Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Ôn thi môn Ngữ văn 12: Văn học Việt Nam thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.98 MB, 17 trang )

Công ty Cổ phầ n Đầ u tư Công nghệ Giáo dụ c IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
P
VĂN HỌ C VI Ệ T NAM THẾ KỶ XX
[…]
1. Văn họ c Việ t Nam giai đoạ n đầ u thế kỉ XX- 1930
1.1. Nhữ ng tiề n đề lị ch sử , xã hộ i và tư tư ở ng, thẩ m mỹ củ a giai đoạ n văn
họ c đầ u thế kỷ XX đế n năm 1930
a. Tình hình chính trị , kinh tế trong nư ớ c
Ðầ u thế kỉ XX, Pháp cơ bả n đã thự c hiệ n xong công cuộ c bình đị nh trên đấ t nư ớ c ta
và chuyể n sang khai thác thuộ c đị a, xây dự ng trậ t tự mớ i. Kể từ sau cái chế t củ a Phan Ðình
Phùng (1896), phong trào chố ng Pháp theo ngọ n cờ Cầ n Vư ơ ng xem như đã thấ t bạ i hoàn
toàn. Cả bộ máy thố ng trị củ a nhà nư ớ c phong kiế n từ triề u đình đế n tỉ nh, huyệ n, làng, xã
đề u trở thành tay sai cho bọ n xâm lư ợ c. Mọ i quyề n hành đề u nằ m trong tay Pháp. Bộ máy
cai trị củ a Pháp đư ợ c tổ chứ c lạ i theo lố i hiệ n đạ i h ơ n, chặ t chẽ hơ n, có quyề n lự c hơ n và
phá dầ n thế tự trị làng xã ngày trư ớ c.
Trong bố i cả nh chính trị phứ c tạ p và đen tố i như thế , thanh niên Việ t Nam cả m thấ y
bi quan tuyệ t vọ ng vô cùng. Họ quyế t đị nh bỏ lố i họ c từ chư ơ ng, đi tìm đế n nhữ ng tri thứ c
hiệ n đạ i mà họ biế t đư ợ c qua sách vở và báo chí nư ớ c ngoài đư ợ c bí mậ t đư a vào Việ t nam
lúc này. Trong số đó tiêu biể u là tân thư , tân văn. Cũng từ sách vở nư ớ c ngoài, họ đư ợ c tiế p
xúc vớ i các luồ ng tư tư ở ng tiế n bộ , hiể u đư ợ c tình hình cách mạ ng trên thế giớ i từ đó chọ n
cho mình mộ t con đư ờ ng cứ u nư ớ c khác trư ớ c.
Về kinh tế , đầ u thế kỉ XX nư ớ c ta vẫ n là mộ t nư ớ c nông nghiệ p lạ c hậ u. Thự c dân
Pháp thự c hiệ n chính sách kinh tế thự c dân, kéo n ư ớ c ta vào quỹ đạ o củ a chủ nghĩa tư bả n
như ng không đư ợ c công nghiệ p hoá mà lạ i biế n thành thị trư ờ ng tiêu thụ cho Pháp.
b. Tình hình xã hộ i
Xã hộ i nư ớ c ta trư ớ c khi Pháp xâm lư ợ c là mộ t xã hộ i phong kiế n phư ơ ng Ðông. Khi
có mặ t thự c dân Pháp trên đấ t nư ớ c thì mọ i cái đã thay đổ i. Kinh tế hàng hoá kích thích sự
phát triể n củ a công thư ơ ng nghiệ p làm cho thành thị phát triể n, làm xuấ t hiệ n nhiề u nhu
cầ u mớ i, phát triể n nhiề u nghề mớ i, tầ ng lớ p thị dân phát triể n. Giai cấ p t ư sả n Việ t Nam
hình thành trong hoàn cả nh hế t sứ c đặ c biệ t nên có nhữ ng đặ c trư ng riêng. Ðiề u đó cũng


ả nh hư ở ng đế n ý thứ c củ a giai cấ p này. Giai cấ p tư sả n Việ t Nam nhiề u tính chấ t mạ i bả n,
nặ ng thư ơ ng nghiệ p hơ n công nghiệ p, không lìa bỏ đư ợ c lố i bóc lộ t phong kiế n. Tầ ng lớ p t ư
sả n Việ t Nam thờ i bấ y giờ cũng không có mộ t tinh th ầ n dân tộ c v ì họ không có mộ t cơ sở
kinh tế hùng hậ u, không có kinh nghiệ m đấ u tranh và không có ý thứ c giai cấ p rõ rệ t.
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
Q
Sự phát triển các đô thị dẫn đến sự phá sản nông nghiệp, l àm cho nông thôn tiêu
điều xơ xác. Nông dân kéo ra thành thị ngày càng đông. Một tầng lớp tiểu tư sản nghèo
ngày càng phát triển, sống bấp bênh ở thành thị.
Đầu thế kỉ XX, giai cấp công nhân Việt Nam đã hình thành. Do quá trình bần cùng
hoá và phá sản của nông dân, thợ thủ công, giai cấp công nhân có điều kiện để hiểu được
nông dân, liên minh được chặt chẽ với nông dân. Và ngược lại, cũng trên điều kiện hiểu biết
ấy, do vị trí lịch sử của giai cấp vô sản m à nông dân đi theo nó làm cách m ạng, bền bỉ và
lâu dài.
Trong tình hình xã hội đầy phức tạp và có nhiều đổi mới như thế thì giai cấp phong
kiến, vốn đã hình thành lâu đời trong xã hội Việt Nam cũng lung lay đến tận gốc. Ðể bảo vệ
quyền lợi ích kỉ cho giai cấp mình, giai cấp phong kiến đã quỳ gối đầu hàng giặc, làm tay sai
cho giặc. Hơn thế nữa, họ còn cấu kết với giặc để quay trở lại đàn áp các phong trào yêu
nước của nhân dân ta. Tuy nhiên , trong số họ cũng còn có những người yêu nước, tự tách
mình ra khỏi hàng ngũ đó để đi làm cách mạng theo xu hướng dân chủ tư sản.
Nhìn chung, xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX có nhiều biến động. C ơ cấu xã hội thay
đổi hoàn toàn.
c. Tình hình văn hoá
Xã hội Việt Nam trước khi Pháp xâm lược là một xã hội phong kiến chuyên chế tập
quyền cao độ. Nho giáo được coi là quốc giáo, Nho giáo dùng luân thường đạo lí để giáo
dục xã hội. Mặc dù ý thức phong kiến đã tỏ ra thoái hoá, nhưng trong thực tế, ở giai đoạn
1900 - 1930, nó vẫn còn cơ sở tồn tại. Ở nông thôn, gốc rễ của nó vẫn c òn rất sâu. Ở thành
thị thì nó bắt đầu va chạm với ý thức tư sản vừa mới xuất hiện. Tuy nhiên, phạm vi còn nhỏ
hẹp, chỉ giới hạn trong quan hệ đạo đức gia đình và tình cảm cá nhân.

