Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn SKKN ngu van 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.74 KB, 22 trang )

SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.

Phần thứ nhất
MỞ ĐẦU
1- Đặt vấn đề.
Môn Ngữ văn là môn học có vai trò cực kì quan trọng trong hệ thống giáo
dục và đào tạo nước ta bởi dạy văn là dạy cách ứng xử, cách làm người; là công cụ
đắc lực trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Môn Ngữ văn ở
trường THCS được chia thành 3 phân môn : Văn – Tiếng Việt – Tập làm văn.
Trong đó câu Tiếng Việt là một phương tiện giao tiếp quan trọng trong xã
hội. Chức năng đó chẳng những biểu lộ trong lĩnh vực giao tiếp hàng ngày của mọi
người Việt Nam, mà còn được biểu lộ trong các lĩnh vực hoạt động giao tiếp về
chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, giáo dục, ngoại giao Câu Tiếng Việt đã từ
lâu là chất liệu của sáng tạo nghệ thuật - nghệ thuật ngôn từ. Nó đã góp phần thể
hiện rõ sức mạnh và sự tinh tế, uyển chuyển trong lĩnh vực hoạt động nghệ thuật.
Mặt khác, câu Tiếng Việt gắn bó chặt chẽ với hoạt động nhận thức và tư duy
của người Việt, mang rõ dấu ấn của nếp cảm, nếp nghĩ và nếp sống của người
Việt. Nó trở thành một phần máu thịt trong con người Việt Nam. Chính vì thế, sử
dụng câu Tiếng Việt, học Tiếng Việt phải hiểu được, cảm nhận được phần “ linh
hồn dân tộc ấy”.
Thế nhưng, trên thực tế, phần lớn học sinh không thích học môn học này, thậm
chí có em còn sợ mỗi khi đến giờ học văn…Từ thực tế đó đòi hỏi người giáo viên
phải tự nghiên cứu, tìm tòi cho mình một phương pháp dạy học tốt nhất nhằm giúp
học sinh tiếp thu bài nhanh nhất. Muốn thế thì phương pháp dạy học phải không
ngừng đổi mới, nâng cao; phải mang tính tích cực, chủ động cao nhằm tập trung
vào việc khơi dậy sự tự rèn luyện, phát triển khả năng tự duy, suy nghĩ và vận dụng
một cách chủ động,phát huy tính tích cực của học sinh.v v
Là một người giáo viên trực tiếp giảng dạy môn ngữ văn bậc THCS, tôi nhận
thấy kỹ năng đặt câu và chữa lỗi của học sinh còn nhiều hạn chế, đặc biệt với học
sinh dân tộc thiểu số vùng đặc biệt khó khăn, nhiều em thường tỏ ra rất lúng túng


Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
1
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
khi yêu cầu đặt câu, có khi câu do các em đặt ra nhưng các em cũng không biết
đúng hay sai, có mắc lỗi gì không?
Hoạt động trên lớp là hoạt động giao tiếp giữa thầy với trò, nếu học sinh nói chưa
thành câu thì giao tiếp không đạt được mục đích, giờ học không có kết quả. Từ
những điều đó tôi nghĩ, giờ dạy Tiếng Việt giáo viên có đủ điều kiện để khắc phục
những hạn chế kể trên của học sinh.
-Tất cả những điều trên đã thôi thúc tôi không ngừng suy nghĩ, cố học hỏi, tìm
tòi, nghiên cứu các phương pháp mới để dạy tốt môn Ngữ văn, đặc biệt là phân
môn tiếng Việt nhằm nâng cao chất lượng học tập của mỗi học sinh, nâng cao hiểu
biết về “kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ” của tiếng Việt đồng
thời giúp các em có vốn ngôn ngữ phong phú; đặc biệt là biết vận dụng trong văn
nói, văn viết…

2- Mục đích nghiên cứu.
Nhằm nâng cao chất lượng học Tiếng Việt cho học sinh. Cụ thể là năng cao
khả năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho học sinh dân tộc vùng đặc
biệt khó khăn, từ đó giúp học sinh thực hiện quá trình giao tiếp một cách có hiệu
quả.
3- Đối tượng nghiên cứu :
Học sinh lớp 6 trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình.
4- Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu.
“Kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho học sinh lớp 6 vùng đặc
biệt khó khăn.” ( HS lớp 6 trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình.)
5- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhằm nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ, có những đổi mới tích cực trong
phương pháp dạy học Tiếng Việt ở vùng đặc biệt khó khăn, giúp đồng nghiệp khi

Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
2
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
giảng dạy tiếng Việt lớp 6 có những phương pháp phù hợp để đạt được nhưng kết
quả cao. Đặc biệt giúp học sinh có những kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và
vị ngữ khi tạo lập văn bản, trong giao tiếp hằng ngày.
6- Phương pháp nghiên cứu.
Trực tiếp giảng dạy, đọc tài liệu tham khảo, khảo sát đối tượng học sinh qua trực
tiếp giảng dạy bằng những bài kiểm tra trắc nghiệm, bài viết tập làm văn, tham
khảo ý kiến đồng nghiệp. Sưu tầm thông tin, viết đề cương, từ đó áp dụng vào để
viết sáng kiến kinh nghiệm.
7-Thời gian nghiên cứu.
Tháng 9 /2008 dăng kí sáng kiến kinh nghiệm .
Tháng 10/ 2008 đến tháng 3/2009 nghiên cứu và viết sáng kiến.
Phần thứ hai
NỘI DUNG
Chương I : CƠ SỞ LÍ LUẬN.

