Tải bản đầy đủ (.pdf) (164 trang)

giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nông thôn mới ở thị xã bắc kạn tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (966.36 KB, 164 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


®¹i häc th¸i nguyªn
TRƯỜNG ĐH KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH





NGUYỄN TUẤN KHANH




GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở THỊ XÃ BẮC KẠN,
TỈNH BẮC KẠN



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ








THÁI NGUYÊN - 2011


NGUYỄN TUẤN KHANH * LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ * THÁI NGUYÊN - 2011



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Ðảng nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá
toàn diện và to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo
hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm
bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm
vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng
tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục
đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng
nông thôn thay đổi. Ðời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các
vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to
lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ
sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Vị
thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng,
lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền
vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa
phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa
học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ
biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng

nhiều mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm,
chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn.
Các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển mạnh sản xuất hàng hóa. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô
nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Ðời sống
vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao,
nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo
giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã
hội bức xúc.
Những hạn chế, yếu kém trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan,
trong đó nguyên nhân chủ quan là chính: nhận thức về vị trí, vai trò của nông
nghiệp, nông dân, nông thôn còn bất cập so với thực tiễn; chưa hình thành
một cách có hệ thống các quan điểm lý luận về phát triển nông nghiệp, nông
dân, nông thôn; cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực này thiếu đồng bộ,
thiếu tính đột phá; một số chủ trương, chính sách không hợp lý, thiếu tính khả
thi nhưng chậm được điều chỉnh, bổ sung kịp thời; đầu tư từ ngân sách nhà
nước và các thành phần kinh tế vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn
thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; tổ chức chỉ đạo thực hiện và công tác
quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, yếu kém; vai trò của các cấp ủy, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng trong việc triển khai các
chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn ở nhiều nơi còn hạn chế.
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được và những tồn tại, yếu kém cần
khắc phục, nhằm xây dựng nông nghiệp, nông thôn theo đúng mục tiêu, định
hướng của Đảng đã đề ra. Tại Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá X đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm

2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Để thực hiện Nghị quyết của
Trung ương Đảng, Chính phủ xây dựng Chương trình hành động thực hiện
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn (Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
tháng 10 năm 2008). Thực hiện Nghị quyết trên, ngày 16 tháng 4 năm 2009
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 491/QĐ-TTg về việc ban
hàn bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới làm căn cứ để xây dựng mội dung
chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; Quyết định số
800/QĐ-TTg ngày 04 tháng 06 năm 2010 của Thủ tưởng Chính phủ phê duyệt
chương trình mực tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới 2010 – 2020.
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi thuộc vùng Đông bắc Bắc bộ được tái lập
tỉnh từ năm 1997, đến nay tỉnh có 8 đơn vị hành chính gồm 7 huyện và 1 thị
xã với tổng số 122 xã, phường, thị trấn. Dân số trên 295.000 người, với 7
dân tộc anh em gồm Tày, Nùng, Dao, Kinh, Mông, Hoa, Sán Chay, trong
đó dân tộc thiểu số chiếm trên 80%. Diện tích đất tự nhiên là 486.842 ha,
trong đó đất nông nghiệp là 371.767 ha chiếm 76,36%. Bắc Kạn là một tỉnh
còn nghèo so với cả nước, Sản xuất Nông nghiệp và phát triển nông thôn của
tỉnh trong những năm gần đây đã đạt được những thành tựu quan trọng, với
tốc độ phát triển nông nghiệp nhanh và bền vững: Sản xuất lương thực có
bước phát triển vượt bậc, đảm bảo an ninh lương thực trên địa bàn tỉnh; bước
đầu đã hình thành một số vùng sản xuất chuyên canh tập trung để làm tiền đề
cho phát triển công nghiệp chế biến. Nông thôn từng bước phát triển vượt
bậc, cơ sở hạ tầng nông nghiệp có chuyển biến tích cực.
Thực hiện định hướng của Đảng và Nhà nước về phát triển nông nghiệp,
nông thôn trong giai đoạn mới, tỉnh Bắc Kạn đang tiến hành xây dựng nông
thôn mới trên toàn tỉnh. Để xây dựng nông thôn mới cần phải đánh giá thực
trạng và đưa ra giải pháp mang tính khoa học, điều đó có ý nghĩa thực tế

khách quan và có tính cấp thiết. Xuất phát từ thực tế khách quan trên, tôi chọn
đề tài: "Giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nông thôn mới ở thị xã Bắc
Kạn, tỉnh Bắc Kạn", là yêu cầu đặt ra mang tính cấp thiết.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu cơ sở khoa học và đánh giá thực trang tình hình nông thôn ở
thị xã Bắc Kạn, từ đó đề xuất những giải pháp khoa học nhằm xây dựng nông
thôn mới ở thị xã Bắc Kạn góp phần thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu mà tỉnh
đề ra về xây dựng nông thôn mới đến năm 2020.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng nông thôn mới.
Đánh giá thực trạng tình hình nông thôn so với hệ thống tiêu chí quốc
gia về nông thôn mới ở thị xã Bắc Kạn. Phân tích những điểm mạnh, những
khó khăn trở ngại và những tiềm năng trong xây dựng nông thôn mới ở thị xã
Bắc Kạn.
Đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nông thôn mới thành công,
phù hợp với điều kiện thực tiễn của thị xã Bắc Kạn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các giải pháp về xây dựng nông thôn
mới ở các xã thuộc khu vực nông thôn ở thị xã Bắc Kạn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi không gian: Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn thị xã Bắc
Kạn, tỉnh Bắc Kạn.
* Phạm vi thời gian: Số liệu thứ cấp được thu thập từ các tài liệu đã công
bố từ năm 2008 đến nay.

