LỜI CAM ĐOAN
Căn cứ quyết định số 1026/QĐ-ĐHKTQD ngày 31 tháng 7 năm 2008 của
Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế quốc dân về việc công nhận thi sinh trúng
tuyển vào cao học khóa 17 (2008-2011) đợt I;
Căn cứ quyết định số 439/QĐ-ĐHKTQD ngày 24 tháng 2 năm 2011 của
Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế quốc dân về việc giao đề tài luận văn và cán
bộ hướng dẫn học viên cao học;
Theo nội dung quyết định số 439/QĐ-ĐHKTQD, học viên Khuất Phương
Diệp, mã số học viên CH170228 được giao đề tài: “Phát triển dịch vụ thẻ tại Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Bắc Ninh” làm luận văn thạc sỹ
- chuyên ngành Kinh tế tài chính ngân hàng và được PGS.TS Hoàng Xuân Quế -
Trường Đại học Kinh tế quốc dân hướng dẫn.
Để đảm bảo hoàn thành khóa học đúng thời hạn, được sự hướng dẫn và chỉ
bảo tận tình của Thày Hoàng Xuân Quế, học viên đã tiến hành làm luận văn thạc sỹ
với đề tài được giao.
Học viên Khuất Phương Diệp cam đoan về tính trung thực và hợp pháp của
nghiên cứu, học viên Khuất Phương Diệp xin chịu trách nhiệm về nội dung đã được
trình bày trong luận văn của mình. Học viên mong tiếp tục nhận được sự hỗ trợ,
giúp đỡ của Thày giáo hướng dẫn, của Khoa sau đại học, Khoa Ngân hàng Tài
chính – Trường Đại học Kinh tế quốc dân để học viên có thể bảo vệ thành công
luận văn thạc sỹ của mình.
Học viên xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2011
HỌC VIÊN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Vietcombank : Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam
TMCP : Thương mại cổ phần
ATM : Automated Teller Machine (Máy rút tiền tự động)
BIN : Mã ngân hàng (Banking Identification Number)
NHPHT : Ngân hàng phát hành thẻ
NHTTT : Ngân hàng thanh toán thẻ
ĐVCNT : Đơn vị chấp nhận thẻ
NHNN : Ngân hàng nhà nước
NH : Ngân hàng
PIN : Mã số cá nhân (Personal Identification Number)
POS : Điểm chấp nhận thanh toán thẻ (Point of Sale)
CNPH : Chi nhánh phát hành
TTT : Trung tâm thẻ
TMCP : Thương mại cổ phần
TCKT : Tổ chức kinh tế
POS : Point of Sales
KCN : Khu công nghiệp
KSV : Kiểm soát viên
AMEX : American Express
CMTND : Chứng minh thư nhân dân
EDC : Electronic Data Capture
VNĐ : Việt Nam đồng
USD : Đôla Mỹ
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, HÌNH
BẢNG
2. Mục tiêu nghiên cứu: 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 2
4. Phương pháp nghiên cứu: 3
5. Kết cấu luận văn: 3
1.2.2.1. Hoạt động phát hành thẻ 12
1.2.2.1. Hoạt động phát hành thẻ 12
1.2.2.2. Hoạt động thanh toán thẻ 13
1.2.2.2. Hoạt động thanh toán thẻ 13
1.2.2.3. Hoạt động quản lý rủi ro 14
1.2.2.3. Hoạt động quản lý rủi ro 14
SƠ ĐỒ
2. Mục tiêu nghiên cứu: 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 2
4. Phương pháp nghiên cứu: 3
5. Kết cấu luận văn: 3
1.2.2.1. Hoạt động phát hành thẻ 12
1.2.2.1. Hoạt động phát hành thẻ 12
1.2.2.2. Hoạt động thanh toán thẻ 13
1.2.2.2. Hoạt động thanh toán thẻ 13
1.2.2.3. Hoạt động quản lý rủi ro 14
1.2.2.3. Hoạt động quản lý rủi ro 14
BIỂU ĐỒ
2. Mục tiêu nghiên cứu: 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 2
4. Phương pháp nghiên cứu: 3
5. Kết cấu luận văn: 3
1.2.2.1. Hoạt động phát hành thẻ 12
1.2.2.1. Hoạt động phát hành thẻ 12
1.2.2.2. Hoạt động thanh toán thẻ 13
1.2.2.2. Hoạt động thanh toán thẻ 13
1.2.2.3. Hoạt động quản lý rủi ro 14
1.2.2.3. Hoạt động quản lý rủi ro 14
HÌNH
2. Mục tiêu nghiên cứu: 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 2
4. Phương pháp nghiên cứu: 3
5. Kết cấu luận văn: 3
1.2.2.1. Hoạt động phát hành thẻ 12
1.2.2.1. Hoạt động phát hành thẻ 12
1.2.2.2. Hoạt động thanh toán thẻ 13
1.2.2.2. Hoạt động thanh toán thẻ 13
1.2.2.3. Hoạt động quản lý rủi ro 14
1.2.2.3. Hoạt động quản lý rủi ro 14
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỷ 20 đã chứng kiến sự phát triển như vũ bão của mọi ngành công nghiệp
và đặc biệt của khoa học công nghệ. Trong đó không thể không kể đến các thành
tựu công nghệ đó được ứng dụng vào ngành tài chính ngân hàng, tạo nên một cuộc
cách mạng hiện đại hóa, đồng thời đưa dịch vụ thanh toán điện tử trở thành mũi
nhọn kinh doanh của các ngân hàng. Nằm trong dịch vụ thanh toán điện tử này, thẻ
thanh toán hay tiền điện tử ra đời không chỉ thay đổi chiến lược kinh doanh của
ngân hàng mà cũng làm thay đổi thói quen tiêu dùng của mọi quốc gia.
Xét riêng về các ngân hàng, sau khi thẻ tín dụng do Ngân hàng Franklin
National Bank ở New York được phát hành lần đầu tiên năm 1951, trước những đặc
tính tiện dụng và an toàn hơn nhiều so vơi các phương tiện thanh toán khác, ngày
càng có rất nhiều ngân hàng và các tổ chức tín dụng tham gia vào hoạt động kinh
doanh thẻ.
Tính đến thời điểm này, thẻ thanh toán đó trở thành một phương tiện thanh
toán thông dụng và không thể thiếu trong đời sống kinh tế xã hội của nhiều quốc gia
trên thế giới. Với doanh số chi tiêu hàng trăm tỷ đôla mỗi năm, thẻ đang cạnh tranh
quyết liệt cùng tiền mặt và séc trong hệ thống thanh toán toàn cầu. Có lẽ chỉ trong
và thập kỷ tới việc phương tiện thanh toán thẻ sẽ thay thế hầu hết các phương tiện
thanh toán truyền thống không cũng là điều ngạc nhiên đối với tất cả chúng ta.
“Thế giới đang trở nên phẳng”, với một tấm thẻ nhựa nhỏ, người ta có thể
thanh toán tại bất cứ nơi nào trên thế giới, tại bất cứ thời điểm nào. Thẻ ngân hàng –
“chiếc ví điện tử” là một trong những dịch vụ ngân hàng được phát triển dựa trên sự
phát triển của khoa học công nghệ.
