Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

đặc điểm dịch tễ, bệnh lý, lâm sàng và biện pháp phòng trị bệnh trichocephalus suis ở lợn tại một số huyện thuộc tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 118 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


i
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



NGUYỄN VĂN HUY




ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, BỆNH LÝ, LÂM SÀNG
VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ BỆNH TRICHOCEPHALUS SUIS Ở
LỢN TẠI MỘT SỐ HUYỆN THUỘC TỈNH THÁI NGUYÊN

CHUYÊN NGÀNH: THÚ Y
MÃ SỐ: 60 62 50





LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP






NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. HOÀNG VĂN DŨNG
2. TS. NGUYỄN VĂN QUANG
3. PGS.TS NGUYỄN THỊ KIM LAN




THÁI NGUYÊN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ii


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,
các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa công
bố dưới bất kỳ hình thức nào.
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2010
TÁC GIẢ LUẬN VĂN




Nguyễn Văn Huy














Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


iii
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn Thạc sỹ khoa học Nông nghiệp, em xin trân
trọng cảm ơn:
- Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Chăn nuôi - Thú y cùng toàn
thể cán bộ, giảng viên trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên đã giúp đỡ, chỉ
bảo em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
- Lãnh đạo, cán bộ Trung tâm Chẩn đoán Thú y Trung ương, cán bộ
Trạm thú y các huyện Định Hóa, Phú Lương, Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên đã
tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài.
- Với lòng biết ơn chân thành, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới:
TS. Hoàng Văn Dũng, TS. Nguyễn Văn Quang, PGS.TS Nguyễn Thị Kim Lan đã
tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và
hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã tạo
điều kiện giúp đỡ, động viên, khích lệ tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài
luận văn.
Xin chân thành cảm ơn.

Thái Nguyên, tháng 10 năm 2010
TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Nguyễn Văn Huy




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


iv
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4
1.1.1. Giun tròn Trichocephalus suis ký sinh ở lợn 4
1.1.2. Bệnh do Trichocephalus suis gây ra ở lợn 9
1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 31
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 31
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 32
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU 36
2.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu 36
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 36
2.1.2. Vật liệu nghiên cứu 36
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 36
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu 36
2.2.2. Thời gian nghiên cứu 37
2.3. Nội dung nghiên cứu 37
2.3.1. Đặc điểm dịch tễ bệnh giun tròn Trichocephalus suis ở lợn 37
2.3.2. Nghiên cứu bệnh do Trichocephalus suis gây ra ở lợn 37
2.3.3. Biện pháp phòng trị bệnh giun tròn Trichocephalus suis cho lợn 38
2.4. Phương pháp nghiên cứu 38
2.4.1. Phương pháp lấy mẫu 38
2.4.2. Phương pháp xét nghiệm mẫu 39
2.4.3. Phương pháp xác định thời gian phát triển và khả năng sống của
trứng giun Trichocephalus suis trong phân lợn ở ngoại cảnh 40
2.4.4. Phương pháp xác định thời gian phát triển và khả năng sống
của trứng giun Trichocephalus suis trong đất 41

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


v
2.4.5. Phương pháp theo dõi tác dụng của một số chất sát trùng đối
với trứng giun T. suis 43
2.4.6. Phương pháp gây nhiễm cho lợn 44
2.4.7. Phương pháp theo dõi các biểu hiện lâm sàng bệnh
Trichocephalus suis ở lợn gây nhiễm 47
2.4.8. Phương pháp xét nghiệm máu để xác định một số chỉ số huyết học của
lợn khỏe và lợn bị bệnh giun Trichocephalus suis do gây nhiễm 47

2.4.9. Phương pháp xác định bệnh tích đại thể và vi thể 47
2.4.10. Phương pháp theo dõi hiệu lực tẩy giun T. suis của thuốc Hanmectin -
25; Ivocip và Levamisol 48
2.5. Phương pháp xử lý số liệu 49
2.5.1. Một số công thức tính tỷ lệ (%) 49
2.5.2. Một số tham số thống kê 49
2.5.3. So sánh mức độ sai khác giữa 2 số trung bình 50
2.5.4. Phương pháp xác định mối tương quan giữa số giun T. suis ký
sinh/lợn và số trứng giun/gam phân 52
Chƣơng 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 53
3.1. Đặc điểm dịch tễ bệnh Trichocephalus suis ở lợn tại một số huyện
thuộc tỉnh Thái Nguyên 53
3.1.1. Tình hình nhiễm Trichocephalus suis ở lợn tại một số địa phương 53
3.1.2. Nghiên cứu sự phát triển và khả năng sống của trứng giun
Trichocephalus suis ở môi trường ngoại cảnh 62
3.1.3. Thử nghiệm tác dụng của một số chất sát trùng đối với trứng giun T. suis 71
3.2. Bệnh lý và lâm sàng bệnh Trichocephalus suis ở lợn 74
3.2.1. Triệu chứng lâm sàng và bệnh tích bệnh Trichocephalus suis ở
lợn gây nhiễm 74
3.2.2. Một số chỉ số huyết học của lợn ở lô đối chứng và lô gây bệnh
Trichocephalus suis 87

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


vi
3.2.3. Xác định tương quan giữa số giun T. suis ở lợn gây nhiễm
với số trứng giun trong 1 g phân 92
3.2.4. Triệu chứng lâm sàng của lợn bị bệnh Trichocephalus suis ở
các địa phương 93

