Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh bắc ninh giai đoạn 1997 đến nay- thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.53 MB, 96 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Những kết luận đưa ra trong
luận văn này chưa từng được công bố ở bất kỳ
một công trình nào
Người cam đoan
Ngô Sỹ Bích
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
BẢNG CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC BẢNG BIỂ 6
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 5
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 5
THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 5
1.1. KHÁI NIỆM ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) 5
1.2. CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) 7
1.3. VAI TRÒ CỦA FDI ĐỐI VỚI CÁC NỀN KINH TẾ ĐANG PHÁT TRIỂN 10
1.3.1.Tác động tích cực của FDI 11
1.3.2. Tác động tiêu cực của FDI 15
1.4. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI VIỆC THU HÚT FDI 17
1.5. KINH NGHIỆM THU HÚT FDI CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM 19
1.5.1. Thu hút FDI của Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội 19
1.5.2. Một số kinh nghiệm thực tiễn về thu hút FDI 29
CHƯƠNG 2 29
THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO TỈNH
BẮC NINH GIAI ĐOẠN 1997- NAY 30
2.1. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH BẮC NINH 30
2.2. CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC VÀ TỈNH BẮC NINH VỀ THU HÚT FDI 33
2.2.1. Chủ trương, chính sách của Nhà nước về thu hút FDI 33


2.2.2. Chủ trương, chính sách của Bắc Ninh về thu hút FDI 42
2.2.2.1. Cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư 44
2.2.2.2. Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư 46
2.2.2.3. Xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng 47
2.2.2.4. Hỗ trợ doanh nghiệp 49
2.3. KẾT QUẢ THU HÚT FDI VÀO TỈNH BẮC NINH (THỜI KỲ 1997-2008) 50
2.3.1. Vốn đầu tư FDI 50
2.3.2. Lĩnh vực đầu tư FDI 52
2.3.3. Các hình thức đầu tư FDI 52
2.3.4. FDI phân theo quốc gia và vùng lãnh thổ 53
2.3.5. Quy mô vốn đầu tư 54
2.4. TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BẮC NINH 54
2.4.1. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 54
2.4.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 54
Chia ra 56
2.4.3. Thúc đẩy xuất khẩu 57
2.4.4. Tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao kỹ năng chuyên môn cho người
lao động 58
2.4.5. Đóng góp vào nguồn thu ngân sách nhà nước 58
2.4.6. Thúc đẩy đầu tư xây dựng các khu công nghiệp tập trung 60
2.5. MỘT SỐ HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG THU HÚT FDI CỦA TỈNH BẮC NINH 62
2.5.1. Hạn chế 62
2.5.2. Nguyên nhân của những hạn chế 65
CHƯƠNG 3 66
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THU HÚT ĐẦU TƯ 66
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO TỈNH BẮC NINH 66
GIAI ĐOẠN 2008-2015 66
3.1. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BẮC NINH ĐẾN NĂM 2015 68
3.2. ĐỊNH HƯỚNG THU HÚT FDI VÀO TỈNH BẮC NINH 72
3.2.1. Định hướng cơ cấu vốn 72