Tại thị trường Việt Nam, dịch vụ thẻ bắt đầu được cung ứng từ năm 1990 mà
đi tiên phong là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Đây là một mốc son đánh dấu
một bước ngoặt quan trọng trong hoạt động dịch vụ của ngành ngân hàng nói chung
và Vietcombank nói riêng. Theo số liệu Ngân hàng Nhà nước công bố tính đến thời
1
điểm 6 tháng đầu năm 2011 đã có trên 34 triệu thẻ từ 51 tổ chức phát hành và 240
thương hiệu thẻ, tốc độc tăng trưởng gần 20% sau 6 tháng là một kết quả ấn tượng
so với các lĩnh vực hoạt động khác của các Ngân hàng thương mại.
Sự xuất hiện thẻ thanh toán đó làm thay đổi cách chi tiêu, thanh toán của cộng
đồng xã hội. Với các đặc tính vốn có và các tiện ích mà nó mang lại dịch vụ thẻ
đang từng bước thu hút sự quan tâm của người dân. Mỗi ngân hàng có những chiến
lược riêng để chiếm lĩnh thị trường và phát triển thương hiệu dịch vụ thẻ của mình.
Sự cạnh tranh phát triển dịch vụ thẻ của các ngân hàng hiện nay đã khiến cho nhu
cầu của người tiêu dùng ngày càng được đáp ứng và thị trường dịch vụ thẻ cũng trở
nên sôi động hơn bao giờ hết.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam với lợi thế là ngân hàng dẫn đầu về cung
cấp dịch vụ thẻ và là ngân hàng đầu tiên chấp nhận thanh toán 07 loại thẻ ngân hàng
thông dụng nhất trên thế giới: Visa, MasterCard, JCB, American Express, Diners
Club, China Unionpay và DiscoverCard. Tuy nhiên trước áp lực cạnh tranh của các
ngân hàng trong nước và quốc tế ngày càng cao, để duy trì vị trí dẫn đầu là một
thách thức rất lớn đối với Vietcombank đòi hỏi Vietcombank phải có những kế
hoạch, chiến lược phát triển dịch vụ thẻ số lượng cụng như chất lượng. Đây là lý do
tác giả chọn đề tài nghiên cứu luận văn: “Phát triển dịch vụ thẻ tại Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Bắc Ninh”.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về dịch vụ thẻ tại Ngân hàng
thương mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng dịch vụ thẻ tại Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Bắc Ninh.
- Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển dịch vụ thẻ tại Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Bắc Ninh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu: Dịch vụ thẻ tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt
Nam Chi nhánh Bắc Ninh từ năm 2008 đến năm 2010.
2
4. Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Các phương pháp được sử dụng trong quá
trình viết luận văn: thống kê, tổng hợp số liệu, tài liệu các loại để so sánh, phân tích,
đánh giá về dịch vụ thẻ tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh
Bắc Ninh.
5. Kết cấu luận văn:
Luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về phát triển dịch vụ thẻ của Ngân hàng
Thương mại.
- Chương 2: Thực trạng phát triển dịch vụ thẻ tại Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam Chi nhánh Bắc Ninh .
- Chương 3: Giải pháp phát triển dịch vụ thẻ tại Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam Chi nhánh Bắc Ninh.
3
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THẺ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về dịch vụ thẻ của Ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm về thẻ
1.1.1.1. Sự ra đời và phát triển của thẻ
Dịch vụ thẻ ngân hàng là một lĩnh vực kinh doanh tương đối mới nhưng
cũng đã có lịch sử hình thành và phát triển suốt mấy thập kỷ qua. Quan hệ giữa
khách hàng và ĐVCNT (đơn vị chấp nhận thẻ) là tâm điểm của kinh doanh thẻ.
Vào năm 1914 tại Mỹ, chiếc thẻ đầu tiên trên thế giới đã xuất hiện bắt nguồn
từ việc các đại lý bán lẻ cung cấp tín dụng cho khách hàng (mua hàng trước, trả tiền
sau). Điển hình là tổng công ty xăng dầu California cấp thẻ cho nhân viên và một số
khách hàng của mình. Họ thấy phương thức thanh toán này rất thuận tiện. Tuy
nhiên thẻ lúc đó chỉ khuyến khích việc bán sản phẩm của công ty mà không kèm
theo dự phòng khi gia hạn tín dụng.
Hình thức sơ khai của thẻ là charg-it, một hệ thống mua bán chịu do John
Biggins sáng lập ra năm 1946. Hệ thống này cho phép khách hàng trả tiền cho
những giao dịch bán lẻ tại địa phương. Các cơ sở cung ứng hàng hóa dịch vụ nộp
biên lai bán hàng vào nhà băng của Biggins, nhà băng sẽ trả tiền cho họ và thu lại từ
khách hàng sử dụng charg-it.
Hệ thống mua bán chịu này mở đường cho sự ra đời của thẻ tín dụng do ngân
hàng Franklin National Bank ở Long Island-New York phát hành lần đầu tiên năm
1951. Tại đây, 200 chiếc thẻ Credit Card đầu tiên đã cấp cho những người giàu có
và có tiếng tăm trong xã hội tại New York, và những chiếc thẻ này chỉ được sử
dụng hạn chế trong 27 nhà hàng sang trọng của New York nên có tên gọi là Diners
Club. Công ty American Express cũng theo gót Diners Club cho ra đời chiếc thẻ
American Express, vì sự hạn chế chỉ sử dụng trong việc ăn uống, du lịch nên loại
thẻ này vẫn chưa được phổ biến rộng rãi đến mọi tầng lớp xã hội và chưa được xem
như là chiếc thẻ thần kỳ (the Magic Card).
4
Chiếc thẻ thần kỳ “Revolving Credit Card” lần đầu tiên cấp cho người sử
dụng tại tiểu bang California (Hoa kỳ) do Bank of America giới thiệu vào năm 1960
gọi là Bank Americard đã nhanh chóng phổ biến rộng rãi khắp tiểu bang. Thẻ này
cho phép người sử dụng lựa chọn trong việc thanh toán tiền bạc. Họ có thể trả hết
một lần hoặc trả góp từng tháng (minimum payment) số tiền thiếu còn lại, ngân
hàng sẽ bắt đầu tính tiền lãi. Phương thức này được tiếp tục thực hiện cho đến ngày
nay. Thẻ này còn thêm một ưu điểm mà ai cũng thích là nếu kẹt tiền, người sử dụng
(cardholder) có thể ra ngân hàng vay tiền nhanh, gọn mà không cần phải điền những
thủ tục vay tiền phiền toái.
Đến năm 1966, 14 ngân hàng Mỹ thành lập InterBank-một tổ chức mới với
chức năng là đầu mối trao đổi các thông tin về giao dịch thẻ. Trong những năm tiếp
theo, 4 ngân hàng ở California đổi tên của họ từ California Bank Association thành
Western States Bank Card Association (WSBA). WSBA mở rộng mạng lưới thành
viên của mình sang các tổ chức tài chính ngân hàng khác ở miền Tây nước Mỹ. Thẻ
của họ được gọi là MasterCharge. Tổ chức WSBA cho phép InterBank sử dụng tên
và biểu tượng MasterCharge của mình.
Vào năm 1977, BankAmericard trở thành VISA USA và sau này là TCTQT
VISA. Ngay sau đó, năm 1979, cùng với sự tăng trưởng về chất lượng và qui mô
dịch vụ, MasterCharge trở thành TCTQT Mastercard. Các thành viên của hai tổ
chức này cũng như bản thân hai tổ chức bắt đầu mua các chương trình phần mềm
cũng như các thiết bị phần cứng phát hành, thanh toán và quản lý thẻ của các công
ty bên ngoài với mục đích tiết kiệm chi phí cho các thành viên và tạo điều kiện cho
ngày càng nhiều các tổ chức tài chính ngân hàng có thể tham gia hệ thống.
