0
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
HOÀNG THỊ LAN PHƢƠNG
SỰ BIẾN ĐỔI ĐỜI SỐNG CỦA NGƢỜI DÂN
Ở KHU VỰC ĐÔ THỊ HÓA HIỆN NAY
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI XÃ LỘC HOÀ, THÀNH PHỐ NAM
ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH)
LUẬN VĂN THẠC SỸ XÃ HỘI HỌC
Hà Nội- 2014
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
HOÀNG THỊ LAN PHƢƠNG
SỰ BIẾN ĐỔI ĐỜI SỐNG CỦA NGƢỜI DÂN
Ở KHU VỰC ĐÔ THỊ HÓA HIỆN NAY
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI XÃ LỘC HOÀ, THÀNH PHỐ NAM
ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH)
Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 30
LUẬN VĂN THẠC SỸ XÃ HỘI HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Hoa
HÀ NỘI- 2014
2
MỤC LỤC
Phần 1: PHẦN MỞ ĐẦU 6
1.Lý do chọn đề tài 6
2.Tổng quan nghiên cứu 8
3.Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài. 14
3.1.Ý nghĩa khoa học 14
3.2.Ý nghĩa thực tiễn 14
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 14
4.1. Mục đích nghiên cứu 14
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 15
5. Đối tượng, khách thể nghiên cứu, phạm vi 15
5.1. Đối tượng nghiên cứu 15
5.2. Khách thể nghiên cứu 15
5.3.Phạm vi nghiên cứu 15
6. Câu hỏi nghiên cứu 16
7. Giả thuyết nghiên cứu 16
8. Phương pháp nghiên cứu 17
8.1.Phương pháp phân tích tài liệu 17
8.2.Phương pháp quan sát 17
8.3.Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi tự ghi 17
8.4.Phương pháp phỏng vấn sâu 18
9.Khung phân tích 19
Phần 2: NỘI DUNG CHÍNH 21
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài 21
1.1. Cơ sở lý luận 21
1.1.1. Các khái niệm công cụ 21
1.1.2. Các lý thuyết 29
3
* Thuyết chức năng cấu trúc của Talcott Parsons 29
* Thuyết hành động 31
* Lý thuyết biến đổi xã hội 31
* Lý thuyết nhu cầu của Maslow 32
1.1.3. Quan điểm của Nhà nước về gia đình 33
1.2. Cơ sở thực tiễn: Một số đặc điểm về tình hình kinh tế, chính trị, văn
hóa, giáo dục của xã Lộc Hoà, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. 36
Chƣơng 2: Tác động của Đô thị hóa và sự biến đổi đời sống của
ngƣời dân 38
2.1.Tác động của đô thị hoá đến phát triển kinh tế xã hội ở Việt
Nam hiện nay 38
2.2.Thực trạng sự biến đổi đời sống của người dân xã Lộc Hoà ,
thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định hiện nay 42
2.2.1.Sự biến đổi về đời sống vật chất 42
2.2.2.Sự biến đổi về đời sống xã hội 49
2.2.3.Sự biến đổi về quan niệm, giá trị chuẩn mực xã hội 66
Kết luận và khuyến nghị 78
1.Kết luận 78
2.Khuyến nghị 80
Tài liệu tham khảo 83
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Nguồn nước chính dùng ăn uống của gia đình tại hai thời điểm (%) 43
Bảng 2.2: Bảng so sánh về hành vi mua sắm tiện nghi sinh hoạt của
4
dân cư xã Lộc Hoà trước và sau năm 1998 (%) 44
Bảng 2.3: Nghề nghiệp tạo thu nhập chính của người được hỏi (%) 45
Bảng 2.4: Người đảm nhiệm chính công việc gia đình (%) 49
Bảng 2.5: Người quyết định chính các công việc (%) 51
Bảng 2.6: Tương quan về thu nhập với các lĩnh vực xảy ra xung đột
vợ chồng (%) 56
Bảng 2.7: Mức độ quan tâm của cha mẹ đến các hoạt động của con cái (%) 59
Bảng 2.8: Mức độ tham gia một số loại hình giải trí của người dân (%) 67
Bảng 2.9: Mức độ sử dụng các dịch vụ giải trí của người dân(%) 68
Bảng 2.10: Tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời (%) 72
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu 2.1: Loại hình nhà ở của người dân xã Lộc Hòa trước và sau
năm 1998(%) 42
5
Biểu 2.2: Tỷ lệ mức thu nhập bình quân hàng tháng của gia đình(%) 47
Biểu 2.3: Tỷ lệ người dân tự đánh giá mức sống của gia đình (%) 48
Biểu 2.4: Các lĩnh vực thường xảy ra xung đột (%) 53
Biểu 2.5: Số con trong các gia đình (%) 59
Biểu 2.6: Lĩnh vực chủ yếu xảy ra mâu thuẫn giữa cha mẹ và con cái(%) 61
Biểu 2.7: Thăm hỏi họ hàng của người dân xã Lộc Hòa(%) 64
Biểu 2.8: Sang chơi nhà hàng xóm của người dân xã Lộc Hòa (%) 65
Biểu 2.9: Lý do nhất thiết phải có con trai (%) 76
Phần 1: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
6
Theo các nhà nghiên cứu, xã hội loài người đã trải qua hai cuộc cách
mạng đô thị. Cuộc cách mạng thứ nhất diễn ra từ khoảng 8000 năm trước
công nguyên. Cuộc cách mạng thứ hai diễn ra vào khoảng thể kỷ thứ 18 và 19
ở châu Âu và Bắc Mỹ . Các cuộc cách mạng đô thị hay đô thị hóa là những
quá trình biến đổi xã hội trên phạm vi rộng, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời
sống của con người. Tại châu Âu và Bắc Mỹ, đô thị hóa luôn gắn liền với sự
phát triển của sản xuất công nghiệp và gắn liền với sự di cư từ nông thôn vào
thành thị (Trịnh Duy Luân, 2004: 68). Ở châu Á, theo các tài liệu khảo cổ
học, mặc dù các thành phố đã xuất hiện từ khoảng 2500 năm trước công
nguyên nhưng tiến trình đô thị hóa chỉ thực sự diễn ra mạnh mẽ khi có sự xâm
lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây (Guinness, 2003).