3.2.2. Định hướng ngành 72
3.2.3. Định hướng địa bàn đầu tư 75
3.2.4. Định hướng đối tác 75
3.2.5. Phát triển các Khu, Cụm công nghiệp 77
3.3. MỤC TIÊU THU HÚT FDI 78
3.4. GIẢI PHÁP THU HÚT FDI 78
3.4.1. Tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, cải thiện môi trường đầu tư, đa
dạng hoá các hình thức thu hút đầu tư 78
3.4.2. Xây dựng quy hoạch tổng thể thu hút FDI 80
3.4.3. Tích cực đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư 81
3.4.4. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính 83
3.4.5. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực địa phương 84
3.4.6. Cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng 85
KẾT LUẬN 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
BẢNG CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮ
STT
Thuật ngữ
viết tắt
Thuật ngữ viết đầy đủ
01 GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products)
02 FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)
03 HĐND Hội đồng nhõn dân
04 ODA Vốn hỗ trợ phát triển (Official Development Assitantce)
05 TBCN Tư bản chủ nghĩa
06 UBND Uỷ ban nhõn dân
07 CNH,HĐH Cụng nghiệp hoá, Hiện đại hoá
DANH MỤC BẢNG BIỂ
Chia ra 56
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ đổi mới, mở cửa, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) được coi là một trong những biện pháp khai thác ngoại lực nhằm thúc đẩy
nội lực để phát triển kinh tế-xã hội. FDI là một bộ phận quan trọng trong chính
sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Mở rộng và nâng cao
hiệu quả hoạt động thu hút vốn FDI là nhiệm vụ có tính lâu dài, gắn liền với công
cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, hoạt động đầu tư nước ngoài diễn ra
trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế có những yếu tố thuận lợi mới tác
động tích cực đến việc thu hút và triển khai dự án nguồn vốn FDI, đồng thời cũng
đã xuất hiện một số khó khăn, thách thức cần được tháo gỡ nhằm tạo đà tăng
trưởng trong các năm tới.
Kể từ khi tái lập tỉnh Bắc Ninh (01/01/1997), hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) của Bắc Ninh đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tích cực
vào việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên,
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài những năm qua còn bộc lộ những mặt hạn
chế. Đó là: Nhận thức và quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa được quán
triệt đầy đủ ở các cấp, các ngành; cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài có mặt còn bất
hợp lý; hiệu quả tổng thể về kinh tế - xã hội của hoạt động FDI còn chưa cao; môi
trường đầu tư chưa thực sự hấp dẫn; công tác cán bộ, công tác quản lý nhà nước về
FDI còn những bất cập; thủ tục hành chính chưa thực sự thông thoáng.
Nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, củng cố niềm tin của các nhà đầu
tư nước ngoài, tạo điều kiện để thành phần kinh tế này phát triển, đóng góp nhiều
hơn vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh; xuất phát từ thực tiễn của địa
phương, học viên lựa chọn đề tài “Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
tỉnh bắc ninh giai đoạn 1997 đến nay- thực trạng và giải pháp” làm nội dung nghiên
1
cứu.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào tỉnh

Bắc Ninh những năm qua, đánh giá tiềm năng, lợi thế so sánh của tỉnh và môi
trường đầu tư kinh doanh của nước ta tiếp tục được cải thiện; ngoài việc triển khai
Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp cùng các Nghị định hướng dẫn được ban hành đã
tạo môi trường pháp lý thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư. Việc thực hiện
Chương trình hành động sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản, Chương trình kết
nối hai nền kinh tế Việt Nam - Singapore, Hợp tác phát triển “hai hành lang một
vành đai kinh tờ” Việt Nam - Trung Quốc đã góp phần làm cho môi trường đầu tư
nước ta trở lên thông thoáng và hấp dẫn hơn. Dòng vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục
có xu hướng chuyển mạnh sang các nước đang phát triển, nhất là các nền kinh tế
mới nổi, có tốc độ tăng trưởng cao, có lợi thế về lao động và chính sách đầu tư
thông thoáng, trong đó có Việt Nam. Phân tích thực trạng và các nhân tố ảnh
hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài qua các giai đoạn, Luận văn đề xuất
một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào tỉnh Bắc Ninh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
+ Đối tượng nghiên cứu: đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Bắc Ninh.
+ Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu toàn bộ tình hình, thực trạng thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào tỉnh Bắc Ninh từ khi tái lập tỉnh (1997)
đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Kết hợp giữa phương pháp lịch sử và phương pháp logic; tổng hợp
nghiên cứu, sử dụng tài liệu, số liệu báo cáo và sử dụng phương pháp thống
kê, tổng hợp, tính toán các chỉ tiêu phân tích thực tế rồi cuối cùng đưa ra các
2
giải pháp.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
- Luận văn hệ thống hóa và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và kinh nghiệm thu hút FDI của một số địa
phương ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng thu hút vốn FDI và tác động của FDI đối với sự

phát triển kinh tế - xã hội của Bắc Ninh trong thời kỳ từ năm 1997 đến nay.
- Nghiên cứu định hướng và giải pháp nhằm tăng cường thu hút hơn
nữa nguồn vốn FDI vào Bắc Ninh trong những năm tới.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, Luận
văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài
Chương 2: Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào
tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997-nay
Chương 3: Định hướng và giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2008-2015
3
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. KHÁI NIỆM ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
Đầu tư nước ngoài nói chung là hoạt động di chuyển vốn từ nước này sang
nước khác nhằm thực hiện những mục đích nhất định. Vốn đầu tư nước ngoài
được thể hiện dưới dạng tiền mặt, vật thể hữu hình, các giá trị vô hình hoặc các
phương tiện đầu tư khác như trái phiếu, cổ phiếu, các chứng khoán cổ phần khác.
Người bỏ vốn đầu tư gọi là nhà đầu tư hay chủ đầu tư. Nhà đầu tư có thể là một cá
nhân, một doanh nghiệp, hay một tổ chức trong đó kể cả Nhà nước.
Có hai hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu là đầu tư trực tiếp và đầu
tư gián tiếp. Trong đó, đầu tư trực tiếp của nước ngoài là hình thức phổ biến
và quan trọng.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có nhiều ý
kiến cho rằng, đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI - Foreign Direct Investment)
là việc các công ty đa quốc gia tiến hành đầu tư ở nước sở tại thông qua việc thiết