-Thực hiện chương trình thay sách giáo khoa được ban hành kèm theo quyết định
số 03/ 2002/ QĐ-BGD&ĐT ngày 24 tháng 01 năm 2002 của bộ trưởng Bộ
GD&ĐT.
-Thực hiện nghị quyết số 40/2000/QH10 của quốc hội. Chỉ thị số 14/2001/CT-
TTG của thủ tướng chính phủ về việc đổi mới chương trình giáo dục( chương trình
và phương pháp giảng dạy)
* Dạy học môn Ngữ văn nói chung và phân môn tiếng Việt nói riêng ở trường
THCS thực chất là góp phần hình thành những con người có trình độ học vấn phổ
thông cơ sở, chuẩn bị cho học sinh ra xã hội hoặc tiếp tục học lên nữa ở bậc học
cao hơn. Đó là những người có ý thức tự tu dưỡng, biết thương yêu quý trọng gia
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình

3
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
đình, bạn bè; có lòng yêu nước, yêu CNXH, biết hướng tới những tư tưởng, tình
cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phả, sự công bằng, lòng căm
ghét cái sấu, cái ác. Đó là con người biết rèn luyện để có tính tự lập, tư duy sáng
tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật, trước hết
là trong văn học, có năng lực thực hành và nằng lực sử dung tiến Việt như một
công cụ tư duy và giao tiếp. đó cũng là người có ham muốn đem tài trí của mình
cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Dạy học tiếng Việt là làm cho học sinh “nắm được những đặc điểm hình thức và
ngữ nghĩa của các loại đơn vị tiêu biểu của tong bộ phận cấu thành tiếng Việt”,
“nắm được những tri thức về ngữ cảnh, về ý định, về mục đích, về hiệu quả giao
tiếp, nắm được các quy tắc chi phối vịêc sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp trong
nhà trường cũng như ngoài xã hội”.
* Cũng như việc dạy học các môn học khác, trong quá trình dạy học Tiếng Việt
học sinh phải tích cực chủ động biến quá trình học tập thành quá trình tự học tập,
còn giáo viên thì giữ vai trò tổ chức, hướng dẫn hoạt động của học sinh .
Theo phương hướng đó giáo viên phải tích cực hoá hoạt động của người học, tạo
mọi cơ hội (chủ yếu thông qua con đường thực hành và luyện tập) để tất cả học
sinh tìm hiểu phân tích, suy nghĩ và tự nhận ra các tri thức của bài học .
*Phương pháp dạy học Tiếng Việt hiện nay phải dựa trên con đường giao tiếp.
Theo đó, phải tăng cường các hoạt động giao tiếp, đàm thoại giữa giáo viên với học
sinh, giữa học sinh với học sinh trong toàn bộ quá trình dạy học. Từ hoạt động tìm
hiểu, phân tích nhận ra tri thức, đến hoạt động thực hành, luyện tập củng cố kiểm
tra và đánh giá, đồng thời cũng phải giảm thiểu cách giảng dạy theo lối thuyết
giảng. Hơn nữa phương pháp dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp cũng đòi
hỏi người giáo viên Ngữ văn phải tận dụng mọi hoàn cảnh giảng dạy để rèn luyện
kĩ năng sử dụng tiếng việt cho học sinh.
Để việc đổi mới phương pháp về vấn đề trên có hiệu qủa cao thì trước tiên giáo

viên phải tích cực trong việc đổi mới phương pháp trong quá trình giảng dạy về
việc rèn kỹ năng đặt câu và sữa lỗi cho học sinh, phát huy tính tích cực tự giác của
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
4
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
học sinh – lấy học sinh làm trung tâm. Tích cực chủ động trong việc tìm hiểu kiến
thức về kỹ năng đặt câu và chữa lỗi cho học sinh qua việc tham khảo kiến thức ở
các tài liệu có liên quan.
Trong quá trình giảng dạy hiện nay thì nhiệm vụ của người giáo viên dạy Ngữ
văn nói chung và dạy phân môn Tiếng Việt nói riêng có vai trò quan trọng. Đặc
biệt trong giảng dạy phân môn Tiếng Việt giáo viên đã tích cực đổi mới phương
pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, giúp các em tiếp thu kiến thức một
cách hiệu quả nhất. Từ đó giúp các em có khả năng tư duy chính xác, có kỹ năng
giao tiếp tốt trong quá trình học tập.
Chương II: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ.
I. Lịch sử của vấn đề.
Trong quá trình giảng dạy và qua việc thực hiện dự giờ các đồng nghiệp tôi
thấy có một số giờ dạy tiếng Việt mà cụ thể là trong việc rèn kỹ năng đặt câu và
sửa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho học sinh đạt hiệu quả chưa cao. Có những hoạt
động dạy của giáo viên đôi khi còn thụ động, máy móc, hình thức. Giáo viên còn
gặp nhiều khó khăn trong việc rèn luyện kỹ năng đặt câu cho học sinh qua các giờ
dạy vì thời gian trên lớp để thực hiện và tổ chức cho học sinh rèn luyện là không
nhiều.
Mặt khác do học sinh khối 6 của trường mới chuyển từ lớp 5 lên nên chưa có
nhiều thời gian để thích nghi nhanh với các phương pháp học tập mới. Vì thế khiến
cho một số giờ dạy đạt hiệu quả chưa cao. Một bộ phận học sinh còn chậm, năng
lực còn hạn chế, các em học tập còn thụ động, chưa tích cực, việc chuẩn bị bài
chưa tốt, khả năng nắm bắt về câu và cách chữa lỗi của không ít học sinh vẫn còn
mơ hồ, chưa chắc chắn. Đặc biệt là các em là học sinh dân tộc thiểu số vùng đặc

