Tải bản đầy đủ (.doc) (255 trang)

lối sống người dân làng chài hiện nay (nghiên cứu trường hợp tại xã đoàn xá, huyện kiến thụy và phường ngọc sơn, quận kiến an, hải phòng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.68 MB, 255 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lối sống của các cộng đồng cư dân là đề tài được các tác giả trong và ngoài
nước quan tâm nghiên cứu từ lâu dưới các góc độ khác nhau. Các nhà nghiên cứu
Dân tộc học/ Nhân học và Văn hóa học đã chỉ ra rằng, lối sống tùy thuộc vào các
điều kiện sống (môi trường cư trú, phương thức mưu sinh), các yếu tố lịch sử - văn
hóa… của cộng đồng cư dân và lối sống cũng biểu hiện những dạng thức khác nhau
từ các yếu tố trên. Lối sống được thể hiện tập trung ở phương thức mưu sinh, các
thiết chế xã hội, các phong tục tập quán, tín ngưỡng…, hình thành từ phương thức
mưu sinh và trở lại phục vụ phương thức mưu sinh đó. Nghiên cứu lối sống là
nghiên cứu cốt lõi văn hóa của các tộc người.
Với hệ thống sông ngòi chằng chịt và vùng biển, hải đảo rộng lớn trải dài
trên 3200 km, chứa đựng nguồn lợi tự nhiên phong phú, dọc bờ biển Việt Nam từ
xưa đã hình thành nhiều cộng đồng ngư dân làm nghề đánh bắt thủy, hải sản, sống
trong các làng chài. Các cộng đồng cư dân có nhiều nét đặc thù. Họ có nguồn gốc
từ những cư dân nội đồng, mưu sinh bằng khai thác nguồn thủy, hải sản nơi sông
nước. Nhìn chung, trước năm 1954 và ở nhiều nhóm thuộc một số địa phương hiện
nay, ngư dân có cuộc sống rất nghèo khó, họ có xu thế tách khỏi các cộng đồng làng
xã chính thống, sống biệt lập trên những chiếc thuyền, không có đất làm nhà, tập
hợp lại thành các làng chài, vạn chài. Do vậy, lối sống của ngư dân có những nét
khác biệt so với cư dân nông nghiệp ở trên bờ.
Từ sau năm 1954, đặc biệt là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay,
Đảng và Chính phủ đã có nhiều chính sách đối với ngư dân và sự nỗ lực vươn lên
của các cộng đồng giúp cho cuộc sống của ngư dân từng bước được cải thiện; là cơ
sở để lối sống của họ có những chuyển biến trên nền của lối sống truyền thống. Sự
chuyển biến này được biểu hiện khác nhau ở từng cộng đồng ngư dân mỗi vùng,
1
miền, phụ thuộc vào đặc điểm của môi trường cư trú cùng một số yếu tố khác, cần
được đi sâu nghiên cứu.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực, cuộc sống của ngư dân các vùng miền
ở nước ta đang gặp nhiều khó khăn, thách thức. Đó là, nguồn lợi tự nhiên đang bị


khai thác quá mức, dẫn đến cạn kiệt, ảnh hưởng tới nguồn sống lâu dài; tình trạng
thấp kém về giáo dục và đời sống văn hóa - tinh thần…
Với những lí do trên, tôi chọn vấn đề “Lối sống người dân làng chài hiện
nay” (nghiên cứu trường hợp tại làng chài Nam Hải, huyện Kiến Thụy và làng chài
Ngọc Sơn, quận Kiến An, Hải Phòng) làm đề tài luận án tiến sĩ ngành Nhân học,
với mong muốn nghiên cứu lối sống của cộng đồng ngư dân nhằm chỉ ra những đặc
điểm văn hóa của một bộ phận cư dân tộc người Việt. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu
lối sống của các cộng đồng ngư dân tạo cơ sở khoa học để đề ra các chính sách, các
giải pháp giúp ngư dân phát triển theo hướng bền vững, có đủ tri thức, tiềm lực để
vươn ra biển khơi, làm giàu cho bản thân và đóng góp vào công cuộc xây dựng, bảo
vệ đất nước, nhất là giữ vững vùng biển và hải đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
2. Mục đích nghiên cứu của luận án
- Luận án chỉ ra một số dạng thức chủ yếu trong lối sống của ngư dân hai
làng chài Nam Hải và Ngọc Sơn (Hải Phòng) để từ đó thấy được những điểm tương
đồng và khác biệt trong lối sống, văn hóa, tín ngưỡng giữa hai cộng đồng này.
- Cung cấp cơ sở khoa học cho việc đề ra các giải pháp giúp các cộng đồng
ngư dân phát triển sản xuất, cải thiện đời sống vật chất, nâng cao đời sống văn hóa
tinh thần trong điều kiện hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu của Luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là một số dạng thức chính trong lối sống
(ăn, ở, lao động, phương tiện đi lại, sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, tổ chức xã hội).
- Phạm vi nghiên cứu của luận án:
2
Về không gian, luận án chọn hai làng chài để nghiên cứu là làng Ngọc Sơn
(phường Ngọc Sơn, quận Kiến An) và làng Nam Hải (xã Đoàn Xá, huyện Kiến
Thụy. Đây là hai làng chài khác nhau về môi trường cư trú (làng Ngọc Sơn nằm ven
sông Lạch Tray, đồng thời là làng Công giáo; làng Nam Hải nằm gần cửa sông Văn
Úc đổ ra biển). Điều kiện sống cũng như tôn giáo khác nhau tạo ra những nét riêng
về lối sống, thể hiện rõ nét ở phương thức mưu sinh, các tập tục và hướng phát triển
trong tương lai.

Về thời gian: luận án nghiên cứu lối sống hiện nay của hai cộng đồng ngư
dân là làng Nam Hải và làng Ngọc Sơn, có so sánh với một số yếu tố của lối sống
truyền thống (làng Nam Hải trước khi chuyển cư lên bờ, năm 1955; làng Ngọc Sơn
trước khi được mở rộng tiếp xúc với cư dân trên bờ, đặc biệt là khi trẻ em trong
làng được học chữ, năm 1998).
4. Nguồn tư liệu của luận án
Nguồn tư liệu chính của luận án là tư liệu điền dã, thu được qua việc phỏng
vấn và tham gia các hoạt động lao động sản xuất, các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng
của ngư dân. Bên cạnh đó luận án sử dụng những báo cáo, các số liệu thống kê về
các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của địa phương trong những năm gần đây.
Luận án kế thừa các kết quả nghiên cứu về ngư dân, về lối sống và về làng
xã đã được công bố.
5. Đóng góp mới của luận án
Đây là luận án tiến sĩ Nhân học đầu tiên nghiên cứu về lối sống của ngư dân
Hải Phòng qua hai làng chài cụ thể; chỉ ra những đặc trưng trong lối sống; sự giống
nhau và khác biệt trong lối sống của hai cộng đồng ngư dân có nguồn gốc, môi
trường cư trú khác nhau.
Luận án tạo cơ sở khoa học để cấp ủy, chính quyền địa phương tham khảo
trong việc đề ra các giải pháp giúp cộng đồng ngư dân hai làng chài khắc phục khó
khăn, phát huy thuận lợi, phát triển theo hướng bền vững.
3
Luận án góp phần nghiên cứu những vấn đề lý luận về lối sống, về làng xã,
về ngư dân; là tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh
viên nghiên cứu về ngư dân.
6. Bố cục của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận án được chia
thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết, phương pháp và
địa bàn nghiên cứu
Chương 2: Lối sống của ngư dân làng chài Nam Hải

