Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (961.81 KB, 109 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Rủi ro và kinh doanh là người bạn đồng hành. Không có rủi ro thì
không có lợi nhuận. Rủi ro là cái để quản lý chứ không phải để tránh. Đây là
những nhận định hết sức cô đọng và đúng đắn về sự hiện hữu của rủi ro trong
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp
kinh doanh tiền tệ (NHTM). Từ xưa đến nay, công việc quản trị rủi ro vẫn
luôn gắn chặt trong tất cả các hoạt động của Ngân hàng ở các cấp độ khác
nhau. Khi hoạt động Ngân hàng ngày càng đa dạng và phát triển thì yêu cầu
tăng cường quản trị rủi ro là yêu cầu mà các Ngân hàng buộc phải thực hiện
nếu muốn tồn tại và phát triển bền vững trong môi trường kinh doanh cạnh
tranh, hội nhập ngày càng sâu rộng.
NHCT là một trong những NHTMCP lớn nhất ở Việt Nam. Như nhiều
NHTM VN khác, tín dụng không chỉ là dịch vụ căn bản tạo ra khối lượng tài
sản lớn trong tổng tài sản có mà còn là nguồn thu nhập chính của ngân hàng.
Trong tổng các nguồn thu, thì thu nhập từ lãi cho vay và các loại phí liên quan
trực tiếp đến hoạt động tín dụng thường chiếm từ 70% - 80% . Bờn cạnh
những đóng góp to lớn đó, tín dụng cũng là mảng hoạt động tiềm ẩn rất nhiều
rủi ro, tàn phá mạnh nhất lợi nhuận của Ngân hàng và là nguyên nhân chính
của mọi sự đổ vỡ Ngân hàng. Vì vậy, quản trị rủi ro tín dụng là công việc chủ
đạo của hoạt động quản trị của NHCT.
NHCT đã và đang từng bước thực hiện các nội dung công việc của
quản trị rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, công tác này hiện đang thiếu vắng tính
chuyên nghiệp, bài bản, thiên về ngắn hạn mà thiếu tính bền vững, lâu dài,
thiên về xử lý hậu quả mà tính phòng ngừa cũn kộm, thiên về các yếu tố định
tính mà chưa có khả năng lượng hóa cụ thể rủi ro. Để tăng cường công tác
1
quản trị rủi ro tín dụng, có thể khẳng định, NHCT sẽ phải bước lại những
bước đi căn bản để xây dựng và cơ cấu lại toàn bộ khuôn khổ và hạ tầng quản
trị rủi ro tín dụng.
Xuất phát từ thực tế trên, học viên lựa chọn đề tài “Tăng cường quản


trị rủi ro tín dụng tại NHTMCP Công thương Việt Nam” làm đề tài luận văn
thạc sỹ kinh tế nhằm gúp thờm lời giải cho bài toán quản trị rủi ro tín dụng tại
NHTMCP CT VN.
2. Một số công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến đề tài
Quản trị rủi ro tín dụng là vấn đề được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu cũng như các nhà lãnh đạo Ngân hàng. Hiện tại, có rất nhiều công
trình nghiên cứu, thảo luận khoa học xung quanh vấn đề quản trị rủi ro nói
chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng. Đồng thời, đõy đang là đề tài được
trao đổi khá sôi nổi trên mạng Internet.
Tại NHCT, có nhiều tác giả đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ về đề
tài quản lý rủi ro. Gần đây nhất, là đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực quản
trị rủi ro tín dụng của NHCT VN” của tác giả Phạm Xuõn Hũe – hiện là giám
đốc chi nhánh NHCT Nam Thăng Long và đề tài “chuẩn mực quản trị rủi ro
trong hoạt động của NHTM theo hiệp định Basel II và việc áp dụng tại Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Anh Tuấn – hiện là phó phòng Đầu tư NHCT.
Trong các đề tài nghiên cứu này, các tác giả đã hệ thống hoá, phân tích và đưa
ra sự lựa chọn khái niệm về quản trị rủi ro tín dụng trong NHTM; làm rõ vai
trò và sự cần thiết của nó trong hoạt động kinh doanh; định hướng cho các
NHTM nói chung, NHCT nói riêng trong quá trình xây dựng quản trị rủi ro
tín dụng. Một số giải pháp đã và đang được triển khai trong thực tiễn hoạt
động tại NHCT. Điển hình của việc chuyển mình trong hoạt động quản trị rủi
ro là việc thay đổi mô hình tổ chức phục vụ công tác quản trị rủi ro. Chính
2
thức từ năm 2006, mô hình tổ chức bộ máy tín dụng trong toàn hệ thống đó cú
sự thay đổi, theo đó chức năng nghiên cứu tham mưu ban hành chính sách tín
dụng được tách biệt với chức năng quản lý khách hàng, thẩm định và đề xuất
tín dụng (Phòng khách hàng); thẩm định rủi ro và quản lý danh mục tín dụng
(phòng Quản lý rủi ro); theo dõi, quản lý các khoản nợ bị suy giảm khả năng
trả nợ (Phòng quản lý nợ có vấn đề); kiểm tra, giám sát tín dụng độc lập (Ban
kiểm tra, kiểm soát nội bộ). Đồng thời với việc thay đổi về cơ cấu tổ chức,

NHCT cũng đã xây dựng được hệ thống khuôn khổ cơ chế, chớnh sỏch tín
dụng khá đồng bộ. Tuy nhiên, thực tế thực hiện công tác quản trị rủi ro tín
dụng tại NHCT vẫn đang gặp rất nhiều vướng mắc và hiện chưa có sự tổng
kết, đánh giá về hoạt động này để có định hướng phát triển trong giai đoạn
tiếp theo. Với tư cách là người trong cuộc, hiện đang công tác tại Phòng Quản
lý rủi ro tín dụng, đầu tư – Trụ sở chính, là thành viên tham gia modul Quản
lý rủi ro tín dụng - dự án Hiện đại hóa NHCT giai đoạn 2, tác giả có cơ hội đi
sâu phân tích, đánh giá thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại NHCT, từ đó đề
xuất những giải pháp cụ thể, chỉ ra những công việc cần làm ngay và lộ trình
thực hiện các giải pháp dài hạn mà NHCT nên tập trung nguồn lực để xây
dựng hệ thống quản trị rủi ro phù hợp thực tiễn hoạt động của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu những lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro
tín dụng của NHTM nhằm làm rõ bản chất, các nhân tố tác động đến rủi ro tín
dụng và quản trị rủi ro tín dụng.
- Đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng của
NHCT, tìm hiểu kinh nghiệm của Ngân hàng Nova Scotia - Canada, luận văn
góp phần tổng quát, nhận dạng các loại rủi ro tín dụng ở NHCT và đánh giá
những hạn chế của công tác này để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm tăng
cường quản trị rủi ro tín dụng tại NHCT.
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Cụng tác quản trị rủi ro tín dụng của NHCT
- Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn trong phạm vi chủ yếu là năng lực quản
trị rủi ro tín dụng của NHCT giai đoạn 2006-2009.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở xuyên suốt quá trình nghiên cứu của đề tài là:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
- Phương pháp thống kê, thu thập thông tin;
- Phương phỏp phõn tớch các hoạt động kinh tế;

