khỏi đổ vỡ. Ví dụ như tháng 7 năm 1998, chính
phủ
Hàn Quốc đã buộc 5 ngân có tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu dưới 8% phải hợp nhất

sáp
nhập lại với nhau để đảm bảo đạt được mức an toàn vốn tối
thiểu.
1.4.3. Giải quyết các vấn đề nợ xấu:
Khi nợ xấu tăng liên tục một cách có hệ thống, Chính phủ các nước
đều
nỗ lực
hết sức để giảm tỷ lệ này xuống mức an toàn một cách nhanh nhất.
Mỗi
quốc gia có
một cách xử lý khác nhau, trong đó thường gặp nhất là nâng
mức
yêu cầu về dự
phòng rủi ro, siết chặt các quy định về phân loại nợ và trích lập
dự
phòng, đi kèm với
việc kiểm tra, giám sát sát sao việc thực hiện. Đặc biệt,
tại
một số nước, Chính phủ

cho phép các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao tách
biệt
hoạt động thành 2 nhóm: nhóm
hoạt động tốt (ngân hàng tốt – “good bank”)

nhóm các khoản nợ dưới chuẩn (ngân
hàng xấu – “bad bank”). Mục đích
của
việc làm này là “ngân hàng xấu” sẽ tập trung
vào giải quyết các khoản nợ xấu
để
ban lãnh đạo ngân hàng có điều kiện tập trung
phát triển những hoạt động
cho
vay mới có hiệu quả của “ngân hàng
tốt”.
Một mô hình giải quyết nợ xấu khác cũng đã được áp dụng thành công
tại
nhiều
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 11
nước, đó là thành lập Công ty Quản lý Nợ và Tài sản. Ví dụ, trong
chương
trình Tái cơ
cấu Ngân hàng cuối thập niên 90, Chính phủ Thái Lan đã thành
lập
Công ty quản lý Nợ
và Tài sản (AMC). Hàn Quốc thành lập các Công ty
Quản
lý Tài sản (viết tắt là

KAMCO) để mua lại các khoản nợ xấu từ các tổ chức
tín
dụng có kế hoạch sáp nhập
hoặc hợp nhất. Các công ty quản lý nợ và tài sản
xấu
không chỉ giúp tăng tính chuyên
nghiệp trong khả năng xử lý nợ mà còn giúp
hệ
thống ngân hàng hoạt động ổn định
trở lại do việc mua lại nợ xấu sẽ tạo
điều
kiện phục hồi khả năng cho vay của các
ngân hàng. Ngoài ra, về mặt kinh tế,
các
AMC còn giúp tận thu giá trị của các tài sản
xấu, bù đắp phần nào chi phí bỏ
ra
trong tiến trình tái cấu trúc bằng cách cấu trúc lại
các khoản nợ và bán lại
cho
các nhà đầu tư chuyên nghiệp khác (ví dụ như quỹ đầu tư,
quỹ hưu trí…) để
đem
lại lợi
nhuận.
Cuối cùng, sau khi hệ thống ngân hàng đã hoạt động lành mạnh trở lại
nhờ
giải
quyết được nợ xấu, việc tái cấu trúc doanh nghiệp là điều không thể bỏ
qua.

Tái cấu trúc
doanh nghiệp là biện pháp gốc rễ giúp làm giảm triệt để nợ xấu
cho
ngân hàng. Các tập
đoàn kinh tế lớn phải cam kết với Chính phủ về việc đóng
cửa
các chi nhánh yếu kém,
cùng với các công ty, doanh nghiệp khác thực hiện tái

cấu kinh doanh với việc tập
trung vào những ngành nghề kinh doanh chính,
xóa
bỏ bảo lãnh giữa các đơn vị thành
viên và duy trì một cơ cấu vốn bền
vững.
Indonesia Hàn quốc Malaysia
Thái
Lan
Công ty quản
lý tài sản theo
mô hình tập
trung mua các
tài sản với mức
giá hỗ trợ

Tài sản được mua
ban đầu với giá cao
hơn mức giá cân
bằng của thị trường
(có thể truy đòi). Từ

tháng 2/1998, giao
dịch mua được thực
hiện hướng tới giá thị
trường
Tài sản được
định giá bởi công
ty kiểm toán độc
lập
Không
áp dụng
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 12
Loại tài sản
được chuyển
giao
Tài sản
kém chất
lượng nhất
Không có chiến lược
cụ thể
Khoản cho vay
lớn hơn 5 triệu
ringgit và phần
lớn các khoản
vay được đảm
bảo bởi bất động
sản hoặc cổ
phiếu.
Không
áp dụng

1.4.4. Cải thiện lòng tin vào hệ thống ngân hàng:
Để khôi phục lại lòng tin của dân chúng đối với hệ thống ngân hàng
thì
bản
thân các ngân hàng phải thể hiện quyết tâm thực hiện một kế hoạch tái
cấu
trúc triệt để
mà đầu tiên là minh bạch hóa thông tin. Cổ đông hay người gửi
tiền
có quyền được
cung cấp các thông tin đầy đủ và chính xác về hoạt động
điều
hành hay tình hình
tài chính của ngân hàng, bao gồm nợ xấu, các giao
dịch
ngoại bảng, các chứng
khoán phái sinh hay thậm chí là các thông tin đặc
biệt
như thua lỗ do kiện tụng…, và
đây là một yêu cầu bắt buộc phải được thực
hiện.
Thêm vào đó, Chính phủ có thể xem
xét việc tăng cường bảo vệ người gửi
tiền
bằng cách gia tăng hạn mức bảo hiểm tiền
gửi. Là thành viên của mạng an
toàn
tài chính quốc gia, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi
đóng vai trò quan trọng trong
việc