Chương 3: Lối sống của ngư dân làng chài Ngọc Sơn
Chương 4: Kết quả và bàn luận.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,
PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu về lối sống của các tác giả nước ngoài
Thuật ngữ “lối sống” lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà Tâm lý học người
Áo Alfred Adler (1870-1937). Lối sống hay phong cách sống, nếp sống là những
nét điển hình, được lặp đi lặp lại và định hình thành phong cách, thói quen trong đời
sống cá nhân, nhóm xã hội, dân tộc, hay cả một nền văn hóa.
Trên thực tế, từ khoảng giữa thế kỷ XIX, vấn đề lối sống đã được nhiều nhà khoa
học thuộc các ngành Xã hội học, Triết học, Dân tộc học/ Nhân học, Văn hóa học nghiên
cứu, bởi đây được coi là chủ đề hay, phản ánh được hiện thực của đời sống văn hóa - xã
hội của mỗi nước, mỗi vùng, mỗi dân tộc hay mỗi nhóm, giai tầng xã hội.
Khi nghiên cứu lối sống với tư cách là một thực thể văn hóa, nhà nhân học
người Mĩ L.H.Morgan và nhà Nhân học văn hóa người Anh E.B.Tylor dưới ảnh
hưởng học thuyết tiến hóa của Charles Darwin đều nhấn mạnh, văn hóa là phương
thức riêng biệt của loài người nhằm thích ứng với hoàn cảnh, là dạng thức tâm lý
của tộc người; tâm lý này và xã hội mà nó gắn bó đều phát triển tiến hóa theo các
giai đoạn từ thấp đến cao [85, tr.18].
B.K.Malinowski, nhà Nhân học sáng lập ra trường phái Chức năng cho rằng
bất cứ nền văn hóa nào trong tiến trình phát triển cũng đều tạo ra một hệ thống cân
bằng và ổn định, trong đó mỗi bộ phận của chỉnh thể đều thực hiện chức năng của
mình. Ông nhấn mạnh “Truyền thống theo cách nhìn sinh học là sự tiến hóa thích
nghi tập thể của cộng đồng đối với môi trường của nó” [85, tr.23].
5
C.L.Strauss và những người trong trường phái Cấu trúc luận cho rằng, văn
hóa là một hệ thống do các phương thức phản ứng có tính chất là những tập quán,

liên quan tới nhau, nương tựa vào nhau tổ chức thành [85, tr. 26].
A.Kroeber và C.Kluckhohn, xuất phát từ quan điểm của trường phái Ký hiệu
- văn hóa học, đã định nghĩa, “Văn hóa bao quát các mô thức hành vi hiển hiện ra
bên ngoài hoặc tiềm ẩn bên trong, thông qua việc vận dụng ký hiệu, người ta học
tập và truyền thụ chúng. Hệ thống văn hóa tuy được coi là sản phẩm do hoạt động
của con người tạo ra, nhưng nó cũng có thể được coi là những nhân tố hiệu chỉnh,
hạn chế hoạt động của con người” [85, tr.29].
G. Condominas (1997) trong cuốn Không gian xã hội vùng Đông Nam Á
[15], sau khi điểm tình hình nghiên cứu Nhân học ở các nước thuộc thế giới thứ ba
có đề cập đến vấn đề không gian xã hội, ông đã chỉ ra các quan điểm, các trường
phái nghiên cứu về vấn đề này, giới hạn các khái niệm, các khía cạnh nghiên cứu
của “Không gian xã hội”. Trên cơ sở đó, ông đưa ra các khảo sát về không gian xã
hội của một số tộc người như Thái, Lào, Ra đê, Việt, đặc biệt các tư liệu rất sâu về
người Mnông Ga trên các phương diện: dân cư, họ hàng, trao đổi, kiêng kỵ, nghi lễ.
Qua đó, có thể hiểu được văn hóa đặc trưng của từng tộc người, sự khác biệt của tộc
người này với tộc người khác.
Có thể nói, trong quan niệm về văn hóa của các nhà Nhân học trên đây tuy
không đề cập đến một cách trực tiếp lối sống nhưng đều đã nhấn mạnh những dạng
thức của nó như tập quán, truyền thống, tâm lý tộc người, mô thức các hành vi biểu
hiện bên ngoài hoặc tiềm ẩn bên trong…Tuy quan điểm có khác nhau, nhưng những
nghiên cứu của họ để đi đến khẳng định những biểu hiện phong phú của văn hóa
hay cũng chính là lối sống làm cơ sở lý thuyết trong nhân học, đặc biệt khi nghiên
cứu một cộng đồng, tộc người hay một nhóm nào đó.
Cùng quan điểm của các nhà Dân tộc học/ Nhân học, dưới góc độ của Xã hội học,
các nhà nghiên cứu đã xây dựng cơ sở lý thuyết của lối sống, phân biệt lối sống với điều
kiện sống, chỉ ra cơ cấu của lối sống và điều kiện sống. Các nhà khoa học xã hội khẳng
6
định lối sống không phải là sự tái tạo một cách thụ động, tự động và công thức những tác
động xuất phát từ hệ thống xã hội, và đặc biệt là từ phương thức sản xuất. Mọi người đều
thuộc vào những giai cấp, nhóm tộc người, dân tộc khác nhau, có quá khứ, truyền thống,

phong tục và quyền lợi khác nhau. Vì vậy, trong khuôn khổ của cùng một chế độ xã hội,
trên cơ sở của một phương thức sản xuất chung, lối sống của những người thuộc nhóm xã
hội khác nhau, ngoài những nét chung còn có những điểm đặc thù; khi các điều kiện tự
nhiên, xã hội thay đổi, các hoạt động của con người phải thích nghi để có thể tồn tại, tất
yếu sẽ diễn ra sự biến đổi lối sống [28, tr. 215].
1.1.2. Nghiên cứu về lối sống của các tác giả Việt Nam
Lối sống được các nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm từ lâu với nhiều cách
tiếp cận khác nhau. Nếu hiểu lối sống gồm các thành tố: đời sống vật chất (sinh kế,
sinh hoạt vật chất: ăn, mặc, ở, phương tiện đi lại); đời sống xã hội (gia đình, dòng
họ, tập quán pháp) và đời sống tinh thần (tín ngưỡng, tôn giáo, hội hè, đình đám,
văn hóa nghệ thuật) thì lối sống được trình bày trong các giản chí Dân tộc học về
các tộc người, các cộng đồng cư dân. Đối với người Việt, lối sống được đề cập một
phần trong các quốc địa chí như Lịch triều hiến chương loại chí [19], Đại Nam nhất
thống chí [135]; tỉnh chí, như Sơn Tây tỉnh chí [27], Bắc Ninh địa dư chí [133]; các
xã chí, như Đông Ngạc xã chí [55], Thượng cổ xã Tam Sơn đồng dân công ước chí
[54]. Từ đầu thế kỷ XX trở đi, các nghiên cứu về lối sống lần lượt được nghiên cứu
một cách bài bản, với các tác phẩm Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính [4], Việt
Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh [2].
Trong khoảng 30 năm trở lại đây, các nghiên cứu về lối sống được đẩy mạnh.
Ngoài các tác phẩm bàn về lối sống dưới các góc độ Chính trị học, Triết học, Đạo
đức học bàn đến lý luận về lối sống, đặc trưng lối sống Việt Nam, giải pháp giữ gìn
và phát huy những nét đẹp, loại bỏ những hủ tục trong lối sống giúp người dân thích
nghi với sự phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, còn có
một lượng lớn công trình khảo cứu về từng lĩnh vực cụ thể của lối sống, như tín
ngưỡng, tục lệ, nghi lễ trong tang ma, cưới xin, sinh đẻ, thiết chế xã hội. Ngoài lối
7
sống của cư dân nông thôn, còn có các tác phẩm về lối sống đô thị: Lối sống trong
đời sống đô thị hiện nay của Lê Như Hoa [44]; Văn hóa và lối sống đô thị Việt Nam
một cách tiếp cận của Trương Minh Dục [25]; cả lối sống của giáo dân, như Lối
sống đạo của người công giáo Việt Nam của Nguyễn Hồng Dương [23].