Vào đầu thế kỉ XX, giai cấp tư sản ra đời, tư tưởng tư sản cũng xuất hiện. Xã hội Việt
Nam đã có những chuyển biến mạnh mẽ từ ý thức hệ phong kiến sang ý thức hệ t ư sản. Ở
giai đoạn 30 năm đầu thế kỉ, ý thức hệ t ư sản chưa đủ sức làm thay đổi nền văn hoá phong
kiến Việt Nam nhưng trong một mức độ nhất định nó đã góp phần tạo ra những nhân tố
thúc đẩy cho sự đổi mới hoàn toàn ở giai đoạn sau, giai đoạn 1930 – 1945.
Trong những năm 20, 30, ý thức vô sản đã bắt đầu xuất hiện. Nhưng ảnh hưởng của
ý thức hệ vô sản chủ yếu mới chỉ là trên đời sống tư tưởng chính trị. Ðối với văn học, nhất
là văn học giai đoạn này, dĩ nhiên nó có ảnh hưởng, hơn nữa còn tạo ra những thành tựu
đáng kể nhưng chưa có điều kiện để phát triển.
Trước thế kỉ XX, nền văn hoá nước ta là nền văn hoá phong kiến mang đậm bản sắc
Ðông Nam Á. Nhìn chung, nền văn hoá Việt Nam được thai nghén và trưởng thành trong cái
nôi văn hoá Ðông Nam Á. Tư tưởng phương Ðông đã ăn sâu vào phong tục, tập quán và
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
R
tâm khảm của con người. Lối sống theo làng xã, họ tộc đã tạo nên thế tự trị lâu đời cho
người Việt Nam. Con người Việt Nam có nếp sống chuẩn mực từ trong cách ăn mặc cho đến
việc ứng xử. Thế mà đến đầu thế kỉ XX, sự du nhập của văn hoá phương Tây vào Việt Nam
đã làm thay đổi những giá trị cổ truyền của dân tộc. Văn hoá Việt Nam chuyển dần sang
nền văn hoá hiện đại chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây.
Trước kia ở Việt Nam tồn tại ba tôn giáo được du nhập từ nước ngoài. Ðó là Phật
giáo, Nho giáo và Ðạo giáo. Kitô giáo vốn đã xuất hiện ở Việt Nam từ các thế kỉ tr ước (XVI -
XVII), đến giai đoạn 1900- 1930 đã có nhiều ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của ng ười
Việt Nam
Chữ quố c ngữ : Chữ quốc ngữ ra đời từ thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XX, các sĩ phu y êu
nước trong phong trào Duy Tân nhận thấy những ưu điểm của chữ quốc ngữ đã cổ động sử
dụng chữ quốc ngữ. Việc đổi mới chữ viết đã mang nhiều ý nghĩa lớn, nó không chỉ tạo điều
kiện dễ dàng trong việc học, viết, đọc mà còn cung cấp phương tiện hiện đại cho nền văn
học mới.
Về văn họ c: Việc phổ biến sử dụng chữ quốc ngữ cũng góp phần thúc đẩy việc xây

dựng và phát triển nền văn xuôi Việt Nam. Sang đầu thế kỉ XX , văn xuôi Việt Nam mới thể
hiện những tiến bộ rõ rệt. Bên cạnh đó, do có sự tiếp xúc với văn học ph ương Tây mà nền
văn học Việt Nam giai đoạn này đã xuất hiện thể loại mới: Thể loại tiểu thuyết hiện đại, vốn
là đặc thù của văn hoá phương Tây. Khởi đầu là quyển tiểu thuyết in bằng chữ quốc ngữ,
xuất hiện ở Nam kì năm 1887 với tựa đề Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản.
Nhưng đến giai đoạn 1900-1930 thì thể loại tiểu thuyết hiện đại mới phát triển trong phạm
vi cả nước. Những tên tuổi tiêu biểu là Hồ Biểu Chánh, Trần Thiên Trung, Trương Duy Toản,
Hoàng Ngọc Phách, Trọng Khiêm, Nguyễn Trọng Thuật Chất văn xuôi, tính cách cá nhân
phương Tây còn ảnh hưởng đến cả lĩnh vực sáng tác lâu đời trong văn học Việt Nam, đó l à
thơ. Thơ Tản Ðà, thơ Trần Tuấn Khải trong giai đoạn này đã mang những giai điệu mới.
Nghệ thuậ t sân khấ u thời này cũng xuất hiện các hình thức mới: Kịch, cải lương. Kịch
nói ra đời do có sự tiếp xúc với văn hóa ph ương Tây. Lúc đầu xuất hiện những vở kịch dịch
từ tiếng Pháp, dần dần về sau các nh à viết kịch đã tự sáng tác và hình thành nên một
phong trào sáng tác kịch.
Văn học giai đoạn này nổi bật ba xu hướng: Xu hướng yêu nước, xu hướng lãng
mạn, xu hướng hiện thực .
Xu hư ớ ng văn họ c yêu nư ớ c có sự thăng trầm theo diễn biến của các phong tr ào
Cách mạng. Khi phong trào cách mạng dân chủ tư sản lên cao, văn thơ yêu nước thuộc các
tổ chức này là những lời tố cáo tội ác kẻ thù rất đanh thép. Nó là bức tranh phản ánh thời
sự của xã hội đương thời; là những lời động viên kêu gọi toàn dân chống giặc cứu nước.
Ðến lúc phong trào cách mạng theo xu hướng tư sản bắt đầu thất bại thì tiếng nói yêu nước
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
S
lại bộc lộ bằng những hình thức khác nhau: Lối nói bóng gió, lối gởi gắm kín đáo, lối d ùng
hình ảnh tượng trưng hoặc mượn lời nhân vật lịch sử để thổ lộ tâm t ình rất phổ biến.
Xu hư ớ ng hiệ n thự c mới được manh nha trong giai đoạn này qua một số tác phẩm
của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Hồ Biểu Chánh, Vũ Ðình Long, Các tác giả đã phanh
phui những xấu xa của xã hội thực dân nửa phong kiến, phơi bày cảnh khổ của nhân dân.
Xu hư ớ ng lãng mạ n được khơi nguồn từ các tác phẩm của Ðông Hồ, Tương Phố, Tản

Ðà, Hoàng Ngọc Phách. Ðấy là những sáng tác đã gợi lên tiếng lòng sâu kín, những nỗi
buồn đau và những mơ ước hảo huyền của lớp người đang bi quan, chán nản trước cuộc
sống. Sự xung đột giữa lễ giáo phong kiến cũ v à chủ nghĩa cá nhân bắt đầu xuất hiện.
d. Vấ n đề thẩ m mĩ văn chư ơ ng
Giai đoạn 1900 - 1930, tình hình chính trị xã hội Việt Nam có nhiều biến động làm
cho môi trường thẩm mĩ cũng thay đổi. Lối sống t ư sản đã tấn công quyết liệt vào xã hội
phong kiến Việt Nam, cùng với nó là sự du nhập ồ ạt của nền văn hoá ph ương Tây. Trạng
thái tâm lí của con người thay đổi trước những biến động xã hội, cho nên ý thức thẩm mĩ
của con người tất yếu cũng đổi thay. Quan niệm về cái đẹp của cuộc sống, của con người,
cũng như cái đẹp trong nghệ thuật đã có nhiều thay đổi.
Ðối với sáng tác văn chương, trước đây, người ta quan niệm cái đẹp toát lên từ sự
hài hoà cân đối của một bài thơ Ðường luật, từ sự hoàn chỉnh của phép đối, của cách gieo
vần Giờ đây, những yếu tố đó đang chịu sự lấn át dần bởi chất phóng khoáng , tự do vừa
tìm thấy được từ văn học phương Tây.
1.2. Vài nét chính về văn họ c giai đoạ n này
a. Nề n văn họ c có sự phân hoá
Phân hoá trong lự c lư ợ ng sáng tác: Lực lượng sáng tác của văn học viết thời trung
đại chủ yếu là nhà nho, những trí thức phong kiến. Ðầu thế kỷ XX, trong một giai đoạn lịch
sử đầy biến động, lực lượng sáng tác cũng phân hóa phân hoá sâu sắc:
- Nhiều nhà nho vì yêu nước thương dân, không cam tâm làm nô lệ đã tiếp tục đứng
lên chống Pháp như Phan Bội Châu, Ngô Ðức Kế, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền,
Huỳnh Thúc Kháng Họ vừa họat động chính trị vừa sáng tác văn ch ương. Bằng những
cách tân nghệ thuật họ nhiệt tình thể hiện những vấn đề mới của xã hội, cuộc sống và con
người, ý thức hệ phong kiến không còn chi phối tư tưởng của họ một cách nặng nề nh ư
trước nữa.
Ðến giai đoạn thoái trào của phong trào cách mạng, các nhà nho cảm thấy buồn
chán, bi quan. Họ lại trở về với bản chất của nhà nho trước kia: sống hướng nội, thích bộc
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
T