Ở Việt Nam, quá trình đô thị hóa găn liền với các cuộc khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp ( lần 1: 1897- 1914, lần 2: 1919- 1930). Đặc biệt, từ
cuối những năm 1980 của thế kỷ 20, cùng với chính sách đổi mới đất nước,
Đảng ta đã xác định quá trình đô thị hóa gắn liền với công nghiệp hóa và phát
triển kinh tế. Quá trình đô thị hóa đã dẫn đến sự hình thành các khu công
nghiệp và đô thị, đồng thời làm thay đổi đáng kể cuộc sống của người nông
dân ngay tại các vùng nông thôn. Đây chính là nguyên nhân làm xuất hiện
những vấn đề xã hội, trong đó có vần đề những cư dân “bị đô thị hóa” thích
ứng như thế nào với cộng đồng và lối sống đô thị.
Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992,
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm
1991, cũng như trong các văn kiện của Đảng về chính sách xã hội đã nhấn
mạnh đến vai trò của gia đình như là tế bào của xã hội và là nhân tố quan
trọng quyết định sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam.
Sau 20 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã có những thay
đổi toàn diện và sâu sắc trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
7
đó có các mối quan hệ gia đình. Quá trình đổi mới đem đến cho gia đình Việt
Nam những cơ hội phát triển mới, mức sống của đại bộ phận các gia đình đã
được nâng cao. Trong vòng 15 năm, từ 1990 đến 2004, tổng sản phẩm trong
nước tăng gần gấp 3 lần, đạt mức bình quân 7,5 %/ năm. Tỷ lệ hộ nghèo giảm
từ 58% năm 1993 xuống còn 24% năm 2004 (Tổng cục thống kê, 2004). Các
chức năng cơ bản của gia đình có nhiều biến đổi theo chiều hướng tích cực.
Tuy nhiên, bên cạnh việc tiếp nhận những tác động tích cực về kinh tế-
xã hội do quá trình đổi mới đem lại, gia đình Việt Nam cũng đang phải đối
mặt với rất nhiều thách thức to lớn. Đô thị hóa và công nghiệp hóa đang có
những tác động ngược chiều đối với gia đình Việt Nam. Một mặt, nó mang
đến cho gia đình Việt Nam những giá trị nhân văn mới như quyền trẻ em,
bình đẳng giới. Mặt khác, nó có thể làm mai một đi những giá trị truyền thống
tốt đẹp của gia đình Việt Nam đã hình thành trong lịch sử như tinh thần trách
nhiệm, đức hy sinh, lòng hiếu thảo, tôn ti trật tự trong gia đình, sự thủy chung
trong quan hệ vợ chồng, sự kính trọng và tình cảm thiêng liêng của con cháu
đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên; bạo lực gia đình; mâu thuẫn giữa các thế hệ;
các tệ nạn xã hội ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình…. Gia đình Việt Nam
đang diễn ra nhiều biến đổi, bao gồm cả biến đổi tích cực và biến đổi tiêu cực.
Trong bối cảnh đó, việc chỉ ra thực trạng, nguyên nhân, xu hướng biến đổi gia
đình ở Việt Nam là hết sức cần thiết để Nhà nước và các cấp liên quan xây
dựng và hoạch định chính sách giúp cho gia đình Việt Nam thích ứng, tồn tại
và phát triển.
Lộc Hòa là cửa ngõ của Thành phố Nam Định cũng nằm trong quy
hoạch phát triển chung của thành phố. Trước đây vốn là một xã thuần nông
nhưng hiện nay cơ cấu ngành nghề đang có sự chuyển dịch mạnh mẽ. Việc
nâng cấp và mở rộng tuyến đường quốc lộ 21 (đoạn đi qua địa bàn xã Lộc
Hoà), xây dựng mới Bến xe khách Nam Định và cụm khu công nghiệp Hoà
8
xá trên địa bàn xã đã tạo cho diện mạo xã có sự thay đổi nhanh chóng. Những
khu công nghiệp, khu đô thị mới nhanh chóng mọc lên trên những thửa ruộng
của người nông dân. Nhờ đó, đời sống của người dân cũng được nâng cao,
kinh tế tăng trưởng nhanh, tốc độ đô thị hóa ngày càng phát triển mở rộng.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã kéo theo những sự biến đổi trong
mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có sự biến đổi về lối sống, văn hóa ứng
xử …Câu hỏi đặt ra ở đây là : dưới tác động của quá trình đô thị hóa, đời
sống của dân cư ở đây có sự biến đổi như thế nào? Phải chăng, đô thị hóa đem
đến những thay đổi tích cực về mặt kinh tế nhưng về mặt văn hóa và các giá
trị chuẩn mực đang còn nhiều bất cập với nhiều hệ luỵ tiêu cực.
