Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

những giải pháp cơ bản về phát triển đào tao nghề ở tỉnh ninh bình giai đoạn 2012 – 2020 nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 107 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu, nội dung và kết quả nghiên cứu trong luận
văn là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2012
Tác giả luận văn
Lã Thanh Tùng
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 1
MỤC LỤC 2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 3
DANH MỤC BẢNG BIỂU 4
TÀI LIỆU THAM KHẢO 6
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1: 8
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC TIỄN 8
PHÁT TRIỂN ĐÀO TẠO NGHỀ 8
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011 43
2.3. Thực trạng phát triển công tác đào tạo nghề ở tỉnh Ninh Bình 50
KẾT LUẬN 98
Xin trân trọng cảm ơn 99
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Diễn giải nội dung
BQ Bình quân
CBQL Cán bộ quản lý
CMKT Chuyên môn kỹ thuật
CNH-HĐH Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
CN-XD Công nghiệp – Xây dựng
CSDN Cơ sở dạy nghề


CSSX Cơ sở sản xuất
GTSX Giá trị sản xuất
HĐND Hội đồng nhân dân
KCN-CCN Khu công nghiệp-Cụm công nghiệp
KCX Khu chế xuất
KH Kế hoạch
LĐ Lao động
N-L-N Nông-lâm-nghiệp
NN Nông nghiệp
SP Sư phạm
TCN Trung cấp nghề
TH Thực hiện
TMDV Thương mại dịch vụ
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
TTDN Trung tâm dạy nghề
UBND Ủy ban nhân dân
WTO Tổ chức Thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI CAM ĐOAN 1
MỤC LỤC 2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 3
DANH MỤC BẢNG BIỂU 4
TÀI LIỆU THAM KHẢO 6
LỜI MỞ ĐẦU 1
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu 6
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu 6
Chương 1: 8
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC TIỄN 8
PHÁT TRIỂN ĐÀO TẠO NGHỀ 8

1.3 Chính sách đào tạo nghề 17
1.5. Thực trạng đào tạo nghề ở Việt Nam và trên thế giới 25
1.5.1. Tình hình đào tạo nghề và đánh giá công tác đào tạo nghề ở một số
nước trên thế giới 25
1.5.1.1 Nhật Bản 25
1.5.1.2 Hàn Quốc 26
1.5.1.3 Singapore 27
1.5.1.4 Trung Quốc 27
1.5.2 Tình hình đào tạo nghề và đánh giá công tác đào tạo nghề ở Việt Nam28
Đặc điểm địa hình 38
Khí hậu, thời tiết 39
Về khoáng sản, đất đai 39
2.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội 41
2.2.1 Tình hình dân số và lao động của tỉnh Ninh Bình, 2008-2010. .41
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011 43
2.2.2. Cơ sở hạ tầng 44
2.2.3. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình, 2009-
2011 46
2.2.3.1. Những lợi thế của tỉnh Ninh Bình 47
2.2.3.2. Những khó khăn, thách thức chủ yếu 49
2.3. Thực trạng phát triển công tác đào tạo nghề ở tỉnh Ninh Bình 50
2.3.7 Nguyên nhân tồn tại 65
3.1 Mục tiêu 69
3.1.1 Mục tiêu chung 69
3.1.2. Mục tiêu cụ thể 69
3.2 Những quan điểm chỉ đạo 71
3.3.1 Nâng cao nhận thức tuyên truyền 73
3.3.2.1 Dự báo nhu cầu dạy nghề cho người lao độngthông qua nắm
bắt thông tin thị trường lao động và điều tra khảo sát 74
Thí điểm các mô hình dạy nghề cho người lao động 74

k. Phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề 82
3.3.3.6 Chính sách hỗ trợ lao động học nghề 88
- Xây dựng tiêu chí giám sát, đánh giá Đề án, thiết lập phương pháp
thu thập và xử lý thông tin, quản lý kinh phí Đề án ở cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương và các Bộ, nghành, cơ quan Trung ương,
nâng cao năng lực xây dựng kế hoạch, quản lý, triển khai và tổ chức
thực hiện Đề án 94
KẾT LUẬN 98
Xin trân trọng cảm ơn 99
5
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 của UBND tỉnh Ninh Bình,
mục tiêu và các nhiệm vụ chủ yếu của năm 2011.
2. Bộ LĐ – TB&XH (2007), Quyết định số 16/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày
29/05/2007 của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về việc
ban hành tạm thời danh mục 48 nghề đào tạo trình độ cao đẳng nghề, trình
độ trung cấp nghề năm 2007.
3. Bùi Quang Minh, 2003, Sử dụng nguồn nhân lực nông thôn Việt Nam:
Thực trạng và giải pháp.
4. Chu Tiến Quang (2001), Việc làm ở nông thôn, thực trạng và giải pháp,
NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
5. Cục thống kê tỉnh Ninh Bình, (2009, 2010, 2011), Niên giám Thống kê
tỉnh Ninh Bình.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam, chỉ thị 40-CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư về việc
xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục và đào tạo, Hà Nội.
7. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đỗ Kim Chung, (2006), Chính sách phát triển nông thôn, Hà Nội.