ngăn ngừa và quản lý khủng hoảng. Cụ thể, trong
mạng an toàn tài chính,
tổ
chức Bảo hiểm tiền gửi có chức năng củng cố niềm tin
của người gửi tiền
với
vai trò giám sát, cảnh báo sớm, xử lý ngân hàng gặp vấn đề
một cách êm
thấm
góp phần đảm bảo an toàn hệ
thống.
1.4.5. Cải thiện hành lang pháp lý và xây dựng tiêu chuẩn ngân hàng hiện
đại:
Việc tiến hành các hoạt động cải tổ hệ thống ngân hàng cần được
đặt
trong
một khuôn khổ pháp lý vững chắc, do đó, tất cả các nước trên thế giới
khi
tiến hành tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng đều tiến hành rà soát lại các văn
bản
pháp luật, xây dựng
các phương án can thiệp của Chính phủ và Ngân hàng
trung
ương (NHTW) trong các
tình huống khác nhau, để đảm bảo rằng chúng
không
vi phạm các luật lệ đã ban hành
trước đây. Việc này rất quan trọng bởi nó
cho

thấy hành vi can thiệp của Chính phủ
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 13
và NHTW là khách quan, bình đẳng

minh bạch, vì lợi ích chung của nền kinh tế
chứ không phải vì một động cơ
nào
khác. Căn cứ vào các văn bản pháp lý đó, Chính
phủ và NHTW sẽ cần phải
xây
dựng một quy trình, với những tiêu chí rõ ràng ngay từ
đầu về mức độ can
thiệp
của Nhà nước cho từng trường hợp cụ thể. Hơn nữa, Chính
phủ và NHTW
cần
xây dựng các tiêu chí về một ngân hàng hoạt động hiệu quả và
phát triển
bền
vững hướng tới thông lệ tốt nhất như: vốn điều lệ thực tối thiểu; điều
kiện cần

đủ để thành lập ngân hàng; phạm vi và lĩnh vực kinh doanh ứng với qui mô;
hạ
tầng công nghệ tối thiểu phải có; việc phân loại nợ theo thời gian và chất
lượng
nợ;
tiêu chí về năng lực hoạt động; năng lực cạnh tranh; vấn đề minh bạch
thông

tin và kỷ
luật thị trường…
1.4.6. Thành lập cơ quan chuyên trách thực hiện tái cấu trúc
NHNN có thể cân nhắc và thành lập “Ban tái cấu trúc ngân hàng” với nhiệm vụ là
thực hiện, giám sát và đánh giá việc tái cấu trúc. Theo đó, “Ban tái cấu trúc ngân hàng”
hoạt động theo các mục tiêu sau:
• Yêu cầu các ngân hàng có vấn đề về vốn tự có phải tăng vốn hoặc sáp nhập.
• Cung cấp bảo lãnh cho các khoản vay liên ngân hàng.
• Lập quỹ tái cấu trúc và tái đầu tư vào các ngân hàng khi không tự tăng
được
vốn. Với quỹ tái cấu trúc, ngân hàng trung
ương
có thể mua lại cổ phần của
các ngân hàng có mức vốn
dưới
tỷ lệ an toàn.
• Đề xuất lên chính phủ về việc nới lỏng tỷ lệ sở hữu nước ngoài cho một số
ngân hàng.
Đưa
ra khung pháp lý để các ngân hàng có thể mua, bán nợ NPL.
Quản lý NPL
Tái cơ cấu vốn
ngân
hàng
Thực hiên trung
gian
nợ
Indonesia
IBRA (Cơ quan tái
cấu trúc ngân hàng

Indonesia)
IBRA
Jakarta Initiative Task
Force
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 14
Hàn Quốc
KAMCO (Tập đoàn
quản lý tài sản Hàn
Quốc)
Tập đoàn bảo hiểm
tiền gửi Hàn Quốc
Ủy ban điều phối tái cơ
cấu doanh nghiệp
Malaysia
Danaharta Danamodal
CDRC (Ủy ban tái cơ
cấu nợ doanh nghiệp)
Thái Lan
TMAC
Quỹ phát triển các
tổ chức tài chính
CDRAC (Ủy ban tư vấn
tái cơ cấu nợ doanh
nghiệp)
1.4.7. Tái cấp vốn
Biện pháp tái cấp vốn có thể
được
thực hiện
dưới

nhiều hình thức
như
sau:
• Chính phủ bơm vốn hoặc mua cổ phiếu để nắm giữ quyền quản lý.
• Sáp nhập ngân hàng trong
nước
với ngân hàng
nước
ngoài.
• Sáp nhập các ngân hàng trong
nước
với nhau.
• Thay đổi cơ cấu sở hữu đối với các ngân hàng
được
tái cấu trúc.
1.5. Những khó khăn và rủi ro khi thực hiện tái cấu trúc
Thứ nhất, khó khăn do những mâu thuẫn về lợi ích phát sinh trong quá trinh tái
cấu trúc. Đó là những mâu thuẫn có liên quan đến lợi ích của người gửi tiền, lợi ích
của
người
vay, của các nhóm cổ đông khác nhau, của các nhóm ngân hàng khác nhau, sự
phân chia lợi ích giữa nhà
nước
với thị
trường
và giữa các nhóm lợi ích.
Thứ hai, khó khăn do những chi phí phát sinh trong quá trình tái cấu trúc và khả
năng chịu đựng của nền kinh tế. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, chi phí do quá trình tái
cấu trúc có thể lên đến từ 20% đến hơn 50% GDP nếu việc tái cấu trúc diễn ra sau
khủng hoảng (20% GDP ở Hàn Quốc, hơn 30% GDP ở Thái Lan và hơn 50%