Số liệu đánh giá thực trạng được điều tra trong năm 2010 và năm 2011.
* Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung vào những giải pháp chủ yếu
mang tính đột phá, có ý nghĩa thực tiễn nhằm xây dựng nông thôn mới ở
thị xã Bắc Kạn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
4. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về xây dựng nông thôn mới và phương pháp
nghiên cứu.
Chương 2: Thực trạng nông thôn của thị xã Bắc Kạn và so sánh với các
tiêu chí xây dựng nông thôn mới.
Chương 3: Giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nông thôn mới ở thị xã
Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.




















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÀ
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÂY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI
1.1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1.1. Nông thôn và vai trò của nông thôn
* Khái niệm về nông thôn:
Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm nông thôn. Có quan điểm
cho rằng nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất
nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Cũng có quan điểm cho rằng dựa vào trình
độ phát triển cơ sở hạ tầng hoặc dựa vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị trường
để xác định vùng nông thôn.
Theo Từ điển tiếng việt: Nông thôn là danh từ để chỉ khu vực dân cư tập
trung chủ yếu làm nghề nông, phân biệt với thành thị.
Cũng có từ điển khái niệm nông thôn Việt Nam là danh từ để chỉ những
vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam, ở đó người dân sinh sống chủ yếu bằng
nông nghiệp.
Khái niệm về nông thôn trong văn bản chính thức của Bộ Nông nghiệp
và PTNT tại thông tư Số: 54/2009/TT-BNNPTNT thì: Nông thôn là phần lãnh
thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý
bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã.

Như vậy, Nông thôn là phần lãnh thổ sinh sống chủ yếu làm nghề nông
của tập hợp dân cư, tập hợp dân cư này tham gia vào các hoạt động kinh tế,
văn hóa - xã hội và môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và được
quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là uỷ ban nhân dân xã.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
* Phát triển nông thôn
Phát triển nông thôn là một quá trình tất yếu cải thiện một cách bền vững
về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường, nhằm nâng cao chất lượng sống của
dân cư nông thôn.
Phát triển nông thôn là những thay đổi cần thiết ở vùng nông thôn. Tuy
nhiên, những gì coi là cần thì lại khác nhau ở từng nước, từng vùng, từng địa
phương; theo quan điểm thông thường, bản chất của phát triển là tăng trưởng
và hiện đại hoá mang lại cho người nghèo chút lợi nho nhỏ.
Phát triển nông thôn là một chiến lược đời sống kinh tế và xã hội của
một nhóm người riêng biệt, người nghèo ở nông thôn. Nó đòi hỏi phải mở
rộng các lợi ích của sự phát triển đến với những người nghèo nhất trong
những người nghèo nhất trong những người đang tìm kế sinh nhai ở các vùng
nông thôn. Nhóm này gồm những tiểu nông, tá điền và những người không có đất.
Phát triển nông thôn bền vững là sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn
với tốc độ cao, là quá trình làm tăng mức sống của người dân nông thôn. Phát
triển nông thôn phù hợp với nhu cầu của con người, đảm bảo sự tồn tại bền
vững và sự tiến bộ lâu dài trong nông thôn. Sự phát triển đó dựa trên việc sử
dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên mà vẫn bảo đảm giữ gìn môi trường sinh
thái nông thôn. Phát triển nông thôn đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay nhưng
không làm cạn kiệt tài nguyên, không để lại hậu quả cho thế hệ tương lai.
Như vậy, Phát triển nông thôn là một quá trình nhằm cải thiện và nâng
cao đời sống của người dân nông thôn một cách bền vững về kinh tế xã hội,

văn hoá và môi trường; quá trình này, trước hết là do nỗ lực từ chính người
dân nông thôn và có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước và các tổ chức khác.
* Vai trò của nông thôn và phát triển nông thôn
Nông thôn là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm cho đời sống của
người dân; cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu; cung cấp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
hàng hóa cho xuất khẩu; cung cấp lao động cho công nghiệp và thành thị; thị
trường rộng lớn để tiêu thụ những sản phẩm của công nghiệp và dịch vụ.
Phát triển nông thôn sẽ góp phần tạo ra những tiền đề quan trọng không thể
thiếu bảo đảm thắng lợi cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát triển nông thôn sẽ góp phần thực hiện có hiệu quả quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa tại chỗ. Các hoạt động ở nông thôn trở nên sôi động
hơn. Cơ cấu kinh tế, phân công lao động chuyển dịch đúng hướng có hiệu
quả. Vấn đề việc làm cho người lao động sẽ được gia tăng ngày càng nhiều
trên địa bàn nông thôn. Trên cơ sở đó, tăng thu nhập, cải thiện từng bước đời
sống vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; giảm sức ép của sự chênh
lệch kinh tế và đời sống giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng phát triển và
vùng kém phát triển.
Phát triển nông thôn sẽ góp phần to lớn trong việc bảo vệ và sử dụng tiết
kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái; Sẽ tạo
cơ sở vật chất cho sự phát triển văn hóa ở nông thôn.
Phát triển nông thôn sẽ góp phần quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa
xã hội ở nông thôn nói riêng và đất nước nói chung; Là cơ sở ổn định kinh tế,
chính trị, xã hội của đất nước. Phát triển nông thôn gắn liền với phát triển xã
hội, văn hóa, chính trị và kiến trúc thượng tầng theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Một nông thôn có kinh tế và văn hóa phát triển, đời sống ấm no, đầy đủ
về vật chất, yên vui về tinh thần sẽ là một nhân tố quyết định củng cố vững
chắc trận địa lòng dân, thắt chặt mối liên minh công - nông, bảo đảm cho