- Phương pháp so sánh, tổng hợp số liệu…
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoỏ cỏc vấn đề cơ bản liên quan đến rủi ro tín dụng Ngân
hàng, làm rõ vai trò quan trọng của quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động
kinh doanh của các NHTM;
- Qua nghiên cứu thực tế công tác quản trị rủi ro tín dụng tại NHCT,
khái quát được tình hình triển khai các biện pháp, giải pháp quản trị rủi ro tín
dụng, đánh giá các kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế trong quá trình
thực hiện các biện pháp quản trị rủi ro tín dụng. Trên cơ sở đó, luận văn đưa
ra và hoàn thiện hệ thống các giải pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng
nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHCT.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín
dụng của NHTM.
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại NHTMCP Công
thương Việt Nam
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại NHTMCP
Công Thương Việt Nam.
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Rủi ro tín dụng của NHTM
1.1.1. Hoạt động tín dụng của NHTM
1.1.1.1. NHTM và các hoạt động cơ bản
- Khái niệm NHTM
Lịch sử ra đời của NHTM gắn liền với lịch sử phát triển của sản xuất,
lưu thông hàng hoá và tiền tệ qua các hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Hoạt

động Ngân hàng thủa ban đầu có nguồn gốc từ hoạt động lưu giữ hộ, thanh
toán chi trả hộ, sau đó là sự phát triển hoạt động cho vay và các loại hình dịch
vụ khác từ những người thợ kim hoàn. Trải qua thời gian, những người giữ hộ
đã trở thành nhà Ngân hàng thực thụ với ba nghiệp vụ cơ bản bao gồm: Nhận
tiền gửi, thanh toán hộ và cấp tín dụng cho khách hàng của mỡnh cựng việc
phát triển các nghiệp vụ Ngân hàng khác. Mặc dù có nhiều tổ chức tài chính
như Công ty kinh doanh chứng khoán, Công ty môi giới chứng khoán, Quỹ
tương hỗ, Công ty bảo hiểm, Công ty tài chính đều đang cố gắng cung cấp
các dịch vụ của Ngân hàng song NHTM vẫn đóng vai trò quan trọng trong
nền kinh tế.
NHTM có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò
mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Song xột trên giác độ những loại hình
dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp, khái niệm NHTM được định nghĩa như sau:
NHTM là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế.
5
- Những hoạt động cơ bản của NHTM
Hoạt động chủ yếu của NHTM là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Các cá
nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và
đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn. Trái
lại, các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của
họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để
tiết kiệm. Ngân hàng trở thành trung gian tài chính, huy động nơi có vốn tạm
thời nhàn rỗi để cho vay, đầu tư. Với xu thế phát triển của nền kinh tế, các
Ngân hàng từ chỗ chỉ cung cấp dịch vụ về nhận tiền gửi, tới nay các Ngân
hàng đã tăng cường cung cấp thêm nhiều mảng hoạt động có giá trị gia tăng
như huy động vốn, tín dụng, trung gian thanh toán và một số hoạt động khác,
cụ thể như sau:

 Huy động vốn
Nghiệp vụ này bao gồm việc huy động các nguồn vốn: tiền gửi thanh
toán, tiết kiệm có kỳ hạn và không kỳ hạn; phát hành trái phiếu và kỳ phiếu,
vay các tổ chức tín dụng; vốn tiếp nhận tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn uỷ
thác đầu tư.
 Cho vay: Hoạt động cho vay bao gồm:
Cho vay tiêu dùng đối với cá nhân, hộ gia đình.
Cho vay khách hàng kinh doanh: cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn để
khách hàng mua vật tư, máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng
 Thanh toán
Thay mặt khách hàng, Ngân hàng thực hiện thanh toán tiền mua bán
hàng hoá và dịch vụ. Các dịch vụ của hoạt động trung gian thanh toán gồm
séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu Trước đây, các Ngân hàng chỉ thực hiện thanh
toán trong phạm vi hẹp là nội bộ Ngân hàng, trong phạm vi quận, huyện, thì
6
hiện nay các Ngân hàng đã thực hiện thanh toán liên Ngân hàng và trên phạm
vi toàn cầu.
 Hoạt động khác
Bảo lãnh: Ngân hàng cam kết thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
khách hàng của mình khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam
kết. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng mua chịu hàng hoá, thiết bị,
tham gia dự thầu, thực hiện hợp đồng
Uỷ thác, tư vấn: do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, Ngân hàng có
thể nhận uỷ thác như uỷ thác đầu tư, uỷ thác vay hộ và có thể tiến hành các
dịch vụ tư vấn như tư vấn đầu tư, quản lý tài chính, mua bán, sáp nhập
Quản lý ngân quỹ: các Ngân hàng mở tài khoản và giữ hộ tiền của hầu
hết các khách hàng.
Bảo quản tài sản: các Ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, giấy tờ
có giá và tài sản khác cho khách hàng trong két sắt của Ngân hàng.
Thuê mua: khi khách hàng có nhu cầu vay vốn để mua tài sản nhưng

không đủ vốn hoặc số tiền được vay không đủ mua tài sản, Ngân hàng có thể
đứng ra mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng và cho khách hàng thuờ. Cú
hai hình thức cho thuê chủ yếu là cho thuê hoạt động và cho thuê tài chính.
Môi giới đầu tư chứng khoán: đây là một mảng dịch vụ các Ngân
hàng có thể tiến hành để thoả mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng. Hiện nay,
dịch vụ này thường được các Ngân hàng thành lập riêng ra các Công ty chứng
khoán để tăng tính chuyên nghiệp của hoạt động môi giới đầu tư chứng
khoán.
Dịch vụ bảo hiểm: Ngân hàng liên doanh với Công ty bảo hiểm hoặc tổ
chức Công ty bảo hiểm con, Ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với
bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí.
7
Cung cấp các dịch vụ đại lý: một Ngân hàng có thể cung cấp các dịch
vụ đại lý cho các Ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành chứng chỉ tiền
gửi, làm đầu mối trong hoạt động đồng tài trợ
Nhìn chung, trong tất cả các hoạt động cơ bản của các NHTM thì hoạt
động tín dụng được đánh giá là hoạt động quan trọng nhất, bởi hoạt động này
thường chiếm 60-70% danh mục tài sản có và mang lại nguồn thu nhập chủ
yếu cho các NHTM.
1.1.1.2. Hoạt động tín dụng của NHTM
Tín dụng có nguồn gốc từ tiếng La tinh tức là sự tin tưởng, tín nhiệm
hoặc nói khác đi là sử dụng sự tin tưởng hoặc tín nhiệm để thực hiện các quan
hệ vay mượn một lượng giá trị vật chất hoặc tiền tệ trong một thời gian nhất
định.
Từ đó, quan hệ tín dụng được hiểu là quan hệ chuyển nhượng tạm thời
một lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang
người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn
hơn lượng giá trị ban đầu. Tín dụng biểu hiện ra bên ngoài như là sự vận động
đơn phương của giá trị thuộc hai quá trình ngược chiều nhau trong một thời
gian cụ thể.