Dưới đây, chúng tôi nêu một số tác phẩm tiêu biểu nhất.
Cuốn Tìm hiểu cảnh quan đồng bằng (1983) do Trần Từ chủ biên nhìn
nhận lối sống từ góc độ ứng xử của con người trước môi trường cảnh quan. Các
tác giả lấy bốn làng tiêu biểu cho các dạng cảnh quan: trung du, đồng chiêm,
đồng mùa và ven biển để nhìn nhận lối sống của người nông dân, thể hiện qua
phương thức mưu sinh (bố trí mùa vụ, vật nuôi cây trồng, sử dụng các công cụ,
kỹ thuật, bố trí lịch làm ăn, giải trí…) [93]. Có thể coi đây là “mẫu” cho hướng
nghiên cứu Nhân học môi trường và Nhân học dưới góc nhìn Sinh thái học văn
hóa và Không gian văn hóa.
Cuốn Văn hóa lối sống và môi trường (1998) do Chu Khắc Thuật chủ biên
gồm các bài viết đề cập những vấn đề chung về các khía cạnh trong lối sống truyền
thống của con người Việt Nam. Đó là, đối lập với “Con người chinh phục thiên
nhiên” của phương Tây, con người phương Đông hài hòa với tự nhiên. Một số bài
viết bàn về môi trường tự nhiên và môi trường sản xuất; môi trường xã hội và tiêu
dùng trong đời sống hàng ngày; ảnh hưởng của môi trường đến con người và ngược
lại [121]. Tuy nhiên, sách chưa phân tích lối sống theo các trục cơ bản (đời sống vật
chất, đời sống tinh thần và đời sống xã hội) để thấy được một cách sâu sắc hơn lối
sống con người Việt Nam truyền thống và hiện đại.
Nguyễn Từ Chi trong cuốn Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người (1996),
khi viết về ảnh hưởng của cảnh quan đến văn hóa của tộc người đã khẳng định có hai yếu
tố quy định diện mạo nền văn hóa và lối sống của một tộc người, đó là môi trường tự
nhiên mà tộc người đó cư trú và nguồn gốc tộc người. Ông chỉ rõ: “Cư dân sống trên
đồng cỏ thảo nguyên, nơi có nhiều muông thú họ phát triển nghề đi săn. Một loạt lề thói
hay nói hoa mỹ hơn, một loạt ứng xử văn hóa được hình thành để phù hợp với cuộc sống
8
du mục…Các dân tộc sống trong môi trường khác nhau có nền văn hóa khác nhau. Sau
đó, vì một hoàn cảnh nào đấy họ đến cư trú ở môi trường khác, một loạt lề thói được hình
thành để thích nghi với môi trường mới nhưng văn hóa cũ vẫn để lại những dấu ấn hết
sức quan trọng trong nền văn hóa mới” [16, tr. 627]. Trên cơ sở chỉ ra trong những môi
trường khác nhau, con người có những ứng xử khác nhau và “Các môi trường thiên

nhiên chính tạo nên diện mạo văn hóa tộc người” [16, tr. 629]. Điều đó cho thấy khi
nghiên cứu văn hóa hay lối sống của tộc người nào đó không thể bỏ qua môi trường mà
họ sinh sống và những lề thói được hình thành.
Dù chưa trực tiếp đề cập đến lối sống và biến đổi lối sống của tộc người trước kia
và hiện nay, song kết quả của các công trình nghiên cứu trên là những tham khảo có giá
trị đối với chúng tôi khi tiếp cận về lối sống của ngư dân làng chài.
1.1.3. Tình hình nghiên cứu về ngư dân làng chài
1.1.3.1. Nghiên cứu về ngư dân làng chài ở nước ngoài
Nghiên cứu về ngư dân trên thế giới tập trung vào tìm hiểu những vấn đề
trong nghề cá, dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong Nhân học biển (Maritime
Anthropology), có thể nêu một số tác phẩm nghiên cứu về ngư dân và nghề cá sau:
James M. Acheson (1981), với bài viết Anthropology of fishing đã nhìn nhận
sự thích nghi với môi trường biển là một thành tựu nổi bật của con người, có thể nói
những nhận định của tác giả là đóng góp ban đầu cho các nhà nhân học nghiên cứu
về nghề cá [144].
Nhà nhân học Mỹ James R. Mc Goodwin (1990) đã tập trung hầu hết các công
trình nghiên cứu của ông về cộng đồng ngư dân và quản lý nghề cá. Trong cuốn Crisis in
the wold

s fisheries: people, problems, and policies [145], ông đã chia sẻ các quan điểm
Nhân học liên quan đến cộng đồng ngư dân thế giới. Cuốn sách cung cấp một cái nhìn
tổng quan các khía cạnh của nghề cá như văn hóa, kinh tế, chính trị, môi trường, những
vấn đề đe dọa ngư dân trên thế giới, và đánh giá một cách cơ bản về chính sách quản lý
nghề cá. Tuy nhiên, nội dung cuốn sách đề cập đến nghiên cứu nghề cá ở tầm vĩ mô, chưa
9
bàn đến trường hợp cụ thể nhằm thấy được một cách chi tiết và cụ thể hơn ảnh hưởng
của các yếu tố khác nhau đến cư dân làm nghề cá.
Chandana Sarmai và A.N.M Irshad (2005) thuộc bộ môn Nhân học trường
Đại học Cotton và Sở Nhân chủng học trường đại học Guwhati đã có công trình
nghiên cứu về kinh tế xã hội của của cộng đồng ngư dân ở Asam, Ấn Độ. Dựa trên

kết quả nghiên cứu vào năm 1999 và năm 2005, các tác giả đã mô tả về công cụ và
các hoạt động đánh bắt cá của ngư dân trong các mùa, tổ chức lao động, những
kiêng kỵ, tình trạng giáo dục, cấu trúc, tổ chức xã hội và ảnh hưởng của đô thị hóa
đến cuộc sống, đặc biệt là sự thay đổi nghề nghiệp của thế hệ trẻ của ngư dân làm
nghề cá quy mô nhỏ ở làng Boripara thuộc ngoại ô thành phố Guwahati . Tuy nhiên,
các tác giả chưa chỉ ra nguyên nhân sâu xa của những thay đổi trong cuộc sống của
ngư dân ở Assam và những định hướng có tính chiến lược cho sự phát triển bền
vững nghề cá quy mô nhỏ ở đây.
Edward W.Glazier (2006) là người nghiên cứu ứng dụng nhân học ở Mỹ
trong nhiều năm về ngư dân ở Hawaii. Trong cuốn Hawaiian fishermen (casse
tudies in cultural anthropology) [141], ông mô tả về các hình thức đánh cá bằng
thuyền nhỏ và lối sống ngư dân Hawaii, ảnh hưởng đến tương lai của ngư dân.
Cuốn sách của ông là một điển hình trong nghiên cứu trường hợp về ngư dân với
nghề cá quy mô nhỏ. Tác giả đã đưa ra một cái nhìn sâu sắc dưới góc độ Nhân học
và Xã hội học về văn hóa địa phương với đặc trưng của những người đánh cá. Do
tập trung vào một cộng đồng ngư dân với nghề cá quy mô nhỏ mà tác giả chưa so
sánh với những cộng đồng ngư dân khác để thấy được điểm giống và khác nhau
trong lối sống của ngư dân Hawaii với cộng đồng ngư dân khác.
Ricardo Perez (2006) trong cuốn The State and small - scale fisheries in
Puerto Rico, dựa trên nghiên cứu nhân học và lịch sử ở Puerto Rico từ năm 1996
đến năm 2002, dựa vào tư liệu phỏng vấn với ngư dân, đại lý thủy sản và các nhà
khoa học, các quan chức chính phủ, cùng với các cuộc điều tra hộ gia đình ngư dân
và các nghiên cứu lưu trữ, Perez phân tích sự phát triển kinh tế nông thôn ở bờ biển
10
phía nam của đảo; đề cập đến sự can thiệp của chính phủ trong chính sách thủy sản
tạo ra mâu thuẫn giữa phát triển, hiện đại hóa thủy sản và việc bảo tồn nguồn cá
[147]. Nghiên cứu về ngư dân trên đảo Puerto Rico của Perez chủ yếu tập trung vào
kinh tế hộ gia đình, chưa đi sâu phân tích về văn hóa của cộng đồng ngư dân.
Daryl Mc Phee (2008) là tiến sĩ Triết học làm việc tại Viện Phát triển bền
vững, Đại học Bond nghiên cứu quản lý nghề cá và thẩm định các dự án ven