nhân dân ta có đủ sức mạnh, đánh bại mọi âm mưu và thủ đoạn của mọi kẻ
thù, dưới bất cứ hình thức nào. Đó cũng là cơ sở thắng lợi của việc giữ vững
và bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền lợi ích quốc gia và xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
1.1.1.2. Xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới là xây dựng, tổ chức cuộc sống của dân cư
nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại, giữ gìn bản sắc văn hoá và môi
trường sinh thái gắn với phát triển đô thị, thị trấn, thị tứ. Phát triển đồng bộ hệ
thống hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn phù hợp quy hoạch không gian xây
dựng làng (ấp, thôn, bản), xã và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
ngành, địa phương; kết hợp giữa hỗ trợ của Nhà nước với phát huy nội lực
của cộng đồng dân cư nông thôn. Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và
tổ chức tốt đời sống văn hoá cơ sở. Xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất
phù hợp với yêu cầu của nền nông nghiệp hiện đại, sản xuất hàng hoá gồm cả
nông nghiệp và phi nông nghiệp, thực hiện "mỗi làng một nghề". Tóm lại:
Xây dựng nông thôn mới là một chương trình tổng thể về phát triển kinh tế -
xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng tại khu vực nông thôn.
* Sự ra đời của chƣơng trình xây dựng nông thôn mới.
Hội nghị BCH Trung ương Ðảng lần thứ 7 khóa X đã thảo luận và thông
qua Nghị quyết số 26-NQ/T.Ư "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn". Đánh
giá kiểm điểm sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới về lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn, nông dân và đưa ra quan điểm mục tiêu thực hiện trong
những năm tiếp theo như sau:
Thứ nhất: Về quan điểm
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực
lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định

chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.
Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng
bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong mối
quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ
thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ
sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát
triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai,
rừng và biển; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc
tế cho phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy
cao nội lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng
nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông
thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân.
Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả
hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu nước,
tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn
định, hòa thuận, dân chủ, có đời sống văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân
tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới,
nâng cao đời sống nông dân.
Thứ hai: Về mục tiêu
Mục tiêu tổng quát

Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông
thôn, hài hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn
nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với
các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
nông thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng
hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả
và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia
cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn
nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch;
xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng
cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự
lãnh đạo của Ðảng được tăng cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố
liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã
hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu đến năm 2020
Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thủy sản đạt 3,5 - 4%/năm; sử dụng đất
nông nghiệp tiết kiệm và hiệu quả; duy trì diện tích đất lúa đảm bảo vững
chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài. Phát triển nông nghiệp
kết hợp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải
quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp trên 2,5
lần so với hiện nay.
Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỷ lệ lao động
nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới
khoảng 50%.
Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, trước hết

là hệ thống thủy lợi đảm bảo tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích đất lúa 2
vụ, mở rộng diện tích tưới cho rau màu, cây công nghiệp, cấp thóat nước chủ
động cho diện tích nuôi trồng thủy sản, làm muối; đảm bảo giao thông thông
suốt 4 mùa tới hầu hết các xã và cơ bản có đường ô-tô tới các thôn, bản; xây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
dựng cảng cá, khu neo đậu tàu thuyền và hạ tầng nghề cá; cấp điện sinh hoạt
cho hầu hết dân cư, các cơ sở công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; đảm bảo
cơ bản điều kiện học tập, chữa bệnh, sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao ở hầu
hết các vùng nông thôn tiến gần tới mức các đô thị trung bình.
Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả,
bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo; nâng cao trình độ giác ngộ và vị thế
chính trị của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và
hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, hòan chỉnh hệ
thống đê sông, đê biển và rừng phòng hộ ven biển, hệ thống cơ sở hạ tầng
giao thông, thủy lợi, cụm dân cư đáp ứng yêu cầu phòng chống bão, lũ, ngăn
mặn và chống nước biển dâng; tạo điều kiện sống an toàn cho nhân dân đồng
bằng sông Cửu Long, miền Trung và các vùng thường xuyên bị bão, lũ, thiên
tai; chủ động triển khai một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biến
đổi khí hậu toàn cầu. Ngăn chặn, xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường, từng
bước nâng cao chất lượng môi trường nông thôn.
* Sự cần thiết phải xây dựng nông thôn mới
Nông thôn hiện nay phát triển thiếu quy hoạch, mang tính tự phát: Quy
hoạch dân cư nông thôn đến nay mới có khoảng 23% trên tổng số xã có quy
hoạch. Thiếu quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết sử dụng đất cho từng
lĩnh vực như: sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ; quy hoạch
phát triển hạ tầng kinh tế xã hội. Không có quy định, quy chế quản lý phát
triển theo quy hoạch. Nông thôn xây dựng phát, kiến trức, cảnh quan làng