Tiếp thu và ứng dụng những thành tựu của thế giới về khoa học kỹ thuật,
nhất là về công nghệ tin học hệ thống thẻ ngày càng hoàn thiện. Không chỉ dừng
lại ở mối quan hệ đơn giản như thời kỳ trước, hệ thống thẻ tín dụng ngày nay bao
gồm cả các TCTQT, các tổ chức tài chính ngân hàng, các công ty cung ứng thiết bị
và giải pháp kỹ thuật, các công ty viễn thông quốc tế Cùng với mạng lưới thành
viên và khách hàng phát triển từng ngày, các TCTQT đã xây dựng hệ thống xử lý
5
giao dịch và trao đổi thông tin toàn cầu về phát hành, cấp phép, thanh toán, tra soát,
hoàn trả, khiếu kiện và quản lý rủi ro.
Ngày nay, trong thế kỷ 21, người ta đang chứng kiến sự lên ngôi của thẻ
thanh toán thay thế séc trong lĩnh vực thanh toán qua ngân hàng. Dịch vụ thẻ đã
được sử dụng rộng rãi tại hàng trăm quốc gia và vùng lãnh thổ. Số lượng thẻ đã phát
hành và đang sử dụng vào khoảng trên 3 tỷ với trên 30 triệu ĐVCNT, hơn
1.300.000 máy ATM. Doanh số thanh toán thẻ toàn thế giới đạt bình quân trên
8.000 tỷ USD, thực hiện trên 50 tỷ giao dịch thẻ. Hai loại thẻ được phát hành và sử
dụng nhiều nhất là Visa card và Master Card.
1.1.1.2. Khái niệm về thẻ và dịch vụ thẻ
Thẻ Ngân hàng (bank card) hay còn gọi là “tiền nhựa” hay “chiếc ví điện tử”
là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do Ngân hàng và các tổ chức tài
chính phát hành và cung cấp cho khách hàng (gọi là chủ thẻ) sử dụng để rút tiền mặt
hoặc thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ trong phạm vi số dư của mình ở tài khoản
tiền gửi hoặc hạn mức tín dụng được cấp theo hợp đồng đã ký kết giữa ngân hàng
phát hành thẻ và chủ thẻ. Do đặc điểm dùng để thanh toán là chính nên thẻ ngân
hàng còn được gọi là thẻ thanh toán.
Dịch vụ thẻ là một trong các dịch vụ ngân hàng hiện đại, đây là loại hình
dịch vụ ngân hàng cung cấp cho khách hàng nhằm giúp cho khách hàng có thể
chi tiêu một cách thuận tiện, an toàn, chủ động mà không cần dùng đến tiền mặt.
Đồng thời dịch vụ thẻ giúp cho ngân hàng đa dạng hóa loại hình dịch vụ, gia
tăng thu nhập cho ngân hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên
thương trường.
Trong số các sản phẩm của dịch vụ ngân hàng bán lẻ, dịch vụ thẻ ngân hàng
mang những đặc điểm riêng nhất định:
- Hoạt động thẻ ngân hàng là sự phát triển cao của hoạt động ngân hàng, là
kết quả của sự phát triển khoa học và công nghệ ̣(đặc biệt là điện tử, tin học viễn
thông) với quá trình tự do hóa và toàn cầu hóa của các hoạt động dịch vụ tài chính –
ngân hàng và đặc biệt là sự phát triển mạng lưới toàn cầu của các ngân hàng và sự
6
liên kết giữa các ngân hàng thành một khối thống nhất trên cơ sở một trung tâm
thanh toán bù trừ. Có thể nói, hoạt động thẻ là một ngân hàng hiện đại, gắn chặt và
phát triển mạnh cùng hoạt động ngân hàng điện tử.
- Hoạt động thẻ ngân hàng mang lại nhiều tiện ích không chỉ đối với nền
kinh tế và hệ thống ngân hàng mà còn đối với những chủ sử dụng thẻ. Tuy nhiên,
bên cạnh những tiện ích, dịch vụ thẻ là hoạt động nhiều tiềm ẩn rủi ro và tổn thất.
- Cùng với các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt khác như: séc,
ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, Internet Banking, Phone banking thẻ ngân hàng góp
phần làm giảm tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt trong các giao dịch kinh tế.
- So với các công cụ thanh toán khác thì chi phí đầu tư đối với lĩnh vực thẻ
trong việc xây dựng hệ thống phát hành và thanh toán thẻ là rất lớn, thời gian hoàn
vốn dài.
- Dịch vụ thẻ ngân hàng đòi hỏi một đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn, nghiệp
vụ và kinh nghiệm xử lý và đảm bảo thông suốt và an toàn trong hoạt động thẻ và
đáp ứng yêu cầu của các TCTQT.
- Không giống như các sản phẩm dịch vụ khác, loại hình dịch vụ thẻ ngân
hàng mang tính đồng nhất cao, sự khác biệt hóa sản phẩm dường như không có. Do
vậy để thắng lợi trong cạnh tranh, các ngân hàng thương mại thường tập trung vào
các hoạt động liên quan đến việc marketing sản phẩm, dịch vụ sau bán hàng hơn
là tập trung nghiên cứu tạo ra sự khác biệt về đặc tính giữa các sản phẩm.
1.1.2. Phân loại thẻ.
Trên thế giới có rất nhiều loại thẻ ngân hàng. Đứng trên nhiều giác độ khác
nhau thì có thể phân chia loại thẻ theo công nghệ sản xuất, theo chủ thể phát hành,
theo tính chất thanh toán thẻ, theo phạm vi lãnh thổ, theo hạn mức của thẻ. Mặc dù
phân chia thành nhiều loại khác nhau, song các sản phẩm chính của thẻ có thể kể
đến như sau:
1.1.2.1. Phân loại theo công nghệ sản xuất
- Thẻ khắc chữ nổi (Embossed Card): Là loại thẻ mà trên bề mặt thẻ được
khắc nổi các thông tin cần thiết, số thẻ, tên chủ thẻ, thời hạn sử dụng… Ngày nay,
7
người ta không còn sử dụng loại thẻ này nữa vì kỹ thuật của nó quá thô sơ, dễ bị lợi
dụng, làm giả, mà kết hợp với những kỹ thuật mới như băng từ hoặc chip điện tử.
- Thẻ từ (Magnetic Card): Là loại thẻ có băng từ ở mặt sau của thẻ. Toàn bộ
thông tin liên quan đến chủ thẻ và thẻ đều được mã hóa trong băng từ. Loại thẻ này
phổ thông nhất trên thế giới được ra đời ngay từ thời kỳ đầu của ngành công nghiệp
thẻ. Cùng với kỹ thuật in hình chìm nhiều lớp biểu tượng và hologram, cộng thêm in
ảnh và chữ ký của khách hàng trên thẻ, các TCTQT và các nhà phát hành thẻ đã làm
cho loại thẻ này tăng thêm tính bảo mật và an toàn trong sử dụng và thanh toán thẻ.
- Thẻ thông minh (Smart Card): Là loại thẻ có đặt một chip điện tử tương tự
như một máy tính cực nhỏ trên thẻ trong đó lưu trữ tất cả các thông tin về thẻ, chủ
thẻ như thẻ từ. Thêm vào đó, chip này còn lưu trữ số dư tài khoản thẻ hoặc hạn mức
tín dụng của chủ thẻ. Ưu điểm của loại thẻ này là tính an toàn và bảo mật rất cao.