3.3. Biện pháp phòng trị bệnh giun Trichocephalus suis cho lợn 94
3.3.1. Hiệu lực của một số thuốc tẩy giun T. suis cho lợn 94
3.3.2. Độ an toàn của thuốc tẩy giun T. suis cho lợn 96
3.3.3. Đề xuất biện pháp phòng trị bệnh giun tròn Trichocephalus suis cho lợn 97
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 99
1. Kết luận 99
2. Đề nghị ………….100
TÀI LIỆU THAM KHẢO 101












Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


vii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

- : Đến
% : Tỷ lệ phần trăm
≤ : Nhỏ hơn hoặc bằng
< : Nhỏ hơn

> : Lớn hơn
mm : Milimét
µm : Micrômét
kg : Kilôgam
mg : Miligam
TT : Thể trọng
SGN : Sau gây nhiễm
CS : Cộng sự
NXB : Nhà xuất bản









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


viii

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm T. suis ở lợn tại các địa phương 53
Bảng 3.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm T. suis theo tuổi lợn 57
Bảng 3.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm T. suis theo mùa vụ 59
Bảng 3.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm T. suis theo phương thức chăn nuôi 61
Bảng 3.5. Sự phát triển của trứng giun T. suis trong phân lợn ở ngoại cảnh 63

Bảng 3.6. Khả năng sống của trứng giun T. suis có sức gây bệnh trong
phân lợn ở ngoại cảnh 66
Bảng 3.7. Sự phát triển của trứng giun T. suis trong đất bề mặt 68
Bảng 3.8. Khả năng sống của trứng giun T. suis có sức gây bệnh trong đất bề mặt 70
Bảng 3.9. Thử nghiệm tác dụng của một số chất sát trùng đối với trứng
giun T. suis 72
Bảng 3.10. Kết quả gây nhiễm giun T. suis cho lợn 74
Bảng 3.11. Biểu hiện lâm sàng và khối lượng của lợn gây nhiễm 75
Bảng 3.12. Bệnh tích đại thể ở cơ quan tiêu hóa lợn bị bệnh giun T. suis
do gây nhiễm 78
Bảng 3.13. Tỷ lệ tiêu bản có bệnh tích vi thể trong số tiêu bản nghiên cứu 82
Bảng 3.14. Số lượng hồng cầu, bạch cầu và hàm lượng huyết sắc tố của
lợn đối chứng và lợn gây nhiễm 87
Bảng 3.15. Công thức bạch cầu của lợn đối chứng và lợn gây nhiễm 89
Bảng 3.16. Xác định tương quan giữa số giun T. suis ở lợn gây nhiễm với
số trứng giun trong 1 g phân 92
Bảng 3.17. Tỷ lệ và các triệu chứng lâm sàng của lợn bị bệnh giun T. suis
ở các địa phương 93
Bảng 3.18. Hiệu lực của thuốc tẩy giun T. suis cho lợn 94
Bảng 3.19. Độ an toàn của thuốc tẩy giun T. suis cho lợn 96

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ix

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1. Ảnh giun Trichocephalus suis 5
Hình 2.1. Ảnh xét nghiệm phân tìm trứng giun T. suis bằng phương pháp

Fullerborn 39
Hình 2.2. Ảnh thí nghiệm theo dõi sự phát triển và khả năng sống của trứng
giun T. suis trong phân lợn ở ngoại cảnh 40
Hình 2.3. Ảnh thí nghiệm theo dõi sự phát triển và khả năng sống của trứng
giun T. suis trong đất ở các ẩm độ khác nhau 42
Hình 2.4. Ảnh thử nghiệm tác dụng của chất sát trùng đối với trứng giun T. suis 44
Hình 2.5. Sơ đồ bố trí thí nghiệm gây bệnh giun T. suis cho lợn 45
Hình 2.6. Ảnh gây nhiễm trứng giun T. suis cho lợn 46
Hình 2.7. Ảnh đàn lợn gây nhiễm 46
Hình 2.8. Ảnh thuốc tẩy giun T. suis cho lợn 49
Hình 3.1. Ảnh trứng giun T. suis mới theo phân ra ngoài 55
Hình 3.2. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun T. suis ở một số địa phương 56
Hình 3.3. Biểu đồ cường độ nhiễm giun T. suis ở một số địa phương 56
Hình 3.4. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun T. suis theo mùa vụ 60
Hình 3.5. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun T. suis theo phương thức chăn nuôi 62
Hình 3.6. Ảnh trứng giun T. suis có sức gây bệnh 65
Hình 3.7. Ảnh trứng giun T. suis có sức gây bệnh bị chết 67
Hình 3.8. Ảnh trứng giun T. suis bị chết dưới tác dụng của NaOH - 2%,
Formaline 10% 73
Hình 3.9. Ảnh lợn số 1 biểu hiện lâm sàng sau gây nhiễm 77
Hình 3.10. Ảnh lợn số 2 biểu hiện lâm sàng sau gây nhiễm 77
Hình 3.11. Ảnh mổ khám lợn gây nhiễm 79

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


x
Hình 3.12. Ảnh giun T. suis ký sinh ở manh tràng lợn 80
Hình 3.13. Ảnh một số giun T. suis cắm sâu đầu vào niêm mạc ruột già 80
Hình 3.14. Ảnh thu nhận giun T. suis từ lợn gây nhiễm 81