9. Lao động nông thôn: Thách thức và xu thế phát triển giai đoạn sau 2010,
website: www.isgmard.org.vn.
10. Lê Phạm Ngọc Kỳ, 2004, Công tác giải quyết việc làm ở nông thôn, Tạp
chí Lao động và Xã hội.
11. Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 05/08/2008, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp
hành trung ương khóa X về: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”.
12. Nguyễn Thanh Bình (8/2005), Dạy nghề gắn với giải quyết việc làm cho
Thanh niên nông thôn, http:/www.vyic.org.vn/tapchi/8-2005.
13. Quốc hội khóa XI (2005), Luật giáo dục của Quốc hội khóa XI, kỳ họp
thứ 7 số 38/2005/QH 11 năm 2005.
14. Quốc hội khóa XI (2006), Luật dạy nghề của Quốc hội khóa XI, kỳ họp
thứ 10 số 76/2006/QH 11 ngày 29/11/2006.
15. Quyết định số 48/2002/QĐ-TTg ngày 11/4/2002 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt mạng lưới dạy nghề 2005 - 2010
16. Quyết định số 107/2004/QĐ-UB phê duyệt quy hoạch cơ sở dạy nghề.
17. UBND tỉnh Ninh Bình (2008), Đề án đào tạo nghề cho người lao động
tỉnh Ninh Bình đến năm 2015.
18. Thủ tướng Chính phủ (2009), Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông
thôn đến năm 2020”, ban hành theo Quyết định 1956/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 27/11/2009.
19. Tổng cục dạy nghề (2010), Dự thảo chiến lược phát triển dạy nghề giai
đoạn 2011-2020.
20. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê trên trang website
www.gso.gov.vn.
21. Thông tư số 01/1999/TT-LĐTBXH quản lý đào tạo nghề ở Trung ương và
địa phương.
22. Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế – Xã hội Quốc gia, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Dự Báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong bối cảnh xu thế
phát triển kinh tế Thế giới đến năm 2020, Hà Nội, năm 2008.
23. TS. Nguyễn Hữu Dũng (2005), Thị trường lao động và định hướng nghề

nghiệp cho thanh niên, NXB Lao động – Xã hội.
24. Tuấn Minh, (2009), Đào tạo nghề cho lao động nông thôn: Con đường
ngắn nhất đưa khoa học công nghệ về nông thôn, Bài đăng trên Báo
Khoa học và Phát triển.
25. Vấn đề bồi dưỡng và đào tạo lại các loại hình lao động đáp ứng nhu cầu
của sự phát triển kinh tế - xã hội (Đề tài cấp Nhà nước KX07 – 14).
26. Vũ Xuân Hùng, Một số vấn đề về chuẩn nghề nghiệp giáo viên dạy
nghề, tạp chí khoa học giáo dục số 3/2007, trang 32-35.
27. WTO – lao động nông thôn, 2006, website: />te/WTO-lao-dong-nong-thon.
28. Giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực ( Nhà xuất bản kinh tế quốc dân năm
2011
29. Thị trường lao động việc làm của lao động qua đào tạo – Tổng cục dạy
nghề (Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật)
LỜI MỞ ĐẦU
1.1 Bối cảnh quốc tế
Toàn cầu hoá kinh tế đang là xu hướng khách quan, tạo cơ hội phát
triển nhưng cũng tiềm ẩn nhiều yếu tố bất bình đẳng, khó khăn, thách thức lớn
cho các quốc gia, nhất là những nước đang phát triển như Việt Nam. Cạnh
tranh giữa các quốc gia về kinh tế - thương mại, kỹ thuật - công nghệ ngày
càng quyết liệt; lợi thể cạnh tranh sẽ thuộc về quốc gia có nguồn nhân lực
chất lượng cao. Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của AFTA và
WTO, nên cạnh tranh về lao động không chỉ diễn ra ở thị trường khu vực và
thế giới mà còn diễn ra ngay ở thị trường lao động trong nước. Đây là thách
thức lớn đối với dạy nghề và đòi hỏi dạy nghề phải đổi mới để đáp ứng nhu
cầu nhân lực kỹ thuật trực tiếp cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển với tốc
độ nhanh và có bước nhảy vọt. Với việc sử dụng ngày càng nhiều kỹ thuật,
công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại, nhiều ngành nghề mới sẽ ra đời đòi hỏi dạy
nghề phải thường xuyên bổ sung, cập nhật hoàn thiện các chương trình dạy