biệt khó khăn, ít có điều kiện giao lưu với bên ngoài, vốn tiếng Kinh của các em
chưa nhiều nên việc tiếp thu của các em là còn hạn chế.
Các em là học sinh đầu cấp nên việc rèn kĩ năng đặt câu có đầy đủ thành phần
chủ ngữ và vị ngữ, và tránh bị mắc lỗi về những vấn đề này, để các em có nền
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
5
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
móng kiến thức cho các lớp tiếp theo. Và đặc biệt giúp các em có vốn kiến thức về
tiếng Việt, sử dụng thành thạo trong giao tiếp cũng như trong cuộc sống hàng ngày
để các em không gặp phải những sai sót đắng tiếc trong giao tiếp cũng như trong
quá trình tạo lập văn bản.
II. Kết quả khảo sát đầu năm.
Thông qua việc khảo sát đầu năm tôi nhận thấy một số lỗi cơ bản học sinh thường
mắc phải là câu thiếu thành phần nòng cốt .
1. Câu thiếu thành phần chủ ngữ.
VD1 : Qua trận mưa rào chiều qua, làm cho sân trường em thêm sạch đẹp.
( Câu thiếu chủ ngữ)

VD 2 : Ngày hôm nay trơì nắng, nên bị héo.
( Câu thiếu chủ ngữ)
v v v
+ Phân tích lỗi : Đây là câu thiếu chủ ngữ do HS nhầm trạng ngữ “Qua trận mưa
rào chiều qua ”, “Ngày hôm nay trơì nắng” là chủ ngữ.
+ Nguyên nhân : Vì trạng ngữ và chủ ngữ có những đặc điêm gần gũi với nhau:
đều đứng ở đầu câu, và đứng trước vị ngữ. Khi phân tích nhận diện cac thành
phần câu các em dựa vào hình thức cứ đứng ở đầu câu là chủ ngữ.
Mặt khác các em chưa phân biệt được đâu là thành phần chính đâu là thành
phần phụ trong câu và không thấy được sự khác biệt về chức năng của chủ ngữ và
vị ngữ, trạng ngữ ở trong câu.

2- Câu thiếu thành phần vị ngữ:
VD: Dáng dấp thanh tú trong chiếc áo mầu xanh da trời của cô giáo.
( Câu thiếu vị ngữ)
VD2: Chiếc áo mới, tôi mua.
( Câu thiếu vị ngữ)

Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
6
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
v v v
+ Phân tích lỗi :
Câu không có vị ngữ mà chỉ có chủ ngữ : “Dáng dấp thanh tú trong chiếc áo mầu
xanh da trời của cô giáo” học sinh nhầm định ngữ "thanh tú trong chiếc áo mầu
xanh da trời của cô giáo” là vị ngữ.
+ Nguyên nhân : Do HS không phân biệt được sự khác biệt giữa chức năng của
định ngữ và vị ngữ. Chính vì thế khi HS phân tích và viết câu nhầm lẫn và thiếu.
Kết quả khảo sát về kỹ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ, vị ngữ như sau.
Lớ
p

số
Đặt câu Chữa lỗi
Đặt câu
đúng
Đặt câu sai Biết phát
hiện lỗi
sai, chỉ ra
nguyên
nhân và

chữa lỗi
Chưa biết
phát hiện
lỗi, chưa
chỉ ra
nguyên
nhân và
chưa
chữa
được lỗi
Lầm
trạng ngữ
là chủ
ngữ
Chưa có
chủ ngữ
Chưa có
vị ngữ
Số
lượn
g
Tỉ
Lệ
Số
lượn
g
Tỉ
Lệ
Số
lượn

g
Tỉ
Lệ
Số
lượn
g
Tỉ
Lệ
Số
lượn
g
Tỉ
Lệ
Số
lượn
g
Tỉ
Lệ
6 75 20 26.
7%
27 36
%
15 20
%
13 17,
3%
28 37,
3%
47 62,
7%


Như vậy kỹ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ, vị ngữ của học sinh còn
nhiều hạn chế. Từ thực trạng trên để công tác giảng dạy và học tập của học sinh đạt
hiệu quả tốt hơn tôi đã hướng dẫn HS sửa chữa những lỗi mà các em đã mắc phải
bằng những biện pháp và phương pháp phù hợp.
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
7
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.

phù Chương III : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Giải pháp thực hiện.
Sau khi nghiên cứu vấn đề này bằng kinh nghiệm và năng lực của bản thân tôi
xin đưa ra một số giải pháp sau đây.
1 - Đói vơí giáo viên
Giáo viên cần chủ động đầu tư nghiên cứu, thiết kế bài dạy, sưu tầm các lỗi sai
về đặt câu và chữa lỗi, chuẩn bị đồ dùng dạy học cho tiết dạy. Từ đó có cơ sở cho
việc áp dụng đổi mới phương pháp cũng như sử dụng các phương pháp dạy học
hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp dạy để việc rèn kỹ năng đặt câu và chữa
lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho học sinh đạt kết quả tốt hơn.
2-Đối với học sinh
Học sinh cần phải tích cực chủ động học tập theo sự hướng dẫn của giáo
viên. Có ý thức chuẩn bị bài đầy đủ, và luyện kỹ năng về đặt câu và sửa lỗi, cũng
như ý thức được tầm quan trọng của những kỹ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ
ngữ và vị ngữ trong giao tiếp cũng như trong quá trình học tập.
Để thực hiện việc đổi mới phương pháp cần tiến hành ứng dụng về việc rèn
luyện kỹ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ, vị ngữ cho học sinh lớp 6 trên cơ sở
đưa ra những định hướng, những hoạt động cơ bản nhất đối với một tiết dạy để cho
việc dạy và học về vấn đề trên tốt hơn.
II. Các biện pháp thực hiện.