GDP ở Indonesia), nếu việc tái cấu trúc chậm trễ hoặc tái cấu trúc không hiệu quả, gây
kéo dài sẽ càng làm cho chi phí tái cấu trúc càng cao hơn. Tái cấu trúc là một quá
trình tốn kém đối với không chỉ các TCTD mà còn gây ra tổn thất lớn trong ngân
sách chính phủ và nguồn lực xã hội. Ngoài chi phí trực tiếp thì chi phí cơ hội của việc
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 15
tái cấu trúc cũng rất lớn.
Thứ ba, khó khăn trong việc giải quyết các vấn đề sau khi tái cấu trúc
như
về vấn
đề nhân sự, vấn đề về quản trị.
Thứ tư, rủi ro kéo dài, không dứt điểm do thiếu cơ sở luật pháp, khoa học (cơ sở
dữ liệu…) và năng lực thể chế cho việc tái cấu trúc hệ thống (ví dụ, cơ chế xử lý tài sản).
Thứ năm, rủi ro lệ thuộc vào ngân hàng nước ngoài, do tỷ lệ các ngân hàng ở
trong tình trạng thiếu thanh khoản và có tài sản xấu chiểm tỷ trọng lớn; số
lượng
Ngân
hàng
hoạt động hiệu quả để có khả năng mua lại, thâu tóm ít hơn nhiều so với số
lượng
các
ngân hàng yếu kém. Điều này cũng ảnh
hưởng
lớn đến vấn đề an ninh tài chính– tiền
tệ quốc gia.
Thứ sáu, rủi ro mất niềm tin đối với hệ thống ngân hàng, do những ngân hàng
thuộc sở hữu nhà
nước
có thể có cơ chế bảo lãnh ngầm đối với
người

gửi tiền. Trong khi
đó, các ngân hàng tư nhân không được đảm bảo có thể khiến luồng tiền ồ ạt rút khỏi
những ngân hàng này, hoặc việc Chính phủ đóng cửa một số ngân hàng có thể tạo ra
nghi ngờ về sự lành mạnh của những ngân hàng khác trong hệ thống.
2. Những bài học về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng ở các nước
trên thế giới
2.1. Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng ở các nước Đông Á
2.1.1. Tái cấu trúc hệ thộng ngân hàng tại Nhật
2.1.1.1. Bối cảnh
Việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của Nhật Bản được Chính phủ Nhật triển
khai vào năm 1998, những năm cuối trong “Thập kỷ mất mát” hay “thập niên bị
tước
mất” (A Lost Decade) – thời kỳ trì trệ kinh tế kéo dài của Nhật Bản. Cuộc khủng
hoảng này bắt nguồn từ sự phát triển bong bóng đầu cơ trong những năm 1980, khi các
nhà đầu tư rót tiền ồ ạt vào thị
trường
bất động sản và thị
trường
chứng khoán. Cùng
với đó, sự tự do hóa thị
trường
khiến cho nguồn đầu

vào Nhật Bản tăng kéo theo
nhu cầu về văn phòng ở trung tâm thành phố. Từ năm 1981–1991, giá đất
thương
mại
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 16
tại 6 thành phố lớn nhất của Nhật tăng 500 lần. Sau khi “bong bóng” nổ, giá đất này

sụt
dưới
mức của năm 1981 và cho tới năm 2007, mức giá này vẫn thấp hơn 83%
mức giá đỉnh ở năm 1991. Còn chỉ số Nikkei vào cuối năm 1989 đã chạm
ngưỡng
39.000 điểm, so với con số 8.900 điểm hiện nay.
Khi bong bóng tài sản vỡ vào những năm 1990–1991, tốc độ tăng
trưởng
kinh tế
Nhật Bản giảm mạnh. Bình quân hàng năm trong suốt thập niên 1990, tổng sản phẩm
quốc nội thực tế của Nhật Bản lẫn tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người chỉ
tăng 0,5%, thấp hơn so với hầu hết các
nước
công nghiệp tiên tiến khác. Tỷ lệ thất
nghiệp gia tăng nhanh qua từng năm. Từ những năm 1995 bắt đầu xuất hiện sự sụp đổ
của các ngân hàng địa
phương
và các quỹ tín dụng, tới mùa thu năm 1997 các ngân
hàng lớn và các Công ty chứng khoán (Ngân hàng Takusyoku Hokkaido, Công ty
chứng khoán Yamaichi) sụp đổ. Sự thiếu tính toàn diện trong chức năng của thị
trường tài chính ngắn hạn cùng với tin đồn về sự sụp đổ dây chuyền càng làm gia tăng
sự bất ổn. Trong
nước
xuất hiện tình trạng thận trọng khi cho vay, ở
nước
ngoài thì gặp
khó khăn trong vấn đề huy động vốn ngoại tệ.
Trong khi đó, Chính phủ Nhật hầu như khá chậm trễ trong việc đưa ra các biện
pháp giải quyết các vấn đề khủng hoảng, ví dụ như việc hạ lãi suất ngân hàng kéo
dài, không triệt để; chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ không được áp dụng một