bạch tâm sự, hoài cổ, hay làm thơ thuật hoài. Văn chương của họ lúc này trở về với đặc
điểm văn chương ở thế kỷ trước.
- Ðầu thế kỉ XX đã xuất hiện một lực lượng sáng tác mới. Ðó là lớp trí thức Tây học,
được đào tạo từ các trường Pháp - Việt, có cả những nhà cựu học. Phần lớn trong số họ bắt
đầu từ công việc làm báo, rồi chuyển sang viết truyện ngắn, kịch. Nh ìn chung, họ là những
người mạnh dạn đến với cái mới. Tuy nhi ên ở họ không tránh khỏi những dằn dặt, trăn trở
khi chọn cho mình một hướng đi để phù hợp với sự phát triển của thời đại.
b. Quan niệ m sáng tác
Trong giai đoạn văn chương từ đầu thế kỷ XX- 1930 vẫn tồn tại quan niệm sáng tác
phổ biến của các nhà nho thời trung đại. Nhà văn Phan Bội Châu cho rằng sáng tác văn
chương là để "lập công" "lập chí", "lập ngôn". Tản Ðà là người đã mạnh dạn cách tân
phương pháp sáng tác cũ, tiến hành một cuộc cách mạng trong nghệ thuật th ơ ca nhưng
vẫn có tư tưởng phân biệt loại văn "vị đời" và "văn chơi".
Giai đoạn này đã xuất hiện một số quan niệm sáng tác mới:
- Quan niệ m văn họ c phụ c vụ chính trị : nhà văn phải quan tâm đến đối tượng công
chúng là toàn thể nhân dân, trong đó có cả quần chúng lao động. Cho n ên văn học không
còn thu hẹp trong một nhóm nhỏ, mà được công bố rộng rãi bằng nhiều hình thức. Giờ đây
người ta tìm cách in ấn để xuất bản tác phẩm văn học.
- Quan niệ m về thể loạ i cũng khác trước, tiểu thuyết và kịch được công nhận là một
thể loại văn học. Nho sĩ ngày trước chuộng thơ, gởi gắm tâm hồn của mình trong thơ, bộc
bạch tâm sự chí khí bằng thơ. Lớp nghệ sĩ mới hôm nay lại say m ê văn xuôi, hướng về văn
xuôi nhiều hơn. Họ nhận thấy văn xuôi có nhiều khả năng phản ánh chân thật, cụ thể đa
dạng cuộc sống. Ðối với các nhà nho, vấn đề mô tả hiện thực cuộc sống không phải là điều
mà họ quan tâm đến. Ngược lại, nền văn học mới để hết tâm sức v ào phản ánh hiện thực,
vai trò nhận thức của văn học đối với cuộc sống được nâng cao.
c. Phư ơ ng thứ c sáng tác
Văn chương thời trung đại là sản phẩm của những cá nhân riêng lẽ nhưng vẫn mang
một đặc trưng chung, bởi nó được tạo nên bằng một phương pháp sáng tác chung, thể hiện
qua một số yếu tố: ngôn ngữ, thể loại, kết cấu, nhân vật
Ðầu thế kỉ XX, người sáng tác không còn tuân thủ theo một hệ thống phương pháp

sáng tác duy nhất ấy nữa. Tình hình đó đã tạo ra tình trạng phân hóa không thể tránh khỏi
trong phương pháp sáng tác.
- Một số nhà nho đã chọn con đường cách tân nghệ thuật sáng tác của nh à nho. Họ
vẫn theo phương pháp sáng tác cũ nhưng có những đổi mới đáng kể.
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
U
- Một số người thuộc lực lượng trí thức tân học thì chọn con đường học theo
phương Tây để sáng tác. Họ bắt đầu từ công việc dịch thuật, qua phỏng tác v à cuối cùng là
sáng tác.
Trong lịch sử văn học Việt Nam đây là giai đoạn duy nhất có hiện tượng đan xen hai
yếu tố cũ và mới thể hiện trong sáng tác của một tác giả, có khi trong c ùng một tác phẩm.
Hai yếu tố cũ và mới được kết hợp nhuần nhuyễn và phổ biến trên khắp các thể loại tạo ra
những giá trị đặc biệt, không thể xếp v ào kho tàng văn học trung đại, mà cũng chưa thể
công nhận đó là một tác phẩm của nền văn học hiện đại.
d. Độ c giả văn chư ơ ng
Có thể nói như sau về các thành phần trong nền văn học trung đại: lực lượng sáng
tác (chủ yếu là nhà nho) cũng chính là công chúng. Đầu thế kỷ XX, lớp công chúng cũ vẫn
còn. Lớp công chúng mới, bao gồm nhiều loại ng ười khác nhau đang sống trong các đô thị
chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, của cuộc sống mới, có nhu cầu thị hiếu mới, đòi
hỏi sự đổi mới của văn học. Quá trình này đặt ra cho các nhà văn nhiệm vụ phải thay đổi
quan niệm sáng tác, phương pháp sáng tác phù hợp với thời đại mới. Hai loại công chúng
này mang trạng thái tâm lý khác nhau, sống trong hai điều kiện khác nhau, c ùng tồn tại
song song trong xã hội thực dân nửa phong kiến đầu thế kỷ XX, trong cái thế một bên đã ít
nhưng chưa mất hẳn; một bên mới xuất hiện nhưng phát triển nhanh.
1.3. Văn họ c Việ t Nam trên đư ờ ng đổ i mớ i
Đổi mới được hiều là văn học giai đoạn này thoát khỏi hệ thống thi pháp văn học
trung đại, đây là một quá trình không hề đơn giản bởi nó phải phá bỏ một hệ thống thi pháp
đã tồn tại và đã được khẳng định qua nhiều kiệt tác bất hủ, đồng thời phải xây dựng một
hệ thống thi pháp mới trên cơ sở tiếp nhận ảnh hưởng của văn hoá nhân loại, và kế thừa