Để học sinh thấy được những lỗi sai của mình, và cách sửa sai tôi đã thực hiện
các biện pháp sau :
1- Chữa lỗi sai học sinh mắc phải.
* Câu thiếu thành phần chủ ngữ.
VD1 : Qua trận mưa rào chiều qua, làm cho sân trường em thêm sạch đẹp.
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
8
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
( Câu thiếu chủ ngữ)
GV: hướng dẫn học sinh sửa :
VD1 : Qua trận mưa rào chiều qua, nó// làm cho sân trường em thêm sạch đẹp
TN CN VN
VD 2 : Ngày hôm nay trơì nắng, nên bị héo.
( Câu thiếu chủ ngữ)
Sửa : Ngày hôm nay trơì nắng, nên cây Keo bị héo
TN CN VN
* Câu thiếu thành phần vị ngữ:
VD: Dáng dấp thanh tú trong chiếc áo mầu xanh da trời của cô giáo.
( Câu thiếu vị ngữ)
Sửa là : Dáng dấp của cô giáo / thanh tú trong chiếc áo mầu xanh da trời.
CN VN
VD2: Chiếc áo mới, tôi mua.
( Câu thiếu vị ngữ)
Sửa là : Chiếc áo mới , tôi / mới mua rất đẹp.
ĐN CN VN
2. Rèn kỹ năng đặt câu.
Để học sinh có khả năng đặt câu đúng, hạn chế những sai sót trong quá trình học
sinh sử dụng việc đặt câu trong giao tiếp và luyện tập trong các gìơ học đặc biệt là
trong các tiết kiểm tra. Cần cho học sinh hiểu rõ việc đặt câu cần phải đúng quy

tắc ngữ pháp. Trau dồi vốn tiếng Việt cho học sinh.
a. Câu cần phải viết đúng với quy tắc ngữ pháp Tiếng Việt.
Câu đúng ngữ pháp tiếng việt là câu có đầy đủ hai thành phần nòng cốt là chủ
ngữ và vị ngữ. Vì thế, yêu cầu đầu tiên đối với việc đặt câu là phải đặt câu đúng
với qui tắc Tiếng Việt. Chẳng hạn, những câu như:
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
9
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.

(1) Trời / mưa.
C V
(2) Nếu trời mưa / thì chúng ta / không đi cắm trại nữa.
CN2 VN2 CN1 VN1
(3) Mùa xuân đến / chim chóc / ríu rít bay về.
C V C V
Tr C
Đây là những câu được đặt đúng với qui tắc đặt câu Tiếng Việt. Câu (1) là câu
có một kết cấu chủ- vị (C-V) được gọi là câu đơn; Câu (2) là câu có hơn một kết
cấu C-V, trong đó không có kết cấu C-V nào bao hàm kết cấu C-V nào được gọi là
câu ghép; Câu (3) là câu cũng có hơn một kết cấu C-V nhưng chỉ có một kết cấu C-
V làm nòng cốt, kết cấu C-V còn lại làm thành phần câu, được gọi là câu mở rộng
thành phần.
Tuy nhiên, các qui tắc ngữ pháp của Tiếng Việt trong quá trình sử dụng vẫn
có sự linh hoạt uyển chuyển mà những trường hợp sau đây sẽ cho chúng ta hiểu
rõ hơn để có nắm chắc hơn và vận dụng vào cách đặt câu và xác định câu chính
xác. Vì vậy khi nắm chắc các trường hợp sau các em sẽ có những kỹ năng đặt
câu, phân biệt câu cũng như chữa lỗi hiệu quả hơn.
* Phần lớn các câu trong Tiếng Việt đòi hỏi phải có đầy đủ hai thành phần
nòng cốt là chủ ngữ và vị ngữ. Tuy thế, tuỳ những hoàn cảnh sử dụng cụ thể,

người ta có thể dùng câu đặc biệt (Câu không phân định thành phần hay
không cấu tạo theo mô hình cụm C - V), câu rút gọn (câu bị tỉnh lược đi một
thành phần nào đó)
Ví dụ những câu đặc biệt: Mưa, Mùa xuân, v v
Hoặc những câu rút gọn sau (thành phần bị tỉnh lược).
Ví dụ:(1) - Anh đi đâu đấy?
- Đi học. ( Tỉnh lược chủ ngữ)
(2) - Ai là chủ nhà đây?
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
10
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
- Tôi. ( Tỉnh lược vị ngữ)
(3) - Anh ấy đi hôm nào?
- Hôm qua. ( Tỉnh lược cả chủ ngữ và vị ngữ)
* Trong phạm vi câu:
+ Trật tự giữa hai thành phần nòng cốt thông thường là chủ ngữ đứng trước vị
ngữ. Ví dụ: - Em / học Tiếng Việt.
C V
- Quyển sách này / rất hay.
C V
+ Trật tự các thành phần khác:
- Trạng ngữ của câu có vị trí tương đối tự do (tuỳ theo điều kiện khách quan và
dụng ý của người nói).
* Trạng ngữ có thể đứng ở đầu câu.
Ví dụ: - Ngày mai , tôi nghỉ học.
* Trạng ngữ có thể đứng ở giữa câu.
Ví dụ: Tôi, ngày mai, nghỉ học.
* Trạng ngữ có thể đứng ở cuối câu.
Ví dụ: Tôi nghỉ học, ngày mai .