biển. Trong cuốn sách Fisheries Management in Australia [140], tác giả phân
tích một cách toàn diện về quản lý nghề cá ở Úc, trong đó có quản lý hành vi
con người, xem xét hệ sinh thái và các thành phần của nó. Cuốn sách còn đề cập
đến các chủ đề như sự chia sẻ nguồn lợi giữa các ngư dân, giảm thiểu đánh bắt
và quản lý môi trường sống của thủy sản, môi trường pháp lý và chính sách hiện
hành, quy hoạch công viên biển. Tác giả đưa ra những kinh nghiệm về quản lý
nghề cá quy mô lớn ở tầm quốc gia, song những vấn đề của nghề cá ở địa
phương chưa được tác giả đề cập đến.
Dean Adams (2012) là người tham gia đánh cá trên tàu từ năm 15 tuổi, sau
đó đã theo học đại học và có bằng cử nhân, thạc sĩ của khoa Thủy sản (Đại học
Washington). Cuốn Four thousand hooks của ông thực sự là hồi ký trung thực mô tả
về phương pháp đánh bắt, sự tương tác giữa các thành viên trên tàu đánh cá, cách
sống và làm việc của gia đình, nền văn hóa biển vùng Alaska [137].
Jonh Clammer trong cuốn Bức khảm văn hóa châu Á (2001) đã nêu ra hệ
thống tổ chức kinh tế và phương thức kiếm sống của những người săn bắn, hái
lượm, canh tác nương rẫy, nông dân, người chăn nuôi và ngư dân. Đối với ngư dân,
tác giả cho rằng đây là vấn đề thu hút sự chú ý trong Nhân học bởi phần lớn khu
vực Đông Nam Á là gần biển. Tổ chức kinh tế, xã hội của ngư dân thay đổi theo vị
trí sinh thái, trình độ kỹ thuật và mối quan hệ của họ với chế độ kinh tế rộng lớn
hơn. Tác giả còn nhìn nhận một số cách đánh bắt cá nhất là đánh bắt gần bờ, đã phụ
thêm vào nền nông nghiệp trên bờ [21, tr. 209]. Trong nghiên cứu của Jonh
11
Clammer chưa đi sâu phân tích về văn hóa của ngư dân ở các quốc gia trong khu
vực, những điểm tương đồng và khác biệt về phong tục, tập quán của họ.
Những công trình nghiên cứu của các tác giả nói trên phản ánh các khía cạnh
của nghề cá quy mô nhỏ và lớn; từ các nghiên cứu trường hợp đến tầm quốc gia,
quốc tế về ngư dân, sinh thái biển, quản lý nguồn thủy, hải sản; tạo cơ sở khoa học
cho những nhà hoạch định chính sách và quản lý nghề cá, giúp phát triển bền vững
nghề cá ở từng cấp độ là tham khảo cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với các nhà
Nhân học biển Việt Nam khi nghiên cứu về nghề cá và ngư dân. Tuy nhiên, những

nghiên cứu nói trên ở tầm quốc gia, quốc tế chưa thể phản ánh hết đặc trưng trong
lối sống của từng cộng đồng ngư dân, việc tiếp tục phản ánh về phương thức mưu
sinh, văn hóa, tín ngưỡng…của các nhóm ngư dân sẽ tiếp tục vẽ thêm bức tranh về
ngư dân, giúp xã hội hiểu thêm về lối sống của họ.
1.1.3.2. Nghiên cứu về ngư dân làng chài ở Việt Nam
Từ năm 1985 trở về trước, nghiên cứu về ngư dân ở Việt Nam còn lẻ tẻ, được
lồng vào nghiên cứu chung, chưa được tách ra độc lập. Nhà Dân tộc học Nguyễn Từ
Chi đã bàn đến ứng xử của người nông dân trước môi trường biển [16, tr. 622-665].
Ông nhấn mạnh “Mặc dù không có truyền thống về biển, nhưng do tiếp xúc với
biển đã khá lâu nên ở vùng biển người Việt đã hình thành một số tập quán sông
nước” [16, tr. 654]. Bên cạnh đó, một số bài đăng trên Tạp chí Dân tộc học của
Diệp Trung Bình [10], Nguyễn Dương Bình [11]; [12]; [13], Đoàn Đình Thi [108]
phản ánh về tình hình các làng xã làm nghề cá ở ven biển phía Bắc, những vấn đề
có liên quan đến đến cư dân ven biển như việc khai thác nguồn lợi từ thời xa xưa,
tình hình nghiên cứu về nguồn lợi, mức độ khai thác và bảo quản lâu bền nguồn lợi
cá biển Việt Nam. Ngoài ra, trong một số công trình về văn hóa Việt Nam nói
chung, Trần Quốc Vượng, Ngô Đức Thịnh đề cập đến yếu tố biển trong văn hóa
Việt ở Bắc Bộ với nhận định “Văn hóa Việt Nam xa rừng, nhạt biển” hay “Việt
Nam chúng ta xưa kia cũng như ngày nay không có một văn hóa biển điển hình, mà
12
chỉ là những yếu tố văn hóa biển đan xen với văn hóa nông nghiệp tạo nên một sắc
diện văn hóa đặc thù của cư dân ven biển” [117, tr. 732].
Từ những năm 90 trở đi, nghiên cứu về văn hóa biển, về cộng đồng ngư dân
được đẩy mạnh, nhiều tác phẩm về biển được xuất bản.
Trước hết là các công trình nghiên cứu chung, như Biển trong văn hóa
người Việt của Nguyễn Thị Hải Lê [70]; Biển với người Việt cổ của Trần Quốc
Vượng - Cao Xuân Phổ [132] nêu vị trí của biển trong đời sống kinh tế- xã hội và
văn hóa của người Việt từ trước đến nay.
Cuốn Phát triển kinh tế - xã hội và môi trường các tỉnh ven biển Việt Nam
(2003) do Đỗ Hoài Nam chủ biên đã phác họa thực trạng kinh tế, tác động của yếu