những tinh hoa của văn hoá truyền thống.
Trong giai đoạn từ 1930-1945 lại khác, quá trình hiện đại hoá văn học diễn ra đặc
biệt mạnh mẽ và sâu sắc ở hầu hết các thể loại:
Về tiể u thuyế t, sự xuất hiện của nhóm nhà văn Tự lực văn đoàn và nhiều nhà văn
hiện thực phê phán.
Các thể loạ i khác như: truyện ngắn, phóng sư, bút ký, tuỳ bút, kịch cũng có nhiều
thành tựu đáng chú ý.
Về thơ , phong trào Thơ mới khởi xướng từ năm 1932 đã đóng vai trò quyết định
trong công cuộc hiện đại hoá thơ ca Việt Nam. Cá tính sáng tạo được giải phóng, hàng loạt
tiếng thơ trẻ trung và tài năng ra đời với nhiều màu sắc và giai điệu khác nhau. mảng thơ ca
cách mạng cũng có nhiều đóng góp vào nền thư ca dân tộc.
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
V
Vấn đề hiện đại hóa của văn học Việt Nam ở đầu thế kỉXX đã diễn ra theo hai bước:
- Từ năm 1900 đến 1920 (bư ớ c 1): Trong giai đoạn này văn học đã đổi mới về nội
dung. Các vấn đề thuộc về ý thức hệ, lý t ưởng chính trị xã hội, tình cảm cụ thể là những
vấn đề mà chúng ta có thể nhận thấy dễ dàng. Ví dụ : về ý thức hệ, văn học ra đời trong
giai đoạn này phần lớn chịu sự chi phối bởi ý thức hệ t ư sản, trong khi các sáng tác ở thời
trung đại chịu sự chi phối của ý thức hệ phong kiến; về lý t ưởng chính trị xã hội, chủ nghĩa
yêu nước đã gắn với lý tưởng cách mạng dân chủ tư sản, khác với văn học trung đại chủ
nghĩa yêu nước không thể tách rời lý tưởng tôn quân
Về mặt nghệ thuật, văn học giai đoạn 1900 - 1920, trong phạm vi cả nước, chưa có
những đổi mới đáng kể. Các tác giả chỉ dừng lại ở mức độ cách tân nghệ thuật sáng tác của
nhà nho trước kia. Tiêu biểu nhất là thơ văn yêu nước và cách mạng. Còn nhiều tác phẩm
thể hiện những vấn đề mới của cách mạng bằng h ình thức nghệ thuật cũ.
- Từ năm 1920 - 1930 (bư ớ c 2): Văn học ở giai đoạn này không chỉ đổi mới về nội
dung mà cả nghệ thuật cũng đã khác trước rất nhiều. Văn học đã mang tính hiện đại rõ rệt
nhưng yếu tố trung đại vẫn còn tồn tại xen kẽ, khá phổ biến từ nội dung đến h ình thức. Ví
dụ : "Tố Tâm" - Hoàng Ngọc Phách, các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, th ơ Tản Ðà đều có

mang đặc điểm nói trên.
Mặc dù đây chỉ là chặng đường đầu của tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam
nhưng nó cũng gặt hái được những kết quả đáng kể, tạo cơ sở vững chắc cho chặng đường
tiếp theo. Trước hết, nó đã đóng góp tích cực vào công cuộc hiện đại hóa văn học bằng sự
thay đổi hệ ý thức trong văn học theo h ướng tiên tiến. Nó cũng có vai trò trong việc đổi mới
thi pháp văn học. Mặt khác, công cuộc hiện đại hóa văn ch ương ở giai đoạn này đã đưa nền
văn học nước ta đi vào quỹ đạo của nền văn học thế giới.
1.4. Các xu hư ớ ng văn họ c
a. Văn thơ yêu nư ớ c
Lực lượng sáng tác chủ yếu của dòng văn học yêu nước và cách mạng giai đoạn
1900 - 1930 là các nhà có tư tưởng tiến bộ. Họ được tiếp nhận các luồng tư tưởng tiến bộ
từ nước ngoài vào, thông qua sách báo, tiêu biểu là tân thư và tân văn. Họ sáng tác văn
chương để phục vụ cho hoạt động chính trị: Phan Bội Châu, Nguyễn Th ượng Hiền, Nguyễn
Quyền,
Văn học yêu nước đã nêu lên quan niệm mới về đất nước, về yêu nước. Nước không
còn là của vua, vua và nước không còn là một, nói đến nước là nói đến non sông, nòi giống,
nói đến dân tộc, đồng bào. Xuất phát từ quan niệm mới về đất n ước, yêu nước các tác giả
đã đi đến khẳng định quyền làm chủ của người dân trong xã hội, đồng thời cũng khẳng định
vai trò của người dân trong sự nghiệp cứu nước.
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
W
Trong thơ văn yêu nước đầu thế kỷ XX, vấn đề yêu nước còn gắn liền với vấn đề
cách mạng. Ở đây song song với nội dung k êu gọi chống Pháp, còn có nội dung cải cách xã
hội nhằm làm cho nước giàu dân mạnh.
b. Văn họ c hợ p pháp
Lực lượng sáng tác tiêu biểu của văn học hợp pháp là nhà nho và các trí thức tân
học. Nhìn chung, họ là những người dám vứt bỏ cái cũ, lạc hậu. Họ đến với cái mới v ì momh
muốn phát triển nền văn hoá dân tộc.
Một số nội dung tiêu biểu của văn học hợp pháp là:

- Văn học hợp pháp phản ánh hiện thực xã hội trên con đường tư sản hóa, xã hội
được miêu tả trong văn học hợp pháp là một xã hội náo nhiệt, xô bồ, đồng tiền tư sản, lối
sống tư sản, đạo đức tư sản đang dần dần chiếm địa vịưu ở thành thị. Trong khi đó, ở
nông thôn bọn cưòng hào, quan lại, địa chủ cấu kết nhau hà hiếp dân lành. Cuộc sống của
người dân nghèo vốn đã lam lũ, lại càng khốn khó hơn.
- Cái tôi và chủ nghĩa cá nhân trong văn học hợp pháp: X ã hội Việt Nam vào những
năm đầu thếkỷ XX đang trên con đường tư sản hóa. Cái tôi của chủ nghĩa cá nhân được coi
trọng và khẳng định. Thơ văn hợp pháp giai đoạn đầu thế kỷ XX đã bắt đầu nói đến những
tình cảm riêng tư, sâu kín của con người. Chủ nghĩa cá nhân đã xuất hiện nhưng mang một
đặc điểm riêng biệt, nó khác với chủ nghĩa cá nhân trong văn học ở giai đoạn 30 -40 và cũng
không giống với chủ nghĩa cá nhân trong văn học giai đoạn 40 -45. Nhìn chung, ở vào thời
điểm này, cái tôi và chủ nghĩa cá nhân tuy đã xuất hiện nhưng chưa đủ sức chống đối
những ràng buộc của lễ giáo phong kiến như giai đoạn sau này.
- Nội dung yêu nước của văn học hợp pháp:
Các tác giả văn thơ hợp pháp phần lớn đứng ngoài cuộc đấu tranh cứu nước của dân
tộc. Tuy nhiên, ở họ vẫn tiềm tàng một tinh thần dân tộc, vẫn phảng phất một tinh thần yêu
nước. Chính những trang viết chất chứa t ình cảm đau xót, hay tiếc nuối về đất n ước đã cho
ta thấy tình yêu quê hương đất nước của họ. Nói chung, nội dung y êu nước trong văn học
hợp pháp được thể hiện một cách mờ nhạt, bóng gió xa xô i.
- Ðặc điểm nghệ thuật của văn học hợp pháp:
Văn học hợp pháp vừa kế thừa nghệ thuật sáng tác của các nh à nho thời trung đại,
vừa tiếp nhận nghệ thuật hiện đại của nền văn học ph ương Tây. Các tác giả đã tiến hành
một cuộc cách tân trong nghệ thuật, lấy truyền thống làm cơ sở. Trong lịch sử văn học Việt
Nam, đây là giai đoạn đặc biệt có hiện tượng đan xen giữa hai hình thức nghệ thuật: nghệ
thuật của văn học trung đại và nghệ thuật của văn học hiện đại, nhiều tác phẩm mang tính
chất trung gian, vừa có chất hiện đại vừa mang dáng dấp truyền thống.
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
X
1.5. Các tác giả lớ n củ a Văn họ c Việ t Nam giai đoạ n đầ u Tk XX - 1930