Tuy vậy, loại thẻ này mới ra đời trong thập niên 90 của thế kỷ trước nên giá thành
còn cao. Thêm vào đó, hệ thống máy móc chấp nhận loại thẻ này giá thành cũng
cao nên chưa phổ biến như thẻ từ. Vì vậy, việc phát hành cũng như chấp nhận thanh
toán loại thẻ này vẫn còn hạn chế, chỉ phổ biến ở một số nước phát triển tại Châu
Âu và Mỹ. Các TCTQT đang khuyến khích các ngân hàng thành viên phát hành và
đầu tư máy móc trang thiết bị để chấp nhận loại thẻ này, đảm bảo giảm tỷ lệ rủi ro
trong giả mạo thẻ.
1.1.2.2. Phân loại theo tính chất thanh toán
- Thẻ tín dụng (Credit Card): Là loại thẻ cho phép chủ thẻ sử dụng thẻ trong
hạn mức tín dụng tuần hoàn được cấp và chủ thẻ phải thanh toán toàn bộ các khoản
dư nợ phát sinh theo quy định. Điều này có nghĩa chủ thẻ được ngân hàng cấp cho
một hạn mức tín dụng nhất định để chi tiêu. Với hạn mức tín dụng này, chủ thẻ có
khả năng chi tiêu trước trả tiền sau. Khoảng thời gian từ khi thẻ được dùng để thanh
toán hàng hóa, dịch vụ tới lúc chủ thẻ phải trả tiền cho ngân hàng có độ dài phụ
thuộc vào từng loại thẻ tín dụng của các tổ chức khác nhau. Nếu chủ thẻ thanh toán
toàn bộ số dư nợ vào ngày đến hạn, thời gian này sẽ trở thành thời gian ân hạn và
chủ thẻ hoàn toàn được miễn lãi đối với số dư nợ cuối kỳ. Tuy vậy, nếu hết thời
8
gian này mà toàn bộ số dư nợ cuối kỳ chưa được thanh toán cho ngân hàng thì chủ
thẻ sẽ chịu những khoản phí và lãi chậm trả. Khi toàn bộ số tiền phát sinh được
hoàn trả cho ngân hàng, hạn mức tín dụng của chủ thẻ được khôi phục như ban đầu.
Đây chính là tính chất “tuần hoàn” (Revolving) của thẻ tín dụng.
- Thẻ ATM: Là hình thức phát triển đầu tiên của thẻ ghi nợ, cho phép chủ thẻ
tiếp cận trực tiếp với tài khoản tại ngân hàng từ máy ATM. Chủ thẻ có thể thực hiện
nhiều giao dịch khác nhau tại máy ATM, bao gồm: xem số dư tài khoản, chuyển
khoản, rút tiền, in sao kê, xem các thông tin quảng cáo… Hệ thống máy ATM hiện
đại còn cho phép chủ thẻ gửi tiền vào tài khoản của mình, đổi séc, thực hiện nộp hồ
sơ cho một khoản vay ngay tại các máy ATM.
- Thẻ ghi nợ (Debit Card): Với đặc tính thuận tiện, thẻ ATM đã nhanh chóng
trở thành sản phẩm rất phổ biến, đặc biệt có tốc độ tăng trưởng cao tại các thị
trường đang phát triển. Tuy nhiên, sử dụng thẻ ATM, chủ thẻ chỉ có thể tiếp cận với
tài khoản của mình từ những máy ATM. Đây là một hạn chế bởi tài khoản cá nhân
chưa được tận dụng triệt để trong thanh toán hàng hóa, dịch vụ tại các ĐVCNT.
Chính vì lý do này, thẻ ghi nợ ra đời. Thẻ ghi nợ là loại thẻ cho phép chủ thẻ sử
dụng thẻ trên cơ sở số dư tài khoản tiền gửi để thanh toán hàng hóa dịch vụ tại các
ĐVCNT và rút tiền tại các máy ATM.
- Thẻ liên kết (Co – Branded Card): Một hình thức thẻ ngân hàng ngày càng
trở nên phổ biến là thẻ liên kết. Thẻ liên kết là sản phẩm của một ngân hàng hay
một tổ chức tài chính kết hợp với một bên thứ ba là các tổ chức kinh tế lớn, có uy
tín. Thông thường, tên hoặc nhãn hiệu thương mại, logo của bên thứ ba này cũng
đồng thời xuất hiện trên tấm thẻ. Ngoài những đặc điểm sẵn có của thẻ ngân hàng
thông thường, thẻ liên kết có sức hấp dẫn hơn đối với khách hàng bởi những lợi ích
phụ trội do bên thứ ba đem lại.
1.1.2.3. Phân loại theo phạm vi lãnh thổ
- Thẻ nội địa: là loại thẻ bị hạn chế sử dụng trong phạm vi một nước, các
NHPH và các đơn vị chấp nhận loại thẻ này cũng được đặt trong nước, loại thẻ này
cũng chỉ được lưu hành tại nước đó. Ví dụ thẻ ATM Connect 24 được phát hành bởi
NHNTVN chỉ được sử dụng tiền đồng và chỉ ở Việt Nam.
9
- Thẻ quốc tế: được phát hành bởi các ngân hàng trong nước và ngân hàng
quốc tế, các tổ chức tài chính là thành viên của Hiệp hội thẻ quốc tế. Loại thẻ này có
thể được sử dụng ở khắp nơi trên thế giới giống như là VCB-Visa Card, VCB-
Master Card.
1.2. Hoạt động dịch vụ thẻ
1.2.1. Các chủ thể tham gia hoạt động dịch vụ thẻ
1.2.1.1. Ngân hàng phát hành thẻ
NHPHT là tổ chức tài chính – tín dụng thực hiện việc phát hành thẻ cho chủ
thẻ một cách hợp pháp. NHPHT cũng có thể là ngân hàng được sự cho phép của tổ
chức thẻ hoặc công ty thẻ trao quyền phát hành thẻ mang thương hiệu của những tổ
chức và công ty thẻ này. Tên của NHPHT được in trên thẻ, thể hiện thẻ đó là sản
phẩm do mình phát hành.
NHPHT qui định các điều khoản, điều kiện sử dụng thẻ cho chủ thẻ tuân thủ
và có quyền ký kết hợp đồng đại lý với bên thứ ba là một ngân hàng hoặc một tổ
chức tài chính tín dụng khác trong việc thanh toán hoặc phát hành thẻ tín dụng.
Trong trường hợp này, NHPHT tận dụng được ưu thế của bên thứ ba về kinh
nghiệm, khả năng thâm nhập thị trường và những ưu việt về vị trí địa lý, tuy nhiên,
cũng phải chịu rủi ro về tài chính bởi bên thứ ba (lúc này hoạt động dưới danh nghĩa
là ngân hàng đại lý). Bên thứ ba khi ký kết hợp đồng đại lý với NHPHT được gọi là
ngân hàng đại lý phát hành. Nếu tên của ngân hàng đại lý xuất hiện trên tấm thẻ của
khách hàng thì nhất thiết ngân hàng đại lý phát hành thẻ phải là thành viên chính
thức của tổ chức thẻ hoặc các công ty thẻ.
NHPHT có trách nhiệm quản lý hệ thống tài khoản thẻ, hệ thống phát hành
thẻ và các hoạt động liên quan sử dụng thẻ.
1.2.1.2. Ngân hàng thanh toán thẻ
NHTTT là ngân hàng trong hệ thống các ngân hàng quốc tế chấp nhận thanh
toán các loại dịch vụ liên quan đến thẻ do NHPHT đã phát hành.