tố kinh tế đến các vấn đề y tế, giáo dục, văn hóa trong bối cảnh kinh tế thị trường và
những biển đổi khí hậu của các tỉnh ven biển trong thời kỳ đổi mới [76]. Với những
đánh giá chung về kinh tế - xã hội của các tỉnh ven biển, tác giả chưa bàn đến ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu đến lối sống của cư dân ven biển.
Nguyễn Duy Thiệu là người có những nghiên cứu về ngư dân. Ngoài các bài
viết đăng tải trên các tạp chí về vấn đề này, ông có cuốn Cộng đồng ngư dân ở Việt
Nam [109], giới thiệu các cộng đồng ngư dân với việc khai thác nguồn lợi hải sản
gắn với lịch con nước, các loại công cụ đánh bắt; đời sống văn hóa tinh thần qua các
hình thái thờ cá ông, thờ thành hoàng, thờ mẫu Thoải. Đây có thể coi là bức tranh
chung nhất được phác họa về cuộc sống của ngư dân Việt Nam. Tuy nhiên, cuốn
sách chưa tìm hiểu về những biến đổi trong hoạt động lao động sản xuất, sinh hoạt
văn hóa của ngư dân Việt Nam.
Thứ hai là các công trình nghiên cứu về các làng quê, các vùng biển, chủ
yếu dưới góc độ văn hóa dân gian, tiêu biểu là các công trình, cuốn sách dưới đây.
Đề tài Điều tra khảo sát những vấn đề khảo cổ học và thực trạng kinh tế - xã
hội, phong tục tập quán phục vụ di dân tại huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, do
Trung tâm nghiên cứu và tư vấn về phát triển thực hiện (1996) có phần khảo sát về
các làng xã vùng biển Dung Quất của Bùi Xuân Đính, đưa ra các thông tin khá cụ
13
thể về các hình thức đánh bắt thủy sản gắn với các quan hệ “đậu thuyền chung
lưới”, thuê mướn lao động, cùng các hình thức tín ngưỡng, kiêng kỵ của ngư dân
các làng trong vịnh Dung Quất [29].
Văn hóa dân gian làng ven biển do Ngô Đức Thịnh (chủ biên 2000), đề cập đến
khía cạnh lịch sử và văn hóa dân gian của các làng ven biển tiêu biểu (Trà Cổ, Quan Lạn,
Đồ Sơn, Kẻ Mom, Phương Cần, Cửa Sót, Nhượng Bạn, Cảnh Dương và Thuận An…)
[115]. Nghiên cứu của tác giả giúp nhìn nhận một cảnh tổng thể bức tranh dân gian của
các làng ven biển nhưng tác giả chưa đề cập đến sự biến đổi của các yếu tố văn hóa dân
gian dưới những thay đổi điều kiện sống của cư dân ven biển.
Nhà Nghiên cứu Dân tộc học Đoàn Đình Thi trong cuốn Tiền Hải miền
quê lấn biển rút ra từ luận án phó tiến sĩ của ông thông qua các tư liệu về quá

trình khai hoang vùng ven biển đầu thế kỷ XIX để lập thành các làng xã thuộc
huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình ngày nay, chỉ ra được cung cách ứng xử của
người Việt với biển là “đẩy đồng bằng ra biển”, lập các làng xã theo “nguyên
bản” trong nội đồng, từ cấu trúc làng xóm về mặt vật chất, đến các thiết chế tổ
chức, các quan hệ xã hội, các thiết chế văn hóa… Qua nghiên cứu, Đoàn Đình
Thi cung cấp một trong những cơ sở nhìn nhận về nguồn gốc cư dân ven biển,
điểm giống và khác giữa làng ven biển và làng trong nội đồng. Nhưng tác giả
chưa bàn sâu đến những khó khăn và thách thức của cư dân làng ven biển trước
những biến đổi của điều kiện tự nhiên và xã hội.
Cuốn Địa chí Quảng Ninh tập 2 có phần viết mô tả khá chi tiết về cuộc sống
của hai làng chài Giang Võng và Trúc Võng trong vịnh Hạ Long, từ các hình thức
đánh bắt, đến chiếc thuyền - phương tiện để kiếm sống của dân vạn chài, cũng là
mái nhà của một gia đình; phân công lao động trong một gia đình, các mối quan hệ
gia đình, dòng họ, cơ cấu tổ chức làng xã truyền thống [96, tr. 56 - 72]. Song tác giả
chưa so sánh sự giống và khác nhau về đời sống của cư dân hai làng khi cùng có
cảnh quan và môi trường cư trú giống nhau.
14
Nguyễn Đăng Vũ (2003) với luận án tiến sĩ lịch sử “Văn hóa dân gian của
cư dân ven biển Quảng Ngãi” phản ánh khá toàn diện bức tranh văn hóa dân gian
của cộng đồng cư dân nơi đây: từ tín ngưỡng, lễ hội cho đến nghệ thuật diễn xướng
dân gian, nghệ thuật tạo hình dân gian, ngữ văn dân gian [131]. Với trọng tâm
nghiên cứu về văn hóa dân gian làng biển ở Quảng Ngãi nên tác giả chưa nghiên
cứu sâu về phương thức mưu sinh của ngư dân và ảnh hưởng của nó đến văn hóa
dân gian của bộ phận cư dân này.
Trần Hồng Liên (2004) trong cuốn Cộng đồng ngư dân Việt ở Nam Bộ phản
ánh những nét truyền thống đậm đặc của ngư dân Nam Bộ trên các mặt: kinh tế, văn
hóa, xã hội qua hai cộng đồng ở xã Phước Tỉnh, huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu và xã Vàm Láng, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang, nêu ý kiến về
kế thừa và phát huy trong giai đoạn hiện nay; những biện pháp giúp ngư dân có thể
vươn lên nắm lấy những tiến bộ khoa học kỹ thuật, làm chủ đời sống đánh bắt. Tác

giả mới chỉ đề cập đến cuộc sống của ngư dân sống chủ yếu dựa vào nguồn lợi từ
biển; chưa đề cập đến một bộ phận làm nghề chài lưới trên sông, ven sông [69].
Cuốn Vai trò của nam chủ hộ ngư dân ven biển trong bước chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay (1999) của Nguyễn Đình Tấn và Lê Tiêu
La phân tích đặc điểm nghề nghiệp quy định vị thế của người nam giới trong đời
sống gia đình ngư dân, tâm lý và khát vọng có con trai của ngư dân [88]. Tác giả đã
đóng góp một phần quan trọng vào việc nghiên cứu về vai trò của giới trong sự phát
triển kinh tế gia đình ngư dân nói riêng và kinh tế đất nước nói chung. Tuy nhiên,
những ảnh hưởng từ lối sống ngư dân đến môi trường tự nhiên, đặc biệt là môi
trường kinh tế - xã hội lại chưa được đề cập đến trong nghiên cứu.
Dưới góc độ xã hội, luận án tiến sĩ sử học của Phạm Văn Tuấn nghiên cứu về
Cơ cấu tổ chức xã hội truyền thống của làng Việt ven biển huyện Hậu Lộc, tỉnh
Thanh Hóa [83]. Qua nghiên cứu, tác giả đã phác họa một cách đầy đủ nhất tổ chức
xã hội truyền thống của làng ven biển ở Hậu Lộc, Thanh Hóa. Song nghiên cứu của
15
tác giả mới chỉ đề cập tổ chức xã hội trong đời sống cư dân ven biển mà chưa khắc
sâu được sự biến đổi lối sống của bộ phận cư dân này.
Phạm Thanh Tịnh (2012) với luận án tiến sĩ Văn hóa dân gian người Bồ Lô ven
biển Hà Tĩnh đã nêu lên những đặc trưng của người Bồ Lô trên hai bình diện: những tri
thức, tín ngưỡng dân gian gắn liền với biển và nếp sống của cư dân trên thuyền, đặc biệt ở
ba lĩnh vực lớn đó là đời sống văn hóa tinh thần, đời sống văn hóa vật chất, tổ chức xã hội
[98]. Nghiên cứu đã phác họa một cách rõ nét văn hóa dân gian của người Bồ Lô khắc
sâu trong nếp sống của họ. Tuy nhiên, tác giả chưa so sánh một cách hệ thống văn hóa
của người Bồ Lô với văn hóa của cộng đồng ngư dân khác để thấy được điểm tương
đồng và khác biệt giữa các cộng đồng ngư dân.
Thứ ba là các công trình nghiên cứu về các khía cạnh chuyên sâu của ngư
dân ở các vùng ven biển.
Dưới góc độ kinh tế và ứng xử với môi trường, tiêu biểu là các cuốn sách
Ngư cụ thủ công truyền thống chủ yếu của nghề cá Kiên Giang của Đoàn Nô
[77], Nghề đóng ghe xuồng tại Nam Bộ của Võ Công Nguyện [79], Luận văn