Chính những lý do trên đã dẫn tôi đến quyết định lựa chọn đề tài: “Sự
biến đổi đời sống của dân cư trong vùng đô thị hóa hiện nay (Nghiên cứu
trường hợp tại xã Lộc Hòa, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định)”
2. Tổng quan nghiên cứu
Nghiên cứu về sự biến đổi xã hội nói chung, biến đổi lối sống nói riêng,
dưới tác động của quá trình đô thị hóa đã được nhiều nhà khoa học trong
nước và trên thế giới thực hiện.
Trên thế giới, các nhà xã hội học thuộc trường Đại học tổng hợp
Chicago là những người đầu tiên thực hiện các nghiên cứu quy mô và chuyên
sâu về các vấn đề xã hội của cộng đồng cư dân đô thị, trong đó có vấn đề lối
sống. Có thể liệt kê một số tác phẩm tiêu biểu đã mô tả, phân tích về sự thích
ứng của người dân, nhất là dân nhập cư, với lối sống tại các đô thị như:
“Người nông dân ở Ba Lan ở châu Âu và Mỹ” của Thomas và Florian
Znaniecki (1918- 1920), “Thành phố” của Robert Park và Ernest Burgess
(1925), “Đặc trưng đô thị như là một lối sống” của Luis Wirth (1938), “Gia
9
đình Negro ở Chicago” của E.Franklin Frazier (1931), “Những cư dân thành
thị” của Herbert Gans (1962)….
Dân nhập cư có một vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành các
thành phố lớn ở Mỹ. Bởi vậy, quá trình thích ứng của dân nhập cư vào với đời
sống đô thị là chủ đề nổi bật trong các nghiên cứu của các nhà xã hội học
thuộc trường phái Chicago.
Trong tác phẩm điển hình “Người nông dân Ba Lan ở châu Âu và Mỹ”,
Thomas và Znanniecki đã mô tả những khó khăn, sự biến đổi của các cộng
đồng truyền thống khi hoà nhập vào xã hội đô thị. Theo đó, để trở thành một
bộ phận của cộng đồng xã hội tổng thể thì các cộng đồng truyền thống phải
thay đổi và thích ứng với bối cảnh chung- trong đó sự thay đổi về lối sống là
tất yếu.
Trong tác phẩm “Thành phố”, Park và Burgess (1925) cho rằng, đặc
trưng cơ bản của lối sống đô thị là sự cạnh tranh. Hành vi của cá nhân chịu
ảnh hưởng mạnh mẽ bởi cấu trúc xã hội cũng như đặc điểm địa lý nơi người
ta cư trú. Cuộc sống đô thị có thể được nhận biết thông qua việc khảo sát văn
hóa của các thành phố, cấu trúc nghề nghiệp cũng như các tổ chức được hình
thành một cách tự nhiên. Sử dụng khái niệm “sinh thái đô thị”, Burgess đã mô
tả mối liên hệ giữa các cá nhân ở đô thị với môi trường cư trú và cách thức
phụ thuộc lẫn nhau của đời sống đô thị.
Trong tác phẩm “Đặc trưng đô thị như là một lối sống” của Louis Wirth
công bố năm 1938 đã mô tả ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến mọi khía
cạnh của đời sống xã hội. Theo Wirth, tính không đồng nhất của cộng đồng
đô thị đã phá vỡ các cấu trúc xã hội cứng nhắc và tạo ra sự biến động, không
ổn định và thiếu an toàn xã hội.
Cũng nghiên cứu về sự biến đổi gia đình, nhưng tác giả Goode trong tác
phẩm “World Revolution and Family Patterns”(1963) lại phân tích sự biến
10
đổi gia đình là do ảnh hưởng của sự biến đổi xã hội mà ông gọi là công
nghiệp hóa. Trong các nền văn hóa khác nhau, các xã hội khác nhau sẽ tồn tại
những mẫu hình gia đình khác nhau nhưng những mẫu hình này đều chịu ảnh
hưởng chung của công nghiệp hóa và những biến đổi này có thể nhanh hoặc
chậm.
Về tổng thể, các công trình nghiên cứu tiêu biểu nêu trên đã xác lập một
hướng tiếp cận mới, có nhiều ảnh hưởng đối với các nghiên cứu về quá trình
biến đổi xã hội tại các đô thị ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, tiến trình công
nghiệp hóa và đô thị hóa ở Việt Nam diễn ra với những đặc trưng rất riêng.
Do đó, khi nghiên cứu về sự biến đổi lối sống ở Việt Nam, cần phải hết sức
thận trọng, xem xét cụ thể trong bối cảnh Việt Nam.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu xã hội học về gia đình và biến đổi gia
đình mới chỉ được bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ XX, khi nước ta
chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường,
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế và giao
lưu văn hóa quốc tế. Những biến chuyển này đã làm thay đổi sâu sắc chế độ
sở hữu, các giá trị và chuẩn mực xã hội. Là một thiết chế cơ bản của xã hội,
gia đình Việt Nam cố nhiên chịu ảnh hưởng to lớn của những biến đổi này.
Cho đến nay, nguồn tài liệu về gia đình ở nước ta không chỉ nhiều về số
lượng, mà còn khá đa dạng về các góc độ tiếp cận khác nhau. Quan điểm của
các nhà nghiên cứu khác nhau về biến đổi gia đình, tựu trung lại đều đề cập
đến quá trình biến đổi gia đình từ xã hội nông nghiệp truyền thống sang xã
hội công nghiệp hóa. Do đó, cần phải nêu lên những đặc điểm nổi bật về cấu
trúc và chức năng của gia đình truyền thống và sự khác biệt của nó với gia
đình hiện đại.