Hình 3.15. Ảnh giun T. suis sau khi để chết tự nhiên trong nước 81
Hình 3.16. Ảnh bệnh tích đại thể ở ruột già lợn gây nhiễm (Niêm mạc kết
tràng xuất huyết) 82
Hình 3.17. Ảnh biểu mô ruột bị phá hủy (Độ phóng đại 150 lần) 83
Hình 3.18. Ảnh biểu mô ruột bị phá hủy (Độ phóng đại 400 lần) 83
Hình 3.19. Ảnh niêm mạc ruột sung huyết (Độ phóng đại 400 lần) 84
Hình 3.20. Ảnh xuất huyết trong niêm mạc ruột (Độ phóng đại 400 lần) 84
Hình 3.21. Ảnh tế bào bạch cầu ái toan thâm nhiễm ở hạ niêm mạc (Độ phóng
đại 600 lần) 85
Hình 3.22. Ảnh tế bào bào viêm - Bạch cầu đơn nhân lớn (Độ phóng
đại 600 lần) 85
Hình 3.23. Ảnh ổ viêm trong niêm mạc ruột (Độ phóng đại 150 lần) 86
Hình 3.24. Ảnh hạ niêm mạc thấm nước phù, cấu trúc tế bào lỏng lẻo (Độ phóng
đại 400 lần) 87
Hình 3.25. Biểu đồ số lượng hồng cầu, số lượng bạch cầu, hàm lượng huyết
sắc tố của lợn đối chứng và lợn sau gây nhiễm 89
Hình 3.26. Biểu đồ công thức bạch cầu của lợn ở lô đối chứng và lô gây nhiễm 91







Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


xi



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Ngành chăn nuôi nước ta đã và đang chiếm một vị trí quan trọng
trong sản xuất nông nghiệp nói riêng và trong cơ cấu nền kinh tế nói chung.
Chăn nuôi với những hình thức phong phú, đa dạng đã góp phần giải quyết
công ăn, việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân và tạo ra nhiều sản
phẩm có giá trị xuất khẩu.
Chăn nuôi lợn có một vị trí quan trọng trong ngành chăn nuôi gia súc ở
các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Chăn nuôi lợn cung cấp một
khối lượng lớn thực phẩm có giá trị cho con người. Ở nước ta thịt lợn tiêu thụ
chiếm từ 75 - 80% tổng lượng thịt tiêu thụ còn trên thế giới tỷ lệ này khoảng
40% và đang có xu hướng tăng lên (Vũ Đình Tôn, 2009 [43]). Chăn nuôi lợn
phát triển không chỉ cung cấp nguồn thực phẩm cho xã hội mà còn cung cấp
nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến và phân bón cho ngành trồng
trọt. Phân lợn là loại có chất dinh dưỡng cao đối với cây trồng (5 - 25% chất
khô; 1,6 - 1,8% nitơ; 0,6 - 2,1% phospho và 1,7 - 3,6% kali). Hiện nay, phân
lợn còn được dùng làm nguyên liệu để sản xuất khí đốt (bioga) vừa đem lại
hiệu quả kinh tế cao vừa có tác dụng chống ô nhiễm môi trường, đặc biệt là
những khu vực đông dân cư.
Vì vậy trong những năm gần đây, nước ta đã có nhiều kế hoạch,
chương trình nhằm phát triển mạnh đàn lợn cả về quy mô và chất lượng,
đáp ứng ngày càng lớn nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy dịch bệnh vẫn thường xuyên xảy ra, gây
nên những thiệt hại đáng kể cho ngành chăn nuôi. Vì vậy, ngành chăn nuôi
muốn tiếp tục phát triển thì bên cạnh việc thực hiện tốt công tác giống, thức
ăn… còn phải quan tâm nhiều hơn đến công tác thú y, đặc biệt với xu hướng

chăn nuôi tập trung, quy mô trang trại như hiện nay.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


2
Việt Nam là một nước nằm trong vùng Đông Nam Á có khí hậu nhiệt
đới nóng ẩm, có rất nhiều loài ký sinh trùng phát triển, ký sinh và gây bệnh
cho vật nuôi, trong đó có loài giun tròn Trichocephalus suis ký sinh và gây
bệnh ở lợn. Trichocephalus suis ký sinh đã gây ra các tổn thương và viêm
nhiễm kế phát do vi khuẩn xâm nhập vào các nội quan của lợn, ảnh hưởng đến
quá trình sinh trưởng, đặc biệt là tiêu tốn thức ăn, giảm tăng trọng từ 15 - 20%
so với lợn không bị bệnh (Phạm Sỹ Lăng và cs 2006 [22]).
Trong những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về tình
hình nhiễm giun Trichocephalus suis và vai trò của Trichocephalus suis trong
hội chứng tiêu chảy ở lợn con. Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2006) [17], đã
nghiên cứu và cho biết: Giun Trichocephalus suis có vai trò trong hội chứng
tiêu chảy ở lợn con. Tỷ lệ nhiễm giun Trichocephalus suis ở lợn con tiêu chảy
là 27,01%; lợn mắc bệnh giun Trichocephalus suis ở cường độ nặng biểu hiện
còi cọc, chậm lớn, tiêu chảy, ảnh hưởng đến hiệu quả chăn nuôi. Lợn có phân
bình thường tỷ lệ nhiễm thấp hơn (23,01%) và thường nhiễm nhẹ. Tuy nhiên,
những công trình nghiên cứu về bệnh giun Trichocephalus suis ở lợn còn rất ít.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi, phần lớn dân số làm nông nghiệp,
trong đó chăn nuôi lợn chiếm một vị trí quan trọng. Tuy nhiên, công tác
phòng chống bệnh giun Trichocephalus suis chưa được chú ý nhiều, chưa có
quy trình phòng bệnh hiệu quả.
Từ yêu cầu cấp thiết của việc khống chế dịch bệnh, nâng cao năng suất
chăn nuôi lợn ở tỉnh Thái Nguyên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Đặc điểm dịch tễ,
bệnh lý, lâm sàng và biện pháp phòng trị bệnh Trichocephalus suis ở lợn tại
một số huyện thuộc tỉnh Thái Nguyên”.