nghề hoặc xây dựng các chương trình dạy nghề mới để đào tạo đội ngũ nhân
lực kỹ thuật trực tiếp làm việc với kỹ thuật, công nghệ mới đó.
1.2. Bối cảnh trong nước:
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đã đạt tốc độ tăng trưởng
cao, cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp
hoá. Các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu chế xuất, các
ngành kinh tế mũi nhọn ngày càng phát triển, đầu tư trong nước và quốc tế
thời gian qua và dự kiến trong thời gian tới ngày càng tăng, kỹ thuật, công
nghệ mới được đưa vào sản xuất ngày càng nhiều, đòi hỏi nguồn nhân lực
1
phải tăng về số lượng và chất lượng, hợp lý về cơ cấu ngành nghề đào tạo và
cơ cấu trình độ đào tạo. Hiện tại, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề ở nước ta
còn thấp (khoảng 20% năm 2006) chưa đáp ứng kịp nhu cầu ngày càng tăng
của thị trường lao động, nhất là lao động kỹ thuật có trình độ cao, đây là một
trong những thách thức lớn để phát triển nền kinh tế nước ta trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế.
Dự báo dân số và số người trong độ tuổi lao động đến năm 2020:
Đơn vị: Nghìn người
STT Chỉ tiêu 2005 2010 2015 2020
1 Dân số 83.120 88.458 94.000 98.500
2
Dân số trong độ tuổi lao động
- Tăng thêm sau 5 năm
52.700
6.000
58.300
5.600
60.800
2.500
62.700

1.900
3
Lực lượng lao động (trong tuổi LĐ)
- % so dân số trong tuổi lao động
44.385
84,22
48.500
83,20
49.500
81,14
50.000
79,74
4
Cơ cấu lao động:
- Nông, lâm, ngư nghiệp
- Công nghiệp, xây dựng
- Dịch vụ
56,8%
17,9%
25,3%
50%
23-24%
26-27%
20 - 30%
Như vậy, theo dự báo thì mức tăng số lượng tuyệt đối dân số trong tuổi
lao động sẽ giảm dần trong giai đoạn 2011 - 2020 do tỷ lệ sinh giảm nhanh
trong những năm 1985 - 1995. Như vậy sức ép về tạo việc làm cho số lao
động mới tăng thêm sẽ giảm dần, nhưng sức ép về lao động có trình độ và
chất lượng cao sẽ tăng lên.
Hiện nay cho đến năm 2020 tiếp tục sẽ có nhu cầu lớn về đào tạo nghề

và giải quyết việc làm cho lao động khu vực nông nghiệp và nông thôn trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá. Hàng năm số lao động
trong khu vực nông nghiệp chuyển dịch sang khu vực công nghiệp và dịch vụ
là khoảng một triệu người, số lao động này phải được đào tạo nghề để làm
ngành nghề phi nông nghiệp. Nếu không chuyển dịch được số lao động nông
2
nghiệp sang lao động công nghiệp, dịch vụ thì không thể thực hiện được mục
tiêu đến năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp. Mặt khác, trong điều
kiẹn kinh tế hội nhập, nếu chúng ta không chuyển dịch cơ cấu lao động kịp
thời theo hướng CNH, HĐH thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ tăng trưởng
kinh tế và tình trạng kém phát triển, nghèo đói và bất bình đẳng vẫn không
được giải quyết. Nếu chúng ta không có được nguồn nhân lực có chất lượng
cao, phù hợp thì lao động các nước khác sẽ đến làm việc ở Việt Nam trong
khi lao động Việt Nam không tìm được việc làm, đó là nghịch lý và là thách
thức lớn đối với sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực nói chung và dạy nghề nói
riêng.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập phải có đủ lực lượng lao
động kỹ thuật, chất lượng cao cho các ngành kinh tế, nhất là các ngành công
nghiệp mũi nhọn, công nghiệp cao như: Tin học, tự động hoá, cơ điện tử, chế
biến xuất khẩu .v v.; đòi hỏi lao động qua đào tạo trên 70%, trong đó trên
35% có trình độ trung cấp trở lên, có như vậy các Doanh nghiệp mới đủ sức
cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tê.Trong xu thế toàn cầu hóa và
mở cửa hội nhập, Việt Nam đã được tổ chức Thương mại thế giới (WTO) kết
nạp là thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức này. Sự kiện đó đã mở ra
nhiều cơ hội và thách thức mới trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội đất
nước nói chung và quá trình công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH)
nông nghiệp nông thôn tại Việt Nam nói riêng. Với mục tiêu đến năm 2020
Việt Nam sẽ cơ bản trở thành nước công nghiệp, đòi hỏi phải có những thay
đổi cơ bản trong cơ cấu lao động nông thôn. Hiện nay ở nước ta có khoảng
72,6% dân số sống ở khu vực nông thôn, lao động nông nghiệp chiếm hơn