cách linh hoạt và hiệu quả… cộng thêm việc nền kinh tế rơi vào tình trạng giảm phát
từ năm 1998 khiến cho mọi việc càng trở nên tồi tề. Để giải quyết vấn đề của mình,
Nhật Bản đã thực hiện cải cách toàn diện trên nhiều mặt.
2.1.1.2. Phương pháp tái cấu trúc
Để ổn định thị
trường
tài chính của mình, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện khá
nhiều biện pháp như bơm thanh khoản vào thị trường thông qua chính sách tài khóa,
hạ lãi suất… Với việc xử lí các khoản nợ xấu, Nhật có những biện pháp khẩn cấp sau:
• Bảo hộ toàn bộ khoản tiền gửi (cho đến cuối tháng 3/2002)
Kéo dài khoảng thời gian bảo hộ cho đến khi ngân hàng phải thực hiện trách nhiệm
đối với người gửi tiền. Trong thời gian đó thì ngân hàng phải tăng
cường
công bố các
khoản nơ xâu .Việc bảo hộ đem lại lợi ích cho cả những người được hưởng lợi ngoài
người
gửi tiền. Do đó, những tổ chức tài chính của
người hưởng
lợi (bao gồm các ngân
hàng Nhật
Bản
) vẫn có thể yên tâm cung ứng vốn cho các tổ chức tài chính đang gặp
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 17
khó
khăn
, đồng thời vẫn có thể tránh khỏi sự sụp đổ liên tiếp về nguồn vốn theo hiệu
ứng dây chuyền.
• Cung ứng nguồn vốn bằng vốn ngân sách
Chính phủ Nhật Bản tái cấp vốn cho các ngân hàng bằng nguồn vốn ngân sách

Chính phủ. Tháng 3/1998, Chính phủ chi 1.800 tỉ Yên, số
lượng
này
được
cho là bình
thường, thậm chí bị phê phán là quá ít. Đến tháng 7/1999, Chính phủ chi thêm 7.500 tỉ
Yên, tăng
cường
một cách triệt để đối với các ngân hàng chủ chốt. Số tiền này phần lớn
đã
được
thu hồi.
• Quốc hữu hóa tạm thời các tổ chức tài chính
Năm 1998 Chính phủ Nhật Bản bắt đầu quốc hữu hóa một số ngân hàng
như
Chyogin (Ngân hàng tín dụng dài hạn Nhật Bản), Nisaigin (Ngân hàng tín dụng trái
phiếu Nhật Bản). Việc quốc hữu hóa cùng với việc rót một loạt vốn ngân sách cho các
ngân hàngchủ chốt (3/1999) đã khiến cho bất ôn trong hệ thống tài chính phần nào
được
giam bơt.Tuy nhiên, sau khi đưa ra nhiều giải pháp "nóng" như bơm thanh khoản,
Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra rất nhiều giải pháp nhằm xử lý tận gốc những yếu
kém của các ngân hàng:
• Ban hành các văn bản luật liên quan
Cuối tháng 9/1998, Quốc hội Nhật Bản đã thông qua Luật Khôi phục hệ thống
ngân hàng nhằm giải quyết khoản nợ khổng lồ. Nội dung cơ bản của luật này gồm: Lập
một ủy ban khôi phục tài chính; Các ngân hàng thua lỗ bị phá sản theo Luật Phá sản và
đặt dưới sự quản lý của Nhà nước theo 2 cách, hoặc là Chính phủ mua cổ phiếu của
các ngân hàng bị phá sản, hoặc chuyển thành các ngân hàng cầu nối cho đến khi khu
vực


nhân mua lại; Cho phép ngân hàng Nhật mua lại ngân hàng phá sản hoặc Chính
phủ sẽ tạm thời quốc hữu hóa…
Ngày 12/10/1998, 08 dự án luật liên quan tới các ngân hàng bị phá sản đã được
Quốc hội Nhật Bản phê chuẩn. Theo đó, Chính phủ có thể bơm tiền vào một số ngân
hàng với một số điều kiện nhất định: Nếu ngân hàng có tỷ lệ vốn chủ sử hữu trên tổng
tài sản cao hơn 4% thì Chính phủ có thể mua cổ phiếu thường hay cổ phiếu
ưu
đãi
của ngân hàng
nhưng
giám đốc của ngân hàng sẽ buộc phải từ chức, ngân hàng phải
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 18
giảm số chi nhánh và phải đóng cửa chi nhánh ở
nước
ngoài. Nếu tỷ lệ vốn chủ sở hữu
trên tổng tài sản của ngân hàng thấp hơn 2% thì ngân hàng sẽ tạm thời bị quốc hữu hóa,
sau đó phải ngừng hoạt động, sáp nhập với ngân hàng khác hoặc cắt giảm mạnh quy mô
hoạt động. Khoảng 18 nghìn tỷ Yên từ công quỹ
được
chi ra để xử lý những ngân hàng
bị phá sản theo quy định của các luật này và 25 nghìn tỷ Yên nữa được rót vào các
ngân hàng khỏe mạnh.
• Chia nhóm ngân hàng để tái cấu trúc
16 ngân hàng hàng đầu Nhật Bản, bao gồm Ngân hàng Công nghiệp Nhật Bản,
Fuji, Sumitomo, Daiwa, Tokai, Yasuda Trust và cả Sanwa đã tuyên bố xin tài trợ gần
65 tỷ USD để giải quyết những khoản nợ khó đòi. Chỉ có Bank of Tokyo Mitsubishi
tuyên bố là họ có thể tự tăng vốn hơn 2.130 triệu USD thông qua việc phát hành. Cơ
quan đánh giá tín dụng của Mỹ Standard & Poor khi đó nhận định tổng số nợ quá hạn và
nợ khó đòi của Nhật có thể gấp 2 lần so với con số