Hoàng Ngọ c Phách
Tiểu thuyết duy nhất của nhà văn là "Tố Tâm" đã thể hiện sự kết hợp hai yếu tố cũ
và mới trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Ông đã để cho hai nhân vật chính
Tố Tâm và Ðạm Thủy giằng co giữa hai con đường chạy theo tình yêu tự do hay chấp nhận
lễ giáo phong kiến. Với "Tố Tâm", ng ười tuân thủ đạo đức truyền thống đã không có hạnh
phúc trong chế độ đại gia đình phong kiến, mà người muốn sống hết mình cho tình yêu tự
do cũng không thể đón nhận hạnh phúc trong t ình yêu. . "Tố Tâm" là một tác phẩm tiêu
biểu thể hiện tính giao thời của văn học giai đoạn này.
Văn chư ơ ng Hồ Biể u Chánh
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh phản ánh nhiều mảng hiện thực khác nhau trong x ã hội
Nam Bộ ở những năm đầu thế kỉ XX. Hiện thực cuộc sống được đưa vào trong tác phẩm của
ông thể hiện rõ tính chất chân thật, cụ thể và đa dạng. Ông không chỉ viết về thành thị mà
còn đi sâu vào cuộc sống ở nông thôn.
Ở nông thôn: Hồ Biểu Chánh đã đề cập đến tầng lớp thống trị ở nông thôn : ông đã
xây dựng hình ảnh những ông địa chủ độc ác, tham lam, t ìm mọi cách để ức hiếp bóc lột
dân lành
Bên cạnh địa chủ, ở nông thôn Nam bộthời đó còn có một lực lượng không nhỏ bao
gồm hương chức, hội tề, những kẻ có quyền thế ở nông thôn chuy ên cấu kết nhau để ức
hiếp dân lành vô tội.
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh còn đề cập đến tầng lớp dân nghèo ở nông thôn : Họ bị
bóc lột về kinh tế, làm lụng vất vả quanh năm nhưng vẫn phải sống trong cảnh đói nghèo vì
bị bọn địa chủ bóc lột nặng nề.
Ở thành thị: Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã khai thác hiện thực cuộc sống sôi động,
bề bộn, với nhiều hạng người khác nhau ở thành thị. Ông nói đến những người thợ thuyền
sống chui rúc trong các ngõ hẽm tăm tối, nghèo nàn. Ông đề cập đến giới thông ngôn ký
lục, những kẻ nịnh bợ Tây, sợ sệt quan trên, thích bắt nạt dân lành, ăn chơi trác táng, ước
vọng cao sang, trọng tiền tài danh lợi xem nhẹ nhân nghĩa. Giới thượng lưu trí thức xuất
hiện trong tác phẩm của ông là những kẻ sống phong lưu, thiếu thực tế
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh phản ánh hiện thực tr ên lập trường đạo đức: Hồ Biểu
Chánh đã tái hiện lại bộ mặt của xã hội Nam Bộ vào những năm đầu thế kỉ XX. Ông đã phê

phán những mặt trái của xã hội trên lập trường đạo đức. Ông không đặt ra vấn đề phải
đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến để giải thoát ng ười nông dân khỏi cảnh sống bị bóc lột.
Ông chưa tập trung vào những vấn đề nóng bỏng nhất của thời đại - những biến động đổi
thay nhanh chóng của con người, và xã hội trong cuộc sống trên con đường tư sản hóa.
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
PO
Khuynh hướng đạo đức đã chi phối mạnh mẽ nội dung tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.
Ông thường xây dựng hệ thống nhân vật gồm hai loại ng ười khác nhau. Một bên là đại diện
cho cái thiện và một bên là đại diện cho cái ác. Cái thiện bao giờ cũng chiến thắng v à cái ác
luôn bị trừng trị nghiêm khắc. Ông có ý định dùng quan niệm đạo lý của dân gian "Thiện ác
đáo đầu chung hữu báo" để giáo dục con ng ười.
Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn ở miền Nam. Ông là người đi tiên phong trong
việc đưa tiểu thuyết mới từ tình trạng phôi thai đến giai đoạn trưởng thành. Tiểu thuyết Việt
Nam từ Hồ Biểu Chánh mới bắt đầu những b ước đi vững chắc.
Phan Bộ i Châu
Thơ văn Phan Bội Châu thểhiện tư tưởng yêu nước tiến bộ. Mặt tiến bộ trong tư
tưởng yêu nước của Phan Bội Châu chính là sự đổi mới trong quan niệm về y êu nước và
đường lối cứu nước. Tiến bộ hơn một số nho sĩ cùng thời như Phan Chu Trinh, Phan Bội
Châu đã đặt ra nhiệm vụ giải phóng đất nước bằng con đường bạo động cách mạng. Ông
từng nêu rõ "Thù dân tộc không lấy máu rửa không sạch".
Theo quan niệm của Phan Bội Châu nhiệm vụ cứu n ước là rất quan trọng và cấp
bách trong hoàn cảnh hiện tại. Tuy nhiên, vấn đề cải cách xã hội, tiến lên xây dựng một chế
độ mới, chế độ dân chủ tư sản, theo gương Nhật Bản cũng là rất cần thiết, phải thực hiện
ngay trong thời điểm bấy giờ. Phan Bội Châu đã đưa ra quan niệm tiến bộ về người dân
trong xã hội. Ông khẳng định đất nước là của dân, đấu tranh chống giặc cứu nước là để bảo
vệ nòi giống, đồng bào Việt Nam.
Ông đã nêu lên mẫu người lý tưởng trong xã hội, đó là người yêu nước, có lòng căm
thù giặc, dám xả thân vì đất nước. Người anh hùng xuất hiện trong sáng tác của Phan Bội
Châu là những con người bình thường nhưng làm được việc phi thường. Với ông không có