- Đề ngữ của câu thường có vị trí đứng đầu câu.
Ví dụ: Giàu, tôi cũng giàu rồi.
- Phần chuyển tiếp thường đứng ở đầu câu.
Ví dụ: ( ) Nói tóm lại, chúng ta đang gặp nhiều khó khăn.
- Phần hô - đáp ở trong câu thường có hai vị trí là:
* Đầu câu: - Nam ơi, lại đây.
*Hoặc cuối câu: - Lại đây Nam ơi.
- Phần phụ chú thường đi kèm ngay với từ mà nó bổ sung, giải thích.
Ví dụ: Nguyễn Du, tác giả truyện Kiều, là nhà thơ lớn của dân tộc.
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
11
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
Mặt khác để học sinh có khả năng và phương pháp tốt về kỹ năng đặt câu
đúng, chính xác và không sai về mặt ngữ nghĩa thì cần phải lưu ý đến biện pháp
sau đây đó là:
b/ Câu phải có quan hệ ngữ nghĩa phù hợp với tư duy người Việt.
Trong quá trình đặt câu, người viết ngoài việc lưu ý đến yêu cầu viết đúng ngữ
pháp Tiếng Việt, còn phải chú ý đến quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ ngữ trong câu.
Chẳng hạn, những câu như: Cái bàn tròn này vuông; Cái bàn gỗ này làm bằng
sắt là những câu có quan hệ ngữ nghĩa nội tại không hợp lôgic nói chung vì
những câu này mâu thuẫn nhau về các nét nghĩa. Cho nên khi viết câu phải chú ý
sao cho các nét nghĩa trong câu không được mâu thuẫn nhau.
Tính không mâu thuẫn giữa các nét nghĩa của từ ngữ trong câu thể hiện ở
ba điểm sau:
b.1- Câu phản ánh đúng quan hệ trong thế giới khách quan. Những câu phản
ánh không đúng hiện thực khách quan là những câu sai.
Ví dụ: “ Truyện Kiều” là tác phẩm kiệt tác của Nguyễn Công Hoan.(là một câu
sai).
b.2 - Quan hệ giữa các thành phần câu, về các câu phải hợp lôgic. Những câu có

quan hệ không hợp lôgic là những câu sai.
Ví dụ: Vì trời nắng nên đường lầy lội.( là một câu sai).
b.3 - Quan hệ giữa các thành phần đẳng lập phải là quan hệ đồng loại. Những câu
có các thành phần này thuộc các loại khác nhau là những câu sai.
Ví dụ: Người chiến sĩ bị hai vết thương, một vết ở bên đùi trái và một vết ở Quảng
Trị ( là một câu sai).
Mặt khác đối với học sinh thì việc xác định và hiểu rõ về tác dụng của các dấu
câu là điều rất quan trọng vì nếu nắm chắc tác dụng của các dấu câu thì khi đặt
câu và sử dụng câu sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn về ý nghĩa của câu. Do vậy học
sinh sẽ có kỹ năng xác định và đặt câu chính xác. Cho nên phải cho học sinh nắm
chắc biện pháp sau đây, đó là:
c - Câu phải được đánh dấu câu phù hợp.
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
12
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
VD : Khi tôi yêu cầu học sinh viết một đoạn văn miêu tả về chị gái mình, có em
học sinh viết như sau:
“ Chị gái, em không xinh lắm, nhưng trông chị rất duyên. Mắt chị, em rất tròn và
to, hàm răng của chị trắng và đều , em rất thích ngắm chị mỗi khi chị cười.”
Đây là đoạn văn học sinh đánh dấu không phù hợp đọc đoạn văn ta thấy đoạn văn
nói về chính người viết văn chứ không phải là viết về chị gái mình.
Do đó, khi đặt câu, người viết phải đặc biệt chú ý đến việc đặt dấu câu làm
cho các quan hệ về ngữ pháp, ngữ nghĩa được tách bạch, rõ ràng, tránh cho người
đọc có thể hiểu sai ý nghĩa của câu.
Trong Tiếng Việt hiện nay sử dụng một số loại câu chủ yếu sau:
c.1) Dấu chấm: Dùng để đánh dấu sự kết thúc của câu trần thuật.
c.2) Dấu chấm hỏi: Dùng để đánh dấu câu nghi vấn.
c.3) Dấu chấm lửng: Dấu dùng để biểu thị lời nói bị ngắt quãng vì xúc động; hài
hước; biểu thị sự kéo dài âm thanh; biểu thị khoảng cách khách quan về thời gian, ;