Vai trò của NHTTT là thiết lập và duy trì mạng lưới các ĐVCNT trong
nghiệp vụ thẻ cũng như vai trò của NHPHT là thiết lập và duy trì quan hệ với các
10
chủ thẻ. Nhiều NHTM cũng như các tổ chức tài chính làm nghiệp vụ thẻ với tư cách
vừa là nhà phát hành vừa là nhà thanh toán thẻ. Quản lý tốt hệ thống ĐVCNT có thể
thu lợi nhuận cho nhà thanh toán và nhiều lợi ích khác cho việc liên kết. Các
NHTTT phải đối mặt với thách thức của việc lựa chọn những cơ sở cung ứng hàng
hóa dịch vụ hợp pháp đủ điều kiện để trở thành ĐVCNT và giảm thiểu những rủi ro,
mất mát liên quan đến giả mạo, phá sản cũng như tranh chấp đòi bồi hoàn của
những ĐVCNT thuộc mạng lưới khách hàng của mình.
Các NHTM thực hiện nghiệp vụ thanh toán thẻ phải đầu tư hệ thống máy
móc xử lý và quản lý giao dịch, hệ thống cấp phép tại nội bộ ngân hàng và hệ thống
máy móc chấp nhận thẻ tại các ĐVCNT. Các ngân hàng thu phí chấp nhận thẻ từ
các ĐVCNT để bù đắp cho chi phí đầu tư, phí trao đổi thanh toán bù trừ giữa các
ngân hàng và thu lợi nhuận.
1.2.1.3. Đơn vị chấp nhận thẻ
ĐVCNT là các tổ chức hay cá nhân cung ứng hàng hóa, dịch vụ chấp nhận
thẻ làm phương tiện thanh toán. ĐVCNT hoạt động trên nhiều lĩnh vực: nhà hàng,
khách sạn, sân bay…
Để trở thành ĐVCNT của ngân hàng, các ĐVCNT phải ký kết hợp đồng
chấp nhận thẻ như một phương tiện thanh toán, có tình hình tài chính tốt và có năng
lực kinh doanh. Cũng như việc các NHPHT thẩm định khách hàng trước khi phát
hành thẻ, các NHTTT cũng sẽ chỉ quyết định ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với
những đơn vị kinh doanh hiệu quả, có khả năng thu hút nhiều giao dịch sử dụng thẻ.
Mặc dù phải trả cho NHTTT một tỷ lệ chiết khấu theo lượng tiển trong mỗi giao
dịch, các ĐVCNT vẫn có được lợi thế cạnh tranh bởi việc chấp nhận thanh toán
bằng thẻ ngân hàng sẽ giúp các đơn vị này thu hút được một lượng khách hàng lớn,
nâng cao số lượng các giao dịch thực hiện, góp phần tăng cao hiệu quả kinh doanh.
1.2.1.4. Chủ thẻ
Chủ thẻ là người được NHPHT phát hành thẻ để sử dụng trong hạn mức tín
dụng được cấp hoặc người được ủy quyền (nếu là thẻ do công ty ủy quyền sử dụng)
được ngân hàng phát hành thẻ sử dụng thẻ theo những điều khoản, điều kiện do
11
NHPHT quy định. Chủ thẻ được sử dụng thẻ của mình để thanh toán hàng hóa –
dịch vụ tại các đơn vị cung ứng hàng hóa – dịch vụ có chấp nhận thẻ, ứng tiền mặt
tại các điểm ứng tiền mặt thuộc hệ thống ngân hàng hoặc sử dụng thẻ để thực hiện
các giao dịch tai máy ATM.
1.2.1.5. Tổ chức thẻ quốc tế
TCTQT là những tổ chức phi chính phủ có chức năng và đầy đủ điều kiện
đứng ra làm người tổ chức, điều hành, điều tiết, hướng dẫn và giám sát hoạt động
của các ngân hàng thành viên hoạt động trong khuôn khổ và điều lệ nhất định.
TCTQT có mạng lưới rộng khắp với thương hiệu nổi tiếng và các sản phẩm đa dạng
như các tổ chức thẻ: Visa, Master, American Express, JCB, Diners’Club…
1.2.1. Các hoạt động của thẻ
1.2.2.1. Hoạt động phát hành thẻ
Sơ đồ 1.1: Quy trình phát hành thẻ
Khách hàng đến ngân hàng phát hành thẻ đề nghị mua thẻ và hoàn thành
một số thủ tục cần thiết như điền vào yêu cầu phát hành thẻ, trình một số giấy tờ
khác như: CMTND (Hộ chiếu), biên lai trả lương,…
Khi nhận hồ sơ, ngân hàng tiến hành thẩm định lại. Thông thường ngân hàng
xem xét lại xem hồ sơ lập đúng chưa, tình hình tài chính (nếu khách hàng là công
ty) hay các khoản thu nhập thường xuyên của khách hàng (nếu khách hàng là cá
nhân) hoặc số dư trên tài khoản tiền gửi của khách hàng, mối quan hệ tín dụng trước
đây (nếu có).
Ngân hàng
thanh toán thẻ
Đơn vị
chấp nhận thẻ
Ngân hàng
thanh toán thẻ
Trung tâm
xử lý số liệu
12
Nếu hồ sơ phát hành thẻ phù hợp, ngân hàng có thể tiến hành phân loại
khách hàng. Đối với thẻ ghi nợ, việc phát hành thẻ đơn giản, nếu khách hàng đã có
tài khoản tại Ngân hàng thì chỉ cần phát hành thẻ trên tài khoản đó, nếu khách hành
chưa có tài khoản thì ngân hàng làm các thủ tục mở tài khoản và phát hành thẻ cho
khách hàng. Đối với thẻ tín dụng, ngân hàng phải tiến hành phân loại khách hàng
phân loại khách hàng để có chính sách tín dụng phù hợp. Thông thường có hai loại
hạn mức tín dụng:
Hạn mức thẻ vàng: Thường cấp cho khách hàng có thu nhập cao và ổn định,
có nhu cầu chi tiêu nhiều. Hạn mức tín dụng thẻ vàng thường cao hơn nhiều so với
thẻ thường.
Hạn mức thẻ thường: Hạn mức tín dụng chủ yếu cấp cho khách hàng bình
dân. Nhưng khách hàng cũng phải thuộc loại đủ tiêu chuẩn để nhận thẻ tín dụng.
Sau khi thẩm định và phân loại khách hàng, nếu khách hàng đáp ứng đủ điều
kiện, ngân hàng tiến hành phát hành thẻ cho khách hàng. Trước khi giao thẻ và mã PIN,
ngân hàng yêu cầu chủ thẻ ký nhận và không để lộ mã PIN dễ dẫn đến rủi ro mất tiền.
Sau khi giao thẻ cho khách hàng coi như nhiệm vụ phát hành thẻ kết thúc.
Thời gian kể từ khi khách hàng đề nghị phát hành thẻ đến khi nhận được thẻ thường
không quá 6 ngày.
1.2.2.2. Hoạt động thanh toán thẻ
Sơ đồ 1.2: Quy trình thanh toán thẻ
Chủ thẻ
Đơn vị
chấp nhận thẻ
Ngân hàng
thanh toán thẻ
Tổ chức thẻ
quốc tế
Ngân hàng
phát hành thẻ
13
Chủ thẻ sử dụng thẻ được NHPHT cung cấp mua hàng hóa, dịch vụ tại các
ĐVCNT, rút tiền ở máy ATM hoặc các điểm ứng tiền mặt tại quầy.