Theo tác giả Vũ Tuấn Huy trong cuốn “Tác động của biến đổi nền kinh
tế xã hội đến một số khía cạnh của gia đình Việt Nam: Nghiên cứu trường
hợp tỉnh Thái Bình” thì xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và quốc tế
11
về kinh tế, văn hóa, xã hội chính là những tác nhân quan trọng thúc đẩy sự
biến đổi của gia đình. Đồng thời tác giả lấy năm 1945 với những đặc điểm
chuyển đổi của nền kinh tế chính là cơ sở cho sự phân định ranh giới biến đổi
của gia đình Việt Nam. Theo tác giả, sự biến đổi này không tách rời hoàn toàn
với những đặc trưng của gia đình truyền thống mà là một sự điều chỉnh thích
nghi với những hoàn cảnh và điều kiện xã hội mới.
Trong khi đó tác giả Mai Huy Bích trong cuốn “Xã hội học gia đình” lại
không đi từ yếu tố kinh tế để giải thích sự biến đổi gia đình mà cho rằng nhân
tố gây biến đổi gia đình chính là những chủ trương của Nhà nước nhằm thay
đổi gia đình cũ, xây dựng gia đình mới.
Trong đề tài cấp bộ tìm hiểu về “Những biến đổi về giá trị văn hóa của
các làng ven đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới” năm 2006 của tác giả Ngô Văn
Giá lại xem xét ở khía cạnh cụ thể hơn về mối liên hệ giữa biến đổi lối sống
với bối cảnh kinh tế- xã hội. Tác giả nhấn mạnh, trong bối cảnh xã hội có
những biến đổi to lớn về cơ cấu kinh tế và thành phần dân cư, tiền đề tạo nên
mối liên kết tự nhiên giữa các thành viên trong làng đã không còn như trong
truyền thống, ý thức về giá trị cộng đồng làng trong mỗi ứng xử của con
người không thể nói là không thay đổi. Một trong những tiêu chí cơ bản để
điều chỉnh, ràng buộc hành vi ứng xử của con người vào hệ giá trị chuẩn mực
của xã hội là dư luận đã nhìn nhận một cách thoải mái hơn.
Quan tâm đến sự biến đổi lối sống ở khía cạnh mức sống, các tác giả
như Nguyễn Hữu Minh trong đề tài cấp Viện nghiên cứu “Những biến đổi
kinh tế- xã hội ở vùng ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa”(2003) và tác
giả Đỗ Văn Quân trong luận văn thạc sỹ xã hội học nghiên cứu “Biến đổi
mức sống hộ gia đình ở nông thôn vùng phụ cận Hà Nội”(2006) chỉ ra rằng
quá trình biến đổi nhanh về mức sống của hộ gia đình nông thôn vùng phụ
cận Hà Nội đang dần hình thành lối sống đô thị với những giá trị, chuẩn mực,
quan niệm mang tính đặc trưng của đô thị. Quá trình này đang diễn ra nhanh
12
chóng dưới áp lực của đô thị hóa. Cùng với việc nâng cao mức sống thì quá
trình biến đổi lối sống thể hiện rất rõ qua việc hình thành mạng lưới quan hệ
xã hội trong môi trường công việc, cùng với sở thích hơn là giá trị truyền
thống cộng đồng; xu hướng đề cao giá trị kiếm được nhiều tiền hơn bất kỳ giá
trị nào khác. Mỗi cá nhân không còn bị bó hẹp trong phạm vi làng xã mà rộng
mở hơn, giao lưu với nhiều tầng lớp, nhóm người trong xã hội, thể hiện sự
năng động hơn và thoải mái hơn.
Đi sâu phân tích thực trạng ảnh hưởng của đô thị hóa đến lối sống, Lê
Thị Hồng Quế và cộng sự (2008) nhận thấy rằng: đô thị hóa đòi hỏi con người
phải chuyển động theo tốc độ chuyển động của nó. Hiện tượng người dân
thay đổi nghề nghiệp, sự xuất hiện của những người dân nhập cư là tất yếu,
quan hệ cộng đồng cũng thay đổi, dịch vụ công cộng xuất hiện trong cuộc
sống mới… ắt dẫn đến những thay đổi về tâm lý và từ đó nếp sống cũng thay
đổi theo. Hơn thế nữa để bắt kịp với lối sống đô thị người dân cũng phải tìm
cách thay đổi tác phong làm việc cho phù hợp.
Cùng quan tâm đến sự biến đổi lối sống đô thị trong bối cảnh từ xã lên
phường, Nguyễn Đình Tuấn (2007) đã quan tâm nhiều hơn đến khía cạnh
thực nghiệm. Thông qua công trình nghiên cứu của mình, tác giả đã mô tả
thực trạng biến đổi lối sống của người dân, mà khởi điểm chính là từ quyết
định hành chính từ xã thành phường của nhà nước. Tác giả đã mô tả khá đầy
đủ các biểu hiện cụ thể của biến đổi lối sống như: phương thức sinh hoạt;
quan niệm về đời sống hôn nhân và con cái; quan hệ gia đình, họ hàng, làng
xóm; cưới xin tang ma và sử dụng thời gian nhàn rỗi.