Tóm lại: Tín dụng được hiểu là quan hệ vay mượn giữa các chủ thể trong
nền kinh tế, trong đó chủ thể này chuyển nhượng cho chủ thể khác quyền sử
dụng một lượng giá trị (có thể dưới hình thức hàng hoá hoặc tiền tệ) với
những điều kiện và trong một thời gian nhất định mà hai bên đã thoả thuận
dựa trên nguyên tắc hoàn trả.
Khi Ngân hàng thực hiện vai trò trung gian tín dụng thì tín dụng Ngân
hàng được hiểu dưới hai giác độ sau:
+ Ngân hàng đóng vai trò huy động vốn: Các NHTM có khả năng thu
hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi với những thời hạn khác nhau của các tổ
8
chức kinh tế và cá nhân trong nền kinh tế thông qua hình thức tiền gửi với
mức lãi suất khác nhau.
+ Ngân hàng đóng vai trò người cho vay: Dựa trên cơ sở vốn huy động
được Ngân hàng thực hiện cho vay đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân có
nhu cầu sử dụng vốn để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh và tiêu dùng
trong nền kinh tế.
Tín dụng Ngân hàng vì vậy được hiểu là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau
giữa Ngân hàng - Khách hàng đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ với
một bên là các tổ chức kinh tế, cá nhân, dân cư trong nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất định dựa trên nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lói đỳng
kỳ hạn.
Tuy nhiên trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ xem xét tín dụng Ngân
hàng dưới góc độ Ngân hàng là người cho vay thì tín dụng Ngân hàng được
hiểu là một hợp đồng thể hiện quan hệ vay mượn giữa NHTM - bên chuyển
nhượng tiền cho chủ thể có nhu cầu sử dụng vốn để đầu tư sản xuất kinh
doanh hoặc tiêu dùng trong một thời gian nhất định và cam kết hoàn trả cả
gốc và lãi theo thời gian đã thoả thuận.
Về cơ bản, hoạt động tín dụng của các NHTM đối với khách hàng như
sau:
Khách hàng khi vay vốn phải đảm bảo các nguyên tắc:

Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng
Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng.
Ngân hàng chỉ xem xét và quyết định cấp tín dụng khi Khách hàng có
đủ các điều kiện sau:
Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách
nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
9
Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Có dự án đầu tư, phương án kinh doanh khả thi và có hiệu quả.
Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo đúng quy định của
pháp luật.
Để quản trị rủi ro tín dụng, các Ngân hàng luôn không ngừng đa dạng
hoỏ cỏc hình thức tín dụng, phù hợp với nhu cầu của khách hàng.
Căn cứ vào cỏc tiờu thức khác nhau, tín dụng Ngân hàng đối với khách
hàng có thể chia thành các loại như sau:
 Căn cứ vào thời gian, tín dụng Ngân hàng được chia làm ba loại
Tín dụng ngắn hạn là các khoản tín dụng có thời gian cho vay đến 12
tháng. Loại hình tín dụng này thông thường được áp dụng với nhiều loại hình
khách hàng dưới hình thức vay hạn mức hay từng lần. Thông thường khách
hàng sẽ có một phần tài sản để bảo đảm cho toàn bộ món vay.
Tín dụng trung hạn là các khoản tín dụng có thời gian cho vay từ 12
tháng đến 60 thỏng. Đõy thường là hình thức Ngân hàng cấp tín dụng cho các
dự án mua sắm máy móc thiết bị, các dự án xây dựng nhà xưởng, kho
bói Thụng thường tài sản hình thành từ vốn vay sẽ được dùng để thế chấp
Ngân hàng.
Tín dụng dài hạn là các khoản tín dụng có thời gian cho vay từ 60
tháng trở lên. Đây thường là hình thức Ngân hàng cấp tín dụng cho các dự án
mua sắm dây truyền thiết bị đồng bộ, dự án xây dựng cơ sở hạ tầng Tài sản

thế chấp chủ yếu là tài sản hình thành từ vốn vay.
 Căn cứ vào biện pháp bảo đảm, tín dụng Ngân hàng được chia
làm hai loại
Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản là các khoản tín dụng mà theo đó
nghĩa vụ trả nợ của khách hàng được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản
10
cầm cố, thế chấp của khách hàng vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ
ba. Loại hình tín dụng này đảm bảo cho Ngân hàng có độ an toàn cao hơn,
khả năng mất vốn thấp hơn do Ngân hàng có thể phát mại tài sản để thu hồi
vốn trong trường hợp khách hàng không có khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản là các khoản tín dụng mà theo
đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng không được cam kết bảo đảm thực hiện
bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng hoặc bảo lãnh bằng tài sản của
bên thứ ba. Loại hình tín dụng này khá rủi ro với Ngân hàng nên Ngân hàng
chỉ áp dụng đối với những khách hàng có uy tín, được Ngân hàng tín nhiệm
và là khách hàng truyền thống, chiến lược của Ngân hàng.
Nhìn chung, tín dụng Ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng trong
nền kinh tế, nó thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung vốn và phân bổ lại nguồn
lực đầu tư của xã hội vào các lĩnh vực của nền kinh tế một cách có hiệu quả.
Tín dụng của một hệ thống Ngân hàng lành mạnh phản ánh năng lực hấp thụ
vốn của nền kinh tế quốc gia; mức rủi ro thấp của nền kinh tế chính là điều
kiện để kêu gọi cỏc dũng vốn từ bên ngoài đầu tư vào để phát triển kinh tế đất
nước. Tuy nhiên, do các Ngân hàng cho khách hàng vay đầu tư sản xuất kinh
doanh thuộc nhiều lĩnh vực như xây dựng, sản xuất công nghiệp, thương
nghiệp, tiêu dùng, dịch vụ lữ hành nên sau khi cho vay thì quyền sở hữu vốn
tạm thời tách khỏi quyền sử dụng vốn, do vậy tính chủ động của Ngân hàng
kém đi, dễ lâm vào thế bị động đối với người vay vốn và có thể gặp rủi ro mất
một phần vốn hay toàn bộ vốn. Khi đó, tổn thất ngoài dự kiến chính là rủi ro
tín dụng.
1.1.2. Rủi ro tín dụng của NHTM