quêa tạp, lôn xộn, môi trường ô nhiễm, nhiều nét đẹp văn hóa truyền thống bị
hủy hoại hoặc mai một.
Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hôi còn lạc hậu, không đáp ứng yêu cầu phát
triển lâu dài: Đường trục xã được cứng hóa đạt chuẩn chiếm 30%; Tỷ lệ thôn
có nhà văn hóa đạt 80%, hệ thống điện nông thôn đạt chuẩn chiếm 72%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Quan hệ sản xuất chậm đổi mới, đời sống người dân còn ở mức thấp:
Kinh tế hộ đóng vai trò chủ yếu nhưng ở quy mô nhỏ; kinh tế trang trại hình
thức sản xuất hiệu quả nhất trong nông nghiệp hiện nay chiếm xấp xỉ 1% tổng
số hộ; Trên 54% số hợp tác xã hoạt động ở mức trung bình và yếu; Doanh
nghiệp trong nông nghiệp không đáng kể; liên kết tổ chức sản xuất hàng hóa
yếu; đời sống người dân nông thôn còn ở mức thấp, tỷ lệp hộ nghèo còn cao,
chênh lệch giàu nghèo cao ( 13,5 lần).
Các vấn đề về văn hóa, xã hội, y tế, môi trường: Tỷ lệ thôn không có lớp
mẫu giáo chiếm 45,5%, tỷ lệ thôn không có nhà trẻ chiếm 84%; tỷ lệ lao động
qua đào tạo là 12,8%, chất lượng rất thấp, nhất là vùng sâu vùng xa; tệ nạn xã
hội tăng, hủ tục lạc hậu còn dai dẳng; Hệ thống an sinh xã hội chưa phát
triển; môi trường sống ô nhiễm
Hệ thống chính trị cơ sở còn yếu, nhất là trình độ và năng lực điều hành:
Trong xấp xỉ 81 nghìn công chức xã có 0,1% công chức xã không biết chữ;
2,4% công chức xã đạt trình độ tiểu học; 22,5% công chức xã đạt trình độ
trung học cơ sở; 75% công chức xã đạt trình độ trung học phổ thông. Trình độ
chuyên môn có 9,1% công chức xã đạt trình độ đại học và cao đẳng, trung cấp
chiểm 32,4%; sơ cấp chiểm 9,8%; chưa qua đào tạo chiếm 48,7%.
1.1.1.3. Bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới
* Ý nghĩa của bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới:
Cụ thể hóa đặc tính của xã Nông thôn mới trong thời kỳ đẩy mạnh Công
nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước.

Bộ tiêu chí là căn cứ để xây dựng nội dung Chương trình mực tiêu quốc
gia về xây dựng nông thôn mới, là chuẩn mực để các xã lập kế hoạch phấn
đấu đạt 19 tiêu chí nông thôn mới.
Là căn cứ để chỉ đạo, đánh giá kết quả thực hiện xây dựng Nông thôn
mới của các địa phương trong từng thời kỳ; Đánh giá công nhận xã, huyện,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
tỉnh đạt NTM; Đánh giá trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền xã
trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
* Nội dung của Bộ tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng
4 năm 2009 về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Theo
bộ tiêu chí chỉ tiêu quốc gia bộ tiêu chí có 3 cấp độ: xã nông thôn mới,
huyện nông thôn mới và tỉnh nông thôn mới, trong đó xã nông thôn mới có
19 tiêu chí cụ thể, còn đối với huyện nông thôn mới căn cứ vào tỷ lệ số xã
thuộc huyện đạt nông thôn mới (75% số xã đạt 19 tiêu chí nông thôn mới)
và tỉnh nông thôn mới căn cứ vào tỷ lệ số huyện thuộc tỉnh đạt nông thôn
mới (80% số huyện đạt tiêu chí nông thôn mới). 19 tiêu chí xây dựng nông
thôn mới bao gồm:
Nhóm tiêu chí về quy hoạch có 01 tiêu chí:
Tiêu chí Quy hoạch và thực hiện quy hoạch bao gồm: Quy hoạch sử
dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa,
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ; Quy hoạch phát triển hạ tầng kinh
tế - xã hội – môi trường theo chuẩn mới; Quy hoạch phát triển các khu dân cư
mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có theo hướng văn minh, bảo tồn
được bản sắc văn hóa tốt đẹp.
Nhóm tiêu chí về hạ tầng Kinh tế - Xã hội có 08 tiêu chí:
Tiêu chí Giao thông bao gồm: Tỷ lệ km đường trục xã, liên xã được
nhựa hóa hoặc bê tông hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ GTVT; tỷ lệ

km đường trục thôn, xóm được cứng hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ
GTVT; tỷ lệ km đường ngõ, xóm sạch và không lầy lội vào mùa mưa; tỷ lệ
km đường trục chính nội đồng được cứng hóa, xe cơ giới đi lại thuận tiện.
Tiêu chí Thủy lợi bao gồm: Hệ thống thủy lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu
sản xuất và dân sinh; tỷ lệ km trên mương do xã quản lý được kiên cố hóa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Tiêu chí Điện bao gồm: Hệ thống điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của
ngành điện; tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an toàn từ các nguồn.
Tiêu chí Trường học bao gồm: Tỷ lệ trường học các cấp: mầm non, mẫu
giáo, tiểu học, THCS có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia.
Tiêu chí về cơ sở vật chất văn hóa bao gồm: Nhà văn hóa và khu thể
thao xã đạt chuẩn của Bộ VH-TT-DL; tỷ lệ thôn có nhà văn hóa và khu thể
thao thôn đạt quy định của Bộ VH-TT-DL.
Tiêu chí Chợ nông thôn: Chợ đạt chuẩn của Bộ Xây dựng.
Tiêu chí Bưu điện bao gồm: Có điểm phục vụ bưu chính viễn thông; có
Internet đến thôn.
Tiêu chí nhà ở dân cư bao gồm: Nhà tạm, dột nát; Tỷ lệ hộ có nhà ở đạt
tiêu chuẩn Bộ Xây dựng.
Nhóm tiêu chí về Kinh tế và tổ chức sản xuất có 04 tiêu chí:
Tiêu chí thu nhập: Thu nhập bình quân đầu người/năm so với mức bình
quân chung của tỉnh.
Tiêu chí hộ nghèo: Tỷ lệ hộ nghèo.
Tiêu chí cơ cấu lao động: Tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong
lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp.
Tiêu chí hình thức tổ chức sản xuất: Có tổ hợp tác hoặc hợp tác xã hoạt
động có hiệu quả.
Nhóm tiêu chí về Văn hóa – Xã hội – Môi trƣờng có 04 tiêu chí:
Tiêu chí về giáo dục bao gồm: Phổ cập giáo dục trung học; tỷ lệ học

sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học trung học (phổ thông, bổ túc, học
nghề); Tỷ lệ lao động qua đào tạo.
Tiêu chí về y tế bao gồm: Tỷ lệ người dân tham gia các hình thức bảo
hiểm y tế; Y tế xã đạt chuẩn quốc gia.
Tiêu chí về văn hóa: Xã có từ 70% số thôn, bản trở lên đạt tiêu chuẩn
làng văn hóa theo quy định của Bộ VH-TT-DL.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Tiêu chí về môi trường bao gồm: Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch hợp
vệ sinh theo quy chuẩn Quốc gia; Các cơ sở SX-KD đạt tiêu chuẩn về môi
trường; không có các hoạt động suy giảm môi trường và có các hoạt động
phát triển môi trường xanh, sạch, đẹp; Nghĩa trang được xây dựng theo quy
hoạch; Chất thải, nước thải được thu gom và xử lý theo quy định.
Nhóm tiêu chí hệ thống chính trị gồm 02 tiêu chí:
Tiêu chí hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh bao gồm: Cán bộ
xã đạt chuẩn; Có đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở theo quy định;
Đảng bộ, chính quyền xã đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững mạnh”; Các tổ
chức đoàn thể chính trị của xã đều đạt danh hiệu tiên tiến trở lên.
Tiêu chí an ninh, trật tự xã hội: An ninh, trật tự xã hội được giữ vững.
(Chi tiết theo phụ lục số 01)
1.1.2. Kinh nghiệm phát triển nông thôn trên thế giới và xây dựng
nông thôn mới ở Việt Nam
1.1.2.1. Kinh nghiệm phát triển nông thôn ở một số nước trên thế giới
* Trung Quốc
Tháng 3/2006 Trung ương Đảng cộng sản và Quốc vụ viện (Chính phủ)
Trung Quốc công bố Bản “tài liệu số 1” Trung Quốc quyết tâm giải quyết vấn
đề nông thôn; chủ trương xây dựng “Nông thôn mới xã hội chủ nghĩa” là
nhiệm vụ chính của kế hoạch 5 năm 2006 – 2010. Tài liệu này đề cập những
chiến lược cơ bản trong đó chú trọng đến “Điều chỉnh mối quan hệ trong phân

phối thu nhập, quy phạm, trật tự phân phối: thu nhập, tăng thu nhập cho tầng
lớp người có mức sống trung bình và thấp. Kiên trì “Cho nhiều, lấy ít, nuôi
sống” đặc biệt là áp dụng nhiều biện pháp trong việc “cho nhiều” đối với
nông dân; đồng thời đưa ra các giải pháp nhiều mặt về xây dựng nông thôn,
vấn đề xã hội và dân chủ, khác với tài liệu các năm trước nói đến các vấn đề
riêng biệt như sản xuất lương thực, thu nhập nông dân và khả năng sản xuất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
nông nghiệp. Việc phát triển kinh tế và xã hội của Trung Quốc đã vào một
thời kỳ mới.
Có 5 lý do để đặt vấn đề xây dựng nông thôn xã hội chủ nghĩa mới:
Một là: Nông nghiệp chưa đạt mức có thể làm cơ sở cho việc phát triển
kinh tế xã hội và nâng cao sinh kế của nhân dân.
Hai là: Sản lượng lương thực đạt 484 triệu tấn năm 2005, chưa đủ thoả
mãn yêu cầu, so với năm cao nhất thấp hơn 30 triệu tấn.
Ba là: Thiếu đất trồng trọt và nước là cản trở cho việc phát triển nông nghiệp.
Bốn là: Cần đầu tư nhiều hơn nữa vào nông nghiệp để tăng việc áp
dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất.
Năm là: Khoảng cách giữa đô thị và nông thôn đang tăng thêm.
Thu nhập thuần đầu người của nông thôn Trung Quốc năm 2005 là 3.255
nguyên (402 USD), trong lúc của dân đô thị là 10.493 nguyên, cao hơn 322%,
nếu lấy sự khác nhau về cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội như giáo dục, y tế, văn
hóa thì còn cao hơn nhiều. Một nông thôn xã hội chủ nghĩa mới cần cho sự
tăng nhu cầu trong nước. Thu nhập và sức mua thấp của nông dân làm cho
nhu cầu của nông thôn không mở rộng, năm 2005 chỉ chiếm 32,9% của giá trị
bán lẻ trong nước. Xây dựng nông thôn xã hội chủ nghĩa mới sẽ tạo ra một xã
hội hài hòa, công bằng và có lợi cho toàn dân.
Năm mục tiêu của nông thôn xã hội chủ nghĩa là: năng suất nông thôn,
cơ sở hạ tầng, phát triển xã hội, dân chủ và mức sống.