70% lực lượng lao động toàn xã hội, có thể thấy lao động nông thôn đang trở
thành lực lượng sản xuất đóng vai trò quan trọng, quyết định, then chốt trong
các ngành kinh tế của đất nước.
3
Đào tạo nghề cho người lao động là một chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước ta trong những năm gần đây. Vì vậy, công tác đào tạo nghề ở
nước ta đến nay đã có những bước phát triển đáng kể cả về quy mô và chất
lượng đào tạo, đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhân lực kỹ thuật của thị trường lao
động. Tuy nhiên, vấn đề tạo việc làm có thu nhập ổn định, lâu dài cho các
đối tượng đã được học nghề vẫn còn nhiều bất cập, thực tế cho thấy có rất
nhiều người đã được học nghề nhưng không tìm nổi việc làm hoặc có việc
làm nhưng thu nhập thấp, sau một thời gian chán nghề, bỏ việc, lại trở thành
thất nghiệp. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên, do thiếu quy
hoạch hệ thống đào tạo nghề, cho nên đào tạo nghề hiện nay cơ cấu ngành
nghề và dạy nghề mất cân đối, phân tán, chưa gắn kết với nhu cầu thực tế,
không đáp ứng nhu cầu chuyển dịch kinh tế. Số trường dạy nghề có nhiều
nhưng nhìn chung quy mô nhỏ. Ở nước ta hiện nay đang tồn tại mất cân đối
giữa đào tạo công nhân với đào tạo cán bộ trung cấp và đại học, cho thấy
tình trạng thừa thầy thiếu thợ khá phổ biến. Hơn nữa đào tạo nghề chưa
thích ứng với thị trường lao động, nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu
phát triển của các KCN - KCX cả về số lượng và chất lượng, lạc hậu so với
các nước trong khu vực, chưa có chính sách thu hút trọng dụng người tài, tạo
môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh.
Hiện nay sự nghiệp CNH-HĐH, đang đòi hỏi bức xúc nhu cầu về
nguồn nhân lực - một lực lượng đông đảo có đủ kiến thức, kỹ năng nghề
nghiệp, có phẩm chất đạo đức, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh
tế trong xu thế cạnh tranh và mở cửa hội nhập. Đảng và Nhà nước ta đã có
những chiến lược, chính sách ưu tiên để đầu tư phát triển lĩnh vực này. Nghị
quyết của Đại hội IX của Đảng đã nêu rõ: "Tiếp tục đổi mới chương trình, nội
dung, phương pháp giảng dạy và phương thức đào tạo đội ngũ lao động có

chất lượng cao, đặc biệt là trong các ngành kinh tế mũi nhọn, công nghệ cao.
4
Gắn với việc hình thành các khu công nghiệp, khu công nghệ cao với hệ
thống các trường đào tạo nghề. Phát triển nhanh và phân bố hợp lý hệ thống
trường dạy nghề trên địa bàn cả nước, mở rộng các hình thức đào tạo nghề đa
dạng, linh hoạt, năng động”.
1.3. Bối cảnh tỉnh Ninh Bình:
Ninh Bình là một tỉnh thuần nông, nằm ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ,
thu nhập bình quân đầu người thấp, đời sống còn gặp nhiều khó khăn. Trong
những năm qua, tiến trình CNH - HĐH trên địa bàn tỉnh diễn ra mạnh mẽ,
nhiều KCN - CCN, được đầu tư xây dựng. Do vậy, vấn đề đào tạo nghề cho
người lao động là vấn đề cấp bách hiện nay, góp phần giải quyết công ăn việc
làm chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm lao động nông nghiệp,
tăng lao động ngành nghề và phi nông nghiệp.
Để đáp ứng nhu cầu học nghề của người lao động, hệ thống các trường,
các trung tâm dạy nghề cũng phát triển mạnh. Đến nay, toàn tỉnh có 51 cơ sở
dạy nghề. Trong đó, có 3 trường Cao đẳng nghề (thuộc Bộ, ngành), 6 trường
Trung cấp nghề, 26 trung tâm dạy nghề, 16 cơ sở khác có tham gia dạy nghề.
Tuy nhiên, năng lực dạy nghề của các cơ sở trên còn rất hạn chế.
Nguyên nhân chính là do các trường, các trung tâm dạy nghề mới được
thành lập, còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, đội ngũ giáo viên
dạy nghề còn thiếu, số lượng và chất lượng dạy nghề vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu. Tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo nghề vẫn còn thấp và có sự
chênh lệch lớn giữa các vùng kinh tế. Chất lượng lao động được đào tạo cũng
còn hạn chế, chưa hình thành được đội ngũ lao động có kỹ năng nghề đáp ứng
yêu cầu thị trường và hướng tới một nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại. Do
đó, nhiệm vụ đặt ra đối với người lao động càng khó khăn hơn. Để đáp ứng
được yêu cầu phát triển nguồn nhân lực, thực hiện mục tiêu đào tạo nghề cần
5
thiết phải có chiến lược đào tạo nghề gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã

hội. Đây là những vấn đề đặt ra, cần được quan tâm giải quyết trong Đề án
đào tạo nghề cho cho người lao động.
Xuất phát từ những lý do nêu trên tôi chọn đề tài: “Những giải pháp
cơ bản về Phát triển đào tao nghề ở tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2012 – 2020
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội” làm đề tài nghiên cứu
luận văn thạc sĩ kinh tế của mình.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Các nội dung về phát triển đào tạo nghề
- Các trường, trung tâm dạy nghề và tạo việc làm tại điểm nghiên cứu trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình;
- Những học viên đã, đang học nghề tại điểm nghiên cứu trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình;
- Các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ sử dụng lao động đã được đào tạo
nghề trên địa bàn tỉnh Ninh Bình;
- Một số chính sách của Đảng và Nhà nước có liên quan đến đào tạo
nghề ở Ninh Bình.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu
* Về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về đào tạo nghề
cho người lao động ở Ninh Bình.
* Phạm vi về không gian:
- Nghiên cứu này được thực hiện tại tỉnh Ninh Bình;
- Một số nội dung chuyên sâu được thực hiện ở một số mô hình tiêu biểu
6
trên phạm vi một số huyện của tỉnh Ninh Bình.
* Phạm vi về thời gian:
- Các dữ liệu phục vụ cho các giải pháp cơ bản phát triển thực đào tạo
nghề, các loại hình đào tạo của các cơ sở dạy nghề được thu thập từ năm 2009
đến 2011;
- Thời gian thực hiện đề tài: Từ tháng 12 năm 2011 đến tháng 5 năm