2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ, đặc điểm bệnh lý, lâm sàng và biện pháp
phòng trị bệnh giun tròn Trichocephalus suis cho lợn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3
3. Mục đích nghiên cứu
Bổ sung thêm một số thông tin khoa học về bệnh giun tròn
Trichocephalus suis ở lợn, từ đó có cơ sở khoa học để xây dựng quy trình
phòng trị bệnh giun tròn Trichocephalus suis cho lợn có hiệu quả cao, góp
phần thúc đẩy chăn nuôi lợn của tỉnh Thái Nguyên phát triển.
4. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về
đặc điểm dịch tễ bệnh giun tròn Trichocephalus suis ở lợn tại một số huyện
thuộc tỉnh Thái Nguyên, về một số đặc điểm bệnh lý, lâm sàng và biện pháp
phòng trị bệnh.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đề ra những biện pháp phòng và trị bệnh có hiệu
quả, từ đó hạn chế được những thiệt hại do bệnh gây ra.







Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1.1. Giun tròn Trichocephalus suis ký sinh ở lợn
1.1.1.1. Vị trí của Trichocephalus suis trong hệ thống phân loại động vật
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [26], Phan Thế Việt và cs (1977)
[45], vị trí của Trichocephalus suis (T. suis) trong hệ thống phân loại động vật
như sau:
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Enoplia Chitwood, 1933
Bộ Trichocephalida Skrjabin et Schulz, 1928
Phân bộ Trichocephalata Skrjabin et Schulz, 1928
Họ Trichocephalidae Baird, 1953
Phân họ Trichocephalinae Ransom, 1911
Giống Trichocephalus Schrank, 1788
Loài Trichocephalus suis Schrank, 1788
1.1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [26] đã mô tả giun T. suis như sau:
Con đực: Dài 37,52 - 40,63 mm; rộng nhất 0,634 - 0,713 mm. Phần
trước cơ thể dài 23,48 - 25,75 mm; phần sau dài 14,00 - 15,00 mm; có dạng
xoắn lò xo. Gai sinh dục dài 1,70 - 2,55 mm; rộng 0,07 - 0,10 mm; mút cuối
gai nhọn. Bao gai phủ đầy gai nhỏ. Lỗ huyệt nằm ở mút cuối đuôi.
Con cái: Cơ thể dài 37,89 - 50,60 mm; rộng 0,734 - 1,012 mm; phần
trước cơ thể dài 23 - 33 mm. Ống sinh dục đơn. Âm đạo có thành cơ dày,
chứa đầy trứng. Kích thước trứng 0,024 - 0,027 x 0,056 - 0,061 mm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



5















Hình 1.1. Ảnh giun Trichocephalus suis
a: Trứng giun; b: Giun cái; c: Giun đực
(Nguồn: Phan Địch Lân và cs 2005 [24])
Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996) [14], T. suis có hình thái giống roi
ngựa hoặc sợi tóc, màu trắng, cơ thể chia làm hai phần rõ rệt, thực quản có các
tế bào xếp thành chuỗi hạt, dài tới 2/3 cơ thể. Phần sau ngắn và to, bên trong
là ruột và cơ quan sinh sản.
Phan Địch Lân và cs (2005) [24] cho biết: Giun đực dài 20 - 52 mm, đuôi
hơi tù, phần đuôi cuộn tròn lại, chỉ có một gai giao hợp dài 5 - 7 mm, được bọc
trong một cái màng có nhiều gai nhỏ bao phủ. Lỗ sinh tiết thông với ngoài ở phần
cuối của giun. Giun cái dài 39 - 53 mm, đuôi thẳng. Hậu môn ở đoạn cuối cùng,
âm hộ ở đoạn cuối thực quản.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



6
Trứng T. suis hình hạt chanh, màu vàng nhạt, kích thước 0,052 - 0,061
x 0,027 - 0,03 mm. Hai cực có hai nút trong, vỏ dày có 2 lớp.
Theo Skrjabin K.I. (1979) [48], con đực có chiều dài thân trung bình là
40,35 mm; tối thiểu 33,0 mm; tối đa là 48,0 mm. Chiều dài của phần trước
trung bình là 25,3 mm (20 - 30 mm); phần sau 15,1 mm (12 - 19 mm). Tỷ lệ
chiều dài của phần trước với phần sau là 1,68 : 1. Thân con đực phủ lớp cutin
được vạch bởi nhiều rãnh ngang, làm cho lớp cutin có nhiều mấp mô, hình
răng nhỏ. Thực quản kéo dài dọc theo phần mỏng trước thân và chuyển vào
ruột ở chỗ ranh giới giữa phần mỏng và dày của thân. Chiều rộng của phần
trước thực quản 0,035 - 0,44 mm; của chỗ chuyển vào ruột 0,074 - 0,092 mm.
Thực quản được bao quanh bởi một hàng tế bào đơn nhân theo dạng móc
xích. Ruột kết thúc bởi huyệt trên phần đuôi. Hệ thống sinh dục của con đực
gồm những ống dẫn tinh uốn khúc chiếm hầu hết phần sau thân.
Đuôi con đực vòng xoắn ốc. Gai giao hợp kết thúc bằng một đỉnh nhọn.
Chiều dài gai xê dịch từ 1,74 - 2,48 mm. Chỗ rộng nhất của gai là gốc gai dài
0,084 - 0,110 mm. Có bao gai bọc chung quanh và cùng với gai lồi ra khỏi lỗ
huyệt. Bao gai được phủ bởi rất nhiều gai nhỏ, những gai này xếp theo thứ tự
quân cờ. Số lượng hàng gai nhỏ gần nơi chuyển của bao vào thân là 24 - 42; ở
đầu đối diện với nó số lượng hàng tăng tới 44 - 56. Hình dạng bao gai tròn,
căng, dài 0,044 mm. Chiều rộng của bao gai ở chỗ lồi ra khỏi huyệt tăng lên
về kích thước: Chiều rộng chỗ gần huyệt là 0,057 - 0,092 mm; trong khi đó ở
chỗ cuối gai là 0,079 - 0,159 mm. Tất cả con đực có một đầu bao gai gập hình
cổ tay áo hay là hình bao tay, bao này một phần hay toàn bộ bao phủ phần bao
gai lồi ra khỏi thân. Chiều dài của chỗ gập là 0,242 - 0,330 mm; rộng là 0,290
- 0,352 mm.
Con cái: Chiều dài thân trung bình 45,55 mm; tối thiểu 38 mm và tối đa
53 mm. Chiều dài phần trước mỏng của thân trung bình là 30,55 mm (25 - 35