biểu thị điều người nói chưa nói hết ( Dấu chấm lửng khi đặt trong ngoặc đơn,
ngoặc vuông( )[ ] dùng để biểu thị lời dẫn trực tiếp bị lược bỏ một số câu).
c.4) Dấu chấm phẩy: dùng để phân cách các thành phần tương đối độc lập trong
câu.
c.5) Dấu chấm than: Dấu dùng để đánh dấu câu cảm thán hoặc câu cầu khiến
(Dấu chấm than đôi khi đặt cùng dấu chấm hỏi( ? ) để biểu thị thái độ mỉa mai,
châm biếm).
c.6) Dấu ngang cách: Dấu dùng để phân biệt thành phần chêm xen, đặt trước
những lời đối thoại, các bộ phận liệt kê.
c.7) Dấu hai chấm: Dấu dùng để báo hiệu điều trình bày tiếp theo mang ý nghĩa
giái thích, thuyết minh, báo hiệu lời trích dẫn trực tiếp, lời đối thoại.
c.8) Dấu ngoặc đơn: Dấu dùng để tách các thành phần có tác dụng giải thích, bổ
sung; đóng khung bộ phận chỉ nguồn gốc lời trích dẫn
c.9) Dấu ngoặc kép: Dấu dùng để đánh dấu lời dẫn trực tiếp, đóng khung tên
riêng, tên tác phẩm, đánh dấu những từ ngữ được hiểu theo nghĩa khác
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
13
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
c.10) Dấu phẩy: Dấu dùng để tách các thành phần cùng loại, các vế câu; tách các
thành phần biệt lập ( hô ngữ, phần chuyển tiếp, phần chú thích, trạng ngữ ) tạo
nhịp điệu biểu cảm cho câu.
Để học sinh thành thạo và đạt được kỹ năng đặt câu đúng theo quy tắc ngữ
pháp, quan hệ ngữ nghĩa phù hợp thì cần phải giúp học sinh rèn luyện câu. Vì đối
với các em thì nếu như càng được rèn luyện về các phương pháp đặt câu thì càng
làm cho các em có điều kiện hoàn chỉnh khả năng của mình đối với việc đặt câu và
sử dụng câu trong giao tiếp tốt hơn. Do vậy cần thực hiện các thao tác sau đây;
d - Một số thao tác rèn luyện câu.
d.1. Đặt câu- mở rộng và rút gọn câu:
* Đặt câu và mở rộng câu:

- Đặt câu: Nông dân gặt.
- Thêm các từ ngữ mở rộng chủ ngữ.
Ví dụ: Nông dân xã tôi gặt.
-Thêm các từ mở rộng vị ngữ.
Ví dụ: Gió thổi -> Gió thổi mạnh.
- Thêm các từ mở rộng cả chủ ngữ và vị ngữ.
Ví dụ: Nông dân gặt -> Nông dân xã tôi gặt lúa mùa.
- Thêm các từ ngữ làm thành phần trạng ngữ, đề ngữ của câu.
Ví dụ: Gió thổi -> Hôm nay, gió thổi mạnh.
- Hôm nay, gió mùa đông bắc thổi mạnh.
* Rút gọn câu: Biện pháp làm cho câu chỉ còn lại hai thành phần chính ( C-V).
Ví dụ: Con tàu xinh xinh trườn đi trong đêm tối.
-> Con tàu / trườn đi .
C V
d.2) Tách và ghép câu:
* Tách câu: Biện pháp làm cho một câu ( có nhiều vế, nhiều bộ phận) trở thành
nhiều câu riêng biệt. Ví dụ: Thầy giáo xem báo còn học sinh đọc sách.
-> Thầy giáo xem báo. Học sinh đọc sách.
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
14
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
* Ghép câu: Biện pháp ( ngược lại với tách câu) làm cho nhiều câu đơn trở thành
một câu. Ví dụ: - Ông nội đến. Mọi người ra đón ông.
-> Ông nội đến, mọi người ra đón ông.
- Trời nổi gió. Một cơn mưa ập đến.
-> Trời nổi gió và một cơn mưa ập đến.
3. Rèn kỹ năng chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ.
Trước hết để học sinh nắm được cách chữa lỗi, giáo viên phải giúp học sinh
hiểu được Câu đúng quy tắc ngữ pháp như phần kỹ năng đặt câu đã nêu ra. Nghĩa

là câu phải có đầy đủ thành phần chủ ngữ và vị ngữ mới được chấp nhận. Đó chính
là cơ sở và yêu cầu đầu tiên để học sinh có kỹ năng cơ bản đối với việc chữa lỗi về
chủ ngữ và vị ngữ. Vậy để giúp học sinh chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ tốt cần thực
hiện một số biện pháp sau đây;
a - Phải xác định được thành phần chủ ngữ , vị ngữ và rút ra lỗi sai của câu.
Đối với học sinh thì đây là một thao tác cơ bản nhưng cần thiết bắt đầu cho việc
chữa lỗi. Vì chỉ khi nào học sinh đã xác định được câu mà mình cần sửa đã có đầy
đủ thành phần chủ - vị chưa, câu đó có thiếu thành phần nào không, nếu thiếu thì
thiếu thành phần chủ ngữ hay vị ngữ thì lúc đó học sinh mới có cơ sở để tiếp tục
tiến hành các bước tiếp theo về chữa lỗi một cách hiệu quả. Mà muốn xác đinh
được chủ ngữ và vị ngữ trong câu thì cần phải vận dụng kỹ năng ; Đặt câu hỏi để
kiểm tra và xác định thành phần chủ ngữ, vị ngữ ( Chủ ngữ thường trả lời cho
các câu hỏi : Ai?, Cái gì?, Con gì?, Còn vị ngữ thì trả lời cho các câu hỏi: Là
ai?,Là cái gì?, Làm gì?, Như thế nào?, Làm sao? ) Ví dụ;
(1) - Anh / đi đâu đấy (2) - Ai / là chủ nhà đây?
C V C V
(3) - Em / học Tiếng Việt.
C V
Ví dụ: Để thực hiện việc sữa lỗi về chủ ngữ hoặc vị ngữ cho các câu sau;
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
15
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
a) Qua truyện “ Dế Mèn phiêu lưu kí ” cho thấy Dế Mèn biết phục thiện
b) Qua truyện “ Dế Mèn phiêu liêu kí ”, em thấy Dế Mèn biết phục thiện.
c) Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt, vung roi sắt, xông thẳng vào quân thù.
d) Hình ảnh Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt, vung roi sắt, xông thẳng vào quân thù.
* Yêu cầu
- Học sinh xác định được thành phần chủ ngữ và vị ngữ của các câu trên.
- Xác định lỗi sai của câu là do thiếu thành phần nào trong câu.