Đây không phải là xây dựng làng xã mới. Phải chú ý đến hiệu quả và hệ
quả trước mắt hơn là vào bề ngoài. Phải sử dụng sự thương lượng dân chủ
hơn là dùng chỉ thị. Nông thôn phải phát triển tùy theo khả năng và đặc điểm
bản thân, Nhà nước chỉ hỗ trợ bằng dự án.
Tài liệu này đưa ra 7 nhiệm vụ chính để tăng lợi nhuận cho nông dân,
giảm gánh nặng cho họ và cụ thể hóa nhiệm vụ, chiến lược đề ra thành 32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
biện pháp có lợi cho nông dân trong đó có phát triển nông nghiệp hiện đại,
tăng thu nhập của nông dân và cải tiến cơ sở hạ tầng nông thôn. Sau đây là
tóm tắt nội dung các biện pháp:
Nhà nước đầu tư nhiều hơn vào nông nghiệp: Ngân sách cho phát triển
nông thôn tăng lên. Xây dựng một cơ chế để công nghiệp và đô thị thúc đẩy
phát triển nông thôn. Sự phân phối thu nhập quốc dân sẽ được điều chỉnh để
cho việc tiêu thụ thuế, đầu tư ngân sách, tài sản cố định và tín dụng sẽ tăng
cho nông nghiệp và nông thôn. Hỗ trợ từ vốn nhà nước sẽ lớn và tăng liên tục.
Phần lớn trái phiếu, vốn ngân sách sẽ đi về phát triển nông thôn. Đặc biệt đầu
tư để cải tiến sản xuất và điều kiện sống sẽ trở thành một luồng ổn định để
tăng vốn cho xây dựng.
Cơ sở hạ tầng: Thuế vào việc sử dụng đất canh tác sẽ tăng lên và nhiều
thứ thuế mới sẽ được áp dụng trong phát triển nông thôn. Sẽ có các quy định
để đảm bảo, điều tiết thu nhập thuế đất cho việc phát triển đất nông nghiệp.
Phí thu từ sử dụng đất sẽ được dùng chủ yếu vào các dự án phát triển đất nông
nghiệp nhỏ và bảo vệ nước. Chính phủ sẽ ưu tiên xây dựng các cơ sở hạ tầng
cần cấp thiết cho đời sống nông dân. Chương trình nước sạch sẽ được thực
hiện nhanh hơn, trước hết ở các vùng nước bị ô nhiễm. Năng lượng sạch sẽ
được áp dụng rộng rãi.
* Hàn Quốc
Vào những năm 1960, nông thôn Hàn Quốc còn hết sức lạc hậu, đời

sống nhân dân còn gặp vô vàn khó khăn. Trong cả nước có 34% dân thuộc
vào nhóm nghèo đói và chỉ 20% có thể tiếp cận với điện. Dù đã đình chiến
nhưng tình hình hai miền Bắc - Nam vẫn đang căng thẳng, không có đủ kinh
phí để đầu tư phát triển nông thôn. Trước hoàn cảnh đó, bước vào những năm
1970, Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu thực hiện mô hình “Nông thôn mới” để
thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp-nông thôn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
Chính phủ Hàn Quốc thực hiện mô hình “Nông thôn mới” (Saemaul
Undong- SMU) với mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông thôn. Mô
hình này thực hiện 16 dự án mà mục tiêu chính là cải thiện môi trường sống
cho người dân nông thôn: Mở rộng đường giao thông, hoàn thiện hệ thống
nước thải sinh hoạt, Xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng, Trồng thêm cây xanh
và xây dựng sân chơi cho trẻ em… Cải thiện môi trường sống cho người dân
nông thôn được coi là nền tảng để bắt đầu cho quá trình phát triển nông thôn.
Chính phủ đã liên tục điều chỉnh chính sách hỗ trợ phát triển để phù
hợp với tình hình thực tiễn. Năm 1971 các dự án thực hiện hỗ trợ cho 33
nghìn làng với mỗi làng là 300 bao xi măng. Đất đai và công lao động do
người dân trong chính các làng đó bỏ ra. Nhưng đến năm 1972, chiến lược
đầu tư đựơc điều chỉnh. Chỉ còn một nửa trong sô 33 nghìn làng của năm
1971 tiếp tục đựơc hỗ trợ. Nhưng Nhà nước đã tăng cuờng đầu tư cho các
làng này thêm một tấn thép và tăng lên 500 bao xi măng.
Để đánh giá kết quả của những chính sách này, dự án thực hiện việc
đánh giá và xếp loại các làng theo ba nhóm: Nhóm làng tích cực nhất, nhóm
trung bình và nhóm cơ bản. Bằng việc trao thưởng cho mỗi làng 2000 $ nếu
được thăng nhóm xếp hạng, chương trình đã tạo sư chuyển biến rõ rệt trong
việc phân loại các nhóm làng trong vòng 3 năm sau đó.
Nhóm
1973

1976
Nhóm làng tích cực
6,7%
4,7%
Nhóm trung bình
40,2%
54,4%
Nhóm cơ bản
53,1%
0,9 %

Để thực hiện có hiệu quả quá trình hỗ trợ cho các làng, dự án Nông
thôn mới chú trọng đến nhân tố con người. Trình độ văn hoá của người dân
nông thôn rất thấp cho nên việc phổ biến chính sách gặp phải không ít khó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
khăn. Để khắc phục hạn chế này, dự án chú trọng vào việc phát triển đội ngũ
cán bộ cấp làng, cán bộ chính quyền địa phương.
Trước khi tiến hành hỗ trợ vào các làng, cán bộ dự án sẽ tiến hành các
điều tra xã hội học đối với ba nhóm đối tượng là: Cán bộ địa phương, cán bộ
làng và người dân. Các điều tra này cho phép cán bộ dự án biết đựơc đích xác
nhu cầu hiện tại của các làng, suy nghĩ và trình độ nhận thức của lãnh đạo làng.
Dự án tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo cán bộ cấp làng và chính quyền
địa phương. Tại các lớp tập huấn, sẽ có các buổi thảo luận nhóm với chủ đề:
“Làm thế nào để người dân hiểu và thực hiện các chính sách của nhà nước?”.
Với chủ đề này, lãnh đạo làng và chính quyền địa phưong tham gia các lớp tập
huấn sẽ đưa ra những ý kiến, giải pháp cho hoàn cảnh cụ thể của làng mình.
Để sự tham gia của người dân chủ động và hiệu quả, các cán bộ làng sẽ
thực hiện quá trình trao đổi ý kiến với dân làng, tiếp thu ý kiến của nhân dân