sự phân biệt nam nữ, đẳng cấp, tôn giáo, gi àu nghèo trong quan niệm về người anh
hùng.
Tả n Đà
Tư tưởng yêu nước trong thơ Tản Đà: Tản Ðà là một nhà nho đứng ngoài cuộc đấu
tranh cứu nước của dân tộc lúc bấy giờ. Tuy nhiên, ở ông vẫn tiềm tàng một tình yêu quê
hương đất nước thiết tha. Tản Ðà luôn có ý thức lo đời và mong muốn được giúp đời.
Trước hoàn cảnh hiện tại của đất nước, Tản Ðà nhận thấy cần phải có sức mạnh của
đoàn kết mới có thể xoay trở được tình thế. Tuy ông không tham gia vào cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc nhưng trong ông vẫn thường trực một nỗi lo lắng muốn giúp ích cho đời.
Nỗi lo lắng ấy thể hiện ở ý thức muốn đem t ài văn chương của mình ra giúp đời, muốn làm
cho văn chương của mình "Có bóng mây hơi nước đến dân xã" (Giấc mộng con I).
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
PP
Lãng mạn thoát ly là khuynh hướng chủ yếu trong thơ văn Tản Ðà. Ông xuất thân từ
tầng lớp phong kiến đang suy thoái. Bản thân sống ở th ành thị, gần gũi với tầng lớp tiểu tư
sản, đứng ngoài các cuộc đấu tranh của dân tộc, cuộc đời lại trải qua nhiều thất bại, n ên tư
tưởng trở nên tiêu cực thoát ly. Cái tôi lãng mạn Tản Ðà có tư tưởng thoát ly vẫn còn bị chi
phối bởi ý thức hệ phong kiến: Tư tưởng thoát ly của Tản Ðà gắn liền với ý thức muốn đứng
ra ngoài cuộc đời nhơ bẩn để giữ lấy thanh cao trong sạch cho m ình Ông coi đời là cõi tục,
là nơi ở trọ. Nhưng Tản Ðà thoát ly mà không thoát tục. Tản Ðà chủ trương trốn đời nhưng
lại muốn nhập thế. Ở ông có sự giằng xé giữa chán đời v à gánh lãnh trách nhiệm. Ông có ý
định trốn đời để quên đời, mượn thú nhàn tản để tìm sự thanh thản cho tâm hồn nhưng
cuối cùng đã không quên được và luôn phiền não, lo lắng cho cuộc đời.
2. Tổ ng quát văn họ c Việ t Nam từ năm 1930 - 1945
2.1. Tiề n đề củ a văn họ c giai đoạ n 1930 - 1945
Đây là giai đoạn chỉ kéo dài 15 năm, nhưng có nhiều sự kiện quan trọng, tác động
mạnh mẽ đến đời sống của con người, đó là:
Sự ra đời của Ðảng Cộng Sản Ðông Dương 03-02-1930: Sự ra đời của Ðảng cộng
sản đã tạo ra một bước ngoặt quyết định cho lịch sử cách mạng Việt Nam. Từ đây, đã chấm

dứt tấn bi kịch của những người yêu nước mà không tìm ra con đường cứu nước đúng đắn.
Do vai trò độc quyền cách mạng của Ðảng, do đường lối chiến lược sách lược vững vàng
sáng suốt của Ðảng đã đoàn kết và phát huy được mạnh mẽ tính tích cực, tính sáng tạo của
quần chúng nhất là công nông.
Cách mạng theo đường lối tư sản thất bại: Tư sản dân tộc Việt Nam phần lớn l à do
địa chủ chuyển thành, thái độ chống Pháp nói chung không dứt khoát. Giai cấp t ư sản Việt
Nam làm cuộc bạo động Yên Bái ngày 9-2-1930 nhưng thất bại. Tầng lớp tiểu tư sản trí thức
hoang mang tới cao độ, họ cùng với giai cấp tư sản tìm đường thỏa hiệp với thực dân, tìm
quên lãng trong văn chương.
Cách mạng theo đường lối vô sản khi cao trào lúc thoái trào: Cao trào cách mạng
1930-1931 mà đỉnh cao nhất là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. bị thất bại. Từ cuối năm
1931, cách mạng Việt Nam bước vào thời kì thoái trào.
Từ cuối năm 1932, phong trào lại dần dần hồi phục.
Tháng 9-1939 chiến tranh thếgiới thứ hai bùng nổ, phong trào cách mạng lên cao,
cả nước sục sôi chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Tháng 8 -1945 dưới sự lãnh đạo của Ðảng
cách mạng Việt Nam dành được thắng lợi, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
2.2. Các giai đoạ n phát triể n
a. Thờ i kỳ 1930- 1935
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
PQ
Mở đầu là sáng tác thơ văn gắn liền với cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao
là Xô Viết Ngệ Tỉnh.
Bộ phận văn học tư sản, tiểu tư sản thời kỳ này là văn học lãng mạn, bao gồm: tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn và Thơ mới.
Xu hướng văn học phê phán có từ trước 1930 đến thời kỳ này phát triển hơn và xác
định rõ ràng hơn về phương pháp, thể tài.
b. Thờ i kỳ 1936- 1939
Văn học vô sản, đặc biệt là thơ cách mạng phát triển nhanh chóng. Một loạt nh à thơ
xuất hiện: Sóng Hồng, Lê Ðức Thọ, Xuân Thủy, Tố Hữu, Văn học cách mạng thời kỳ n ày

đánh dấu một bước tiến triển mới mẻ của văn học vô sản theo h ướng hiện đại hóa.
Văn học hiện thực phê phán phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu xuất
sắc:
- Vấn đề nông dân, nông thôn được đặt ra trong nhiều tác phẩm như: “Bước đường
cùng” của Nguyễn Công Hoan, “Vỡ đê” của Vũ Trọng Phụng, “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố,…
- Vấn đề phong kiến, thực dân được nêu lên một cách gay gắt trong một loạt các tác
phẩm: “Số đỏ”, “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng, “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố,…
Tác phẩm hiện thực phê phán không dừng lại ở truyện ngắn, phóng sự mà phát triển
mạnh mẽ thể tài tiểu thuyết. Ðây chính là một thành công lớn của văn học hiện thực phê
phán thời kì này
Văn học lãng mạn tư sản, tiểu tư sản vẫn tiếp tục phát triển, phân hóa theo các
hướng khác nhau:
Bên cạnh chủ đề cũ chống lễ giáo phong kiến v à đề cao hạnh phúc cá nhân, Tự lực
văn đoàn còn nêu chủ đề mới: chủ trương cải cách bộ mặt nông thôn và cải thiện đời sống
cho nông dân với các tác phẩm: “Gia đình” của Khái Hưng, “Con đường sáng” của Hoàng
Ðạo,
Thơ mới giai đoạn 1936-39 phát triển đến đỉnh cao. Thời kì này, tên tuổi Xuân Diệu
nổi lên như một hiện tượng văn học.
c. Thờ i kỳ 1939- 1945
Văn học vô sản rút vào bí mật nhưng vẫn phát triển mạnh mẽ. Nhà thơ Tố Hữu
trưởng thành nhanh chóng với tập “Từ ấy”. Tập “Nhật kí trong t ù” của Hồ Chí Minh cũng ra
đời trong thời kì này.
Văn học hiện thực phê phán có sự phân hóa:
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
PR
Nhiều nhà văn chuyển sang lĩnh vực khác: Ngô Tất Tố quan tâm tới khảo cứu dịch
thuật, Nguyễn Công Hoan viết các tiểu thuyết về đề t ài đạo lý
Một thế hệ nhà văn hiện thực mới ra đời: Nam Cao, Mạnh Phú T ư, Nguyễn Ðình Lạp,
Bùi Hiển… Các nhà văn đã nêu lên mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp thống trị với các tầng