lập liên doanh với các công ty của nước sở tại, mua các công ty của nước sở tại, và
có thể thông qua việc thiết lập chi nhánh của mình tại nước sở tại.
Tại Việt Nam, khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài hiểu theo quy định
của Luật Đầu tư như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước
ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt
động đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư tại Việt Nam”.
Như vậy, có thể hiểu khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: đầu
tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn quốc tế dưới hình thức vốn sản xuất
thông qua việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn vào một nước khác để đầu tư,
đồng thời trực tiếp tham gia quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất, tận dụng ưu thế
về vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý… nhằm mục đích thu lợi nhuận.
5
Với cách hiểu khái niệm FDI như trên ta có thể thấy các hoạt động FDI có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, về vốn góp: Các chủ đầu tư góp một lượng vốn tối thiểu tuỳ theo
quy định của mỗi nước nhận đầu tư để họ có quyền trực tiếp tham gia điều phối,
quản lý quá trình sản xuất kinh doanh. Ở Việt Nam, Luật Đầu tư cũng đã đưa ra
điều kiện “phần vốn góp của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài vào vốn
pháp định của doanh nghiệp liên doanh không bị hạn chế về mức cao nhất theo
sự thoả thuận của các bên, nhưng không dưới 30% vốn pháp định, trừ những
trường hợp do Chính phủ quy định”.
Thứ hai, về quyền điều hành, quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài phụ thuộc vào mức vốn góp. Nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn
thì quyền điều hành hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư nước ngoài, có thể trực tiếp
hoặc thuê người quản lý.
Thứ ba, về phần chia lợi nhuận: dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh, lãi
lỗ, phân chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định sau khi đã trừ các khoản
đóng góp với nước chủ nhà và các khoản nợ khác.
Có thể nói, hoạt động FDI là một tất yếu khách quan đối với cả phía nhà
đầu tư cũng như đối với phía tiếp nhận đầu tư. Các nhà đầu tư, mà chủ yếu là các

công ty đa quốc gia thuộc các nước phát triển hoặc các nền kinh tế mới nổi, do
yêu cầu mở rộng kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh tranh, do sự chi phối của
quy luật lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận giảm dần, nhằm tận dụng các lợi thế vốn có
của mình, đang phải vươn tầm hoạt động ra khắp thế giới. Họ trở thành nguồn
cung cấp vốn chính cho nền kinh tế thế giới. Về phía các nước đang phát triển, do
thu nhập thấp nên khả năng tiêu dùng cũng như tích luỹ còn ở mức thấp. Phần lớn
thu nhập được dựng để đảm bảo tiêu dùng ở mức tối thiểu cần thiết, do đó phần
dành cho tiết kiệm rất nhỏ. Nói cách khác, tỷ lệ tiết kiệm trên GDP khá thấp, trong
khi đó lại cần một khoảng đầu tư tương đối lớn để phát triển kinh tế. Mặt khác, ở
các nước này do công nghiệp chưa phát triển nên hàng xuất khẩu chủ yếu là
6
nguyên liệu sơ chế hoặc những mặt hàng có giá trị gia tăng thấp. Trong khi hàng
nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị có giá trị gia tăng cao. Vì thế, cán cân
thương mại có tình trạng nhập siêu lớn, gây thiếu hụt ngoại tệ trầm trọng. Vì vậy,
việc du nhập tư bản từ nước ngoài là một tất yếu khách quan.
1.2. CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
Hình thức doanh nghiệp liên doanh: Đây là hình thức đầu tư trực tiếp nước
ngoài, qua đó pháp nhân mới được thành lập gọi là doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp mới này do hai hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại nước chủ nhà
trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Hình thức này có các đặc trưng: pháp nhân mới
được thành lập theo hình thức công ty, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của
nước chủ nhà. Mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân
riêng. Nhưng doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập với các bên tham
gia. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn đã quy định vào liên doanh thì dự một bên
có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại. Mỗi bên liên doanh chịu trách
nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn góp của
mình vào vốn pháp định.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài: đây là doanh nghiệp thuộc
quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng toàn bộ
vốn nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự quản lý điều

hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp này
được thành lập dưới dạng các công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt
Nam và chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp Việt Nam.
Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh: đây
là hình thức đầu tư trực tiếp trong đó hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết
giữa hai hay nhiều bên (gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành một hoặc
nhiều hoạt động kinh doanh ở nước nhận đầu tư trong đó quy định trách nhiệm và
phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không cần thành lập pháp
nhân mới. Hình thức này không làm hình thành một công ty hay một xí nghiệp
7
mới. Một bên vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân độc lập của mình và thực hiện
các nghĩa vụ của mình trước nhà nước.
Ngoài ba hình thức cơ bản trên, theo nhu cầu đầu tư về hạ tầng, các công
trình xây dựng còn có hình thức:
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT): là một phương thức
đầu tư trực tiếp được thực hiện trên cơ sở văn bản được ký kết giữa nhà đầu tư
nước ngoài (có thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài) với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất
định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình
đó cho nước chủ nhà. Hình thức BOT thường được thực hiện bằng 100% vốn
nước ngoài, cũng có thể được thực hiện bằng vốn nước ngoài và phần vốn góp
của chính phủ hoặc các tổ chức, cá nhân của nước chủ nhà. Nhà đầu tư nước
ngoài có toàn quyền tổ chức xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian
đủ thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý, sau đó có nghĩa vụ chuyển giao cho
nước chủ nhà mà không được bồi hoàn bất kỳ khoản tiền nào.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO): Là hình thức đầu tư
dựa trên văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà
và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng. Sau
khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình cho nước chủ
nhà. Nước chủ nhà có thể sẽ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó

trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao: là một phương thức đầu tư nước ngoài
trên cơ sở văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà
và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây
dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà.
Chính phủ nước chủ nhà tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án
khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Ngoài các hình thức kể trên, một số nước, nhằm đa dạng hoá và tạo thuận
lợi cho việc thu hút vốn đầu tư còn áp dụng một số hình thức FDI khác như thành
8
lập công ty quản lý vốn, đa mục tiêu, đa dự án (Holding Company), thành lập văn
phòng đại diện hoặc chi nhánh công ty nước ngoài tại nước chủ nhà. Có thể nói,
mỗi hình thức đầu tư đều có những hấp dẫn riêng đối với các nhà đầu tư. Vì thế,
việc đa dạng hoá các hình thức đầu tư sẽ góp phần đáng kể vào việc tăng cường
khả năng thu hút FDI cả về số lượng cũng như chất lượng.
Bảng 1: Cơ cấu FDI vào các nước đang phát triển (%)
Khu vực 1975 1985 1990 1994 1996 1997
1. Trung đông&Bắc Phi 23 17 11 5 4 2
2. Châu Á & Trung Á 2 5 8 10 9 11
3. Đông, Nam & Đ.Nam Á 16 30 47 56 57 53
4. Châu Phi (cận Sahara) 15 8 3 4 3 2
5. Mỹ - Latinh& Caribê 44 40 31 26 27 32
Tổng cộng 100 100 100 100 100 100
Nguồn: (1975-1994): World Bank, (1996-1997) World Investment Report,
1998 FDI phục vụ CNH ở Malaixia, NXB Thế giới, 2000.
Bảng 2: Chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển.
Đơn vị: hạng mục
Hạng mục công nghệ
Đông
Nam Á