ĐVCNT xuất trình hóa đơn giao dịch tại NHTTT. NHTTT tạm ứng tiền
thanh toán thẻ (bằng tổng giá trị toàn bộ hóa đơn xuất trình trừ các khoản phí đại lý
như thỏa thuận) bằng cách ghi có tài khoản của ĐVCNT.
NHTTT gửi dữ liệu giao dịch cho NHPHT để thanh toán thông qua hệ thống
trao đổi và thanh toán của các TCTQT. Căn cứ và giao dịch nhận được, TCTQT ghi
có tài khoản NHTTT (bằng tổng giá trị hóa đơn giao dịch trừ đi phí trao đổi theo
quy định) và ghi nợ tài khoản NHPHT.
NHPHT đòi tiền khách hàng – chủ thẻ.
Khách hàng – chủ thẻ trả cho NHPHT khoản tiền thanh toán hàng hóa dịch
vụ được cung cấp bởi các ĐVCNT.
1.2.2.3. Hoạt động quản lý rủi ro
Trong bất kỳ hoạt động kinh doanh thuộc ngành nào cũng đều hàm chứa rủi
ro. Hoạt động kinh doanh thẻ của các NHTM cũng như vậy. Rủi ro có thể xuất hiện
bất cứ lúc nào, khâu nào trong toàn bộ quá trình phát hành, sử dụng và thanh toán
thẻ, gây tổn thất cho chủ thẻ, ĐVCNT, NHPH và NHTTT. Vì vậy, vấn đề đặt ra là
các NHTM phải đầu tư, nghiên cứu, phân tích, học hỏi và phối hợp với nhau để có
thể đương đầu với rủi ro và phòng ngừa nguy cơ rủi ro bằng cách sử dụng các biện
pháp kỹ thuật và nghiệp vụ thích hợp một cách hiệu quả. Một ngân hàng kinh doanh
thẻ rất dễ phải chịu tổn thất, thậm chí nguy cơ phá sản nếu không lưu tâm đến vấn
đề này.
Các loại rủi ro:
- Đơn phát hành thẻ và các thông tin giả mạo: Ngân hàng có thể phát hành
thẻ cho khách hàng có đơn xin phát hành thẻ với thông tin giả mạo về bản thân, khả
năng tài chính, mức thu nhập, giấy tờ giả mạo… do không thẩm định kỹ các thông
tin của khách hàng trên hồ sơ xin phát hành thẻ. Trường hợp này có thể dẫn đến
những tổn thất chủ thẻ không hoặc không có khả năng thanh toán khi sử dụng thẻ.
- Thẻ giả: thẻ do các tổ chức tội phạm làm giả căn cứ vào các thông tin có
14
được từ các chứng từ giao dịch thẻ hoặc thông tin của thẻ mất cắp, thất lạc. Thẻ giả
được sử dụng tạo ra các giao dịch giả mạo sẽ gây tổn thất cho các ngân hàng và chủ
yếu là NHPH, vì theo quy định của TCTQT, NHPH phải chịu hoàn toàn trách
nhiệm với mọi giao dịch thẻ giả mang mã số (số BIN) của ngân hàng đó khi TCTTT
cung cấp đầy đủ chứng từ giao dịch hợp lệ.
- Thẻ mất cắp, thất lạc: Chủ thẻ bị mất cắp, thất lạc thẻ và thẻ bị người khác
sử dụng trước khi chủ thẻ kịp thông báo cho NHPH để có các biện pháp hạn chế sử
dụng hoặc thu hồi thẻ. Các tổ chức tội phạm có thể lợi dụng để in nổi và mã hóa lại
thẻ để thực hiện các giao dịch giả mạo. Trường hợp này dễ dẫn đến rủi ro cho chủ
thẻ hoặc NHPH.
- Chủ thẻ không nhận được thẻ đã phát hành: NHPH gửi thẻ cho chủ thẻ
bằng đường bưu điện nhưng thẻ bị đánh cắp trên đường gửi. Thẻ bị sử dụng trong
khi chủ thẻ chính thức không hay biết gì về việc thẻ được gửi cho mình. Nếu không
có biện pháp quản lý bảo đảm, NHPH chịu mọi rủi ro đối với các giao dịch được
thực hiện trong trường hợp này.
- Tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng: Đến kỳ phát hành lại thẻ, NHPH nhận được
thông báo thay đổi địa chỉ của chủ thẻ. Do không kiểm tra tính xác thực của thông báo
đó nên NHPH gửi thẻ phát hành lại về địa chỉ sai theo yêu cầu của khách hàng. Tài
khoản của chủ thẻ đã bị người khác sử dụng chỉ được phát hiện khi chủ thẻ đích thực
không nhận được thẻ mới liên lạc với NHPH hoặc khi NHPH yêu cầu chủ thẻ thanh
toán sao kê. Trường hợp này dễ dẫn đến rủi ro cho chủ thẻ hoặc cho NHPH.
- Thẻ bị giả mạo để sử dụng dịch vụ thanh toán qua thư, điện thoại, internet:
Đây là loại hình có độ rủi ro cao do hoạt động chấp nhận thẻ không có sự hiện diện
của chủ thẻ và thẻ. Tội phạm thẻ lấy cắp và sử dụng thông tin của thẻ thật để đặt
mua hàng hóa dịch vụ. ĐVCNT cung cấp hàng hóa dịch vụ theo đơn đặt hàng của
chủ thẻ giả mạo. Nếu ĐVCNT mất khả năng thanh toán hoặc bỏ trốn thì TCTTT
phải chịu các tổn thất khi không đòi được tiền từ TCPHT.
- ĐVCNT giả mạo, gian lận: ĐVCNT cố tình đăng ký với ngân hàng các
thông tin giả mạo. ĐVCNT thông đồng với chủ thẻ cố tình chấp nhận thanh toán thẻ
15
giả, thẻ bị mất cắp, thất lạc. ĐVCNT cố tình thực hiện nhiều giao dịch hoặc in nhiều
bộ hóa đơn giao dịch, giả mạo chữ ký của chủ thẻ và yêu cầu TCTTT thanh toán
tiền tạm ứng nhiều lần. ĐVCNT sửa đổi số tiền giao dịch trên hóa đơn, ghi tăng giá
trị giao dịch để TCTTT thanh toán tạm ứng số tiền lớn hơn số tiền giao dịch thật.
- Nhân viên ĐVCNT giả mạo hóa đơn thanh toán thẻ: Khi thực hiện giao
dịch, nhân viên của ĐVCNT đã cố tình in ra nhiều bộ hóa đơn thanh toán thẻ nhưng
chỉ giao một bộ hóa đơn cho chủ thẻ ký để hoàn thành giao dịch. Sau đó, nhân viên
của ĐVCNT giả mạo chữ ký của chủ thẻ vào các bộ hóa đơn còn lại và nộp cho
NHTT để thanh toán. Trường hợp này dễ dẫn đến rủi ro cho ĐVCNT hoặc NHTT.
Ngoài các loại rủi ro trên, còn một số loại rủi ro khác như: ĐVCNT bị lợi
dụng, ĐVCNT vi phạm quy định về chấp nhận thẻ và cung cấp hàng hóa dịch vụ,
sao chép dữ liêu thẻ, máy ATM bị hỏng, lấy cắp, sự cố kỹ thuật,… đều có thể gây
thiệt hại cho ngân hàng nếu không chú trọng đúng mức đến việc quản lý hệ thống
xử lý dữ liệu và quản trị hệ thống kỹ thuật.