2012.
1.5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực tiễn phát triển đào tạo nghề.
Chương 2: Thực trạng công tác đào tạo nghề tỉnh Ninh Bình.
Chương 3: Những giải pháp cơ bản phát triển công tác đào tạo nghề
ở Ninh Bình giai đoạn 2012 - 2020.
7
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC TIỄN
PHÁT TRIỂN ĐÀO TẠO NGHỀ
1. Cơ sở lý luận về phát triển đào tạo nghề
1.1 Cơ sở pháp lý
- Theo Luật Giáo dục năm 1998: Dạy nghề là một bộ phận thuộc giáo
dục nghề nghiệp, gồm: Dạy nghề ngắn hạn (dưới 1 năm) được thực hiện tại
các trung tâm dạy nghề và các trường dạy nghề, trường trung học và cao đẳng
có dạy nghề. Sau khi tốt nghiệp các khóa đào tạo nghề ngắn hạn, học viên
được cấp chứng chỉ nghề; dạy nghề dài hạn (từ 1-3 năm) được thực hiện trong
các trường dạy nghề, trường trung học chuyên nghiệp và trường cao đẳng có
dạy nghề. Sau khi tốt nghiệp các khóa đào tạo nghề dài hạn, học viên được
cấp bằng nghề.
Khung trình độ dạy nghề năm 1998 có hạn chế là: Chưa đủ khả năng
đáp ứng các loại trình độ lao động, nhất là ở cấp trình độ cao theo yêu cầu của
kỹ thuật, công nghệ mới trong sản xuất - kinh doanh; Không có giá trị công
nhận quá trình học trước đó, do đó không tạo được sự liên thông trong đào
tạo.
+ Luật Giáo dục 2005 và Luật dạy nghề 2006 đã tạo cơ sở pháp lý hình
thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành trong hệ thống giáo dục quốc dân;
đã hình thành dạy nghề chính quy với 3 cấp trình độ (sơ cấp nghề, trung cấp
nghề và cao đẳng nghề) và dạy nghề thường xuyên thay thế cho dạy nghề

trước đây chỉ bao gồm dạy nghề ngắn hạn và dài hạn.
Luật Giáo dục năm 2005 quy định dạy nghề được thực hiện dưới một
năm đối với đào tạo nghề trình độ sơ cấp, từ một đến ba năm đối với đào tạo
nghề trình độ trung cấp và trình độ cao đẳng. Luật dạy nghề năm 2006 đã cụ
8
thể hóa cấp trình độ đào tạo trong dạy nghề gồm: Sơ cấp nghề, trung cấp nghề
và cao đẳng nghề, mục tiêu cụ thể của từng cấp trình độ là:
Đảng và Nhà nước ta trong những năm gần đây rất quan tâm đến công
tác đào tạo nghề. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã thông
qua chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 - 2015 trong đó chỉ rõ (tỷ
lệ qua đạo tạo đến năm 2020 là 35%).
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX và Thông báo
số 784-TB/TU ngày 19/03/2008 của Tỉnh ủy Ninh Bình về việc thực hiện Đề
án đào tạo nghề đến năm 2010, định hướng đến năm 2015.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra chủ
trương phát triển dạy nghề giai đoạn 2006 - 2010 là:
"Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô
đào tạo cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng
kinh tế động lực và cho xuất khẩu lao động. Mở rộng mạng lưới cơ sở dạy
nghề, phát triển trung tâm dạy nghề quận huyện. Tạo chuyển biến căn bản về
chất lượng dạy nghề tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới.
Đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích phát triển các hình thức dạy nghề đa
dạng, linh hoạt: Dạy nghề ngoài công lập, tại Doanh nghiệp, tại làng nghề …;
tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động học nghề, lập nghiệp. Tổ chức dạy
nghề, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ sản xuất phù hợp cho nông dân, đồng
bào dân tộc thiểu số".
"Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở -
mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên
thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập
cho mọi người và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu

cầu học tập thường xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người
học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục".
9
"Mở rộng quy mô dạy nghề, bảo đảm tốc độ tăng nhanh hơn đào tạo đại
học, cao đẳng. Quy mô tuyển sinh dạy nghề dài hạn tăng 17%/năm".
Thể chất hoá chủ trương của Đảng về phát triển dạy nghề, Quốc hội đã
ban hành Luật Giáo dục - năm 2005, quy định dạy nghề có ba trình độ đào tạo
(sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề);
Luật Dạy nghề - năm 2006, quy định chi tiết về tổ chức, hoạt động của
cơ sở dạy nghề; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động
dạy nghề. Trong Luật Dạy nghề đã xác định chính sách đầu tư của Nhà nước
về phát triển dạy nghề:
"Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để đổi mới nội dung, chương trình và
phương pháp dạy nghề, phát triển đội ngũ giáo viên, hiện đại hoá thiết bị, đẩy
mạnh nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất lượng dạy nghề; Tập trung
xây dựng một số cơ sở dạy nghề tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và
thế giới; chú trọng phát triển dạy nghề ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn; đầu tư đào tạo các nghề thị trường lao động có nhu
cầu, nhưng khó khăn thực hiện xã hội hoá".
- Nghị quyết số 03/2007/NQ - CP ngày 19/01/2007 của Chính phủ về
những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch kinh tế - xã
hội và ngân sách Nhà nước năm 2007 đã giao cho Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội xây dựng trình Chính phủ đề án đổi mới đào tạo nghề.
1.2 Vị trí, vai trò của dạy nghề trong chiến lược phát triển nguồn nhân
lực và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Quốc gia
Ngày nay, hầu hết mọi quốc gia trên thế giới đều coi nhân tố con người,
nguồn lực con người hay nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản, có vai trò quyết
định nhất đến sự phát triển và bền vững của một quốc gia. Các nhà kinh tế đã
khẳng định rằng đầu tư cho con người thông qua các hoạt động giáo dục và
10

đào tạo, chăm sóc sức khỏe, công tác an sinh xã hội là đầu tư có hiệu quả
nhất, quyết định đến khả năng tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của đất
nước. Nhờ có ưu tiên đầu tư cho giáo dục để phát triển nguồn nhân lực mà
nhiều nước trên thế giới chỉ trong thời gian ngắn đã nhanh chóng trở thành
nước phát triển, điển hình là các nước Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan …
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định: "Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững". Phát triển giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu (1).
Mục tiêu của giáo dục đào tạo nguồn nhân lực nói chung là đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, đạo đức, tri thức, sức khỏe,
tác phong công nghiệp, thể chất, thẩm mỹ, hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của người công dân đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dạy nghề là một bộ phận của hệ thống
giáo dục quốc dân, thực hiện chức năng đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật trực
tiếp trong sản xuất và dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương ứng với cấp
trình độ đào tạo, đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và có thể tiếp tục học bổ sung, nâng cấp trình độ lên cao nếu có
nhu cầu và điều kiện. Hiện nay, lao động kỹ thuật của Việt Nam đang mất cân
đối nghiêm trọng về cơ cấu lao động ở cả ngành nghề và trình độ đào tạo
trong các ngành, vùng kinh tế, các khu vực. Trong khi lao động phổ thông dư
thừa rất lớn nhưng lao động kỹ thuật lại thiếu trầm trọng, nhất là lao động kỹ
thuật trình độ cao cho một số ngành như công nghiệp chế tác, tin học, viễn
thông, công nghiệp chế biến nông, lâm thủy sản, lao động kỹ thuật cho xuất
khẩu.
11
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, để tăng trưởng nền kinh tế bền
vững, hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả và an toàn trong bối cảnh nền kinh tế
thế giới đầy biến động, nhiệm vụ của dạy nghề là phải xây dựng và phát triển

đội ngũ lao động có chất lượng, phù hợp với nhu cầu lao động về cả số lượng,
cơ cấu trình độ, ngành nghề, vùng miền đáp ứng mục tiêu và nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội trong phạm vi toàn quốc lẫn từng ngành, vùng kinh tế,
địa phương; đồng thời cần tăng khả năng cạnh canh của lao động Việt Nam
với lao động nước ngoài không những ở thị trường lao động thế giới mà còn
ngay ở thị trường lao động trong nước. Với tốc độ phát triển nhanh và không
ngừng của khoa học công nghệ, việc sử dụng ngày càng nhiều công nghệ mới,
tiên tiến, hiện đại, nhiều ngành nghề mới xuất hiện trong thực tế xã hội, vì vậy
cần có các hình thức, nội dung dạy nghề phù hợp nhằm tạo điều kiện cho
người lao động có cơ hội để thường xuyên bổ sung, cập nhất kiến thức, kỹ
năng nghề nghiệp để có đủ năng lực thích ứng với những thay đổi nhanh
trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ.
1.2.1 Mối quan hệ của dạy nghề với việc làm, thu nhập và giải quyết các
vấn đề xã hội trong nước và hội nhập quốc tế
Mục tiêu hàng đầu của công tác dạy nghề là đào tạo, bồi dưỡng năng
lực nghề nghiệp của từng người học, người lao động cho phù hợp với yêu cầu
của thị trường lao động trong quá trình phát triển kinh tế xã hội nhằm tạo điều
kiện cho người lao động tìm việc làm hoặc tự tạo việc làm. Trong quá trình
học nghề, người lao động được học để hình thành những kiến thức, kỹ năng
và thái độ lao động nghề nghiệp cần thiết cho việc thực hiện thành công quá
trình lao động thực tế.
Với quan điểm, chuyển dần dạy nghề từ đào tạo theo năng lực sẵn có
của cơ sở dạy nghề sang dạy nghề theo nhu cầu của thị trường lao động và xã
hội, lấy nhu cầu của các ngành kinh tế, của doanh nghiệp làm mục tiêu đào
12
tạo, dạy nghề gắn với việc làm đã tạo điều kiện cho người học nghề có việc
làm ngay sau khi tốt nghiệp. Hệ thống dạy nghề hiện nay tương đối đa dạng,
nội dung và hình thức đào tạo nghề tương đối linh hoạt đã tạo điều kiện cho
người học có cơ hội được nâng cao năng lực nghề nghiệp, thích ứng với sự
thay đổi nhanh trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, xóa đói giảm nghèo,