Mỹ -
Latinh
Các nước
khác
Tổng cộng
1. Tiến bộ công nghệ
135 154 141 430
2. Sản phẩm công nghệ
150 158 152 460
3. Công nghệ thiết kế và xây dựng
87 111 96 294
4. Công nghệ kiểm tra chất lượng
135 105 131 371
5. Công nghệ quản lý
110 75 101 286
6. Công nghệ Marketing
63 57 65 185
Tổng cộng 680 660 686 2.026
Nguồn: Small and medium-Size Transational Corporations, UN 1993
Các nền kinh tế Châu Á, nhất là khu vực Đông Nam Á được coi là phát
triển năng động, đồng thời cũng là khu vực thu hút nhiều vốn FDI nhất trong thời
gian gần đây do có nhiều điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư như giá nhân công
rẻ, tài nguyên thiên nhiên phong phú, môi trường đầu tư hấp dẫn.
Năm 1997, dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển Châu Á đã đạt 86
tỷ USD, tăng 1% so với năm 1996, chiếm khoảng trên 50% tổng FDI của các
9
nước đang phát triển và xếp vị trí thứ hai trong số các nước nhận FDI nhiều nhất
trên thế giới. Từ năm 1992, Trung Quốc nổi lên là một trong số các nước thu hút
FDI lớn nhất và đã làm đảo chiểu về tỷ trọng đầu tư nước ngoài trong khu vực.
Đầu năm 1990, hơn 70% đầu tư nước ngoài ở khu vực châu Á là đầu tư vào các

nước Đông Nam Á, Trung Quốc chỉ nhận dưới 30% thì hiện nay Trung Quốc
chiếm tới 35% tổng vốn đầu tư vào khu vực.
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á, vốn FDI
thực hiện ở các nước khu vực này đã bị giảm từ năm 1997, đến nay đang có
những cải thiện nhưng nhìn chung còn thấp, nguyên nhân là cải cách tài chính của
khu vực diễn ra chậm. Bên cạnh đó, tình hình chính trị một số nước chưa được ổn
định như Indonexia, Philipin.
1.3. VAI TRÒ CỦA FDI ĐỐI VỚI CÁC NỀN KINH TẾ ĐANG
PHÁT TRIỂN
Để có một đánh giá đầy đủ về vai trò của FDI, cần nhìn nhận vấn đề từ
cả giác độ của nhà đầu tư lẫn giác độ của người tiếp nhận đầu tư. Các nhà đầu
tư không phải là những nhà từ thiện, họ chỉ tiến hành đầu tư ở những đâu mà
họ đạt được những lợi ích nhất định của mình, mà mục đích cuối cùng của các
công ty đa quốc gia là không ngừng nâng cao giá trị tài sản và sự giàu có của
các cổ đông. Nhưng biểu hiện của những lợi ích này trong mỗi dự án, ở mỗi
quốc gia, trong mỗi thời kỳ nhất định là khá phức tạp và nó phụ thuộc rất
nhiều vào chính sách và thái độ của nước chủ nhà.
Mặc dù đánh giá về ảnh hưởng của FDI đối với các nền kinh tế đang
phát triển còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng cũng không thể phủ nhận
được tác dụng tích cực của FDI. Ở Việt Nam, FDI thực tế đã trở thành một
bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng ta
đã khẳng định: “kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một trong sáu thành
phần kinh tế của cơ cấu kinh tế nước ta”. Đó là một minh chứng khẳng
định vai trò quan trọng của FDI đối với sự phát triển nền kinh tế- xã hội
10
Việt Nam.
1.3.1.Tác động tích cực của FDI
Thứ nhất, FDI bổ sung nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế,
cải thiện cán cân thanh toán của quốc gia.
Với bất kỳ quốc gia nào muốn phát triển đều cần vốn đầu tư, không có

đầu tư không thể phát triển và tăng trưởng kinh tế. Để có nguồn vốn đầu tư,
các quốc gia đều dựa vào hai nguồn: vốn tích luỹ trong nước và vốn nước
ngoài. Thu hút FDI là dựng vốn nước ngoài đầu tư vào sản xuất kinh doanh
của nước chủ nhà, bởi vậy nó có ý nghĩa tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân.
Nó không chỉ dừng ở đồng vốn trực tiếp được đưa vào, mà nguồn vốn FDI
này còn khơi dậy, sử dụng các nguồn lực trong nước cùng vận hành như đất
đai, tài nguyên, vốn của các doanh nghiệp trong nước trực tiếp tham gia đầu
tư. FDI kéo theo hoạt động các doanh nghiệp trong nước như xây dựng, vận
tải, cung ứng, dịch vụ.
Cán cân thanh toán có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của
nước đang phát triển, là một chỉ tiêu mà các nhà hoạch định chính sách luôn
theo dõi chặt chẽ. Đối với những nước đang phát triển, trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thì việc thâm hụt cán cân thanh toán là không đáng
báo động, bởi vì những nước này đang có thay đổi lớn về cấu trúc của ngành
công nghiệp thông qua nhập khẩu những thiết bị, dây chuyền công nghệ, nên
dẫn đến nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu.
Hoạt động đầu tư nước ngoài với tính chất là nguồn vốn đầu tư ổn định
đã góp phần quan trọng duy trì, cải thiện cán cân thanh toán thông qua hoạt
động xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Xuất khẩu được đẩy mạnh sẽ mang lại
nguồn thu ngoại tệ cho nước tiếp nhận đầu tư, đồng thời các doanh nghiệp
nước ngoài đầu tư vào sản xuất những mặt hàng mà nước tiếp nhận đầu tư
trước đây chưa có khả năng sản xuất đã giúp cho nước này không phải nhập
khẩu những hàng hóa đó, giảm lượng ngoại tệ phải thanh toán và dẫn đến cải
11
thiện cán cân thanh toán.
Thứ hai, FDI góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập và đào tạo nguồn
nhân lực.
FDI có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực quản lý, trình
độ công nghệ, tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động. Nhờ FDI,
có thể tiếp cận, học hỏi, đúc kết được nhiều kinh nghiệm quản lý kinh tế, quản