* Kết quả
a) Qua truyện “ Dế Mèn phiêu lưu kí ” cho thấy Dế Mèn biết phục thiện.
Tr V
( Như vậy đây là câu thiếu thành phần chủ ngữ)
b) Qua truyện “ Dế Mèn phiêu liêu kí ”, em / thấy Dế Mèn biết phục thiện.
Tr C V
( Câu đầy đủ thành phần chủ ngữ , vị ngữ)
c) Thánh Gióng / cưỡi ngựa sắt, vung roi sắt, xông thẳng vào quân thù.
C V
( Câu đầy đủ thành phần chủ ngữ và vị ngữ)
d) Hình ảnh Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt, vung roi sắt, xông thẳng vào quân thù.
C
(Đây là câu thiếu thành phần vị ngữ)
b Xác định được nguyên nhân mắc lỗi
Đối với học sinh thì đây là bước tiếp theo để rèn kỹ năg chữa lỗi sau khi đã xác
định được chủ ngữ và vị ngữ cũng như xác định được lỗi sai. Qua việc này học
sinh sẽ thâý được các câu trên thiếu chủ ngữ hoặc vị ngữ là do đâu? hay vì sao lại
bị mắc lỗi như thế? từ đó học sinh sẽ có cơ sở và căn cứ để thực hiện việc chữa lỗi.
Ví dụ khi học sinh đã xác định được lỗi sai ở các câu trên thì học sinh tiếp tục
xác định nguyên nhân mắc lỗi đó là;
Câu a. Nguyên nhân: Do lầm trạng ngữ với chủ ngữ .
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
16
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
Câu d. Nguyên nhân: Do lầm Định ngữ với Vị ngữ
c - Xác định cách chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ.
Đây là bước quan trọng cuối cùng nhằm rèn luyện cho học sinh ôn lại cả kỹ
năng đặt câu từ các cách sửa khác nhau. Tuy nhiên sau khi chữa lỗi thì có nhiều
cách khác nhau miễn là cách sửa lỗi đó phù hợp nhất. Vì vậy cần căn cứ vào nội

dung, hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của câu đó như thế nào để có cách phù hợp và
dẽ hiểu nhất mà câu vẫn đúng với quy tắc ngữ pháp và nội dung ý nghĩa của câu.
Ví dụ sau khi đã xác định được lỗi sai và nguyên nhân của các lỗi sai trên thì
giáo viên cho học sinh rút ra các cách chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ như sau;
* Cách sửa lỗi sai về chủ ngữ: Theo các cách sau;
Câu a: Qua truyện “ Dế Mèn phiêu lưu kí ” cho thấy Dế Mèn biết phục thiện.
Tr V
( Như vậy đây là câu thiếu thành phần chủ ngữ)
1) Thêm chủ ngữ cho câu: Tác giả
Qua truyện “ Dế Mèn phiêu lưu kí ” tác giả cho em thấy Dế Mèn biết phục
Tr C V
thiện.
2) Biến trạng ngữ thành chủ ngữ bằng cách bỏ từ “qua”.
Truyện “ Dế Mèn phiêu lưu kí ” / cho em thấy Dế Mèn biết phục thiện.
C V
3) Biến vị ngữ thành một cụm chủ - vị;
Qua truyện “ Dế Mèn phiêu liêu kí”, em / thấy Dế Mèn biết phục thiện.
Tr C V
* Cách chữa lỗi sai về vị ngữ: Theo các cách sau
1) Thêm bộ phận vị ngữ;
d) Hình ảnh Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt, vung roi sắt, xông thẳng vào quân thù /
C
đã để lại trong em niềm kính phục .
V
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
17
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
2) Bỏ từ “Hình ảnh”;
Thánh Gióng / cưỡi ngựa sắt, vung roi sắt, xông thẳng vào quân thù.