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


7
mm); chiều dài phần sau dày là 15 mm (13 - 18 mm). Như vậy tỷ lệ giữa phần
trước và phần sau là 2,04:1. Trên ranh giới chỗ chuyển tiếp của phần thân
trước và phần thân sau, hơi dịch về phía sau cách đầu cuối của thực quản có
âm hộ. Âm hộ này nhô ra ngoài, dạng hình trụ hơi cong về phía sau (0,037 -
0,061 mm) và hơi rộng ở chỗ cạnh tự do (0,050 - 0,075 mm). Chỗ này được phủ
rất nhiều gai nhỏ hình lưới (3 - 4 µm). Ngay trước âm hộ, tử cung có hình ống
thẳng hay hơi cong, dài 0,92 - 1,28 mm; trong tử cung có trứng xếp thành một
hàng. Đuôi con cái tù. Trứng dài 0,056 - 0,066 mm và rộng 0,025 - 0,030 mm.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1966) [38], trứng màu vàng thẫm, vỏ dày, có
nút ở mỗi cực, kích thước 50 - 56 x 21 - 25 µm. Tuy nhiên, những trứng tác
giả đo được thấy tương đối to hơn (66 x 30 - 37 µm). Trứng không phân chia
khi đẻ.
1.1.1.3. Vòng đời của giun T. suis
Skrjabin K.I. (1979) [48] cho rằng, giun T. suis phát triển vòng đời
không cần vật chủ trung gian. Trứng được bài tiết cùng với phân lợn ra môi
trường ngoại cảnh. Ở môi trường thuận lợi, thời gian để trứng phát triển thành
dạng cảm nhiễm từ 3 đến 4 tuần. Trong thời gian này, có thể thấy ấu trùng đã
hình thành hoàn toàn và chuyển động bên trong trứng.
Theo Phan Địch Lân và cs (2005) [24], giun cái đẻ trứng trong ruột già
ký chủ, trứng theo phân ra ngoài, gặp điều kiện thuận lợi qua 15 - 28 ngày
trứng phát triển thành trứng có sức gây nhiễm.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [22] cho rằng, điều kiện thuận lợi nhất cho
sự phát triển của trứng giun T. suis thành trứng có sức cảm nhiễm ở ngoài môi
trường là nhiệt độ từ 18 - 30
o

C, ẩm độ 80 - 85%.
Trịnh Văn Thịnh (1985) [41] cho biết, chu kỳ sinh học của giun T. suis
gồm 2 giai đoạn: Một giai đoạn ở ngoại cảnh, phát triển từ trứng đến ấu trùng
cảm nhiễm; giai đoạn thứ hai ở ký chủ, ấu trùng cảm nhiễm phát triển thành
giun trưởng thành. Không có thời kỳ di hành trong cơ thể ký chủ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


8
Lợn nhiễm bệnh giun T. suis là do nuốt phải trứng cảm nhiễm. Trứng
này theo thức ăn, nước uống vào đường tiêu hóa của ký chủ, ấu trùng được nở
ra, chui sâu vào niêm mạc ruột già (Nguyễn Thị Kim Lan và cs 1999 [15]).
Bonner Stewart. T, Bert E. Stromberg, Bruce Lawhorn. D. (2000) [46]
cho biết: Những ấu trùng này nằm sâu trong niêm mạc 2 tuần, nhô ra khỏi
niêm mạc ở tuần thứ 3 và phát triển thành giun trưởng thành trong khi bám
vào niêm mạc ruột già.
Theo Phạm Văn Khuê và cs (1976) [12], Phan Địch Lân và cs (2005)
[24], thời gian hoàn thành vòng đời của giun T. suis là 30 ngày.
Trịnh Văn Thịnh (1985) [41], Đào Trọng Đạt và cs (1996) [5] cho rằng,
tuổi thọ của giun T. suis ở lợn là từ 4 - 5 tháng. Theo Lương Văn Huấn và cs
(1990) [8], giun T. suis sống được trong cơ thể lợn 114 ngày.
1.1.1.4. Sức đề kháng của trứng giun T. suis
Sức đề kháng là khả năng chống lại những tác nhân ngoại cảnh tác động
đến sự sinh trưởng và phát triển bình thường của trứng giun T. suis. Việc
nghiên cứu về sức đề kháng của trứng T. suis ở môi trường ngoại cảnh có ý
nghĩa quan trọng trong dịch tễ học bệnh giun T. suis, đồng thời là cơ sở khoa
học để đề ra những biện pháp phòng trị bệnh giun T. suis có hiệu quả.
Ở môi trường ngoại cảnh, trứng giun T. suis phát triển thuận lợi nhất ở
nhiệt độ từ 18 - 30