lý doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đã tạo cho lao động Việt
Nam có điều kiện được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp cận với kỹ năng, công
nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến ngay tại doanh nghiệp hoặc gửi đi đào
tạo ở nước ngoài. Thu hút vốn FDI, đồng nghĩa với nó là giải quyết việc làm
cho người lao động. Thậm chí, đối với một số nước có dân số lớn, thu hút FDI
được coi là giải pháp cơ bản trong chiến lược giải quyết việc làm cho người
lao động. Thông qua làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI, nhờ việc
tiếp cận với máy móc, thiết bị mới, công nghệ hiện đại mà người lao động có
điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, kỷ luật lao động, phương
thức sản xuất tiên tiến.
Theo số liệu thống kê của UNCTAD thì số lượng lao động làm việc
trong các công ty xuyên quốc gia xấp xỉ 17 triệu người vào năm 1998 và 26
triệu người vào đầu năm 2000. Trong các ngành sản xuất công nghiệp, số
lượng lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI tại các nước đang phát
triển chiếm tỷ lệ phần trăm cao nhất trong tổng số lao động của các quốc gia
này và con số này liên tục tăng lên. Ngoài ra, FDI còn gián tiếp tạo việc làm
thông qua việc hình thành các doanh nghiệp vệ tinh cung cấp hàng hoá và
dịch vụ cho các doanh nghiệp FDI khác.
Thư ba, FDI góp phần nâng cao trình độ khoa học công nghệ
FDI có vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình độ khoa học - công
nghệ. Để tăng sức cạnh tranh trên thị trường, nâng cao hiệu quả đầu tư, các
nhà đầu tư về nguyên tắc đều phải trang bị các loại máy móc thiết bị kỹ thuật,
12
công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý hiện đại. Kinh nghiệm của các nước
công nghiệp mới (NIC
s
) cho thấy, đầu tư FDI là một trong những giải pháp
nhanh nhất để nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ, quản lý, sớm tiếp cận
với những thành tựu khoa học mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thư tư, FDI góp phần thúc đẩy xuất khẩu, mở rộng hợp tác quốc tế

Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần phát triển kinh tế đối ngoại, mở rộng
thị trường xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Với các nước đang phát triển, việc thâm nhập và chiến lĩnh thị trường
quốc tế là một trong những việc cần thiết nhưng vô cùng khó khăn, do chưa
có kinh nghiệm trên thương trường quốc tế, sản phẩm chất lượng chưa tốt,
bạn hàng ít. Bởi vậy, để mở rộng thị trường, có thể thông qua nhà đầu tư nước
ngoài để tiêu thụ sản phẩm. Các nhà đầu tư tiến hành đầu tư ở các nước khác
để tận dụng những lợi thế so sánh về nguyên liệu, lao động để hạ giá thành
sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Việc hợp tác với các nhà đầu tư
nước ngoài có thể tận dụng những kinh nghiệm, uy tín của chính công ty đó
để bán sản phẩm, thâm nhập thị trường là một yêu cầu quan trọng và tất yếu
đối với nước mới mở cửa và hội nhập.
Quan hệ đầu tư quốc tế xuất hiện từ thế kỷ XVIII, thời kỳ này được coi
là quá trình hội nhập nông (sallow-integration) trong lĩnh vực đầu tư. Các
nước quan hệ đầu tư với nhau trên cơ sở tự nguyện, có lợi ích và chưa đặt ra
cho nhau các nghĩa vụ phải thực hiện. Hiện nay, quan điểm về hội nhập kinh
tế quốc tế trong phạm vi giữa các quốc gia, khu vực và trên toàn thế giới biểu
hiện tự do hoá trong bốn lĩnh vực: Thương mại hàng hoá, sở hữu trí tuệ, đầu
tư và thương mại dịch vụ.
Như vậy, đầu tư cũng là một trong bốn lĩnh vực được các quốc gia xem
xét tự do hoá. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trị quan trọng trong việc
gắn kết giữa các quốc gia thực hiện đầu tư và tiếp nhận đầu tư, làm cho quá
trình phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu. Những cam kết về tự
13
do hoá đầu tư nước ngoài được coi như là những quan điểm về hội nhập kinh
tế quốc tế của từng quốc gia. Ngày nay, cùng với xu thế hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới diễn ra theo chiều sâu và rộng, các nước đã có nhiều hình thức
thực hiện các cam kết nhằm tự do hoá lĩnh vực đầu tư gắn với tự do hoá
thương mại.
Từ các phân tích trên cho thấy, hoạt động FDI, với tư cách là một bộ