ước lượng
của Chính phủ. Theo đánh
giá của Moody’s, toàn bộ tiến trình cải cách hệ thống ngân hàng này có thể phải mất 2-3
năm và đòi hỏi phải chi tới 20% tổng thu nhập quốc nội của Nhật.
Vì thế, Chính phủ Nhật Bản bắt đầu phân chia các ngân hàng
nước
này thành 2
nhóm: nhóm thứ nhất là các ngân hàng cho vay lành mạnh, sắp giải quyết dứt điểm các
khoản nợ khó đòi; nhóm thứ hai là các ngân hàng đang phải vật lộn với nợ xấu. Mặc dù
quy mô thực tế của nhóm thứ nhất nhỏ hơn rất nhiều so với nhóm thứ hai, song nó là
nơi tập trung những ngân hàng khổng lồ, khỏe mạnh nhất
như
Bank of Tokyo
Mitshubishi Ltd., Sumitomo Bank Ltd., Sanwa Bank Ltd., Asahi Bank Ltd., Tokai Bank
Ltd., là điểm tựa cho quá trình phục hồi của toàn bộ hệ thống này.
Sự phân chia này, theo các nhà phân tích, sẽ tạo ra sự phân cực rõ ràng, nhất là
trong hoạt động kinh doanh chứng khoán, mà kết quả của sự phân cực này là các ngân
hàng nhỏ sẽ ngày càng khó khăn hơn trên thị trường chứng khoán. Bank of
Tokyo Mitsubishi Ltd., ngân hàng lớn nhất Nhật Bản và lớn thứ 2 thế giới cũng đã phải
sa thải1/6 số nhân viên và bán đi một phần chi nhánh Union Bank of Califonia tại Mỹ.
Bên cạnh việc xin bơm vốn, các ngân hàng cũng thành lập các liên minh. Chẳng
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 19
hạn, Ngân hàng Sumitomo Trust với Công ty Sumitomo; Daiichi Kangyo và Fuji sáp
nhập các công ty con trong lĩnh vực ngân hàng và có kế hoạch mua công ty quản lý tài
sản của Yasuda Trust.
Trước
khi Ngân hàng Tín dụng Nhật Bản bị quốc hữu hóa, họ đã
có kế hoạch sáp nhập với Chuo Trust and Banking để trở thành một ngân hàng toàn
năng. Đây cũng là một

hướng
đi khả thi về lâu dài.
Các chính sách để cứu trợ cho hệ thống ngân hàng Nhật Bản trong năm tài chính
1998 đã được ban hành liên tục, cho thấy Chính phủ Nhật Bản đã thừa nhận sự yếu
kém trong hệ thống đó và cũng chứng tỏ đây là “điểm nóng nhất” và quyết tâm của
Chính phủ trong tiến trình cải cách hệ thống tài chính
nước
này. Không chỉ thế các ngân
hàng
thương
mại cũng
được
yêu cầu đáp ứng các điều kiện sau:
Công khai các khoản nợ xấu và có quy trình đánh giá nợ minh bạch.
Thiết lập các quy trình thanh tra tài chính , minh bạch hóa các tiêu chuẩn trả nợ và
thiêt lâp

phong tai chinh cho cac khoản nơ
xâu
.
Xây dựng các quy trình thanh tra, kiểm tra tài chính ngân hàng đảm bảo cho việc
giám sát việc thực hiện, điều hành của ngân hàng.
2.1.2. Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Trung Quốc
2.1.2.1. Bối cảnh
Cuối thập kỷ 90 của thế kỷ
trước,
cuộc khủng hoảng tài chính tại châu Á đã gây
ra hậu quả nặng nề cho thị
trường
tài chính các

nước
trong khu vực, trong đó có Trung
Quốc. Để xây dựng lại thị
trường
tài chính ổn định hơn, Trung Quốc đã thực hiện cải
tổ hệ thống ngân hàng mạnh mẽ.
Nhiệm vụ quan trọng của
chương
trình cải cách tài chính năm 1997 tại Trung
Quốc là tái cơ cấu các định chế tài chính đang gặp khó khăn thanh khoản, bị thua lỗ và
mất khả năng thanh toán, nhằm giảm thiểu rủi ro tài chính và tìm ra các biện pháp cho
phép các định chế tài chính yếu kém nhất rút ra khỏi thị trường.
Do vậy, công cuộc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng không chỉ hướng đến các
NHTM mà bao gồm cả các định chế tài chính phi ngân hàng
như
các công ty ủy thác
và đầu tư, các hợp tác xã tín dụng nông thôn, thành thị.
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 20
2.1.2.2. Phương pháp tái cấu trúc
• Tổ chức lại Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (PBC)
Đầu tiên, Chính phủ Trung Quốc tiến hành tổ chức lại Ngân hàng Nhân dân Trung
Hoa (PBC) nhằm tăng
cường
khả năng giám sát và tính độc lập, tự chủ trong quản lý,
điều hành các chính sách tiền tệ của NHTW này. Đồng thời củng cố và tăng
cường
hệ
thống giám sát tài chính bằng việc thành lập Ủy ban Giám sát Ngân hàng Trung Hoa,
tập trung vào công tác quản trị rủi ro ở các ngân hàng. Ban hành hàng loạt văn bản và