1.1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Có nhiều quan niệm về rủi ro tín dụng (RRTD) có thể dẫn ra sau đây:
11
Theo khái niệm cơ bản nhất, rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng
được cấp tín dụng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối
với Ngân hàng, gây tổn thất cho Ngân hàng; đó là khả năng khách hàng
không trả hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc, lãi và phí cho Ngân hàng.
Khoản 1, điều 2 quyết định 493/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNNVN,
đề cập khái niệm “rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của TCTD là
khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng do
khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình theo cam kết”
Rủi ro tín dụng theo định nghĩa của Uỷ ban Basle thuộc Ngân hàng
Thanh toán Quốc tế: “Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh tổn thất kinh tế do
khách hàng không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết”.
Có thể có nhiều cách khác nhau để định nghĩa về rủi ro tín dụng, song
các quan niệm về rủi ro tín dụng đều hội tụ với nhau về bản chất đó là: Rủi ro
tín dụng là khả năng (xác xuất) xảy ra những thiệt hại về kinh tế mà NHTM
phải gánh chịu do khách hàng được cấp tín dụng không thực hiện đúng nghĩa
vụ đã cam kết với NH. Rủi ro tín dụng có thể gây tổn thất về tài chính cho
NHTM đó là làm giảm thu nhập ròng và giảm giá trị thị trường của vốn; trong
trường hợp nghiêm trọng sẽ dẫn tới thua lỗ, nếu ở mức độ cao hơn có thể dẫn
đến phá sản Ngân hàng.
Cần phải có sự phân biệt giữa hai thuật ngữ được đề cập trong các khái
niệm về rủi ro tín dụng đó là rủi ro và tổn thất. Khi ta hiểu rủi ro tín dụng
theo nghĩa xác xuất là khả năng khách hàng không thực hiện đúng cam kết,
khả năng này có thể xảy ra, có thể không xảy ra; khi rủi ro tín dụng xảy ra,
khách hàng thực sự không thực hiện được cam kết, số tiền mà Ngân hàng
không thu hồi được thì được hiểu là tổn thất Ngân hàng phải gánh chịu.
Trong nội dung về quản trị rủi ro, Basel II cũng đề cập đến khái niệm tổn thất

12
dự kiến (expected loss – EL) và tổn thất ngoài dự kiến (unexpected loss –
UL). Theo đó, tổn thất dự kiến được coi là chi phí hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng, nó thường được tính vào giá của khoản tín dụng và được bù đắp
bằng nguồn dự phòng. Tổn thất ngoài dự kiến mới thực sự là rủi ro tín dụng,
cần tính toán cụ thể để dự phòng về vốn tự có.
Trên thực tế, sẽ rất dễ bị nhầm lẫn và hiểu đồng nhất giữa giá trị tổn
thất với khái niệm rủi ro tín dụng. Sự nhầm lẫn này sẽ tác động bất lợi đến
hoạt động quản trị rủi ro tín dụng, trong đó ảnh hưởng lớn nhất đến tính chủ
động trong các biện pháp quản lý rủi ro. Đơn cử, xuất phát từ quan niệm chỉ
khi khoản vay phát sinh quá hạn mới có rủi ro và việc trích lập quĩ dự phòng
rủi ro dựa trên cơ sở những khoản nợ quá hạn, chứ không đánh giá trích lập
dự phòng rủi ro tín dụng trên cơ sở mức độ xác xuất xảy ra nợ quá hạn, sẽ dẫn
đến tình trạng: Thứ nhất, những khoản cho vay mà theo xác xuất thực sự có
rủi ro sẽ không được trích lập; Thứ hai, làm mất tính chủ động trong quản trị
rủi ro tín dụng, mức độ đáp ứng của nguồn bù đắp rủi ro sẽ rất hạn chế, trong
những trường hợp có cú sốc thì Ngân hàng sẽ rất khó khăn trong việc chống
đỡ rủi ro; Thứ ba, nó làm cho Ngân hàng không thể hiểu và đánh giá đúng
mức độ rủi ro của mình, mặc dù trên thực tế có những Ngân hàng có nợ quá
hạn rất thấp, nhưng danh mục tín dụng lại rủi ro rất lớn vì tập trung quá nhiều
dư nợ vào nhóm khách hàng hay ngành rủi ro phá sản cao. Đõy chớnh là luận
cứ xây dựng chính sách phân loại nợ, chủ động trích lập qũi dự phòng và sử
dụng quĩ này trong quá trình quản trị RRTD.
1.1.2.2. Quan hệ giữa rủi ro tín dụng với các rủi ro trong kinh doanh
NHTM
Hoạt động Ngân hàng là hoạt động tiềm ẩn nhiều loại rủi ro, trong đó
rủi ro tín dụng là rủi ro lớn nhất. Xét về quan hệ của rủi ro tín dụng với các
rủi ro khác trong hoạt động Ngân hàng, thì bản thân rủi ro tín dụng lại không
13
hoàn toàn độc lập mà nó tác động qua lại với các rủi ro khác như rủi ro tỷ

giá, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản có thể rủi ro này là tiền đề của rủi ro
khác, nguyên nhân của nguyên nhân.
Tương tự như rủi ro tín dụng, các loại rủi ro trong hoạt động Ngân hàng
được xác định, phân chia theo nhiều cách khác nhau tùy vào mục đích nghiên
cứu, cũng như giai đoạn phát triển của sản phẩm dịch vụ Ngân hàng.
Trước đây, rủi ro thường được phân chia theo loại hoạt động của Ngân
hàng, gồm: RRTD, rủi ro đầu tư, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro
đạo đức, rủi ro uỷ quyền hoặc phân chia theo rủi ro chung (rủi ro thanh khoản,
RRTD, rủi ro lãi suất) và rủi ro quốc tế, rủi ro trả nợ.
Bên cạnh việc phân loại rủi ro hoạt động Ngân hàng tuỳ thuộc vào mục
đích nghiên cứu, thỡ cỏc loại rủi ro cũng phát triển theo thời gian, do có rủi ro
mới phát sinh và nó gắn với những sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng. Trong
những năm gần đây, người ta đề cập nhiều đến rủi ro tỷ giá, rủi ro danh
tiếng/phỏp lý, rủi ro công nghệ, rủi ro đa dạng hoá Mối quan hệ giữa các
loại rủi ro được thể hiện theo sơ đồ dưới đây.
Sơ đồ 1-1. Rủi ro tín dụng trong mối quan hệ với các loại rủi ro khác
Nguồn: Tập huấn dự án hỗ trợ kỹ thuật NHCT Việt Nam
14
Qua sơ đồ có thể thấy các loại rủi ro có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau. Khi rủi ro tín dụng xảy ra, khách hàng không trả được nợ rất có thể
kéo theo rủi ro thanh khoản do Ngân hàng bị thiếu hụt tiền mặt để trang
trải nghĩa vụ tài chính đến hạn… Đối với các NHTMCP, việc các Ngân
hàng niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, các thông tin của Ngân
hàng đòi hỏi phải công khai minh bạch để công chúng giám sát, thì rủi ro tín
dụng có liên hệ chặt chẽ đối với rủi ro danh tiếng: khoản nợ xấu nếu không
được quản trị một cách chủ động sẽ dẫn đến không ổn định về lợi nhuận, từ
đó làm giảm lòng tin của công chúng. Nghiêm trọng hơn nợ quá hạn tăng cao
sẽ gây tâm lý hoang mang cho công chúng gửi tiền, dẫn đến khủng hoảng của
cả hệ thống Ngân hàng, thậm chí cả nền kinh tế của một quốc gia và khu vực.
Sự đổ vỡ của hàng loạt các Ngân hàng lớn của Mỹ trong thời gian qua