o
C, ẩm độ 80 - 85%. Đặng Văn Ngữ và cs (1965) [32] cho
biết: Nhiệt độ phát triển thuận lợi nhất của trứng giun Trichuris trichiura
(giun tóc người) ở ngoại cảnh là 25 - 30
o
C. Thời gian 17 - 30 ngày tỷ lệ trứng
có ấu trùng gần 90%. Nhiệt độ lên quá 50
o
C làm hỏng phần lớn trứng trước
khi tới giai đoạn ấu trùng. Như vậy, trứng giun T. suis và trứng giun Trichuris
trichiura có giới hạn nhiệt độ phát triển thuận lợi ở ngoại cảnh tương tự nhau.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [22], các chất sát trùng như dung dịch
NaOH - 2%, Cresyl 3%, nước vôi 10% diệt được trứng T. suis. Theo Nguyễn
Thị Lê và cs (1996) [26], trứng giun T. suis bị diệt dưới tác dụng của ủ phân
nhiệt sinh học. Sau 3 - 4 tuần, nhiệt độ hố ủ tăng lên tới 45
o
C sẽ làm hủy trứng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9
giun T. suis. Tuy nhiên, trứng non có khả năng chịu đựng các điều kiện nhiệt
độ cao hơn trứng ở giai đoạn ấu trùng.
Đỗ Dương Thái và cs (1975) [33] cho rằng, trứng giun T. suis và trứng
giun Trichuris trichiura bị hủy hoại nếu ẩm độ dưới 30% kéo dài. Mặt khác,
trứng giun T. suis có thể bị diệt bởi những tia tử ngoại của ánh sáng mặt trời
(Chicobanlova và Garo - dilova, 1950). Ở Việt Nam số giờ nắng rất nhiều, độ
nắng mạnh nên trong mùa hè trứng T. suis dễ bị hủy hoại ở ngoại cảnh. Trong
cùng một thời gian dưới tác dụng của tia tử ngoại thì trứng đã phát triển thành

ấu trùng bị diệt nhanh hơn trứng non.
1.1.2. Bệnh do Trichocephalus suis gây ra ở lợn
1.1.2.1. Những thiệt hại kinh tế do bệnh giun Trichocephalus suis gây ra
Bệnh ký sinh trùng ở gia súc, gia cầm nói chung và bệnh ký sinh trùng
ở đường tiêu hóa lợn nói riêng không tạo thành các ổ dịch lớn như những
bệnh truyền nhiễm do virut, vi khuẩn gây ra. Nhưng bệnh thường kéo dài âm
ỉ, ảnh hưởng đến thể trạng và sức khỏe vật chủ, làm hạn chế sự sinh trưởng và
phát triển của lợn, tăng tiêu tốn thức ăn và các chi phí khác như thuốc điều trị,
thuốc sát trùng, công chăm sóc, nuôi dưỡng và đặc biệt là yếu tố mở đường
cho các mầm bệnh khác xâm nhập. Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [40],
bệnh ký sinh trùng thường là những bệnh mãn tính, làm giảm mức sinh trưởng
và sinh sản của gia súc, ảnh hưởng đến sản phẩm chăn nuôi. Mức độ sinh
trưởng của lợn con khi bị nhiễm Ascaris suum, Trichocephalus suis,
Strongyloides ransomi có thể giảm 30% so với bình thường. Lợn nuôi lấy thịt
chậm lớn, sụt cân, phẩm chất thịt giảm.
Bonner Stewart. T, Bert E. Stromberg, Bruce Lawhorn. D (2000) [46]
cho biết: Tại Mỹ, nội ký sinh trùng ở lợn hàng năm gây thiệt hại ước tính
khoảng 538 triệu đô la. Ước tính gồm thiệt hại do lợn chết, tiêu hủy, giảm thu
và chi phí để tẩy giun sán. Ngoài ra, những ký sinh trùng ở dạ dày, ruột và các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


10
cơ quan khác còn tranh giành trực tiếp thức ăn với ký chủ, vì thế làm giảm
tăng trọng và tăng tiêu tốn thức ăn. Các tổ chức tế bào bị thương do di chuyển
của giun cũng giúp các mầm bệnh khác như Serpulina hyodysenteriae,
Mycoplasma hyopneumoniae xâm nhập và gây bệnh.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [22], Trichocephalus suis ký sinh là
một trong những nguyên nhân làm giảm năng suất chăn nuôi và tạo điều kiện