để điều chỉnh và phát triển chương trình thực hiện.
Dự án Nông thôn mới trả lương cho cán bộ làng thay cho nhân dân như
trước đây, cho nên đã khuyến khích cả lãnh đạo làng lẫn nhân dân tích cực
thực hiện.
Nâng cao chất luợng cán bộ, lãnh đạo và tiếp thu ý kiến từ trong nhân
dân là hai biện pháp mang lại hiệu quả cao cho các dự án hỗ trợ trong mô
hình “Nông thôn mới”.
Kết quả của việc thực hiện mô hình nông thôn mới đựơc thể hiện rất
nhanh chóng tại các làng mà các dự án đựơc triển khai. Sau 7 năm thực hiện,
tổng chiều dài đường giao thông nội làng được tăng lên 42.000 km, đường
giao thông nối các làng với nhau là 43.000 km. Hệ thống cầu cống, các công
trình cung cấp nước sạch đã đựơc hoàn thiện đồng bộ.
Thay đổi lớn nhất là việc thay đổi vật liệu làm nhà từ rơm rạ sang các
vật liệu công nghiệp (xi măng, tôn…). Các nguồn năng lượng phục vụ cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
sinh hoạt của cư dân nông thôn đựoc thay thế theo hướng hiện đại, thay bếp
và gần 100% dân nông thôn đựơc dùng điện. Các giống lúa mới có năng suất
cao đựơc đưa vào sản xuất, mang lại hiệu quả kinh tế lớn.
Một tác động to lớn nhất là làm tăng thu nhập của người dân. Năm
1970, thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn mới chỉ đạt 824
USD/người/ năm. Nhưng năm 1976, thu nhập đã tăng lên 3000 USD/người/
năm. Đó là một sự chuyển biến rất nhanh chóng và rõ nét.
Đến đầu những năm 1980, bộ mặt của nông thôn Hàn Quốc đã thay đổi
to lớn và toàn diện. Quá trình hiện đại hoá nông thôn đã được hoàn thành.
Chính phủ điều chỉnh chiến lược phát triển sang một giai đoạn mới.
* Nhật Bản
Nhật Bản là nước có diện tích đất đai canh tác nông nghiệp hạn chế, số
lượng người đông, đơn vị sản xuất nông nghiệp chính tại Nhật Bản vẫn là các

hộ gia đình. Với đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội của mình, Nhật Bản đã đề ra
một chiến lược hiệu quả là tăng năng suất nông nghiệp quy mô nhỏ (bằng
cách thâm canh tăng năng suất trên đơn vị diện tích và trên đơn vị lao động),
vì vậy nông nghiệp Nhật Bản đã cung cấp đầy đủ lương thực, thực phẩm cho
nhu cầu của nhân dân; tạo khả năng tích lũy và phát huy nội lực; thâm canh
tăng năng suất; xuất khẩu nông, lâm sản, nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ
công nghiệp hóa, đưa sản xuất công nghiệp về nông thôn, gắn nông thôn với
công nghiệp, gắn nông thôn với thành thị. Những bước đi thích hợp là những
điều kiện quan trọng đã đưa nông nghiệp, nông thôn Nhật Bản theo hướng
hiện đại hóa.
Để tạo cơ sở thúc đẩy nông nghiệp tăng trưởng và phát huy tác dụng
máy móc, thiết bị và hóa chất trong quá trình cơ giới hóa và hóa học hóa nông
nghiệp, tạo năng suất lao động cao, Nhật Bản đã chú trọng phát triển, xây
dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng, hệ thống năng lượng và thông tin liên lạc
hoàn chỉnh, phân bổ các ngành công nghiệp chế biến dùng nguyên liệu nông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
nghiệp (như tơ tằm, dệt may ), các ngành cơ khí, hóa chất trên địa bàn nông
thôn toàn quốc đã tạo việc làm cho lao động nông thôn, ngăn chặn làn sóng
lao động rời bỏ nông thôn ra thành thị. Chính phủ Nhật Bản thường xuyên có
chính sách trợ giá nông sản cho các vùng nông nghiệp mũi nhọn.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền vững và hiện đại hóa,
Nhật Bản thực hiện chính sách lấy nông nghiệp làm nền tảng ổn định xã hội
và tích lũy cho công nghiệp, thu hút vốn đầu tư, phát triển công nghiệp hướng
vào xuất khẩu làm tăng nhanh tiềm lực kinh tế đất nước. Chiến lược phát
triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại hóa và phát triển bền vững
của Nhật Bản là bài học kinh nghiệm để chúng ta tham khảo và học tập.
Từ năm 1979, Nhật Bản đã khởi xướng và phát triển phong trào "Mỗi
làng, một sản phẩm" với mục tiêu phát triển vùng nông thôn. Phong trào "mỗi