là một minh chứng cho mối liên hệ này. Tất cả bắt đầu từ thị trường cho vay
tín dụng dưới chuẩn (subprime), hay còn gọi là tín dụng thế chấp rủi ro cao tại
Mỹ. Các Ngân hàng đã cấp tín dụng ồ ạt để mua bất động sản cho các hộ gia
đình có thu nhập thấp và khả năng trả nợ không cao, dựa trên giá trị tài sản
của ngôi nhà định mua. Giá bất động sản tăng, hệ thống tín dụng này phát
triển càng mạnh. Nhưng tới khi giá bất động sản của Mỹ bắt đầu giảm vào
năm 2007, tác động ngược của cơ chế này bắt đầu xuất hiện. Các hộ gia đình
không còn khả năng trả nợ, các Ngân hàng cho vay sụp đổ. Khủng hoảng bắt
đầu lan truyền trong toàn bộ hệ thống tài chính do tác động của nghiệp vụ trái
phiếu hóa giấy nợ (titrisation), một hình thức bắt đầu xuất hiện từ thập kỷ
1970, dựa trên việc biến các khoản vay Ngân hàng thành trái phiếu.
Khủng hoảng kéo dài bởi vì nó liên quan tới không chỉ lĩnh vực cho vay
bất động sản rủi ro cao tại Mỹ. Tất cả các loại tín dụng (mua sắm ô tô, tiờu
dựng…) đó được chuyển thành trái phiếu đều bị ảnh hưởng. Đây là thị trường
15
có quy mô lên tới hàng chục nghìn tỷ USD, lớn hơn rất nhiều so với thị
trường cho vay bất động sản dưới chuẩn (ước tính khoảng 1.300 tỷ USD). Do
đó, nó không chỉ tác động tới các Ngân hàng cho vay tín dụng bất động sản
dưới chuẩn tại Mỹ, mà cả các thiết chế đầu tư, thông qua trung gian của
nghiệp vụ trái phiếu hóa, vào thị trường tín dụng (Ngân hàng, quỹ đầu tư mạo
hiểm, bảo hiểm, quỹ hưu trớ…). Bên cạnh đó, cuộc khủng hoảng còn được
tiếp sức thêm bởi tâm lý mất tin tưởng và thị trường liên Ngân hàng. Các
Ngân hàng không thể biết đối tác của mỡnh đó đầu tư bao nhiêu vào các loại
chứng khoán liên quan đến giấy ghi nợ. Trong trường hợp này, Ngân hàng từ
chối cho nhau vay vì sợ không có khả năng thu hồi vốn. Chính điều đó làm tê
liệt toàn bộ hệ thống tài chính. Lehman Brothers - Ngân hàng đầu tư lớn thứ
năm của Mỹ đã bị phá sản. Nếu như giá trị của thiết chế tài chính có hơn 150
năm tuổi bị sụp đổ hoàn toàn chỉ sau vài tuần lễ, thì về lý thuyết không có
Ngân hàng nào niêm yết trên thị trường chứng khoán thế giới có thể tin chắc
tránh được khủng hoảng. Sự đổ vỡ của Washington Mututal cũng đánh dấu

bằng việc người gửi tiền đến rút tiền ồ ạt. Chỉ trong một tuần trước khi Ngân
hàng này sụp đổ, người gửi tiền đã rút về 16,7 tỷ USD làm Ngân hàng rơi vào
trạng thái mất thanh khoản hoàn toàn. Tình hình của Ngân hàng Wachovia
cũng tương tự do không thể ngăn cản khách hàng đến rút tiền. Thực tế đã
chứng minh, các loại rủi ro trong hoạt động Ngân hàng vừa có tính độc
lập, vừa liên kết chặt chẽ với nhau, thậm chí có những nội dung trựng lờn
nhau. Điều này có nghĩa là khi một loại rủi ro xảy ra sẽ kéo theo các loại
rủi ro khác xảy ra. Bên cạnh việc chỉ rõ các loại rủi ro hoạt động Ngân hàng
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, thỡ cỏc nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng khi
một loại rủi ro xảy ra, thì đồng loạt các rủi ro khác cũng xảy ra và làm trầm
trọng hơn nữa loại rủi ro ban đầu.
16
Các vấn đề nghiên cứu trên đây cho thấy quá trình quản trị rủi ro tín
dụng cần phải đặt rủi ro tín dụng trong mối quan hệ tổng thể với các loại rủi
ro khác, chính sách và qui trình quản trị rủi ro tín dụng phải bao quát từ khâu
đầu (thẩm định trước khi cho vay) đến khâu cuối của một khoản vay (thu hồi
hết nợ) hoặc xử lý rủi ro theo qui định, trong mỗi khâu tác nghiệp phải có sự
phát hiện rủi ro tiềm tàng gây ra rủi ro tín dụng, để đánh giá, lượng hoá nhằm
chủ động xử lý. Chính vì vậy, thực tế hoạt động của các NHTM hiện đại đều
có một hệ thống tập trung quản lý rủi ro hoạt động Ngân hàng, thay vì chỉ chú
trọng quản trị riêng lẻ một loại rủi ro nào đó.
1.1.2.3. Phân loại rủi ro tín dụng
Có nhiều cách phân loại RRTD, việc phân loại rủi ro tín dụng tuỳ thuộc
vào mục đích nghiên cứu, phân tích. Đối với hệ thống NHTM thì việc phân
loại RRTD có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thiết lập chính sách, qui
trình, thủ tục và cả mô hình tổ chức quản trị và điều hành nhằm bảo đảm nhận
biết đầy đủ các yếu tố gây ra rủi ro và phân biệt trách nhiệm rõ ràng giữa các
bộ phận, giữa cỏc khõu trong toàn bộ quá trình tác nghiệp thẩm định, cấp tín
dụng giám sát thu hồi nợ và xử lý khoản nợ nếu nó có dấu hiệu không bình
thường. Thực tế cho thấy sự phân chia trách nhiệm càng rõ ràng, càng cụ thể,