cho các bệnh khác xâm nhập. Lợn bị bệnh giun T. suis giảm tăng trọng từ 15 - 20%
so với lợn khỏe.
1.1.2.2. Dịch tễ học bệnh giun Trichocephalus suis
* Động vật mắc bệnh
Theo Phan Thế Việt và cs (1977) [45], lợn nhà và lợn rừng đều có khả
năng nhiễm bệnh.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [23] cho biết, bệnh thường xảy ra đối với
lợn dưới 6 tháng tuổi. Lợn nái và lợn trưởng thành nhiễm giun nhẹ hơn, ít thể
hiện các triệu chứng lâm sàng.
Phan Địch Lân và cs (1974) đã điều tra trên các giống Yorkshire,
Berkshire, Landrace nhập nội, lợn lai F
1
(ngoại x nội) và giống lợn nội ở vùng
đồng bằng (Hà Nội, Hà Tây) cho biết: Thành phần các loài giun sán chính ở lợn
ngoại, lợn lai và lợn nội không khác nhau nhiều; các loài giun sán phổ biến ở lợn
ngoại và lợn lai cũng là: T. suis, A. suum, O. ransomi…
Bùi Quý Huy (2006) [10] cho biết, giun T. suis ở lợn và Trichuris trichiura
ở người có nhiều điểm giống nhau về hình thái, hoá học và kháng nguyên, do đó
bệnh giun T. suis ở lợn dễ lây sang người. Theo Nguyễn Phước Tương (2002)
[44], người nhiễm bệnh khi nuốt phải trứng giun T. suis lẫn trong nước hay
trong thức ăn thực vật chưa được nấu chín. Sau khi vào ruột người, ấu trùng
phát triển thành giun T. suis trưởng thành, khu trú ở ruột thừa và gây bệnh cho
người. Giun đẻ trứng, trứng này được bài xuất ra ngoài qua phân người, sau

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


11
khi phát triển và chứa ấu trùng thì có khả năng gây nhiễm lại cho lợn (tuy
nhiên tỷ lệ trứng phát triển chỉ là 11%, trong khi trứng của giun T. suis ở lợn

có tỷ lệ phát triển là 86%).
* Tuổi mắc bệnh
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [22], bệnh giun T. suis ở lợn phân bố
trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, bệnh cũng đã được phát hiện ở tất cả các tỉnh
miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Ở Hà Nội, lợn bị nhiễm T. suis từ 4,3 -
30% (ở lứa tuổi từ 2 - 6 tháng) và 0,56 - 7,8% (ở lứa tuổi trên 6 tháng).
Lương Văn Huấn và cộng sự (1990) [8] cho biết, tỷ lệ nhiễm T. suis
theo tuổi lợn như sau:
Dưới 3 tháng tuổi nhiễm 20,4%
Từ 3 - 4 tháng tuổi nhiễm 21,2%
Từ 5 - 6 tháng tuổi nhiễm 8,5%
Trên 6 tháng tuổi nhiễm 6,4%.
Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996) [5], lợn ở giai đoạn 2 - 6 tháng tuổi
nhạy cảm nhất với giun T. suis. Kết quả điều tra tại hợp tác xã Tiền Phong (Hà Nội)
nuôi lợn Ỉ lai Yorkshire, Berkshire tỷ lệ nhiễm giun T. suis ở lợn dưới 2 tháng
tuổi là 16%, trong khi lợn 5 tháng tuổi nhiễm 13,5% và lợn 7 tháng tuổi nhiễm
6,2%. Tại hợp tác xã Đông Mỹ (Hà Nội) tỷ lệ lợn dưới 2 tháng tuổi nhiễm
giun T. suis là 20,8%. Ngày tuổi bình quân lần đầu tiên phát hiện trứng giun T.
suis trong phân lợn nội là 74 ngày (từ 58 - 89 ngày), lợn lai Landrace 56 ngày
(43 - 64 ngày), lợn lai Berkshire 61 ngày (56 - 75 ngày), lợn lai Yorkshire 76
ngày và lợn ngoại 62 ngày (38 - 81 ngày).
Nguyễn Thị Lê (1966) [25] cho biết: Qua điều tra giun sán ký sinh ở
lợn tại nông trường Cửu Long vào tháng 2 - 1962 thấy lợn con 1,5 - 2 tháng
nhiễm rất nặng các loại giun Physocephalus (75%). Ngoài ra, nhiều lợn nhiễm
Trichocephalus suis và Oesophagostomum dentatum.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


12

Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1978) [39], kết quả điều tra ở 37 nông
trường quốc doanh (1965 - 1968) trên 372 lợn mổ khám thấy tỷ lệ nhiễm một số
loài giun sán là: Ascaris suum 55 - 100% (22 - 88 giun/lợn); Trichocephalus suis
cao nhất 100% (từ 155 đến vô số giun trên một lợn).
Bùi Lập (1967) mổ khám 140 lợn và xét nghiệm phân của 1032 lợn ở
các vùng khác nhau, nhận xét: Số lợn con chưa cai sữa (dưới 2 tháng tuổi) đã
nhiễm nhiều loài giun sán như Fasciolopsis buski, Ascaris suum,
Trichocephalus suis, Oesophagostomum dentatum, Stephanurus dentatus. Trong
đó, tỷ lệ nhiễm Trichocephalus suis là 53,3% (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs
1978 [39]). Lợn nhiễm T. suis cao nhất ở giai đoạn 2 - 6 tháng tuổi (51,7 - 75%).
Bộ môn Ký sinh trùng thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp (1966) mổ khám
48 lợn ở Hà Nội và vùng phụ cận, thấy tỷ lệ nhiễm Trichocephalus suis 31,2%.
Tại Hải Phòng, Ngô Quang Tuyến, Trần Lâm Quang (1972) mổ khám
40 lợn và xét nghiệm phân của 2000 lợn, thấy tỷ lệ nhiễm Trichocephalus suis
là 27,5% (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs 1978 [39]).
Bùi Lập, Nguyễn Đăng Khải (1978 - 1980) mổ khám 782 lợn ở vùng
Trung Trung bộ thấy tỷ lệ nhiễm Trichocephalus suis ở vùng đồng bằng Trung
Trung bộ là 17,58%; vùng núi Trung Trung bộ là 34,78% và Tây Nguyên là
48,95%. Trong đó, tỷ lệ nhiễm Trichocephalus suis cao nhất ở lứa tuổi 2 - 4
tháng, sau đó có xu hướng giảm dần.
Theo Nguyễn Đăng Khải (1996) [11], tỷ lệ nhiễm Trichocephalus suis
ở 7 vùng kinh tế như sau:
1. Trung du và miền núi Bắc bộ
+ Trung du: 29,8%
+ Miền núi: 27,8%
2. Đồng bằng sông Hồng: 24,8%
3. Bắc Trung bộ: 13,9%