lớp nhân dân lao động, cuộc sống tăm tối của người nông dân, cũng như cuộc sống bế tắc,
mòn mỏi của người trí thức tiểu tư sản thời đó.
Văn học lãng mạn cũng phân hóa mạnh mẽ:
+ Văn xuôi, nhiều nhà văn chuyển hướng sáng tác:
Thạ ch Lam đi vào miêu tả những sinh hoạt nâng lên thành nghệ thuật như nghệ
thuật ẩm thực trong “Hà Nội 36 phố phường”.
Thế Lữ quan tâm đến mảng truyện trinh thám đường rừng, truyện ma quỷ
Nguyễ n Tuân là cây bút văn xuôi tiêu biểu cho trào lưu lãng mạn tư sản, tiểu tư sản
thời kỳ này với chủ nghĩa xê dịch và cái ngông lịch lãm tài hoa.
+ Thơ mới:
Thơ mới thời kỳ này khủng hoảng nghiêm trọng: thơ điên, thơ loạn, thơ say phát
triển mạnh.Nhóm “Xuân thu nhã tập” xuất hiện, các thi sĩ làm thơ bằng một thứ ngôn ngữ
khó hiểu, cầu kỳ, xa lạ.
2.3. Nhữ ng đặ c điể m chủ yế u củ a văn họ c giai đoạ n 1930 -1945
a. Nề n văn họ c đư ợ c hiệ n đạ i hoá
Văn học giai đoạn này thoát khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại. Đây l à một
quá trình không hề đơn giản bởi nó phải phá bỏmột hệ thống thi pháp đã tồn tại và đã
được khẳng định qua nhiều kiệt tác bất hủ, đồng thời phải xây dựng một hệ thống thi pháp
mới trên cơ sở tiếp nhận ảnh hưởng của văn hoá nhân loại, và kế thừa những tinh hoa của
văn hoá truyền thống.
Giai đoạn văn học Việt Nam 1930-1945, quá trình hiện đại hoá văn học diễn ra đặc
biệt mạnh mẽ và sâu sắc ở hầu hết các thể loại:
- Về tiểu thuyết, có sự xuất hiện của nhóm nh à văn Tự lực văn đoàn và nhiều nhà
văn hiện thực phê phán.
- Các thể loại khác như: truyện ngắn, phóng sự, bút ký, tuỳ bút, kịch cũng có nhiều
thành tựu đáng chú ý.
- Về thơ, phong trào Thơ mới khởi xướng từ năm 1932 đã đóng vai trò quyết định
trong công cuộc hiện đại hoá thơ ca Việt Nam. Cá tính sáng tạo được giải phóng, hàng loạt
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn

PS
tiếng thơ trẻ trung và tài năng ra đời với nhiều màu sắc và giai điệu khác nhau. Mảng thơ ca
cách mạng cũng có nhiều đóng góp vào nền thơ ca dân tộc.
b. Sự phân hóa phứ c tạ p thành nhiề u xu hư ớ ng trong quá trình phát triể n
Trong giai đoạn này, sự phân hoá của văn học Việt Nam dựa trên cơ sở thái độ chính
trị của nhà văn và ở quan niệm về mối quan hệ giữa văn học v à chính trị. Từ đó, có thể
thấy, văn học Việt Nam thời kỳ này có thể chia như sau:
Văn họ c hợ p pháp: Nét đặc trưng của bộ phận văn học này là chứa đựng những yếu
tố tư tưởng lành mạnh, tiến bộ, nhưng không có tinh thần chống đối trực tiếp chế độ thực
dân. Do sự khác nhau về quan điểm nghệ thuật v à khuynh hướng thẩm mỹ, bộ phận văn
học này chia làm hai xu hướng chính:
Văn họ c lãng mạ n: Đặc điểm chính của văn học lãng mạn là sự đào sâu vào cái tôi
nội cảm, diễn tảước mơ, khát vọng của cá nhân, đề cập đến những số phận cá nhân với
thái độ bất hoà, bất lực trước hiện thực tầm thường, tù túng.
Văn họ c hiệ n thự c: Xu hướng văn học này quan tâm đến viẹc diễn tả và lý giải một
cách chân thực và chính xác quá trình phát triển khách quan của hiện thực khách quan
thông qua việc khắc học những hình tượng điển hình.
Văn họ c bấ t hợ p pháp: Chủ yếu là tác phẩm của những nhà văn- chiến sĩ, những
người coi văn chương là vũ khí chiến đấu, dùng để tuyên truyền cách mạng. Những tác
phẩm này không có nhiều điều kiện gọt giũa về hình thức nghệ thuật nhưng có nhiều đón
góp về mặt tư tưỏng.
2.4. Xu hư ớ ng và các đạ i diệ n
a. Thể hiệ n củ a văn chư ơ ng lãng mạ n
Nhóm “ Tự lự c văn đoàn”
Nhóm Tự lực văn đoàn chính thức thành lập năm 1933, gồm có Nhất Linh, Khái
Hưng, Hoàng Ðạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ. Về sau th êm Xuân Diệu, Trần Tiêu.
Tiểu thuyết “Tự lực văn đoàn” chủ yếu đi vào khai thác một số vấn đề chính sau:
- Đề tài chống lễ giáo phong kiến, đòi quyền tự do yêu đương, đề cao hạnh phúc cá
nhân. Các tác phẩm tiêu biểu của văn đoàn này là: "Nửa chừng xuân", "Ðoạn tuyệt", "Lạnh
lùng", "Ðôi bạn", "Gia đình", "Thoát ly", "Thừa tự"

Giai đoạn sau, trong các tác phẩm của Tự lực văn đo àn, vấn đề chống phong kiến đã
không còn được quan tâm nhiều, xuất hiện các nhân vật do dự, giỏi chịu đựng h ơn, ít đấu
tranh như Hồng, Nhung,
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
PT
- Đề tài bình dân: Đây là thời kỳ mặt trận dân chủ, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thời
kỳ này quan tâm đến cuộc sống của tầng lớp dân ngh èo. Nói chung, “xu hướng bình dân"
của họ chủ yếu mang tính chất cải l ương. Các tác phẩm của đề tài này là: “Hai vẻ đẹp" của
Nhất Linh, "Con đường sáng" của Hoàng Ðạo, Gia đình" của Khải Hưng,
Nghệ thuật tiểu thuyết Tự lực văn đoàn:
Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã có những đóng góp nhất định về nghệ thuật: xây
dựng tác phẩm, sáng tạo nhân vật, phân tích tâm lí, h ành văn, trong cách kết cấu tiểu
thuyết hiện đại (đó là lối kết cấu không theo trật tự thời gian, câu chuyện có thể phát triển
theo tâm lý nhân vật và cũng có thể đột ngột chuyển từ nhân vật n ày qua nhân vật khác).
Các nhà văn có nhiều thành công trong xây dựng nhân vật. Họ đi sâu vào tâm lý
nhân vật, chú trọng đến cuộc sống nội tâm nhân vật. Đây là đóng góp rất đáng chú ý của
tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
Phong trào Thơ mớ i
Thơ mới thời kỳ 1932-1935 gồm những nhà văn lớn:
Lư u Trọ ng Lư : Thơ Lưu Trọng Lư là một lối thơ quen thuộc của dân tộc, Lưu Trọng
Lư đến với thơ bằng cả tâm hồn sầu mộng của mình. Trong thơ ông, mọi hình ảnh mọi âm
thanh của cuộc sống đều được vào thế giới mộng tưởng. Thơ Lưu Trọng Lư diễn tả một cái
tôi đang say sưa thoát li vào mộng tưởng.
Thế Lữ : Thơ Thế Lữ thời kì đầu say sưa thoát li hiện thực. Nhưng những sự kiện lớn
lao của lịch sử vẫn còn âm vang, thơ ông ấp ủ tinh thần dân tộc và khát khao tự do, là tiếng
vọng xa xôi của phong trào 1930-1931.
Thời kì 1936-1939:
Thời kì này, Xuân Diệ u xuất hiện chiếm hẳn địa vị độc tôn tr ên thi đàn. Hoài Thanh
đã lên tiếng khẳng định vị trí của Xuân Diệu: “Câu văn tuồng bỡ ngỡ ấy chính l à Xuân Diệu