sẽ giúp cho quá trình quản rị RRTD có hiệu quả.
- Theo đối tượng sử dụng vốn vay:
+ Rủi ro khách hàng cá thể: Thông thường số lượng khách hàng sẽ rất
nhiều, tuy nhiên mức độ rủi ro của từng khoản vay đơn lẻ sẽ thấp, mức độ ảnh
hưởng của việc mất khả năng thanh toán của từng khoản vay là nhỏ; loại hình
giao dịch, cơ cấu giao dịch dễ quản lý.
+ Rủi ro khách hàng công ty, tổ chức kinh tế: Tùy theo qui mô của công
ty, tổ chức kinh tế là lớn hay nhỏ thì mức độ ảnh hưởng của rủi ro các khoản
17
vay vào đối tượng này sẽ được đánh giá ở mức vừa hay lớn, tác động của nó
đến khả năng thanh toán khoản nợ là vừa hay cao.
+ Rủi ro quốc gia hay khu vực địa lý: Những Ngân hàng hoạt động
phạm vi toàn cầu có sự phân chia theo lãnh thổ quốc gia, nếu trong phạm vi
một quốc gia phân chia RRTD tập trung theo khu vực địa lý, ví dụ như mức
độ rủi ro khu vực Miền Bắc, Miền Trung, Miền Nam.
- Theo phạm vi ảnh hưởng:
+ Rủi ro giao dịch đơn lẻ: Được hiểu là rủi ro gắn với một giao dịch
đơn lẻ nào đó, cụ thể như rủi ro của một khoản vay đối với một khách hàng.
Loại rủi ro này gắn liền và xuất phát chủ yếu do đặc điểm cá biệt của khoản
vay hoặc khách hàng vay vốn.
+ Rủi ro hệ thống: Được hiểu là RRTD gắn liền với nhóm khách hàng,
một ngành hàng, thậm chí với cả một nền kinh tế. Rủi ro hệ thống mang tính
chất vĩ mô và liên quan nhiều đến việc quản lý danh mục cho vay.
- Phân theo giai đoạn phát sinh:
+ Rủi ro trong thẩm định: Là rủi ro mà TCTD đánh giá sai khách hàng
+ Rủi ro khi cho vay: Là rủi ro mà khi vốn vay sử dụng sai mục đích,
làm cho khoản vay không phát huy hiệu quả.
+ Rủi ro trong quản lý, thu hồi nợ: Là rủi ro phát sinh do quá trình
giám sát thu hồi nợ không theo dõi được dòng tiền của khách hàng để khách
hàng sử dụng vốn quay vòng vào việc khác không thu được nợ đúng kỳ hạn,

hoặc không thu được nợ.
- Phân theo sản phẩm tín dụng:
+ Rủi ro sản phẩm tín dụng nội bảng: Là RRTD phát sinh từ những
khoản cho vay, chiết khấu, thấu chi được hạch toán trong nội bảng.
+ Rủi ro các sản phẩm phái sinh: Là RRTD phát sinh từ những sản
phẩm ngoại bảng trong tài trợ thương mại, như mở L/C, bảo lãnh.
18
Việc phân loại RRTD theo sản phẩm tín dụng khác nhau có đặc điểm
khác nhau cấu thành nên rủi ro khác nhau, để có thay đổi trong qui trình quản
trị RRTD thích ứng.
1.1.2.4. Các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nguyờn nhân dẫn đến RRTD, chúng ta có thể phân chia ở
cỏc nhóm nguyên nhân chủ yếu sau:
- Nguyờn nhân bất khả kháng
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động đến khách hàng được cấp
tín dụng làm cho họ bị suy giảm hoặc mất khả năng thanh toán cho Ngân
hàng, như: Thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay đổi về chính sách vĩ mô
(chính sách xuất nhập khẩu, thuế quan ) nằm ngoài tầm kiểm soát của khách
hàng và Ngân hàng.
Khi những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục đến
khách hàng cũng như Ngân hàng, cũng có khi tạo thuận lợi hoặc khó khăn
cho khách hàng. Nhiều khách hàng có khả năng dự báo, thích ứng hoặc khắc
phục những khó khăn. Có những trường hợp khách hàng bị tổn thất song vẫn
có khả năng trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn gốc và lãi. Tuy nhiên, hầu hết các
khách hàng bị tổn thất bởi những nguyên nhân bất khả kháng thì đều làm khả
năng trả nợ suy giảm thậm chí không còn khả năng trả nợ.
- Nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh,
yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ Ngân hàng, chây ỳ là
nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với

kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, để đạt được mục đích của mình họ sẵn sàng
tìm mọi thủ đoạn ứng phó với Ngân hàng, như cung cấp thông tin sai sự thật,
mua chuộc Nhiều khách hàng vay vốn không tính toán kỹ lưỡng, mở rộng
đầu tư quá mức, hoặc không có khả năng tính toán kỹ những bất trắc có thể
19
xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục những khó khăn trong kinh
doanh. Trường hợp còn lại là khách hàng vay vốn kinh doanh có lãi nhưng
vẫn không trả nợ đúng hạn, họ chây ỳ với hy vọng có thể được xoá nợ, sử
dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
- Nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của Ngân hàng
Ngoài những nguyên nhân thuộc về chủ quan của phía đối tác (khách
hàng), những nguyên nhân chủ quan thuộc về Ngân hàng được Uỷ ban Basel
(2000) đã thống kê cho thấy, nguồn gốc chủ yếu gây ra rủi ro tín dụng là mức
độ tập trung rủi ro và quy trình cấp tín dụng không lành mạnh.
Mức độ tập trung có thể coi là nguyên nhân quan trọng nhất trong vấn
đề rủi ro tín dụng. Rủi ro tập trung tín dụng tồn tại khi mức độ rủi ro tín dụng
của một nội dung trong danh mục tín dụng trở nên tương đối lớn so với mức
vốn hoặc tài sản của Ngân hàng. Rủi ro tập trung tín dụng không chỉ phụ
thuộc vào giá trị tín dụng đã cam kết, mà còn phụ thuộc vào tỷ lệ mất vốn cao
khi xảy ra rủi ro.
Rủi ro tập trung tín dụng gồm hai nhúm chớnh: Rủi ro tập trung tín
dụng thông thường và rủi ro tập trung tín dụng dựa trên các yếu tố rủi ro
chung hay tương quan. Rủi ro tập trung tín dụng thông thường xảy ra khi
tín dụng được tập trung quá nhiều vào một khách hàng, nhóm khách hàng,
hoặc ngành/lĩnh vực như kinh doanh bất động sản, dầu mỏ, khí đốt. Trong
khi đó, rủi ro tập trung tín dụng do sự liên hệ qua lại của các yếu tố rủi ro lại
liên quan nhiều đến các yếu tố đặc thù, mà chỉ có thể phát hiện thông qua
phân tích như giữa các thị trường mới nổi, rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường,
các rủi ro này với rủi ro thanh khoản. Điển hình cho loại rủi ro này là cuộc
khủng hoảng tài chính ở Châu á năm 1997 và cuộc khủng hoảng tài chính,