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



13
4. Nam Trung bộ:
+ Đồng bằng: 17,5%
+ Miền núi: 34,7%
5. Tây Nguyên: 20,8%
6. Tây Nam bộ: 9,4%
7. Đông Nam bộ: 13,1%.
Tác giả cho biết Trichocephalus suis phân bố đều khắp các vùng, tỷ
lệ nhiễm cao nhất ở giai đoạn 2 - 6 tháng tuổi, sau đó giảm, ít gây tác hại
đối với lợn lớn.
Phạm Văn Khuê (1982) [13] nghiên cứu biến động nhiễm giun sán theo
tuổi lợn tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long; theo tác giả điều này rất quan
trọng vì qua đó có thể nắm được lứa tuổi nào nhiễm giun sán cao, lứa tuổi nào
nhiễm thấp để có cơ sở khoa học xây dựng các biện pháp phòng trừ. Qua kiểm
tra 289 lợn ở 4 lứa tuổi (dưới 2 tháng, 3 - 4 tháng, 5 - 7 tháng và trên 8 tháng),
kết quả cho thấy: Lợn con dưới 2 tháng tuổi đã nhiễm tới 12 loài trong số
13 loài giun sán, có một số loài có sức gây bệnh mạnh, tỷ lệ nhiễm cao như
A. suum (48,7%); A. dentata (12,8%) và T. suis (30,7%). Trong 13 loài giun sán
có một số loài có chiều hướng tăng dần theo tuổi của vật chủ như T. hydatigena,
M. elongatus, M. salmi, O. dentatum. Ngược lại A. suum và đặc biệt T. suis có tỷ
lệ cao giới hạn ở lứa tuổi từ 2 - 5 tháng, sau đó giảm dần.
* Đường lây nhiễm
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [23], bệnh lây nhiễm qua đường tiêu
hóa do lợn nuốt phải trứng có sức cảm nhiễm lẫn trong thức ăn, nước uống.
* Mùa vụ
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [23], bệnh giun T. suis lây nhiễm
quanh năm nhưng tập trung từ mùa xuân tới mùa thu. Mùa đông, thời tiết
lạnh, độ ẩm thấp, không thích hợp cho trứng phát triển thành dạng trứng cảm
nhiễm nên tỷ lệ nhiễm giun trong đàn lợn giảm đi.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


14
Nguyễn Đăng Khải, Nguyễn Đăng Nhượng (1975) mổ khám 89 lợn ở
vùng đồng bằng và miền núi thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Bình
Định cho biết: Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun T. suis có sự khác nhau giữa các
vùng, trong đó sự khác nhau này có liên quan tới khí hậu của mỗi vùng. Vùng
đồng bằng, do mùa khô hạn kéo dài, nhiều ánh sáng (tổng số giờ nắng 2000 -
2300 giờ/năm) nhiệt độ những tháng nóng có thể lên tới 38 - 40
o
C nên tỷ lệ
nhiễm các loài giun sán nói chung đều thấp, đặc biệt là các loài giun sán
nhiễm trực tiếp như T. suis (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs 1978 [39]).
* Phương thức chăn nuôi
Phương thức chăn nuôi là một trong những yếu tố quan trọng có ảnh
hưởng tới khả năng nhiễm giun T. suis của lợn. Phạm Sỹ Lăng và cs (2009)
[23] cho rằng các cơ sở chăn nuôi mà điều kiện vệ sinh kém, lợn bị nhiễm
bệnh với tỷ lệ cao, gây thiệt hại đáng kể cho đàn lợn con.
Phạm Văn Khuê (1967) đã mổ khám 141 lợn và xét nghiệm 619 mẫu
phân ở tỉnh Hà Bắc, thấy 13 loài giun sán. Trong đó, những loài phổ biến là:
Fasciolopsis buski, Ascaris suum, Trichocephalus suis, Taenia hydatigena.
Những loài giun tròn phát triển trực tiếp như Trichocephalus suis thì tỷ lệ
nhiễm đến 100%. Những loài giun sán phải qua ký chủ trung gian như sán lá
ruột, giun đầu gai thì tỷ lệ nhiễm khác nhau tùy theo điều kiện đất đai, thức ăn
(trồng ở nước hay ở cạn), sự tồn tại hay không của các ký chủ trung gian và
điều kiện vệ sinh chăn nuôi (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs 1978 [39]).
Phan Văn Lan (1970) mổ khám 57 lợn và xét nghiệm 1000 mẫu phân
tại xã Yên Nguyên (Tuyên Quang) cho thấy tỷ lệ nhiễm các loài giun tròn ở

lợn nuôi thả rông là 96,5%. Trong đó, tỷ lệ nhiễm giun T. suis ở lợn nuôi nhốt
là 30%; lợn nuôi thả rông là 47% (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs 1978 [39]).

×