quy định mới, áp dụng những chuẩn mực kế toán và kiểm toán độc lập khắt khe hơn và
những thông lệ quản trị công ty hiện đại nhằm nâng cao tính minh bạch, khôi phục,
duy trì niềm tin của khách hàng, nhận diện những ngân hàng có vấn đề để kịp thời có
biện pháp hỗ trợ, xử lý.
Tiếp đó Trung Quốc tiến hành hàng loạt các biện pháp lớn bao gồm: tăng vốn,
chuyển đổi nợ thành vốn góp, sáp nhập, xử lý các khoản nợ khó đòi, đóng cửa, cho
phá sản một số định chế tài chính mất khả năng thanh toán.
• Thực hiện tăng vốn
Đối với vấn đề thanh khoản, kế hoạch tái cấp vốn cho các NHTMNN
được
triển
khai song song. Số vốn yêu cầu
được
huy động theo cơ chế ngoài ngân sách, nghĩa là
bằng công cụ trái phiếu chính phủ
được
phát hành với thời hạn 30 năm. Tháng 3/1998,
một đợt phát hành trái phiếu kho bạc đặc biệt trị giá 270 tỷ nhân dân tệ đã
được
thực
hiện. Mục đích của đợt phát hành này nhằm tăng vốn cho 4 NHTMNN và tăng tỷ lệ vốn
tối thiểu của các ngân hàng này lên 8%. Các trái phiếu kho bạc này đã
được
4
NHTMNN mua bằng nguồn tiền rút ra từ việc cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 13%
xuống còn 8%.
Tuy nhiên, các NHTMCP và các hợp tác xã tín dụng nông thôn không được
hưởng nguồn tài trợ từ Chính phủ. Việc tăng vốn của họ chủ yếu đến từ các cổ đông
hoặc lợi nhuận tích lũy, nên nguồn vốn của các tổ chức này khó có thể tăng lên nhanh
chóng. Đặc biệt, đối với một số công ty ủy thác và đầu

tư,
vốn của họ không
được
tăng
trong thời gian dài trong khi tích tụ thêm các khoản lỗ và nợ xấu. Ngoài 4 NHTMNN,
phần lớn các định chế tài chính nằm
dưới
sự quản lý của chính quyền địa
phương
hoặc
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 21
các công ty nhà nước, cổ đông của họ không mặn mà với việc góp vốn trừ phi phải
chịu sức ép mạnh mẽ.
• Thực hiện sáp nhập
Từ 1995 đến 1998, hơn 2000 hợp tác xã tín dụng thành thị được sáp nhập vào
88 NHTM cấp thành phố theo các nguyên tắc: đánh giá tài sản và vốn, xóa các khoản
nợ xấu,
ước
tính khoản vốn đóng góp ròng và khuyến khích sự tham gia của các cổ đông
mới. Tuy nhiên, giải pháp này vẫn
chưa

trường
hợp nào thành công. Do hoạt động
yếu kém của các hợp tác xã tín dụng thành thị
trước
đó, 88 NHTM mới đã có khoản nợ
xấu lớn và bị thua lỗ nặng nề, và một số rơi vào tình trạng khủng hoảng thanh toán. Để
giảm thiểu rủi ro, Chính phủ đã thực hiện kế hoạch cắt giảm số

lượng
NHTM cấp
thành phố từ 239 xuống còn 60 thông qua biện pháp sáp nhập.
Một
trường
hợp khác là việc thành lập Ngân hàng Phát triển Hải Nam từ việc sáp
nhập 5 công ty đầu

và ủy thác đóng trên địa bàn tỉnh Hải Nam với sự tham gia của các
cổ đông mới (tháng 8/1995). Chất
lượng
tài sản rất thấp của 5 công ty đầu tư và ủy
thác đã dẫn đến tình trạng hoạt động yếu kém của ngân hàng. Tháng 12/1997, Ngân
hàng phát triển Hải Nam tiếp nhận thêm quỹ tín dụng thành thị tại địa
phương
đang gặp
khó khăn về thanh khoản, khiến cho tình trạng của ngân hàng càng trở nên điêu đứng
hơn. Mặc dù NHTW hỗ trợ thanh khoản trên 3 tỷ nhân dân tệ, khách hàng vẫn tiếp tục
rút tiền. Hậu quả là vào tháng 1/1998, NHTW buộc phải đóng cửa Ngân hàng này.
• Đóng cửa, giải thể và cho phá sản
Trong 2 năm 1997 và 1998, 1 NHTM mất khả năng thanh toán và 3 công ty đầu

và ủy thác đã bị đóng cửa tại Trung Quốc. Các khoản nợ của 4 định chế này lên đến
khoảng 120 tỷ nhân dân tệ.
• Xử lý nợ xấu của các NHTMNN
Tại Trung Quốc khi đó, số
lượng
nợ xấu của các NHTMNN là rất lớn, chiếm tỷ lệ
6–7% trên tổng dư nợ. Theo quy chế do Bộ Tài chính đề ra lúc đó thì chỉ 1% dư nợ của
năm trước liền kề phải

được
trích ra làm dự phòng cho việc xóa đi các khoản nợ xấu
của năm hiện hành. Kết quả là các khoản trích lập dự phòng rủi ro là rất nhỏ. Năm
1998, Trung Quốc thông báo bắt đầu áp dụng các quy tắc, quy định, định mức và
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 22
tỷ lệ an toàn theo chuẩn mực của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), tỷ lệ an toàn
vốn (CAR)
được
nâng lên mức 8%; những quy định mới về phân loại khoản vay. Nhờ
đó, bức tranh toàn cảnh về số nợ dưới chuẩn trở nên rõ ràng hơn và hình thành kế
hoạch làm sạch bảng cân đối kế toán của các NHTMNN. Tháng 4/1999, 4 công ty quản
lý tài sản (AMC)
được
thành lập để xử lý toàn bộ số nợ xấu và nợ
dưới
chuẩn
ước
tính
lên đến 670 tỷ nhân dân tệ cho các NHTMNN và tiếp sau đó là thêm 3 công ty nữa đã
ra đời. Họ chịu trách nhiệm tách bạch các khoản nợ xấu ra khỏi các NHTMNN, những
công ty này
được
trao quyền ngoại lệ đặc biệt để xử lý, mua lại nợ xấu, thậm chí đầu tư
và sinh lời từ đó.
Bên cạnh đó số nợ xấu của các DNNN chiếm tới 70% tổng