kinh tế Mỹ từ cuối năm 2007 đến nay. Trong cuộc khủng hoảng này, sự liên
20
hệ rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng, cũng như giữa rủi ro này với rủi ro
thanh khoản, đã tạo ra các khoản lỗ/mất vốn rộng khắp.
Rủi ro tập trung thường xảy ra do quá trình hoạch định chiến lược,
nhất là ở các nước đang phát triển, các Ngân hàng xác định và lựa chọn một
số ngành/lĩnh vực hay nhóm khách hàng ưu tiên và do đó lạc quan khi cấp tín
dụng cho các đối tượng khách hàng này. Rủi ro lại thường xảy ra đối với các
Ngân hàng lớn do giá trị vốn lớn làm cho các Ngân hàng này có thể cấp tín
dụng với giá trị rất lớn cho một khách hàng mà không vi phạm quy định của
pháp luật. Bản chất tái diễn của các vấn đề về tập trung tín dụng, đặc biệt là
liên quan đến tập trung tín dụng thông thường, đặt ra vấn đề là tại sao các
Ngân hàng lại để cho tập trung rủi ro phát sinh. Thứ nhất, khi phát triển chiến
lược kinh doanh của mình, hầu hết các Ngân hàng đều phải đối mặt với sự
đánh đổi cố hữu giữa việc chọn chuyên môn hoá trong một số lĩnh vực chính
với mục tiêu đạt được vị trí dẫn đầu thị trường và đa dạng hoỏ cỏc luồng thu
nhập, đặc biệt khi họ tham gia vào một số phân đoạn thị trường có mức độ
biến động cao. Sự đánh đổi này càng trở nên trầm trọng hơn với sự cạnh tranh
khốc liệt giữa các Ngân hàng và tổ chức phi Ngân hàng tương tự trong các
hoạt động Ngân hàng truyền thống như cấp tín dụng cho các doanh nghiệp
được xếp hạng ở mức có thể đầu tư. Tập trung rủi ro xuất hiện thường xuyên
nhất vỡ cỏc Ngân hàng phát hiện ra các ngành đang "nóng" và tăng trưởng
nhanh và sử dụng các giả định quá lạc quan về triển vọng của ngành, đặc biệt
là sự lên giá của tài sản và tiềm năng thu được mức phí và/hoặc chênh lệch
cao hơn trung bình. Các Ngân hàng thường dễ bỏ qua những nguy hiểm trong
các trường hợp này khi họ tập trung vào tăng trưởng tài sản hay thị phần.
Các vấn đề trong quy trình cấp tín dụng cũng là một nguyên nhân
gây ra rủi ro tín dụng, trong đó chủ yếu liên quan đến quá trình thẩm định và
theo dõi tín dụng. Rất nhiều Ngân hàng thấy rằng rất khó thực hiện một quá
21

trình đánh giá tín dụng kỹ càng bởi áp lực cạnh tranh trong Ngân hàng ngày
càng tăng. Do áp lực này mà nhiều Ngân hàng có xu hướng dựa vào một số
chỉ tiêu đơn giản để cấp tín dụng. Bên cạnh đó, việc không có hệ thống kiểm
định và đánh giá các kỹ thuật tín dụng mới cũng đã gây ra nhiều rủi ro, cụ thể:
- Lạm dụng quá mức hệ thống chấm điểm tín dụng mà không có sự
kiểm định lại sự phù hợp của mô hình. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân cơ bản gây ra sự sụp đổ thị trường nhà đất Mỹ thời gian qua. Các quyết
định cho vay cá nhân hầu như phụ thuộc vào hệ thống chấm điểm - xếp hạng
– ra hạn mức cấp tín dụng mà không sử dụng đánh giá của cán bộ tín dụng
cũng như không có sự kiểm định lại mô hình dẫn đến sự phát triển quá mức
của loại hình cho vay thế chấp nhà. Khi các hộ gia đình không có khả năng trả
nợ, đồng thời thị trường nhà đất suy giảm, hàng loạt các Ngân hàng tham gia
hoạt động này sụp đổ.
- Khụng theo dõi, giám sát thường xuyên khách hàng hoặc tài sản bảo
đảm. Điều này làm cho Ngân hàng không có cơ sở đưa ra các biện pháp hành
động sớm nhằm ngăn chặn rủi ro.
- Kỹ thuật định giá theo rủi ro kém, tập trung quá nhiều vào điều kiện
phi giá (điều kiện tín dụng như hồ sơ, tài chính, tài sản bảo đảm…). Vấn đề
này chủ yếu ảnh hưởng đến khả năng bù đắp của Ngân hàng trong trường hợp
có rủi ro xảy ra.
- Không thận trọng với các thỏa thuận tín dụng có đòn cân nợ cao. Do
đó, khi khách hàng gặp rủi ro trong kinh doanh thì khả năng chống đỡ bằng
vốn tự có thấp, rủi ro chuyển về phía Ngân hàng.
- Không tính đến chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế, chu kỳ sống của
sản phẩm hàng hoá, nhất là đối với các Ngân hàng có mức độ tập trung cao
vào lĩnh vực bất động sản. Đây là sự yếu kém trong quản lý danh mục tín
dụng.
22
- Không dự kiến phương án trong trường hợp xấu nhất, làm cho Ngân
hàng không có sự chuẩn bị kỹ càng. Trong nhiều trường hợp, việc có một cơ