C V
3) Hoặc biến cụm danh từ : “ Hình ảnh / Thánh gióng cưỡi ngựa sắt, vung
roi sắt, xông thẳng vào quân thù ” thành bộ phận của cụm chủ – vị;
Em rất thích hình ảnh Thánh gióng cưỡi ngựa sắt, vung roi sắt, xông thẳng
vào quân thù.
Để thực hiện đổi mới phương của giáo viên hiệu quả hơn tôi xin đưa ra ứng
dụng việc áp dụng đổi mới phương pháp về việc rèn kỹ năng đặt câu và chữa lỗi về
chủ ngữ và vị ngữ cho học sinh lớp 6 qua việc đưa ra những hoạt động cơ bản nhất,
mang tính định hướng cho hoạt động dạy và học trong một tiết dạy cụ thể như sau:

Phần thứ ba
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Kết quả nghiên cứu.
Sau quá trình nghiên cứu tôi đã vận dụng đổi mới phương pháp về vấn đề
nghiên cứu trên vào giảng dạy. Tôi nhận thấy trong giờ học thầy và trò cùng làm
việc tích cực, học sinh hứng thú trong giờ học. Số lượng học sinh hiểu bài ngày
càng cao, đặc biệt là kỹ năng về đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ đã đạt
được hiệu quả tốt hơn so với trước đó rất nhiều.
Kết quả khảo sát sau khi áp dụng đổi mới phương pháp giảng dạy vào việc rèn kỹ
năg đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho học sinh lớp
Lớ
p

số
Đặt câu Chữa lỗi
Đặt câu
đúng
Đặt câu sai Biết phát
hiện lỗi
sai, chỉ ra

Chưa biết phát
hiện lỗi, chưa
chỉ ra nguyên
Lầm
trạng
Chưa
có chủ
Chưa
có vị
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
18
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
ngữ là
chủ
ngữ
ngữ ngữ nguyên
nhân và
chữa lỗi
nhân và chưa
chữa được lỗi
SL TL S
L
T
L
S
L
T
L
S

L
T
L
SL TL SL TL
6 75 55 73,3
%
9 12
%
5 6,7
%
6 8,
0
%
57 76
%
18 24%
2) Những kiến nghị,đề xuất
a) Kiến nghị
Từ kinh nghiệm trong quá trình nghiên cứu này tôi rút ra một số những kiến nghị
sau đây;
- Đó là trong quá trình dạy học giáo viên cần phải triệt để hơn nữa về việc đổi mới
phương pháp giảng dạy- Phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, lấy học sinh
làm trung tâm. Giáo viên cần phải nắm chắc từng đối tượng học sinh để có phương
pháp tổ chức hoạt động học tập của học sinh hiệu quả, đặc biệt là khi tổ chức cho
học sinh hoạt động nhóm.
- Cần chuẩn bị chu đáo cho việc thiết kế bài dạy cũng như chuẩn bị và tăng cường
sử dụng đồ dùng dạy học vào các tiết dạy để giờ học đạt hiệu quả hơn. Giáo viên
cần tích cực tự học tìm hiểu kiến thức có liên quan đến bài dạy, rút kinh nghiệm
trong qúa trình giảng dạy, tích cực dự giờ và trao đổi với đồng nghiệp để có
phương pháp và kỹ năng trong giảng dạy.

- Tránh cách dạy dập khuôn máy móc dẫn đến việc học sinh khó tiếp nhận kiến
thức, cần quan tâm đến việc rèn kỹ năng đặt câu và sửa lỗi cho học sinh.
- Phải hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài, tích cực trong hoạt động học, tăng cường
giao tiếp giữa thầy và trò để tạo được mối liên hệ gần gũi trong quá trình giảng
dạy.
2. Đề xuất
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
19
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
Để công tác giảng dạy ngày càng hiệu quả hơn bản thân đề nghị Ban giám hiệu
nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên trong quá trình đổi mới phương pháp như
việc tăng cường các đồ dùng dạy học có liên quan, khuyến khích và tổ chức các
buổi hội thảo chuyên đề về chuyên môn để giáo viên có điều kiện học tập, đúc rút
kinh nghiệm về việc đổi mới phương pháp dạy học.
Mặt khác đề nghị Phòng giáo dục tổ chức việc bồi dưỡng giáo viên qua các
buổi sinh hoạt chuyên môn liên trường, tổ chức hội thảo về việc đổi mới phương
pháp dạy học nhằm tăng kỹ năng cho giáo viên về phương pháp dạy học trong giai
đoạn hiện nay.
Trên đây là những kinh nghiệm của cá nhân trong quá trình nghiên cứu và thực
hiện. Với thời gian và kinh nghiệm chưa nhiều vì vậy còn có những hạn chế. Cho
nên bản thân rất mong được sự góp ý và bổ sung của đồng nghiệp để việc áp dụng
vấn đề vào giảng dạy đạt hiệu quả cao hơn.
Tuân Đạo, ngày 15 tháng 05 năm 2009
Người viết
Bùi Thanh Hải

*********************************
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
- Sách giáo khoa Ngữ văn 6, Ngữ văn 7

- Thiết kế bài giảng Ngữ văn 6 của Bộ giáo dục(2003).
- Sách giáo viên Ngữ văn 6 của Bộ giáo dục (2003).
- Đổi mới việc dạy và học môn Ngữ văn ở Trung học cơ sở(2002).
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
20
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
- Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Văn- Tiếng Việt (2001)
**************************
1- Hội đồng khoa học trường: THCS Tuân Đạo
Nhận xét:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
- Xếp loại: ……………………………………………….
2- Hội đồng khoa học Phòng Giáo dục- Đào tạo huyện Lạc Sơn:
Nhận xét:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
21
SKKN: Rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho
học sinh lớp 6 vùng đặc biệt khó khăn.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………
- Xếp loại: ……………………………………………….
Bùi Thanh Hải - Trường THCS Tuân Đạo - Lạc Sơn - Hòa Bình
22

×