Hoạt động quản lý rủi ro trong hoạt động thẻ
- Điều tra, ngăn ngừa các hành vi sử dụng thẻ giả mạo. Quản lý danh mục
các tài khoản liên quan tới những thẻ đã được thông báo là mất cắp, thất lạc. Xây
dựng các kế hoạch theo dõi việc bảo mật phôi thẻ, thẻ đã in và thẻ hỏng, thẻ thu hồi.
- Cập nhật thông tin trên danh sách thẻ mất cắp, thất lạc. Giải quyết các nhu
cầu về giả mạo, tra soát, khiếu nại của khách hàng.
- Hợp tác với cơ quan có thẩm quyền liên quan trong việc điều tra, xử lý các
hành vi vi phạm hợp đồng, giả mạo.
- Tổ chức tập huấn cho nhân viên ĐVCNT và chủ thẻ về các biện pháp
phòng ngừa rủi ro.
1.3. Phát triển dịch vụ thẻ của Ngân hàng thương mại
1.3.1. Quan niệm về phát triển dịch vụ thẻ của Ngân hàng thương mại
Phát triển dịch vụ thẻ của ngân hàng thương mại bao gồm các nội dung như:
gia tăng số lượng khách hàng sử dụng thẻ của ngân hàng, gia tăng các tiện ích đi
kèm theo việc thanh toán thêm dịch vụ thẻ ngày vàng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
16
khách hàng, trên cơ sở đó gia tăng thu nhập cho ngân hàng từ các loại phí, từ việc
sử dụng số dư tài khoản chủ thẻ, từ đó đảm bảo thực.
Xét trên giác độ xã hội, hiệu quả đạt được khi tổng lợi ích xã hội nhận được
từ dịch vụ thẻ lớn hơn chi phí bỏ ra để giúp duy trì môi trường kinh doanh cho
chúng. Hay nói cách khác, lợi ích mà thẻ thanh toán mang lại cho xã hội phải lớn
hơn những loại hình thanh toán truyền thống.
Xét trên giác độ ngân hàng, đạt được hiệu quả từ việc cung ứng dịch vụ thẻ
tức là phải đảm bảo chi phí tối thiểu, lợi nhuận tối đa bằng việc sử dụng hiệu quả
các nguồn lực, tổ chức hợp lý hoạt động kinh doanh thẻ, làm cho dịch vụ này tương
thích với tổng thể chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
Tóm lại, phát triển dịch vụ thẻ của ngân hàng thương mại có thể hiểu đó là
sự tăng trưởng về số lượng và chất lượng dịch vụ thẻ theo hướng tích cực. Đó là:
- Sự tăng trưởng về quy mô được hiểu theo khía cạnh: Số lượng thẻ phát
hành, đối tượng và địa bàn phát hành.
- Sự tăng trưởng về các sản phẩm thẻ và loại hình dịch vụ thẻ
- Sự gia tăng về chất lượng dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ
- Gia tăng thu nhập cho ngân hàng
- Gia tăng khả năng tích hợp dịch vụ và khả năng tạo dịch vụ mới
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển của dịch vụ thẻ
1.3.2.1. Sự đa dạng về sản phẩm thẻ và tiện ích thẻ
a, Đa dạng về các sản phẩm thẻ
Đa dạng về các sản phẩm thẻ có nghĩa là ngân hàng cung cấp ra thị trường
một danh mục nhiều loại thẻ với các tính năng khác nhau và dành cho các nhóm
khách hàng mục tiêu khác nhau.
Hiện nay nhu cầu của khách hàng rất đa dạng, phong phú nên các ngân hàng
đang nỗ lực triển khai cho ra đời nhiều loại hình sản phẩm thẻ mới với nhiều tiện
ích, tính năng đa dạng, hình thức đẹp, độc đáo để đáp ứng nhu cầu của nhiều tầng
lóp khách hàng. Sản phẩm thẻ càng đa dạng, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của
khách hàng thì số lượng thẻ được phát hành ngày càng nhiều, càng thu hút được
17
đông đảo người sử dụng. Điều đó tác động tác động trực tiếp lên số lượng thẻ mà
ngân hàng phát hành, và dịch vụ thẻ của ngân hàng ngày càng phát triển hơn.
b, Đa dạng về tiện ích thẻ
Một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển của dịch vụ
thẻ không thể không kể tới đó là tiện ích mà thẻ của ngân hàng mang lại. Từ những
chiếc thẻ đơn thuần để rút tiền, hiện nay thẻ còn dùng để thanh toán, chuyển khoản,
mua hàng qua mạng, thanh toán các hóa đơn điện, nước,… và rất nhiều tiện ích
khác giúp cho thẻ thực sự là phương tiện thanh toán hiện đại. Như vậy nếu dịch vụ
thẻ của ngân hàng càng cung cấp nhiều tiện ích thì càng có thế mạnh trong việc thu
hút khách hàng, đóng góp vào sự phát triển nói chung của dịch vụ này.
1.3.2.2. Sự gia tăng số lượng thẻ phát hành và số lượng khách hàng sử dụng thẻ
Số lượng khách hàng sử dụng thẻ và số lượng thẻ phát hành không phải là
một. Trong xu thế hiện nay, một khách hàng có thể sử dụng nhiều loại thẻ cùng lúc,
trong đó có những loại thẻ được sử dụng với tần suất nhiều hơn (có thể coi là thẻ
“chính”), với các loại thẻ này, ngân hàng sẽ có thu nhập lớn hơn. Như vậy, mục tiêu
của ngân hàng không chỉ gia tăng số lượng khách hàng sử dụng thẻ và thanh toán
bằng thẻ, mà còn làm thế nào để cho thẻ mà ngân hàng mình phát hành được sử
dụng như là những thẻ “chính” của khách hàng. Số lượng khách hàng không ngừng
gia tăng cùng với số lượng thẻ phát hành cũng là mục tiêu của bất cứ một ngân hàng
nào, đó là một trong các tiêu chí đánh giá sự phát triển dịch vụ thẻ của ngân hàng.
Khi thị trường tài chính nói chung và thị trường thẻ ngân hàng nói riêng ngày
càng phát triển thì mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt. Chính vì
vậy, để có thể thu hút khách hàng, các ngân hàng thường có các chính sách quảng cáo
sao cho số lượng thẻ của ngân hàng được nắm giữ càng nhiều càng tốt. Số lượng thẻ
phát hành càng nhiều chứng tỏ dịch vụ thẻ của ngân hàng đáp ứng được nhu cầu của
khách hàng. Đồng thời, số lượng thẻ được phát hành càng nhiều làm chi thu nhập của
ngân hàng càng cao và ngược lại. Chính vì vậy, việc gia tăng số lượng thẻ, gia tăng
khách hàng, sự trung thành của khách hàng trong việc sử dụng thẻ của ngân hàng là
một trong các tiêu chí quan trọng mà ngân hàng nào cũng hướng tới.
18
1.3.2.3. Sự gia tăng số dư tiền gửi trên tài khoản thẻ của khách hàng.
Số dư tiền gửi trên tài khoản thẻ là số tiền mà chủ thẻ ký thác tại ngân hàng
để đảm bảo thực hiện thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ. Ngân hàng có thể sử dụng
vào các hoạt động kinh doanh và đảm bảo thanh toán đối với số tiền này. Có thể
xem đây là nguồn vốn kinh doanh ngân hàng có thể tận dụng với lãi suất thấp. Số
dư tiền tài khoản thanh toán càng lớn ngân hàng càng có khả năng mở rộng thêm
các hoạt động kinh doanh mang lại thu nhập cao hơn cho ngân hàng. Chủ thẻ có số
dư tiền gửi lớn cùng là các chủ thẻ có năng lực tài chính, tiếp cận được các khách
hàng này cũng chính là thành công của ngân hàng. Chính vì vậy, gia tăng số dư tiền
gửi trên tài khoản thẻ (số tuyệt đối hay trung bình/thẻ) cũng là một trong các tiêu
chí thể hiện sự phát triển của dịch vụ thẻ của ngân hàng.