chế hành động rõ ràng, được phổ biến và tập huấn thường xuyên có thể giúp
Ngân hàng phản ứng nhanh chóng, kịp thời và do đó có thể vượt qua được
những cú sốc bất lợi.
1.2. Quản trị rủi ro tín dụng
1.2.2. Khái niệm và sự cần thiết quản trị rủi ro tín dụng
1.2.2.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Theo quan điểm hiện đại, quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng
và thực thi các chiến lược, chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm
tối đa hoá lợi nhuận trong phạm vi mức rủi ro có thể chấp nhận. Kiểm soát rủi
ro tín dụng ở mức có thể chấp nhận là việc NHTM tăng cường các biện pháp
phòng ngừa, hạn chế và giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu trong kinh doanh tín
dụng, nhằm tăng doanh thu tín dụng, giảm thấp chi phí bù đắp rủi ro, nhằm
đạt được hiệu quả trong kinh doanh tín dụng cả trong ngắn hạn và dài hạn.
“Hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng là một bộ phận quan trọng trong cách tiếp
cận rủi ro tổng thể và được coi là đóng vai trò cốt tử cho sự thành công của
Ngân hàng trong dài hạn” (Basel Committee on Banking Supervision, 2000).
Tóm lại, có thể đề cập khái niệm quản trị rủi ro tín dụng ở các góc độ
khác nhau, nhưng bản chất là giống nhau và đứng trên góc độ của quản trị
học, chúng ta có thể diễn giải khái niệm quản trị rủi ro tín dụng là quá trình
các Ngân hàng tiến hành hoạch định, tổ chức triển khai thực hiện và giám sát
kiểm tra toàn bộ hoạt động cấp tín dụng, nhằm tối đa hoá lợi nhuận của
Ngân hàng với mức rủi ro có thể chấp nhận.
1.2.2.2 Sự cần thiết phải thực hiện công tác quản trị rủi ro tín dụng
- RRTD là căn nguyên chủ yếu tạo ra các vấn đề của Ngân hàng
23
Sự đổ vỡ hàng loạt Quĩ tín dụng tại Việt Nam trong những năm 1989-
1990 do chất lượng các khoản cho vay yếu kém, không thu hồi được. Những
năm 1999 - 2000, cũng từ nguyên nhân này NHNN đã đặt một số NHTMCP
vào tình trạng giám sát đặc biệt, những vụ án lớn và việc xử lý một khối
lượng hàng ngàn tỷ đồng nợ tồn đọng của các NHTMNN từ năm 2000 về

trước đều bắt nguồn từ những khoản cho vay khú đũi. Cuộc khủng hoảng tài
chính năm 1997 bắt nguồn từ Đông Nam Á đã làm cho nhiều Ngân hàng ở
Châu Á bị mất hàng tỷ đô la Mỹ, bị phá sản, hoặc buộc phải sáp nhập, trong
đó nguyên nhân quan trọng nhất là tỷ lệ nợ quá hạn của các Ngân hàng tăng
cao. Thời điểm trước cuộc khủng hoảng, tỷ lệ nợ quá hạn của các Ngân hàng
Thái Lan là 13%, Indonesia 13%, Phillippines 14%, Malaysia 10%. Gần đây
nhất là cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế Mỹ bắt nguồn từ làn sóng cho vay
thế chấp nhà đất rủi ro cao đã minh chứng rất rõ căn nguyên cơ bản tạo ra ở
vấn đề của Ngân hàng là RRTD. Vì vậy, vấn đề quản trị rủi ro tín dụng luôn
luôn là vấn đề sống còn của NHTM.
- Mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng ngày càng gia tăng
Tính cấp thiết của quản trị RRTD không chỉ xuất phát từ tính chất phức
tạp và nguy cơ rất lớn của RRTD mà còn do xu hướng kinh doanh của Ngân
hàng ngày nay càng trở nên rủi ro hơn. Theo nghiên cứu của các chuyên gia,
trong giai đoạn từ 1970 đến 1995, trên thế giới trung bình một năm có một cuộc
khủng hoảng Ngân hàng; thì trong giai đoạn 1980 đến 1995, tỉ lệ này là 1,44.
Một số nguyên nhân chủ yếu làm cho rủi ro trong hoạt động kinh doanh
Ngân hàng ngày càng gia tăng:
Thứ nhất, do quá trình tự do hoá, nới lỏng qui định trong hoạt động
Ngân hàng trên phạm vi toàn thế giới. Trong những thập kỷ gần đây, xu
hướng toàn cầu hoá, tự do hoá kinh tế, đề cao cạnh tranh đã trở thành phổ
biến. Khi gia tăng cạnh tranh cũng đồng nghĩa với rủi ro và phá sản gia tăng.
24
Trong lĩnh vực Ngân hàng, cạnh tranh làm cho chênh lệch lãi suất biên ngày
càng giảm xuống. Tác động này làm cho các Ngân hàng ngày càng có xu
hướng mở rộng qui mô kinh doanh để bù đắp sự sụt giảm lợi nhuận, trong đó
mở rộng qui mô tín dụng đồng nghĩa với việc RRTD cũng có nguy cơ gia
tăng. Bên cạnh đó, qui luật đào thải của cạnh tranh sẽ làm tăng mức độ phá
sản của các khách hàng của Ngân hàng kéo theo sự thiệt hại cho Ngân hàng.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng ngày càng theo xu

hướng đa năng phức tạp, với công nghệ ngày càng phát triển, cùng với xu
hướng hội nhập cạnh tranh gay gắt vừa tăng thêm mức độ rủi ro và nguy cơ
rủi ro mới. Trong lĩnh vực tín dụng các sản phẩm tín dụng có bước phát triển
mạnh mẽ, vượt xa so với sản phẩm tín dụng truyền thống. Các sản phẩm tín
dụng dựa trên cơ sở của sự phát triển công nghệ như thẻ tín dụng, cho vay cỏ
thể…luụn chứa dựng rủi ro mới. Nhưng dưới áp lực của cạnh tranh thì việc
mở rộng và đa dạng hoá sản phẩm cũng như phạm vi của hoạt động tín dụng
trở nên cấp thiết hơn, mang ý nghĩa sống còn với các Ngân hàng. Với sự đa
dạng phức tạp của sản phẩm tín dụng cũng như RRTD càng đòi hỏi quản trị
RRTD phải được chú trọng nâng cấp tương xứng.
Thứ ba, đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước đang trong
quá trình chuyển đổi như Việt Nam, thì môi trường kinh tế chưa ổn định, hệ
thống pháp luật đang xây dựng, mức độ minh bạch của thông tin thấp, thì hoạt
động Ngân hàng càng trở nên rủi ro hơn, vì vậy việc bắt tay ngay từ đầu thực
hiện tốt công tác quản trị RRTD là một công việc tối quan trọng.
- Quản trị rủi ro tốt là một lợi thế cạnh tranh và là công cụ tạo ra giá
trị của NHTM
Hóy nói cho tôi biết bạn quản lý rủi ro ra sao, tôi sẽ nói Ngân hàng bạn
thế nào?” - Tiến sĩ S. L. Srinivasulu, Chủ tịch tập đoàn KESDEE Inc - nơi
cung cấp các giải pháp học tập trực tuyến (e-learning) về tài chính có trụ sở
25

×