thạc sĩ Văn hóa học Văn hóa ứng xử với biển của người Việt miền Tây Nam Bộ
của Nguyễn Hữu Nghị [78].
Dưới góc độ tín ngưỡng và phong tục, có thể nêu một số công trình như Lễ
hội dân gian của ngư dân Bà Rịa - Vũng Tàu của Phan An, Đinh Văn Hạnh [1], Tín
ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng (hình thái, đặc trưng và giá trị) của
Nguyễn Xuân Hương [61], Văn hóa tín ngưỡng cộng đồng ngư dân ven biển Bến
Tre của Dương Hoàng Lộc [71].
Nhìn chung, các công trình công bố đã đề cập những vấn đề sau đây:
- Quá trình hình thành của cộng đồng ngư dân hay quá trình chiếm lĩnh vùng
ven biển và hải đảo ở Việt Nam.
- Các bộ phận ngư dân khác nhau sinh sống trong các làng chài thuộc các dạng môi
trường cảnh quan khác nhau, có các hoạt động mưu sinh khác nhau, cụ thể là các phương
16
thức khai thác thủy sản, dựa vào các loại hình công cụ đối với các loại hình thủy sản. Mưu
sinh là yếu tố có ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống ngư dân.
- Các đặc điểm về văn hóa của ngư dân được hình thành từ yếu tố biển, thể
hiện ở nhận biết về ngư trường, các hình thái tín ngưỡng, các sinh hoạt văn hóa dân
gian, lễ hội.
Tuy nhiên, các công trình trên bộc lộ nhiều mặt bất cập, tức nhiều vấn đề về
ngư dân mà các công trình nghiên cứu chưa đề cập đến đó là:
- Chú trọng phản ánh các khía cạnh của đời sống ngư dân, trong khi lối sống
chưa được đi sâu phân tích.
- Đời sống và lối sống ngư dân mới chỉ được đề cập đến trong các khảo cứu
Dân tộc học, chưa được tách ra là một nghiên cứu độc lập.
- Tập trung nghiên cứu các khía cạnh của đời sống và lối sống truyền thống
của ngư dân, chưa lưu tâm đến các vấn đề của xã hội hiện đại, hay biến đổi của lối
sống dưới tác động của các điều kiện hiện nay, nhất là những bức xúc của ngư dân
trong bối cảnh kinh tế - xã hội, biến đổi khí hậu đang diễn ra.
- Chưa đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa thay đổi của môi trường cảnh
quan với sự biến đổi về văn hóa - xã hội của ngư dân.

- Các nhóm ngư dân theo Công giáo chưa được chú ý nghiên cứu.
Như vậy, có thể nói, các nghiên cứu về lối sống, đặc biệt là lối sống của cư
dân làng chài ở Hải Phòng còn thiếu vắng, còn nhiều điểm bỏ ngỏ…; song vẫn là tư
liệu quý để chúng tôi tham khảo cho luận án này.
1.2. Lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Lối sống
Trong tiếng Anh, lối sống được diễn đạt là “way of life” hay “mode of life”;
“life style” hoặc “life form”. Lối sống là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học
17
xã hội, từ trước đến nay đã có nhiều cách tiếp cận lối sống khác nhau. Dưới đây,
chúng tôi xin giới thiệu một vài cách tiếp cận về lối sống.
Dưới góc độ Triết học, Đặng Quang Thành định nghĩa lối sống là tổng hòa
những hoạt động sống ổn định của cộng đồng (dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội ) và
các cá nhân, được vận hành theo những chuẩn giá trị xã hội nào đó trong sự thống
nhất với các điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định [106].
Dưới góc độ của Xã hội học, các nhà nghiên cứu của Liên Xô (cũ) phân tích
cơ cấu, nội hàm của phạm trù lối sống và giới thiệu định nghĩa “Lối sống là tổng
hòa những hoạt động sống điển hình đối với một xã hội nhất định được xét thống
nhất với các điều kiện hoạt động” [89, tr. 66].
Chu Khắc Thuật, Mai Quỳnh Nam và đồng nghiệp (1998) định nghĩa: “Lối
sống trong một chừng mực nhất định, là cách ứng xử của con người cụ thể trước
những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của môi trường sống” [121, tr. 21].
Trịnh Duy Luân (2004) cho rằng “lối sống dùng để chỉ các khuôn mẫu hành
vi, ứng xử của cá cá nhân, các nhóm xã hội trong hoàn cảnh, điều kiện sống, tình
huống cụ thể” [73, tr. 129].
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: Lối sống là toàn bộ những hình
thức hoạt động sống của con người trong một xã hội nhất định được xem xét thống
nhất với các điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Lối sống bao gồm những mặt cơ bản:
lao động vốn là nhu cầu sống hàng đầu, là giá trị lớn nhất trong bậc thang giá trị xã

hội, là điều kiện biểu thị nội dung xã hội và là nền tảng phát triển toàn diện cá nhân
con người; tính tích cực chính trị - xã hội là thể hiện sự tham gia của các giai cấp và
các tầng lớp xã hội vào các tổ chức xã hội, vào việc quản lí, kiểm tra xã hội và nhà
nước trong các lĩnh vực khác nhau, ở các cấp độ khác nhau; sinh hoạt tinh thần là
các hoạt động liên quan đến nhu cầu phi sản xuất vật chất nhằm khôi phục và phát
triển sức lực con người, tổ chức đời sống văn hóa, tinh thần trong thời gian tự do
ngoài lao động sản xuất ở nơi công tác; văn hóa - giáo dục là những hoạt động nâng
cao trình độ hiểu biết, học vấn để hoàn thiện đạo đức và trí tuệ, tiếp thu những giá trị
18
tinh thần, biến những giá trị văn hóa thành bộ phận khăng khít trong sinh hoạt hàng
ngày trở thành cơ sở cho những chuẩn hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội.
Lối sống có liên quan, ảnh hưởng đến mức sống và chất lượng sống,
gắn liền với trình độ kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của con người và mối
quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, giữa nhà nước và
nhân dân, giữa thành thị và nông thôn, giữa người lao động trí óc và lao
động chân tay [52, tr. 742].
Qua các ý kiến trên, lối sống được định nghĩa là các hoạt động sống của
con người, là ứng xử của con người trước những điều kiện của môi trường
sống. Lối sống khác với đời sống hay hoạt động sống. Hai phạm trù này có
những điểm chung và có mối liên hệ với nhau, song không hẳn đồng nhất với
nhau. Lối sống của một cộng đồng hay một cá nhân không chỉ được bộc lộ ở
các hoạt động sống hay đời sống mà còn phản ánh vào các khuôn mẫu và hành
vi ứng xử, quan niệm về giá trị đạo đức. Lối sống là cái mà người ta thấy ở đó
ý nghĩa tồn tại của mình, vì mỗi cá nhân, cộng đồng sống không phải chỉ cho
mình, vì mình, mà còn vì người khác, cộng đồng khác.
Dưới góc độ Dân tộc học/ Nhân học các nhà nghiên cứu xem xét lối sống trong mối
quan hệ với văn hóa, môi trường. Do đó, lối sống là cách ứng xử của con người trước một
môi trường thiên nhiên và xã hội của họ. Trước một môi trường thiên nhiên, con người phải
tìm cách ứng xử để đảm bảo cuộc sống vật chất như ăn, mặc, ở, đi lại. Trên cơ sở đó, hình
thành môi trường xã hội, bao gồm các thiết chế tổ chức, các mối quan hệ xã hội và các quy