1.3.2.4. Sự gia tăng về doanh số thanh toán thẻ
Doanh số thanh toán thẻ là tổng giá trị giao dịch được thanh toán bằng thẻ tại
các điểm chấp nhận thẻ và số lượng tiền mặt được ứng tại các điểm rút tiền mặt.
Doanh này càng cao, càng tăng nhiều chứng tỏ số lượng khách hàng đặt niềm tin
vào dịch vụ thanh toán thẻ và tính tiện ích cũng như sự an toàn của nó. Thông qua
đó các chủ thể cung cấp dịch vụ này trong đó có các ngân hàng thương mại sẽ có
thu nhập lớn hơn. Chính vì vậy, đây là một tiêu chí phản ánh sự phát triển dịch vụ
thẻ của ngân hàng.
Chỉ tiêu này được tính bằng tổng giá trị hàng hóa dịch vụ khách hàng dụng
thẻ để thanh toán qua các ĐVCNT hoặc máy ATM trong một khoảng thời gian theo
tháng/quý/năm.
1.3.2.5. Quy mô của mạng lưới ĐVCNT, ATM
Hoạt động thanh toán thẻ không thể thực hiện được nếu thiếu mạng lưới
ĐVCNT và ATM, thông qua mạng lưới ĐVCNT và ATM dịch vụ thanh toán thẻ
được thực hiện. Chính vì vậy, sự mở rộng về quy mô của mạng lưới các ĐVCNT và
máy ATM sẽ đồng nghĩa với việc dịch vụ thanh toán thẻ được mở rộng. Khách
hàng sử dụng thẻ thanh toán có thể thực hiện dịch vụ tại nhiều địa điểm hơn thông
qua đó hoạt động thanh toán thẻ được mở rộng.
19
Chỉ tiêu này được đánh giá thông qua:
- Số lượng ĐVCNT và số lượng máy ATM
- Thị phần ĐVCNT = Số lượng ĐVCNT của ngân hàng / Tổng số ĐVCNT
trên địa bàn.
1.3.2.6. Sự gia tăng thu nhập của ngân hàng từ việc cung cấp dịch vụ thẻ
Ngân hàng cung cấp dịch vụ thẻ với mục đích gia tăng thu nhập, gia tăng số
lượng dịch vụ để giảm rủi ro và nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngân hàng. Thu
nhập từ hoạt động kinh doanh thẻ có thể liệt kê theo các nguồn như sau:
* Thẻ nội địa: Nguồn thu từ phí phát hành, phí duy trì thẻ,… Thu từ việc sử
dụng số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, thu lãi cho vay từ khoản tín dụng tiêu
dùng…
* Thẻ quốc tế:
- Thẻ ghi nợ có nguồn thu từ các khoản phi liên quan, số dư trên tài khoản
thanh toán, phí từ Interchange – là một số phần trăm tính trên doanh số chi tiêu thẻ
và phí do tổ chức thẻ quốc tế trả cho ngân hàng phát hành.
- Thẻ tín dụng: Phí phát hành, thường niên,…, thu lãi cho vay từ khoản tín
dụng tiêu dùng, phí từ Interchange – là một số phần trăm tính trên doanh số chi tiêu
thẻ và phí do tổ chức thẻ quốc tế trả cho ngân hàng phát hành.
* Thu từ POS: Thu từ các điểm bán hàng một số phần trăm tính trên doanh
số thanh toán, trả cho tổ chức thẻ quốc tế một phần, còn lại là thu của ngân hàng.
* Thu từ ATM: Đây là nguồn thu nếu áp dụng việc tính phí giao dịch trên
ATM: phí rút tiền, phí chuyển khoản,…
1.3.2.7. Mức độ kiểm soát rủi ro trong hoạt động thanh toán thẻ
Hoạt động thanh toán thẻ cũng như những hoạt động kinh doanh khác của
ngân hàng thường ẩn chứa rất nhiều rủi ro. Đặc biệt trong môi trường kinh doanh
thẻ hiện nay có nhiều yếu tố thuận lợi cho tội phạm như: thị trường thẻ đang phát
triển mạnh, công nghệ hỗ trợ chưa cao, thẻ là lĩnh vực mới vơi cơ quan pháp luật và
cơ quan quản lý Nhà nước, ý thức phòng ngừa giả mạo, sự tuân thủ quy trình chấp
nhận thẻ của các ĐVCNT kém… Vì vậy yếu tố rủi ro trong hoạt động thanh toán
20
thẻ được kiểm soát ngày càng tốt, đảm bảo an toàn cho cả ngân hàng và chủ thẻ
chính là cơ sở để khẳng định sự phát triển dịch vụ thẻ.
Mức độ kiểm soát rủi ro này được đánh giá qua tổng giá trị các món ngân
hàng phải chịu tổ thất trong hoạt động thanh toán thẻ trong năm trên cơ sở so sánh
với các năm trước.
1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển dịch vụ
thẻ của Ngân hàng thương mại
1.3.3.1. Nhân tố chủ quan
a, Mức độ đầu tư cho dịch vụ thẻ
Trong các dịch vụ ngân hàng hiện nay, dịch vụ thẻ được coi là dẫn đầu về
lĩnh vực công nghệ ứng dụng. Để triển khai thành công một hệ thống thanh toán
và phát hành thẻ, đòi hỏi các ngân hàng phải một hệ thống kỹ thuật công nghệ
hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Trước hết, phải nói công nghệ sản xuất thẻ, từ
những chiếc thẻ từ đến những chiếc thẻ chip với hệ thống vi mạch điện tử với
công suất bộ nhớ cao cho phép lưu trữ và xử lý ngày càng nhiều thông tin và
giao dịch. Bên cạnh đó, phát triển dịch vụ thẻ còn cần hệ thống thanh toán nối
mạng giữa tổ chức phát hành thẻ với các bên có liên quan như ngân hàng thanh
toán, các điểm chấp nhận thẻ, điểm ứng tiền mặt,… Để có hệ thống kỹ thuật hiện
đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế thì các ngân hàng phải chấp nhận chi phí đầu tư rất
lớn. Đó là chi phí đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng về phát hành và thanh toán
thẻ, như chi phí tư vấn, chuyển giao, vận hành, chi phí đầu tư máy móc thiết bị,
bên cạnh đó còn chi phí đầu tư cho các đơn vị chấp nhận thẻ, chi phí chuyển giao
công nghệ, đào tạo nhân viên,… trong khi đó công nghệ lại thay đổi nhanh
chóng. Nếu một ngân hàng không có mức độ đầu tư thỏa đáng sẽ rất khó khăn
khi phát triển loại hình dịch vụ này. Thực tế thời gian qua cho thấy đối với
những ngân hàng nhỏ bị hạn chế về khả năng tài chính, việc tham gia thị trường
thẻ đã gặp rất nhiều khó khăn.
b, Số lượng và mật độ ĐVCNT cũng như các đơn vị chấp nhận thanh toán trực tuyến.
Dịch vụ thẻ không thể hoàn thiện nếu thiếu sự tham gia của các ĐVCNT vì
họ là trung gian quan trọng tạo nên tiện ích của dịch vụ thẻ. Nếu mạng lưới
21