làng một sản phẩm" dựa trên 3 nguyên tắc chính là: địa phương hóa rồi hướng
tới toàn cầu; tự chủ, tự lập, nỗ lực sáng tạo; phát triển nguồn nhân lực. Trong
đó, nhấn mạnh đến vai trò của chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ kỹ
thuật, quảng bá, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm được xác định là thế mạnh. Sau 20
năm áp dụng phong trào trên Nhật Bản đã có 329 sản phẩm đặc sản địa
phương có giá trị thương mại cao như như nấm hương Shitake, rượu Shochu
lúa mạch, cam Kabosu, giúp nâng cao thu nhập của nông dân địa phương.
Đi theo hướng nông nghiệp xanh, sạch và công nghệ cao để tạo giá trị
sản phẩm cao hơn nhiều sản phẩm thông thường. Để đầu tư cho công nghệ
cao, Nhật Bản có chính sách cho nông dân được vay vốn với lãi suất ưu đãi,
phát triển đồng đều giữa đô thị, nông thôn; đồng bằng và miền núi.
1.1.2.2. Tình hình phát triển nông thôn và xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam.
* Những thành tựu đạt đƣợc trong quá trình phát triển nông thôn:
Kế thừa thành tựu xây dựng nông thôn trong những giai đoạn trước,
trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua, phát triển nông thôn nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn, có thể khái quát như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
Một là: Kinh tế nông thôn phát triển theo hướng tăng công nghiệp, dịch
vụ, ngành nghề đã góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho dân cư nông thôn.
Giá trị sản xuất công nghiệp khu vực nông thôn tăng từ 17,34% năm
2000 lên 19,3% năm 2007. Công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản tăng
trưởng bình quân 14,8%/năm, chiếm 28% cơ cấu giá trị sản xuất và 14% giá
trị xuất khẩu của toàn ngành công nghiệp cả nước. Sản xuất tiểu thủ công
nghiệp tiếp tục phát triển với 2.017 làng nghề; số hộ chuyển sang làm công
nghiệp và dịch vụ tăng nhanh: năm 2007 là 3,46 triệu hộ, tăng 62% so với
năm 2000.
Các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn tiếp tục được đổi mới. Kinh
tế hộ tiếp tục phát triển theo hướng mở rộng quy mô sản xuất, góp phần chủ

yếu tạo tăng trưởng nông nghiệp, thu nhập cho nông dân. Xuất hiện ngày
càng nhiều gia trại, trang trại chăn nuôi, thuỷ sản và kinh doanh tổng hợp đạt
hiệu quả kinh tế cao. Tổ hợp tác phát triển nhanh, hoạt động đa dạng, phù hợp
với trình độ của nông dân ở nhiều vùng; các HTX nông nghiệp chuyển đổi và
thành lập mới theo Luật, thực hiện tốt hơn vai trò hỗ trợ kinh tế hộ. Doanh
nghiệp nông thôn được phát triển với nhiều thành phần kinh tế tham gia.
Hai là: Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được tăng cường,
nhất là thuỷ lợi, giao thông, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, từng bước
làm thay đổi bộ mặt nông thôn:
Thuỷ lợi tiếp tục được quan tâm đầu tư, phát triển theo hướng đa mục
tiêu. Từ năm 2000 đến nay, năng lực tưới tăng thêm 575 ngàn ha, tiêu 235
ngàn ha, đảm bảo tưới tiêu chủ động cho 83% diện tích gieo trồng lúa, một số
cây trồng khác và cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp, dịch vụ. Hệ thống
đê sông, đê biển được củng cố, nâng cấp một bước, nhiều công trình tiêu
thoát lũ và trên 1.100 cụm tuyến dân cư ở ĐBSCL được xây dựng và phát
huy tác dụng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24
Hệ thống giao thông, điện, kết cấu hạ tầng xã hội ở nông thôn có bước
phát triển nhanh về số lượng. Đến nay, 96,9% số xã có đường ô tô đến khu
trung tâm; 96,8% số xã và 93,3% số hộ có điện lưới quốc gia; 100% xã có
điện thoại cố định; hầu hết các xã đều có trường học, trạm y tế, trong đó hơn
40% số trường học được kiên cố hoá, 45% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế;
70% cư dân nông thôn có nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 100% số huyện có
Trung tâm văn hoá, thể thao; 38,6% số xã, 36% số thôn có nhà văn hoá.
Ba là: Các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn tiếp tục được đổi
mới, phát triển đa dạng, đã huy động và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn
lực ở nông thôn, cư dân ở nông thôn có thêm việc làm, thu nhập được nâng cao.
Kinh tế hộ tiếp tục phát triển theo hướng mở rộng quy mô sản xuất, góp

phần chủ yếu tạo tăng trưởng nông nghiệp, thu nhập cho nông dân. Xuất hiện
ngày càng nhiều gia trại, trang trại chăn nuôi, thuỷ sản và kinh doanh tổng
hợp đạt hiệu quả kinh tế cao. Tổ hợp tác phát triển nhanh, hoạt động đa dạng,
phù hợp với trình độ của nông dân ở nhiều vùng; các HTX nông nghiệp
chuyển đổi và thành lập mới theo Luật, thực hiện tốt hơn vai trò hỗ trợ kinh tế
hộ. Doanh nghiệp nông thôn được phát triển với nhiều thành phần kinh tế
tham gia. Từ năm 2000 đến nay số lượng công ty TNHH trong nông nghiệp
tăng 2,1 lần, công ty cổ phần 2,7 lần và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
tăng 1,5 lần; các doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được sắp xếp, cổ phần hoá.
Bốn là: Đời sống vật chất, tinh thần của cư dân các vùng nông thôn
ngày càng được cải thiện; xoá đói giảm nghèo đạt thành tựu to lớn.
Năm 2007 thu nhập bình quân đầu người đạt 6,1 triệu đồng/người/năm,
tăng 2,7 lần so với năm 2000. Nhờ thu nhập tăng, nông dân ở nhiều vùng có
thêm tích luỹ, đã xây cất nhà ở kiên cố, khang trang, mua sắm phương tiện đi
lại và các vật dụng lâu bền, điều kiện sinh hoạt được cải thiện. Công tác khám
chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ ban đầu có nhiều tiến bộ, hầu hết các xã có sổ

×