Chi tiết hơn nữa là từ hướng tiếp cận tâm lý học xã hội, Phan Thị Mai
Hương và cộng sự trong đề tài khoa học cấp bộ nghiên cứu về “Những biến
đổi cơ bản về mặt tâm lý của cư dân vùng ven đô đã được đô thị hóa”(2006)
đã khảo sát sự biến đổi trong hệ thống nhu cầu của cư dân ven đô để từ đó
đưa ra những phân tích về sự thích nghi với lối sống đô thị của các cộng đồng
13
ven đô trong quá trình đô thị hóa. Theo đó, tác giả đã chỉ ra một số chiều cạnh
về sự biến đổi lối sống của người dân, đó là: sự thích nghi trên phương diện
kinh tế, sự thích nghi trên phương diện văn hóa, ứng xử, sự dụng dịch vụ xã
hội, kết cấu nhà cửa…. Nhìn chung, nhóm tác giả đã thu thập được những
bằng chứng cho thấy người dân đã phải vận động và thay đổi lối sống cho phù
hợp với bối cảnh xã hội mới. Tuy nhiên, sự thay đổi đó vẫn đang diễn ra và
đến hiện tại người dân vẫn giữ được những nét cơ bản thuộc về lối sống
truyền thống của cư dân nông nghiệp Việt Nam. Những biểu hiện tiêu cực về
lối sống cũng đã xuất hiện nhưng chưa phổ biến và chưa đến mức quá nghiêm
trọng.
Sự biến đổi của xã hội nông thôn trong quá trình đô thị hóa đang là chủ
đề được rất nhiều nhà khoa học quan tâm. Các vấn đề như sự biến đổi về mức
sống, đời sống văn hóa tinh thần, phân hóa giàu nghèo, môi trường xã hội và
các tệ nạn xã hội, văn hóa truyền thống….đều được phân tích khá chi tiết mặc
dù chưa đạt được kết quả cao. Điểm nổi bật và xuyên suốt công trình nghên
cứu nêu trên là các nhà khoa học đã phác hoạ ra được một bức tranh đa dạng
về sự biến đổi kinh tế xã hội ở một số vùng nông thôn dưới tác động của đô
thị hóa. Tiến trình này đã đem đến nhiều cơ hội cho người nông dân nhưng
cũng dẫn đến nhiều thách thức.
Cho đến nay, nguồn tài liệu về gia đình ở nước ta không chỉ nhiều về số
lượng, mà còn khá đa dạng về các góc độ tiếp cận khác nhau. Điểm nổi bật
và xuyên suốt các công trình nghiên cứu nêu trên là các nhà khoa học đã phác
hoạ ra một bức tranh đa dạng về sự biến đổi kinh tế- xã hội ở một số vùng
nông thôn dưới tác động của đô thị hoá và công nghiệp hóa. Tuy nhiên, bên
cạnh những đóng góp không thể phủ nhận, các nguồn tài liệu này cũng có một
số nhược điểm. Hầu hết các nghiên cứu gia đình trong khoảng 20 năm qua là
những nghiên cứu nhỏ lẻ, chủ yếu được triển khai ở châu thổ sông Hồng, rất ít
14
các nghiên cứu có quy mô lớn, được mở rộng ra nhiều vùng miền, và hầu như
chưa có những nghiên cứu ở tầm cỡ quốc gia.
Nhận diện và phân tích sự thay đổi về lối sống của người dân là vấn đề
quan trọng, cấp bách đối với công tác quản lý nhà nước, nhất là trên các lĩnh
vực văn hóa- xã hội ở nước ta hiện nay. Trước sự biến đổi nhanh chóng, trong
khi xây dựng các chính sách vĩ mô, mang tầm chiến luợc, các cơ quan quản lý
nhà nước rất cần có những giải pháp kịp thời để giải quyết các vấn đề xã hội
mới nảy sinh.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
3.1.Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ các lý thuyết của xã hội học
như: lý thuyết về biến đổi xã hội, hành động xã hội, lý thuyết nhu cầu…
3.2.Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên giúp chỉ ra thực trạng về sự biến đổi đời sống của người
dân trong vùng đô thị hóa, có cái nhìn đúng đắn, trên cơ sở đó giúp các đoàn
thể trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế xã hội ở địa
phương, xây dựng gia đình phát triển bền vững.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu sự tác động của đô thị hóa đến đời sống của
người dân xã Lộc Hòa, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định hiện nay. Trên
cơ sở đó đề xuất về mặt chính sách nhằm góp phần hoàn thiện công tác quản
và xây dựng gia đình trên địa bàn xã ngày càng phát triển bền vững trong điều
kiện mới.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
15
- Mô tả và phân tích thực trạng sự biến đổi về đời sống của người dân
trong quá trình đô thị hóa ở xã Lộc Hòa, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định
ở ba khía cạnh:
+ Sự biến đổi về đời sống vật chất (nhà cửa, nguồn nước sinh hoạt, tiện
nghi sinh hoạt gia đình)
+ Sự biến đổi về quan hệ xã hội bao gồm: quan hệ gia đình, dòng họ và
cộng đồng.
+ Biến đổi về giá trị: (quan niệm về văn hóa giải trí, hưởng thụ; thói
quen sử dụng các dịch vụ; quan niệm về cách giáo dục con cái, chuẩn mực về
số con, về tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời….)
- Góp phần đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính
sách về xây dựng gia đình bền vững ở địa phương.
5. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
5.1.Đối tượng nghiên cứu
Sự biến đổi về đời sống của người dân ở khu vực đô thị hóa (Nghiên cứu
trường hợp tại xã Lộc Hòa, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định hiện nay).
5.2.Khách thể nghiên cứu
- Các hộ gia đình đang sinh sống và định cư ở xã Lộc Hòa, thành phố Nam
Định, tỉnh Nam Định
- Cán bộ lãnh đạo quản lý ở địa phương ở địa bàn khảo sát
5.3.Phạm vi nghiên cứu
- Về phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu về biến đổi đời sống gia đình có
rất nhiều lĩnh vực nhưng do điều kiện thời gian, không gian và kinh phí có
hạn nên tôi chỉ đi tìm hiểu ở ba khía cạnh:
+ Biến đổi về đời sống vật chất (nhà ở; nguồn nước, tiện nghi sinh
hoạt trong gia đình)
16
+ Sự biến đổi về quan hệ xã hội: quan hệ vợ- chồng; quan hệ cha mẹ-
con cái; quan hệ họ hàng, làng xóm.
+ Biến đổi về giá trị: (quan niệm về văn hóa giải trí, hưởng thụ; thói
quen sử dụng các dịch vụ; quan niệm về cách giáo dục con cái, chuẩn mực về
số con, về tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời….)
Mốc thời gian để làm căn cứ đo lường về sự biến đổi đời sống gia đình
với trường hợp cụ thể là xã Lộc Hòa, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định là
giai đoạn trước năm 1998 và từ năm 1998 đến nay.
- Về phạm vi khảo sát:
+ Không gian: xã Lộc Hòa, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.
+ Thời gian: từ tháng 03/2011 đến tháng 12/2012
6. Câu hỏi nghiên cứu
Dưới tác động của quá trình đô thị hóa, đời sống của dân cư ở đây có sự
biến đổi như thế nào? Các quan hệ giữa vợ- chồng, quan hệ cha mẹ- con cái
và quan hệ họ hàng, làng xóm có gì khác không? Quan niệm của người dân
về các giá trị, chuẩn mực xã hội như hôn nhân; con cái có gì thay đổi không?
Tại sao?
7.Giả thuyết nghiên cứu
-Dưới tác động của đô thị hóa, đời sống vật chất của người dân xã Lộc
Hoà đang ngày càng được cải thiện và nâng cao. Tuy nhiên, các quan hệ xã
hội như quan hệ vợ- chồng; quan hệ cha mẹ- con cái và quan hệ họ hàng, làng
xóm ít có sự biến đổi.
-Nhận thức của người dân về văn hóa sử dụng các dịch vụ giải trí, về
việc không sinh con thứ ba, về việc không nhất thiết phải có con trai và về
hôn nhân và gia đình đã được nâng cao.
-Các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, đánh nhau…. trong giới thanh thiếu
niên gia tăng.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
17
Các phương pháp nghiên cứu xã hội học như phân tích tài liệu, phỏng
vấn bằng bảng hỏi, thảo luận nhóm….đem đến cho nhà nghiên cứu những
thông tin đáng tin cậy, dựa trên các bằng chứng thực nghiệm đảm bảo chất
lượng, phục vụ cho việc phân tích vấn đề nghiên cứu.
8.1.Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp
Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp bao gồm các
công trình nghiên cứu, bài tạp chí, sách, bài viết… về một số chủ đề như: biến
đổi gia đình, các mối quan hệ trong gia đình, về tác động của đô thị hóa
Phương pháp phân tích nghiên cứu tài liệu thứ cấp được tiến hành nhằm các
mục đích sau:
- Có những kiến thức cơ bản và khái quát về các chủ đề nghiên cứu
- Hình dung ban đầu về lịch sử nghiên cứu vấn đề
- Có cơ sở lý luận để so sánh, diễn giải và làm sâu sắc thêm kết quả
nghiên cứu
8.2. Phương pháp quan sát
Trong quá trình điều tra bằng bảng hỏi, điều tra viên kết hợp với quan
sát để thu được những thông tin đáng tin cậy và để kiểm chứng cho câu trả lời
của người được hỏi.
8.3. Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi.
Phiếu trưng cầu ý kiến sẽ được sử dụng nhằm mục đích thu thập những
thông tin định lượng cho đề tài nghiên cứu. Mẫu nghiên cứu được lựa chọn
theo phương pháp ngẫu nhiên, có cân nhắc đến một số yếu tố như yếu tố địa
bàn, thành phần gia đình Đề tài sử dụng các thông tin định lượng thu được
từ bảng hỏi đã xử lý bằng chương trình SPSS 13.0.