nâng cao mức sống, tăng thu nhập bền vững.
Dạy nghề đã tham gia vào các công tác xã hội như: góp phần tích cực
trong chuyển dịch cơ cấu lao động từ ngành nông lâm ngư nghiệp sang công
nghiệp xây dựng và dịch vụ, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước; thực hiện nhiệm vụ phân luồng học sinh phổ thông, làm giảm chi
phí đào tạo, bớt gánh nặng cho xã hội; dạy nghề cho các phạm nhân, đối
tượng ma túy, người chưa thành niên phạm tội để họ có khả năng kiếm sống
bằng con đường làm ăn chân chính, góp phần phòng ngừa, hạn chế các tệ nạn
xã hội, các vụ án vi phạm pháp luật, ổn định an ninh, trật tự xã hội; dạy nghề
cho người đi xuất khẩu lao động để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, góp
phần mang lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho gia đình người lao động và đất
nước.
1.2.2. Những khái niệm cốt lõi, mục tiêu, yêu cầu, đặc điểm cơ bản của
chiến lược dạy nghề và quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề
1.2.2.1. Một số khái niệm liên quan
Nguồn nhân lực
Theo Luật Lao động của Việt Nam (năm 1994) quy định: nguồn nhân
lực (nguồn lao động) là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động (nam từ
15 - 60 tuổi; nữ từ 15 - 55 tuổi) có khả năng lao động, bao gồm những người
đang có việc làm hoặc chưa có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc (lực
lượng lao động) và những người đang đi học, nội trợ, không có nhu cầu làm
13
việc và tình trạng khác; trong đó bộ phận quan trọng nhất là lực lượng lao
động.
Lao động qua đào tạo nghề
Lao động qua đào tạo là một thuật ngữ mới được sử dụng rộng rãi ở
nước ta trong những năm gần đây. Lao động qua đào tạo là lao động được đào
tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất, được cấp văn bằng, chứng
chỉ về cấp bậc, loại nghề đào tạo với kết quả là được trang bị các kiến thức lý
thuyết cơ bản và có kỹ năng thực hành về một nghề (hoặc công việc) nhất định

phù hợp với yêu cầu của cấp bậc đào tạo và nghề nghiệp (công việc).
Lao động qua đào tạo là kết quả của hoạt động giáo dục - đào tạo nhằm
trang bị cho người được đào tạo những kiến thức cơ bản và kỹ năng nghề
nghiệp ở các trình độ khác nhau cùng với đạo đức, lương tâm và ý thức tổ
chức kỷ luật, tinh thần hợp tác và tác phong làm việc để thực hiện những công
việc theo yêu cầu kỹ thuật nhất định.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, lao động qua đào tạo được phân
thành 4 nhóm chính: lao động kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh và
dịch vụ (lao động qua đào tạo nghề), lao động có bằng trung cấp chuyên
nghiệp, lao động có bằng cao đẳng, đại học, lao động có bằng sau đại học.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề trong tổng số lao động làm việc:
Tỷ lệ lao động qua
đào tạo nghề trong tổng số
lao động làm việc (%)
=
Số lao động qua đào tạo nghề
đang làm việc
x100
Tổng số lao động làm việc trong
nền kinh tế
Số lao động qua đào tạo nghề được thống kê phân thành 3 cấp trình độ:
Trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề. Ngoài ra còn có lao
động có qua đào tạo nghề thường xuyên dưới 3 tháng có thể được hoặc không
được cấp chứng chỉ nghề.
14
Cấp trình độ đào tạo nghề là một trong những nội dung quan trọng
trong hệ thống dạy nghề, nó quyết định đến việc xây dựng mục tiêu chương
trình đào tạo nghề, cũng như việc cấp văn bằng chứng chỉ đào tạo nghề thống
nhất của quốc gia. Xác định đúng đắn cấp trình độ đào tạo nghề không chỉ
góp phần hoàn thiện và nâng cao chất lượng dạy nghề, mà còn gắn đào tạo