hơn người. Dòng tư tưởng quá sôi nổi, không thể đi theo đường có sẵn. Ý văn xô đẩy, khiến
câu văn phải lung lay”, “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở
chốn nước non lặng lẽ này” (“Thi nhân Việt Nam”).
Một số tên tuổi tiêu biểu khác như Nguyễ n Bính (với các tác phẩm chân quê viết
bằng những vần thơ lục bát tài hoa diễn tả hồn quê đất nước), Hàn Mặ c Tử (nhà thơ của
những vần thơ “điên” mãnh liệt).
Thời kì 1940- 1942:
Thơ mới rơi vào bế tắc. Mỗi nhà thơ thoát li một cách, và càng thoát li lại càng lạc
lối, một số xu hướng chủ yếu là: Nhóm DạÐài (Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Ðinh Hùng);
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
PU
nhóm Xuân Thu Nhã Tập (Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Ðỗ Cung, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn
Lương Ngọc, Ðoàn Phú Tứ); xu hướng thoát li siêu thoát vào triết lí thần bí (Huy Cận, Chế
Lan Viên).
b. Văn họ c hiệ n thự c phê phán
Ngô Tấ t Tố với tập phóng sự “Việc làng” viết về những hủ tục nặng nề ở nông thôn
Việt Nam: nạn xôi thịt, chạy chức tước làm bao gia đình phải điêu đứng, tha phương cầu
thực, Tiểu thuyết “Lều chõng” đi vào trình bày về chế độ khoa cử phong kiến một cách tỉ
mỉ, có nhiều giá trị tư liệu. Xuất sắc nhất là tác phẩm “Tắt đèn” khai thác đề tài thuế khoá:
chủ yếu là thuế thân, một thứ tai họa khủng khiếp của nông thôn, l àm điêu đứng bao số
phận người nông dân.
Ngô Tất Tố là cây bút tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945,
ông có đóng góp ở nhiều thể loại: tiểu thuyết, phóng sự, khảo cứu, dịch thuật,
Vũ Trọ ng Phụ ng viết nhiều thể loại khác nhau, đặc biệt th ành công ở phóng sự và
tiểu thuyết. Vũ Trọng Phụng được tôn vinh là “ông vua phóng sự đất Bắc”.
Trong các tác phẩm của ông hiện lên sắc nét bộ mặt xã hội Việt Nam cả nông thôn
và thành thị với tiếng cười châm biếm sắc sảo, sâu cay. Về tiểu thuyết, các tác phẩm ti êu
biểu nhất của Vũ Trọng Phụng là: "Giông tố", "Số đỏ", "Vỡ đê",
Về phóng sự, có thể kể đến các tác phẩm: "Cạm bẫy ng ười", "Kỹ nghệ lấy Tây",

Vũ Trọng Phụng là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của giai đoạn
văn học này, ông để lại nhiêù tác phẩm văn học có giá trị bền vững với thời gian
Nam Cao: Sáng tác của ông tập trung vào hai mảng đề tài: Đề tài người trí thức tiểu
tư sản và đề tài viết về người nông dân.
Hầu hết các nhân vật đều ít nhiều là hình ảnh bản thân Nam Cao. Ðó là những học
sinh thất nghiệp, những giáo khổ trường tư, những nhà văn nghèo bất đắc chí Họ "phải
bán dần sự sống để giữ cho mình khỏi chết" (“Quên điều độ” ). Nam Cao viết về những nỗi
đau quằn quại trong tâm hồn, nhiều khi có tính bi kịch của họ. Họ th ường ôm ấp hoài bão
về sự nghiệp tinh thần nhưng ước mơ mâu thuẫn với hiện thực: hàng ngày họ bị “chuyện
áo cơm ghì sát đất” và đau đớn nhận ra rằng mình chỉ là một con người thừa. Tác phẩm
tiêu biểu của mảng đề tài này là tiểu thuyết "Sống mòn" và một số truyện ngắn như: "Đời
thừa", "Trăng sáng", "Quên điều độ”, “Bài học quét nhà”,
Nam Cao chú ý đến những người nông dân thấp cổ bé họng, bị áp bức bất công,
chịu số phận đen đủi, hẩm hiu. Ông đã đanh thép lên án xã hội chà đạp người nông dân
lương thiện và dõng dạc bênh vực nhân phẩm của họ. Có thể nói, trước Cách mạng tháng
Tám, ít có nhà văn nào hiểu được một cách sâu xa ngõ ngách sâu kín những hy sinh thầm
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
PV
lặng, những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn ng ười nông dân như Nam Cao. Các tác ph ẩm
chính ở đề tài này là: “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Một đám cưới”, “Một bữa no”
c. Văn chư ơ ng cách mạ ng
Tên tuổi tiêu biểu nhất là “Hồ Chí Minh” với tập “Nhật ký trong tù”.
Tập thơ ghi lại những sự việc Bác đã chứng kiến, quang cảnh Bác nhìn thấy ở những
nơi bị giam hay bị giải đi qua: chuyện bị bắt ở Túc Vinh, chuyện ng ười tù cờ bạc bị chết,
cảnh trốn lính, vợ phải tù thay chồng… Toàn bộ những cảnh đã xảy ra trong “Nhật ký trong
tù” là hình ảnh thu nhỏ của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ. Những thối nát, bất công, t àn
bạo của chế độ Tưởng Giới Thạch đè nặng lên cuộc sống của dân lành.
Tập thơ cũng thể hiện tâm hồn cao đẹp của Bác. Nói tới tâm hồn tr ước hết nói tới
tình yêu thương con người của Bác, Bác ái ngại cho cảnh ng ười vợ đến thăm chồng trong

ngục, thương người bạn tù chỉ có cái chăn bằng giấy bồi, đêm thu trằn trọc ngủ không yên,
Bác thương người tù cờ bạc nghèo không có gì ăn. Thương cả những người lao động dầm
mưa, dãi gió mà công lao chẳng được bao nhiêu. Thương tâm nhất vẫn là những em bé,
Bác thương mọi số phận, tha thiết với mọi biểu hiện của sự sống d ù là bé nhỏ nhất.
Nói tới tâm hồn cao đẹp ở Hồ Chủ tịch không thể qu ên tình yêu thiên nhiên của
Người. Giữa bao nhiêu khổ cực Bác vẫn vui, vẫn cảm thấy niềm vui tr àn đầy trong thiên
nhiên, cuộc sống. Người vui với trời đất, dõi theo một cánh chim, một làn mây, một xóm
ven sông.
“Nhật ký trong tù” canh cánh nỗi nhớ nước thương dân của người tù Hồ Chí Minh.
Chân bước đi trên đất Bắc mà lòng Bác vẫn hướng về Nam, nhớ thương đồng bào trong
hoàn cảnh lầm than, hoạn nạn.
Tác phẩm cũng đã thể hiện tinh thần bất khuất kiên cường và ý chí sắt đá của Hồ
Chí Minh. Sống trong tù lúc nào Bác cũng có phong thái ung dung, b ình tĩnh, tự tin trước
mọi thay đổi của hoàn cảnh.
Tập thơ “Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy viết bằng chữ Hán nh ưng
về mặt nội dung và cả về mặt phong cách nghệ thuật r õ ràng là một tác phẩm văn học Việt
nam đậm đà tính dân tộc. Tập thơ đưa ta đi sâu vào những cảm xúc, những suy nghĩ,
những băn khoăn của một con người cộng sản vĩ đại trong một hoàn cảnh khó khăn.
[…]
Tài liệ u sư u tầ m

×