tắc ứng xử trong cộng đồng mà mọi người phải tuân thủ, trở thành tập quán, thành phong
tục và nhiều mặt dần trở thành truyền thống. Bổ sung vào quá trình hình thành môi trường
xã hội, có tác dụng kiểm soát thế ứng xử của mỗi cá nhân là các yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng,
văn học dân gian, các quan niệm đạo đức và những yếu tố này lại tác động trở lại lối sống
của con người [121].
Theo cách đánh giá trên, giữa văn hóa và lối sống có mối quan hệ chặt chẽ, sự hòa
quyện vào nhau. Song lối sống chính là bộ phận hợp thành và biểu hiện cụ thể của văn
19
hóa. Thông qua các dạng thức của lối sống mà văn hóa được bộc lộ, hình thành, củng cố
và phát triển. Ngược lại, những hoạt động sống ổn định khi đã trở thành những “khuôn
mẫu”, “chuẩn mực” lại ảnh hưởng đến việc hình thành lối sống của tộc người. Do đó, có
thể hiểu được văn hóa của tộc người qua các dạng thức của lối sống, hay nói cách khác,
thông qua các hoạt động sống điển hình, ổn định trong một môi trường tự nhiên, xã hội cụ
thể để phản ánh văn hóa đặc trưng của tộc người đó.
Từ những phân tích trên đây, chúng tôi cho rằng lối sống là tổng hòa những
hoạt động sống điển hình của con người được thể hiện qua những hành vi ứng xử
thuộc đời sống vật chất, đời sống tinh thần, đời sống xã hội trong mối quan hệ
thống nhất với môi trường cũng như những điều kiện của một xã hội nhất định.
Với cách tiếp cận lối sống qua những dạng thức cụ thể, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu lối sống của ngư dân qua các mặt: đời sống vật chất (phương thức mưu sinh, ăn, ở,
phương tiện đi lại ); đời sống thần (tôn giáo, tín ngưỡng; lễ hội; phong tục, kiêng kỵ ); đời
sống xã hội (tang ma, cưới xin ). Qua đó, có thể thấy được văn hóa đặc trưng của họ.
Khi nghiên cứu lối sống, các khái niệm như mức sống, chất lượng sống, hoạt
động sống là không thể tách rời, dưới đây chúng tôi giới thiệu và bàn luận quan
điểm của các nhà nghiên cứu về các khái niệm này.
*Mối quan hệ giữa lối sống với mức sống, chất lượng sống, hoạt động sống
Mức sống, là chỉ báo về lối sống, thể hiện ở mức độ thu nhập, trình độ sinh
hoạt, tiêu dùng về vật chất và tinh thần của các cá nhân trong cộng đồng người.
Mức sống là điều kiện quan trọng nhất cho hoạt động sống của con người vì nó quy
định việc con người có thể phát triển và áp dụng năng lực của mình, thỏa mãn các

nhu cầu của mình như thế nào và đến mức nào [39, tr. 48].
Theo quan điểm trên, mức sống đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động
sống của con người. Tuy nhiên, mức sống phản ánh các yếu tố vật chất và tinh thần mà
con người được hưởng. Con người có thỏa mãn được các nhu cầu và phát huy năng lực
bản thân hay không, cải tạo điều kiện sống như thế nào còn phụ thuộc vào mức sống
của họ. Nói như vậy không có nghĩa là tăng hay giảm mức sống thì lối sống tốt lên hay
20
xấu đi. Vì vậy, mức sống không phải là yếu tố duy nhất quyết định đến lối sống của
con người. Mức sống chỉ là mặt khách quan của lối sống. Mức sống và lối sống là hai
khái niệm có liên quan mật thiết với nhau nhưng không đồng nhất.
Chất lượng sống, khi bàn về sự phát triển của con người, các nhà nghiên cứu
cho rằng: chất lượng sống là một trong những khía cạnh quan trọng nhất của sự
phát triển con người, bao gồm các yếu tố: Sung túc về kinh tế; Công bằng trên cơ sở
luật pháp; Bảo hiểm xã hội lúc già và ốm đau; Hạnh phúc cá nhân trong quan hệ gia
đình và bạn bè; Sự tham gia vào đời sống xã hội; Bình đẳng về giáo dục, nhà ở và
nghỉ ngơi; Chống ô nhiễm môi trường ” [121, tr. 34].
Đồng ý với quan điểm trên, nhiều nhà nghiên cứu khẳng định: chất lượng sống
thể hiện trình độ của lối sống. Chúng tôi cho rằng: chất lượng sống là sự tổng hợp cả mặt
chất và lượng của lối sống, nó liên quan đến việc không chỉ thỏa mãn những nhu cầu
trực tiếp của con người (ăn, ở, chữa bệnh, tránh thiên tai ) mà còn thỏa mãn những nhu
cầu cao hơn (hưởng các dịch vụ xã hội, chăm sóc về mặt tinh thần ).
Hoạt động sống, trước đây các nhà nghiên cứu khi nhìn nhận lối sống như là
phương thức hoạt động sống cho rằng hoạt động sống là bất kỳ hoạt động nào theo nghĩa
rộng nhất nhằm thỏa mãn những nhu cầu sống, đảm bảo sự vận hành của cơ thể (trong
trường hợp nào đó, hoặc là một người hoặc là một cơ thể xã hội, hay một bộ phận hợp
thành xã hội), tức là làm việc, nghỉ ngơi, ngủ còn điều kiện là những nhân tố bên ngoài
quy định đặc trưng của hoạt động [89, tr. 65]. Theo cách đánh giá này thì các hoạt động
sống như là những biểu hiện của lối sống. Do đó, dễ làm cho người ta hiểu rằng lối sống
là sự gộp lại các hoạt động sống của con người trong các lĩnh vực của đời sống. Theo
chúng tôi, hoạt động sống là những hoạt động diễn ra trong đời sống của con người

nhằm thỏa mãn nhu cầu nhiều mặt và phải thống nhất với các điều kiện sống. Muốn
nghiên cứu lối sống phải tìm hiểu hoạt động sống của con người trong các mặt của đời
sống cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến những hoạt động đó.
21
1.2.1.2. Biến đổi lối sống
Từ trước đến nay, tuy không đề cập trực tiếp đến biến đổi lối sống nhưng có
nhiều cách tiếp cận khác nhau khi nghiên cứu về biến đổi xã hội. Có thể xem đó là
một trong những cơ sở để nghiên cứu về biến đổi lối sống.
Nhiều nhà nhân học cho rằng các tình huống của đời sống xã hội và chính trị
thường xuyên thay đổi và ý nghĩa văn hóa mới tiếp tục được tạo ra. Marx
Gluckham, nhà nhân học chức năng - cấu trúc luận nhận định biến đổi là một thói
quen [92, tr. 708].
Sahlins - Giáo sư Nhân học, Đại học Chicago (1985) sử dụng cách tiếp cận cấu
trúc luận để tìm hiểu về biến đổi lịch sử Hawaii và chứng minh rằng các thể chế văn hóa
và xã hội tiền sử biến đổi và phát triển thành các các hình thức văn hóa và xã hội tư bản
của Hawaii hiện đại [92, tr. 709]. Với ảnh hưởng bởi học thuyết Tiến hóa mới của White,
Sahlins cho rằng tiến hóa của văn hóa diễn ra đồng thời theo cả hai hướng: văn hóa lặp đi
lặp lại những khắc phục theo kiểu thích ứng hơn với môi trường thì tính đa dạng cũng nảy
sinh; xét một cách tổng thể, sự tiến hóa này sẽ sinh ra sự tiến hóa khác theo dạng từ một
tình trạng thấp hơn hướng đến một tình trạng cao hơn [17, tr. 175; 176].
Qua nghiên cứu của các nhà nhân học cho thấy biến đổi văn hóa (tiến hóa văn hóa)
diễn ra như một tất yếu trong cuộc sống của con người; sự thích ứng (thích nghi) của con
người với môi trường tự nhiên và xã hội là yếu tố cốt lõi của biến đổi văn hóa - xã hội.
Như đã phân tích, lối sống là một bộ phận của văn hóa, do đó có thể xem xét
biến đổi lối sống mang những đặc trưng của biến đổi xã hội. Trên cơ sở đó, chúng
tôi cho rằng biến đổi lối sống là quá trình con người thích nghi và biến đổi với điều
kiện sống; trong đó, con người tiến hành các hoạt động sống một cách sáng tạo để
thích nghi với hoàn cảnh sống (môi trường sống trực tiếp) cũng như biến đổi hoàn
cảnh theo nhu cầu và mục đích sống của con người.
Biến đổi của lối sống có quan hệ đến sự thay đổi của môi trường sống (môi