nợ trong hệ thống
ngân hàng
được đưa

ra ngoài bảng cân đối kế toán để xử lý. Sau đó, Chính phủ dành ra
40 tỷ nhân dân tệ dự trù ngân sách trong năm 1998 cho mục đích xóa nợ xấu của những
DNNN này. Con số này là 30 tỷ nhân dân tệ trong năm
trước
đó và
tương
tự các năm sau
đều có khoản dự trù ngân sách dành để xóa nợ xấu. Đồng thời, những DNNN có nợ
xấu được sắp xếp lại nhằm ngăn ngừa nguy cơ làm giảm chất
lượng
tài sản của
những ngân hàng cho vay vốn.
• Chuyển đổi các khoản nợ thành vốn góp
Đây chỉ là giải pháp cuối cùng trong việc tái cấu trúc, vì nó làm
phương
hại đến
quyền lợi của chủ nợ và kết quả cuối cùng không
được
như trông đợi. Một
trường
hợp
điển hình là Công ty Đầu

và Ủy thác Everbright. Công ty này có các khoản vay nợ lớn
tại 1 công ty dầu mỏ nhà
nước
và 2 NHTMNN,
nhưng
không thể trả
được

nợ khi đến hạn.
Để giúp công ty tránh bị phá sản, NHTW quyết định chuyển đổi nợ của các định chế
này
(tương đương
5 tỷ nhân dân tệ) thành vốn góp. Tuy nhiên, công ty vẫn không có lãi
trong 3 năm liên tiếp sau đó, và các chủ nợ đã bị thua lỗ nhiều do hậu quả của việc
chuyển đổi nợ này.
Bên cạnh đó các
chương
trình tái cấu trúc không chỉ tập trung xử lý những vấn đề
của từng ngân hàng (kết cấu tài sản – vốn), mà còn quan tâm mạnh mẽ đến các mức độ
đáp ứng của cơ sở hạ tầng trong việc tạo lập môi
trường
hoạt động cho ngành ngân
hàng (việc tuân thủ các quy định về an toàn hoạt động, các quy định liên quan đến sự
tham gia của các ngân hàng
nước
ngoài…).
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 23
• Tư nhân hóa và giảm quy mô
Chính phủ Trung Quốc khuyến khích các NHTMNN xúc tiến kế hoạch niêm yết
trên thị
trường
chứng khoán. Cụ thể là chuyển 4 NHTMNN, chiếm 70% tài sản và thị
phần tín dụng, sang các doanh nghiệp cổ phần. Động thái này buộc các ngân hàng phải
xây dựng cơ chế quản trị theo chuẩn quốc tế, kinh doanh theo định
hướng
thương
mại nhiều hơn, nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành, tăng

cường
tính minh bạch trong
hoạt động, kế hoạch đầu tư và trên sổ sách kế toán. Nhằm tạo ra môi
trường
lành mạnh
để tránh cho các ngân hàng rơi vào vòng luẩn quẩn của làn sóng nợ
dưới
chuẩn mới phát
sinh, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc – PBC kiên quyết yêu cầu các ngân hàng cải
thiện chất
lượng
công tác quản trị doanh nghiệp, vì đó là
bước
đầu tiên trong việc quản trị
rủi ro ngân hàng. Từng ngân hàng
được
yêu cầu lập kế hoạch với những chỉ tiêu cụ thể
về chuyển đổi mô hình kinh doanh, giới thiệu dịch vụ khác biệt, kế hoạch quản trị rủi ro
tổng thể, ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển nguồn nhân lực…
• Ban hành, đổi mới các quy định điều tiết hoạt động ngân hàng và tăng
cường hoạt động thanh tra, giám sát
Các cơ quan quản lý tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát, đặc biệt đối với
các ngân hàng lớn, nhằm ngăn chặn nguy cơ lan truyền rủi ro hệ thống giống như
cuộc khủng hoảng Châu Á năm 1997. Đồng thời, trong giai đoạn cải cách, các cơ quan
này ban hành một khuôn khổ điều tiết linh hoạt, đảm bảo cho các ngân hàng phát triển
ổn định trong môi
trường
hoạt động liên tục thay đổi và độ mở ngày càng gia tăng.
• Chấp nhận sự hiện diện của các ngân hàng nước ngoài
Chính phủ Trung Quốc đã triển khai việc cải cách và cơ cấu lại hoạt động ngân

hàng một cách linh hoạt theo hướng tìm kiếm sự trợ giúp các ngân hàng yếu kém từ
ngân hàng
nước
ngoài một cách thận trọng. Mặc dù các ngân hàng
nước
ngoài có những
lợi thế nhất định,
nhưng
khi chấp nhận để các ngân hàng này gia nhập thị
trường,
Trung
Quốc đã phải chuẩn bị một nền tảng vững chắc cho công tác thanh tra, giám sát. Hơn
nữa, các ngân hàng
nước
ngoài
được
phép gia nhập thị
trường
phải tập trung nguồn lực
tín dụng cho các khu vực chủ chốt của nền kinh tế, đồng thời, tuân thủ các quy định về
giới hạn hoạt động tại một vài khu vực, lĩnh vực chính yếu.
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 24
Từ những biện pháp trên, chúng ta có thể thấy ngành tài chính Trung Quốc không
bị ảnh
hưởng
nhiều bởi cuộc khủng hoảng đang hoành hành hiện nay trên thế giới là nhờ
tiến trình tái cấu trúc ngành ngân hàng mà Chính phủ
nước
này thực hiện kịp thời cuối