Phương pháp này được tiến hành với 150 gia đình theo cách lựa chọn
mẫu ngẫu nhiên thuận tiện tại 13 xóm của xã Lộc Hoà, thành phố Nam Định,
tỉnh Nam Định, với cơ cấu mẫu như sau:
18
Cơ cấu mẫu
Số lượng (người)
Tỷ lệ (%)
Giới tính
Nam
66
44,0
Nữ
84
56,0
Tổng
150
100,0
Học vấn
Tiểu học
24
16,0
THCS
60
40,0
THPT
48
32,0
Trung cấp,Cao đẳng
8
5,3
Đại học, trên đại học
8
5,3
Không biết chữ
2
1,3
Tổng
150
100,0
Nghề nghiệp
Nông dân
57
38,0
Công nhân
47
31,3
Cán bộ công chức
9
6,0
Kinh doanh tự do
13
8,7
Lao động tự do
15
10,0
Nội trợ
1
0,6
Học sinh- sinh viên
0
0,0
Hưu trí
3
2,0
Khác
5
3,4
Tổng
150
100,0
8.4. Phương pháp phỏng vấn sâu: 10 phỏng vấn sâu hộ gia đình với các
đối tượng trong gia đình là cha/ mẹ. Các hộ gia đình được chọn một cách có
chủ đích để đảm bảo có các loại hình gia đình khác nhau tại địa bàn nghiên
cứu. 3 phỏng vấn sâu người cung cấp thông tin chủ chốt như: cán bộ phụ
trách văn hóa xã, cán bộ chuyên trách dân số, trưởng xóm. Với mục tiêu bổ
19
sung, minh họa và kiến giải về gia đình, các phỏng vấn sâu nhằm tập trung
vào một số vấn đề mà điều tra định lượng chưa sáng tỏ. Những thông tin
phỏng vấn sâu thu được nhằm giải quyết các câu hỏi: tại sao? Như thế nào?
ảnh hưởng ra sao? Nguyên nhân nào?
9.Khung phân tích
(Xem trang bên)
20
Điều kiện kinh tế- văn hóa- xã hội
Quá trình đô thị hóa
Xây dựng cơ sở hạ
tầng, khu công nghiệp,
khu đô thị.
Đặc điểm hộ gia đình:
-Số thế hệ
-Nghề nghiệp
-Thu nhập
-Học vấn
-Giới tính
-Tuổi
Sự biến đổi đời sống của ngƣời dân xã Lộc Hòa, thành phố Nam Định,
tỉnh Nam Định hiện nay.
.
Biến đổi về đời sống
vật chất
Nhà
cửa
Nguồn
nước
sinh
hoạt
Biến đổi về quan hệ
xã hội
Biến đổi về giá trị,
quan niệm sống
Tiện
nghi
sinh
hoạt
Quan hệ
giữa vợ
và
chồng
Quan hệ
giữa cha
mẹ và
con cái
Quan hệ
họ hàng,
làng
xóm
Quan
niệm về
văn hóa
giải trí,
hưởng
thụ
Quan
niệm về
số con,
sinh con
trai, giáo
dục con
Quan
niệm về
tiêu
chuẩn
lựa chọn
bạn đời
21
Phần 2: NỘI DUNG CHÍNH
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
1.1.Cơ sở lý luận
1.1.1.Các khái niệm công cụ
*Khái niệm lối sống
Đây là một khái niệm có nhiều cách định nghĩa khác nhau.
Đôbơrianốp (1985: 213) cho rằng: lối sống là sinh hoạt cá nhân, chủ quan
hoá của hệ thống những quan hệ xã hội, của toàn bộ tổng thể những điều kiện
sống, thể hiện trong hoạt động của con người.
Trong xã hội học, theo Turner (2006: 339): lối sống là các mô hình văn
hóa và hành động đặc trưng, phân biệt người này với người khác.
Lối sống là thuật ngữ dùng để chỉ cách thức mà cá nhân sống trong cộng
đồng và xã hội. Lối sống được đặc trưng bởi các mô hình hành vi có ý nghĩa
với bản thân cá nhân cũng như những người khác trong những tình huống
nhất định. Lối sống của cá nhân là tổng hợp các thói quen, cách thức giải
quyết công việc cũng như các mô hình hành vi phổ biến trong cuộc sống hàng
ngày. Lối sống phản ánh định hướng giá trị cũng như thái độ của cá nhân cho
nên bản chất của cá nhân có thể được nhận biết qua lối sống của họ. Nói cách
khác, có thể cói lối sống chính là yếu tố tạo ra những biểu trưng văn hóa phản
ánh bản sắc cá nhân rõ nét.
*Khái niệm đời sống
Đời sống là thuật ngữ dùng để chỉ sự diễn ra các hoạt động của con người
trong thực tiễn sinh hoạt hàng ngày
Đời sống của dân cư ở đây bao gồm: đời sống vật chất và đời sống tinh
thần.
22
*Khái niệm đô thị hóa
Theo tác giả Trịnh Duy Luân trong cuốn “Xã hội học đô thị - NXB
KHXH năm 2004, tr 70”: Đô thị hóa là khái niệm để chỉ một sự thay đổi,
không chỉ thay đổi sự phân bố dân cư trong xã hội mà còn chuyển thể nhiều
kiểu mẫu của đời sống xã hội.
Đô thị hoá là một quá trình tập trung dân cư đô thị. Đồng thời đó là quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất nông nghiệp giảm, sản
xuất phi nông nghiệp tăng. Bộ mặt đô thị ngày càng hiện đại, không gian đô
thị mở rộng. Đi liền với đó là sự biến đổi về đời sống xã hội của dân cư trong
vùng đô thị hóa. Đời sống của người dân (đời sống vật chất và đời sống tinh
thần) không ngừng được cải thiện và nâng cao, cơ cấu ngành nghề có sự
chuyển dịch mạnh mẽ từ sản xuất thuần nông sang sản xuất phi nông nghiệp.
Và hệ luỵ của quá trình đô thị hóa cũng nảy sinh từ đây
*Khái niệm về gia đình
Trong xã hội, từ xưa đến nay, gia đình vẫn luôn là thiết chế cơ bản nhất
và gắn liền với đời sống của mỗi con nguời. Mỗi cá nhân không thể tồn tại
đơn lẻ mà phải gắn liền với gia đình. Tùy theo cách nhìn nhận từ các ngành
khoa học mà có những định nghĩa về gia đình khác nhau, nhưng nhìn chung,
nói đến gia đình là nói đến một xã hội thu nhỏ với nhiều mối quan hệ tồn tại
bên trong nó.