trường tự nhiên và môi trường xã hội). Biến đổi lối sống biểu hiện cụ thể ở biến đổi
đời sống vật chất; đời sống tinh thần và đời sống xã hội.
22
1.2.1.3. Thích nghi
Trong quá trình biến đổi lối sống bao gồm cả việc con người thích nghi với
môi trường tự nhiên và xã hội. Do vậy, thích nghi là khái niệm được chúng tôi đề
cập đến trong nghiên cứu của mình.
Theo Từ điển Từ và ngữ Việt Nam (2006), thích nghi theo nghĩa chung được
hiểu là hợp với hoàn cảnh, hợp với tình hình [67, tr. 1733].
Đào Thị Minh Hương (2009), khi bàn về thích nghi văn hóa xã hội trong di
cư mưu sinh cho rằng trước hoàn cảnh sống đa dạng, phong phú và phức tạp, con
người phải có những hành vi ứng xử để thích nghi. Đó là những biểu hiện cụ thể
như cải tạo hoàn cảnh sống hay lựa chọn những hành vi phù hợp với hoàn cảnh đó.
Sự thích nghi của con người chính là để đảm bảo con người tồn tại được trong môi
trường tự nhiên và xã hội. Hoàn cảnh sống đặt con người trước sự lựa chọn gay gắt:
hoặc phải thay đổi chính mình để thích nghi với môi trường sống đang biến đổi
nhanh chóng, hoặc sẽ bị gạt ra ngoài phát triển. Tác giả còn cho rằng con người phải
có những hành vi phù hợp với môi trường tự nhiên và xã hội trong đó có cả những
thay đổi của chính bản thân thì con người mới tồn tại và phát triển được [60].
Dù là cách hiểu chung hay đặt trong trường hợp cụ thể, thích nghi chính
là những hành vi ứng xử của con người cho phù hợp với hoàn cảnh sống.
Trong quá trình đó, con người phải vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã
được hình thành cũng như sự nhạy bén trong việc nhận biết về các yếu tố
thuộc môi trường tự nhiên, xã hội nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh
thần. Chúng tôi cho rằng thích nghi là quá trình con người tác động đến môi
trường qua hệ thống hành vi phù hợp, trên cơ sở hiểu biết về các quy luật tự
nhiên, xã hội nhằm đảm bảo cho con người có thể tồn tại và phát triển.
Trên cơ sở đưa ra khái niệm thích nghi, chúng tôi vận dụng vào quá trình nghiên
cứu nhằm tìm hiểu những hành vi ứng xử của ngư dân để thấy được sự tương đồng và khác
biệt của mỗi nhóm ngư dân trước cảnh quan và môi trường cư trú khác nhau.

23
1.2.1.4. Ngư dân
Trong tiếng Anh fisherman được dịch là người đánh cá. Theo Từ điển
Từ và ngữ Việt Nam (2006), ngư dân là thuật ngữ để chỉ người dân làm nghề
đánh cá [67, tr. 1294].
Nguyễn Duy Thiệu (2002) căn cứ vào tập quán cư trú, nguồn lợi mà các
nhóm hướng vào để khai thác, kỹ thuật và công cụ để đánh bắt thủy, hải sản, quan
hệ xã hội, đời sống tôn giáo và tín ngưỡng đã chia cộng đồng ngư dân ở Việt Nam
thành các bộ phận: cộng đồng ngư dân thủy cư đánh cá nước ngọt trên các dòng
sông; cộng đồng ngư dân thủy cư đánh cá nước lợ ở các cửa sông và các vùng đầm
phá; ngư dân bãi dọc; ngư dân bãi ngang; cộng đồng ngư dân thủy cư ở các vịnh;
cộng đồng ngư dân sống trên các đảo nhỏ; cộng đồng ngư dân đánh cá sống trên hồ
thủy điện hoặc hồ tự nhiên [109, tr. 46]. Sở dĩ tác giả phân chia các cư dân đánh cá
với tên gọi khác nhau như vậy là để nhấn mạnh đến phương thức mưu sinh của họ.
Theo chúng tôi, nên có một khái niệm thống nhất về những người làm nghề đánh cá
song vẫn phản ánh được tính đặc trưng trong nghề nghiệp và đời sống của họ.
Trên cơ sở căn cứ vào phương thức mưu sinh, môi trường cảnh quan và địa
bàn cư trú cũng như những nét văn hóa đặc trưng trong đời sống của những cư dân
đánh cá, chúng tôi cho rằng ngư dân là tập hợp những người sống ở gần sông, biển,
hồ, trên các đầm phá hoặc các đảo nhỏ, trong các vũng, vịnh, kiếm sống chủ yếu
bằng nghề đánh cá, địa bàn cư trú và phương thức đánh bắt có ảnh hưởng sâu sắc
đến đời sống vật chất; tinh thần và xã hội của họ.
1.2.1.5. Làng chài
Dựa vào những căn cứ khác nhau, các nhà nghiên cứu đã phân chia các loại
làng Việt. Trong Các tộc người ở Việt Nam, tác giả đã chỉ ra cơ sở phân loại làng và
các loại làng trong xã hội người Việt [31, tr. 100; 101]; Nguyễn Dương Bình (1984)
khi nghiên cứu về làng xã làm nghề cá ven biển của các tỉnh phía Bắc, dựa trên cơ
sở căn cứ vào tình trạng cư trú, cách làm ăn và nghề nghiệp sinh sống, đã phân ra
một số loại hình làng xã của cư dân ven biển [11]. Trong công trình nghiên cứu về
24

Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam, Nguyễn Duy Thiệu phân tích về cơ cấu tổ chức cổ
truyền của các cộng đồng nghề cá ở Việt Nam và chia cộng đồng ngư dân ở Việt
Nam thành 3 nhóm: vạn chài, làng ngư dân, làng ngư dân công giáo [109, tr. 86].
Dù với tên gọi khác nhau, nhưng qua nghiên cứu của các tác giả nói trên có
một loại làng của những người đánh cá được gọi là làng chài hay vạn chài tồn tại
cùng với các làng khác trong xã hội người Việt xưa và nay. Qua tìm hiểu các công
trình nhiên cứu về làng của những cư dân đánh cá, có thể thấy một số điểm đặc thù
so với các làng khác trong xã hội người Việt:
- Tùy từng cảnh quan và môi trường cư trú mà hình thành nên làng của những
người đánh cá với các tên gọi khác nhau: làng thủy cư, làng chài, làng chài công giáo
- Đời sống của ngư dân phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, nhiều khi
đe dọa đến tính mạng của con người nên họ có những điều kiêng kỵ và tập tục riêng
khác với cư dân nông nghiệp [11].
- Tổ chức xã hội truyền thống của ngư dân về cơ bản không khác mấy tổ
chức xã hội của cư dân nông nghiệp nhưng do phải thích nghi với sông nước nên tổ
chức xã hội cổ truyền của ngư dân có những điểm đặc thù riêng [109].
Từ những cách giải thích trên, có thể hiểu làng chài là làng của những người
làm nghề đánh bắt thủy, hải sản, ở ven sông, cửa sông, ven biển, trong các vũng
vịnh, trong các hồ và đầm phá. Do đặc thù về mưu sinh tại các môi trường cảnh
quan khác nhau nên làng chài có các đặc điểm riêng về diện mạo làng xóm, cơ cấu
tổ chức, các quan hệ xã hội, các phong tục, tập quán, tín ngưỡng cùng các sinh
hoạt văn hóa, tâm lý, tính cách của cộng đồng cư dân.
1.2.1.6. Lối sống người dân làng chài
Trước đây, việc nghiên cứu về biển và cư dân ven biển của các bộ môn khoa
học xã hội và nhân văn còn khiêm tốn, dưới góc độ Dân tộc học, Nhân học, một số
công trình đề cập đến công cụ khai thác như các loại lưới đánh bắt cá, đăng đó, các
loại thuyền, bè, mảng, các sinh hoạt văn hóa, của ngư dân sống ven biển và hải đảo
25

×