nghề với yêu cầu của kỹ thuật trong sản xuất - kinh doanh và nhu cầu của thị
trường lao động.
Cấp trình độ đào tạo nghề là việc xác định các trình độ nghề cần được
đào tạo ở mức nào, nó bao gồm mức độ phức tạp của lao động và năng lực
thực hiện nghề nghiệp. Cấp trình độ đào tạo nghề đó là sự phân hóa mục tiêu
đào tạo theo chiều sâu. Các cấp trình độ đào tạo nghề được sắp xếp từ đơn
giản đến phức tạp, sự sắp xếp thành hệ thống đó hình thành nên cấp trình độ
đào tạo nghề.
Mục tiêu đào tạo của 3 cấp trình độ đào tạo thực hành hiện nay:
- Dạy nghề trình độ sơ cấp nhằm trang bị cho người học nghề năng lực
thực hành của một nghề đơn giản hoặc năng lực thực hành một số công việc
của một nghề, có thái độ nghề nghiệp, tạo điều kiện cho người học nghề sau
khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên
trình độ cao hơn.
- Dạy nghề trình độ trung cấp nhằm trang bị cho người học kiến thức
chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề; có khả năng
làm việc độc lập và ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc; có thái độ
nghề nghiệp, tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng
tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn.
- Dạy nghề trình độ cao đẳng nhằm trang bị cho người học nghề kiến
thức chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề; có khả
năng làm việc độc lập và tổ chức làm việc theo nhóm; có khả năng sáng tạo,
15
ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc; giải quyết được các tình huống
phức tạp trong thực tế; có thái độ nghề nghiệp, tạo điều kiện cho người học
nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp
tục học lên trình độ cao hơn.
Hệ thống cơ sở đào tạo nghề
Hệ thống giáo dục quốc dân đã được công bố trong Luật Giáo dục năm
2005, trong đó có hệ Giáo dục nghề nghiệp. Dạy nghề là một phần của hệ

thống giáo dục nghề nghiệp trong khung cơ cấu của hệ thống giáo dục quốc
dân.
Cơ sở đào tạo nghề là một cơ sở có đủ các điều kiện về cơ sở vật chất
kỹ thuật, trang thiết bị, đội ngũ giáo viên theo quy định, đăng ký thường
xuyên thực hiện việc đào tạo nghề cho người lao động theo mục tiêu, chương
trình đã được xác định tương ứng với trình độ nghề mà thực tiễn yêu cầu của
một hoặc một số nghề nào đó (tên nghề theo danh mục nghề đào tạo).
Hệ thống các cơ sở đào tạo nghề là tập hợp của các cơ sở làm nhiệm
vụ đào tạo nghề để đáp ứng nhu cầu nhân lực cả về cơ cấu ngành nghề, cả về
cơ cấu trình độ cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và được Nhà
nước thống nhất quản lý từ Trung ương đến địa phương.
Hệ thống các cơ sở đào tạo nghề có thể được xác lập để đáp ứng yêu
cầu của một ngành kinh tế, một vùng kinh tế, một địa phương (tỉnh, thành
phố); một khu vực hoặc trên phạm vi toàn quốc.
Hệ thống các cơ sở đào tạo nghề bao gồm các trung tâm dạy nghề,
trường trung cấp nghề, trường cao đẳng nghề, các trường đại học, cao đẳng,
trung cấp chuyên nghiệp có dạy nghề và các cơ sở dạy nghề khác. Đào tạo
nghề là hệ thống chính trong việc cung cấp nguồn nhân lực kỹ thuật cho sự
nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
16
1.3 Chính sách đào tạo nghề
1.3.1 Khái niệm:
Chính sách là tập hợp chủ trương và hành động về phương diện nào đó
của nền kinh tế xã hội do Chính phủ thực hiện. Nó bao gồm mục tiêu mà
Chính phủ muốn đạt được và cách làm để đạt được các mục tiêu đó.(8)
Như vậy, Chính sách đào tạo nghề cho người lao động là chủ trương và
hành động của Chính phủ nhằm thay đổi cơ cấu ngành lao động theo hướng
giảm lao động nông nghiệp tăng lao động ngành nghề và phi nông nghiệp góp
phần giải quyết công ăn việc làm, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Với những
định nghĩa như vậy, cần chú ý một số điểm khi đề cập đến Chính sách đào tạo

nghề.
Thứ nhất, Chủ thể của Chính sách đào tạo nghề cho người lao động
được đề cập chính là Chính phủ, mà cụ thể là Chính phủ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính sách đào tạo nghề của một địa phương cụ thể
chỉ được xem xét trong chừng mực để làm rõ chủ trương chung của quốc gia.
Cũng cần chú ý thêm rằng, do Đảng có vai trò lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo
Chính phủ thực hiện đường lối phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, khi trình
bày thực trạng của chính sách đào tạo nghề ở địa phương chúng tôi sẽ đồng
nhất với chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Thứ hai, mục tiêu của Chính sách đào tạo nghề bao gồm cả khía cạnh
kinh tế, xã hội và môi trường. Mục tiêu kinh tế là tạo điều kiện cho người lao
động tiếp cận được các ngành nghề mới góp phần vào việc tăng trưởng và
phát triển kinh tế địa phương, cải thiện thu nhập của các hộ gia đình. Mục tiêu
xã hội là góp phần xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, giảm độ chênh
lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn. Mục tiêu môi trường của chính
sách đào tạo nghề là phát triển các ngành kinh tế một cách bền vững, tiến
hành sản xuất đi đôi với giữ gìn và bảo vệ môi trường. Có thể thấy, mục tiêu
17

×