Theo Từ điển xã hội học của Nguyễn Khắc Viện- NXB thế giới, Hà
Nội, 1994: Gia đình được xem như một nhóm người gắn bó với nhau bằng sợi
dây liên hệ hôn nhân, huyết thống hay nhận con nuôi. Ở đây có sự tác động
qua lại giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái, giữa anh chị em với họ hàng xa
hơn.
Có thể thấy, “gia đình” là một trong những phạm trù xuất hiện sớm
nhất trong lịch sử nhân loại. Từ “gia đình” có lẽ được sử dụng nhiều nhất
trong ngôn ngữ hàng ngày và trong nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội cũng như
23
trong nhiều nghiên cứu về gia đình, song hiếm khi nó có một định nghĩa rõ
ràng. Trong thực tế, không có một loại hình gia đình đồng nhất cũng như
không có một hình thức gia đình giống nhau ở mọi nơi và ở mọi thời điểm.
Gia đình không chỉ khác nhau giữa các quốc gia và nền văn hóa mà thậm chí
còn không giống nhau từ gia đình này đến gia đình khác ngay trong một nền
văn hóa (Lê Ngọc Văn, 2011, tr.31). Cho dù gia đình được được định nghĩa
theo nhiều cách khác nhau, song tựu chung lại, các định nghĩa gia đình
thường được xác định theo một trong hai cách tiếp cận, đó là cách tiếp cận vi
mô hoặc vĩ mô.
Theo cách tiếp cận vĩ mô, gia đình được định nghĩa với tư cách là một
thiết chế xã hội, một đơn vị cơ sở của xã hội, thực hiện những chức năng xã
hội nhất định, trước hết là chức năng tái sản xuất ra con người. Trong cuốn Từ
điển xã hội học của G. Endrweit và G. Trommsdorff (Nhà xuất bản Thế giới,
2002), gia đình là một nhóm thuộc loại đặc biệt vì nó biểu hiện một cấu trúc
vai trò nhất định (bố, mẹ, con gái, con trai, cháu, em…), với nó thì sự tách
biệt về giới tính và thế hệ là tiêu chí của cơ cấu gia đình (một hay đa thế hệ;
nam/nữ) và qua đó chuyển hóa một quan hệ hợp tác và đoàn kết rất đặc biệt
mà ở tất cả các xã hội đều tổ chức theo nghi lễ sự thành lập của nó. Ngoài ra,
xã hội cũng trao cho nhóm đặc biệt này những chức năng rất đặc biệt
(G.Endrweit và G.Trommsdorff, 2002: 640). Như vậy, gia đình là một nhóm
có cấu trúc và đảm nhận những chức năng nhất định trong xã hội.
Theo cách tiếp cận vi mô, gia đình được định nghĩa với tư cách là một
nhóm xã hội với những tiêu chí cụ thể để nhận diện nó. Nguyễn Đình Tấn, Lê
Tiêu La (1999) đã đưa ra định nghĩa tương đối ngắn gọn: “Gia đình là một
nhóm xã hội nhỏ đặc thù, có đặc trưng cơ bản là được thiết lập trên cơ sở của
hôn nhân mà từ đó hình thành các quan hệ huyết thống ruột thịt giữa các
thành viên” (Nguyễn Đình Tấn, Lê Tiêu La, 1999, dẫn theo Lê Ngọc Văn,
2011…). Tuy nhiên, định nghĩa này tương đối hẹp vì chỉ hướng vào khía cạnh
24
sinh học của gia đình. Tổ chức UNESCO của Liên hiệp quốc năm 1994 đưa
ra định nghĩa: “Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống
chung và có ngân sách chung” (dẫn theo Nguyễn Linh Khiếu, 2003:33). Cục
Điều tra dân số Mỹ cung cấp khái niệm gia đình là “hai hoặc hơn hai người,
bao gồm chủ hộ, có quan hệ với nhau bởi huyết thống, hôn nhân hoặc quan
hệ với nhau bởi huyết thống, hôn nhân hoặc quan hệ con nuôi (nghĩa dưỡng)
và những người sống cùng với nhau như một hộ gia đình”
( Theo Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2000, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân,
quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ
và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật này. Như vậy, có thể rút ra
một số tiêu chí xác định gia đình: là một nhóm người (có từ hai người trở
lên), có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống hoặc quan hệ nuôi
dưỡng, có đặc trưng giới tính qua quan hệ hôn nhân, cùng chung sống và có
ngân sách chung. Luận văn này sử dụng định nghĩa gia đình: “Gia đình là
một nhóm người, có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống hoặc quan
hệ nghĩa dưỡng, có đặc trưng giới tính qua quan hệ hôn nhân, cùng chung
sống, có ngân sách chung”(Nguồn: Lê Ngọc Văn (2011), Gia đình và biến
đổi gia đình ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội). Trong đó,
luận văn chú ý đến các khía cạnh của gia đình như: mối quan hệ huyết thống
hoặc nghĩa dưỡng, cùng chung sống.
Gia đình đang thực hiện các chức năng cơ bản sau:
Chức năng sinh đẻ, tái sản xuất ra con người
Chức năng kinh tế.
Chức năng xã hội hóa
Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm lý, tình cảm.
*Thiết chế gia đình truyền thống