thập kỷ
trước.
Trung Quốc đã vạch ra
được
kế hoạch tổng thể và đồng bộ, gắn việc tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng với tiến trình tái cấu trúc hệ thống các doanh nghiệp nhà
nước,
tái cơ cấu các khoản nợ của những doanh nghiệp này, chuyển đổi mô hình kinh
doanh ngân hàng, tăng cường chất lượng quản trị, giám sát tổng thể thị trường tài
chính, tiếp thu áp dụng kinh nghiệm của
nước
khác một cách có chọn lọc…
2.1.3. Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tại Hàn Quốc:
2.1.3.1. Bối cảnh:
Mặc dù cuộc khủng hoàng tài chính – ngân hàng Hàn Quốc bị lây lan
từ
cuộc
khủng hoảng tài chính Châu Á 1997, tuy nhiên, các nhà hoạch định
chính
sách Hàn
Quốc đều nhận định nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ việc đầu

tràn lan và vay
nợ quá mức của các tập đoàn kinh tế cũng như quy định an
toàn
hoạt động ngân hàng
lỏng lẻo, quản trị rủi ro yếu kém và thiếu sự minh
bạch
trong công tác tài chính của
hệ thống các tổ chức tín dụng. Do đó, Chính

phủ
Hàn Quốc đã thực hiện một kế
hoạch kinh tế tổng thể trong đó tập trung vào
ổn
định kinh tế vĩ mô và tái cấu trúc
hệ thống ngân hàng, doanh nghiệp và
thị
trường lao động. Tái cấu trúc hệ thống
ngân hàng là một trong những mục
tiêu
ưu tiên hàng đầu của Hàn Quốc trong giai đoạn
này.
2.1.3.2. Quá trình thực hiện:
Để có thể tiến hành tái cấu trúc hệ thống ngân hàng một cách hiệu
quả,
Chính phủ
Hàn Quốc đã xây dựng một lộ trình thứ tự các bước như
sau:
• Tiến hành rà soát và phân loại ngân
hàng:
Một trong những việc làm đầu tiên của Chính phủ Hàn Quốc là tiến
hành
áp
dụng các tiêu chuẩn quốc tế để đánh giá tình hình tài chính, các khoản nợ
xấu
và tiến
hành phân loại các ngân hàng thành 3 nhóm làm cơ sở cho quá trình
hợp
nhất và sáp
nhập, bao

gồm:
+ Nhóm các ngân hàng dẫn đầu (nhóm các ngân hàng
lớn)
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng
Đề tài 6 Trang 25
+ Nhóm các ngân hàng cỡ trung bình, chủ yếu tập trung vào hoạt
động
bán
lẻ
+ Nhóm các ngân hàng nhỏ phục vụ cho các vùng địa phương đặc
biệt.
Mục tiêu chính của việc phân loại này là nhằm: Thứ nhất, tạo ra các ngân hàng lớn
sau khi hợp nhất và sáp nhập có đủ năng lực về tài chính để có thể cạnh tranh hiệu quả
đối với các ngân hàng nước ngoài cũng như nâng cao hiệu quả kinh doanh của các ngân
hàng này; Thứ hai, thu hẹp phạm vi hoạt động của các ngân hàng có quy mô vừa, tập
trung vào phát triển các hoạt động kinh doanh chính; Thứ ba, các ngân hàng nhỏ nhưng
hoạt động an toàn và hiệu quả, chỉ
để
phục vụ cho các vùng địa phương đặc
biệt.
• Giải quyết nợ xấu ngân
hàng:
Sau khi tiến hành đánh giá và phân loại nợ xấu, để có thể giải quyết
được
các
khoản nợ xấu của các ngân hàng, Chính phủ Hàn Quốc đã thành lập
các
Công ty
quản lý nợ xấu Hàn Quốc (viết tắt là KAMCO) để mua lại các khoản
nợ

xấu từ các
TCTD có kế hoạch sáp nhập và hợp nhất. Trong năm 1997,
Chính
phủ Hàn Quốc đã
cấp 64 nghìn tỷ won, tương đương 15% GDP, để thực hiện
tái
cấu trúc hệ thống ngân
hàng, trong đó 31,5 nghìn tỷ won (chiếm 49,2%)
được
dành cho mua các khoản nợ
xấu của hệ thống ngân hàng. Tính đến cuối
tháng
3/1999, KAMCO đã bỏ ra 20 nghìn
tỷ won để mua các khoản nợ xấu trị giá
44
nghìn tỷ won của các ngân
hàng.
Bảng Kế hoạch mua nợ xấu và quá hạn của
KAMCO
Đơn vị: Nghìn tỷ
won
Từ 11/98-9/98 Từ 10/98-3/99 Từ 4/99 Tổng
Trị giá các
khoản nợ xấu
(NPLs)
39 5 32-42 76-86
Trị giá mua
(Purchase price)
17,8 2,2 12,5 32,5
Nguồn: BIS

(1999).
• Hợp nhất, sáp nhập và mở rộng hình thức sở hữu:
Sau khi đánh giá được mức vốn thực có của các NHTM (sau khi tiến
hành
bù đắp
Lớp: K09404A GV: Nguyễn Thị Hai Hằng

×