phận cấu thành quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung, đúng
một vai trò đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia. Đối
với nước ta, xuất phát từ yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại
hoá đất nước, FDI sẽ là một bộ phận quan trọng của cơ cấu kinh tế quốc dân
và đúng một vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã chỉ rõ: “Kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến
khích phát triển, hướng mạnh vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ
xuất khẩu, hàng hoá và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng”.
Nói cách khác, hoạt động FDI ngày nay cần gắn chặt với chính sách chung
của đất nước và có vai trò thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cụ thể là, bên cạnh những mục tiêu thu
hút vốn đầu tư phát triển, tạo việc làm, tăng thu nhập, tăng giá trị xuất khẩu,
hoạt động FDI còn hướng vào những mục tiêu đổi mới kỹ thuật, công nghệ,
lĩnh vực sản xuất các loại hàng hoá có hàm lượng khoa học, công nghệ cao,
đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Rõ ràng, tăng cường thu hút đầu tư và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
FDI là một trong các giải pháp đưa nước ta ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đạt tốc
độ tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội cao, tạo đà cho sự phát triển ở các
giai đoạn tiếp theo.
Thứ năm, FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận
đầu tư.
14
Cơ cấu kinh tế của một quốc gia là cấu trúc của nền kinh tế. Đứng trên
góc độ khác nhau người ta có thể chia thành cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu
thành phần kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế. FDI có thể ảnh hưởng đến sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi nước trên cả ba góc độ cơ cấu trên trong
đó, cơ cấu ngành đóng vai trị quan trọng quyết định hình thức của các loại cơ
cấu kinh tế khác. Do vậy, việc thay đổi cơ cấu ngành kinh tế sẽ làm thay đổi
cơ cấu kinh tế của một quốc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thay

đổi cơ cấu ngành kinh tế các nước tiếp nhận đầu tư, cụ thể như sau:
- Chuyển đổi từ ngành sản xuất nông nghiệp truyền thống sang sản xuất
công nghiệp và sau là sang ngành dịch vụ.
- Thay đổi cơ cấu bên trong một ngành sản xuất ngành công nghiệp
chuyển từ năng suất thấp, công nghệ lạc hậu nhiều lao động sang sản xuất có
năng suất cao, công nghệ hiện đại, sử dụng ít lao động.
- Thay đổi cơ cấu bên trong của mỗi lĩnh vực sản xuất thông qua quá
trình chuyển từ việc áp dụng công nghệ lạc hậu, giá trị hàng hoá và dịch vụ có
hàm lượng công nghệ thấp sang ngành sản xuất áp dụng công nghệ tiên tiến,
giá trị hàng hoá có hàm lượng khoa học công nghệ cao.
1.3.2. Tác động tiêu cực của FDI
Bên cạnh những mặt tích cực, FDI có thể gây ra những bất lợi cho nước
tiếp nhận, cần phải lưu ý.
Một là, việc sử dụng nhiều vốn đầu tư nước ngoài nói chung và FDI nói
riêng có thể dẫn đến việc thiếu chú trọng huy động và sử dụng tối đa vốn trong
nước, gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư (giữa vốn trong nước và vốn nước
ngoài); có thể gây nên sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn nước ngoài, vào nhà
đầu tư nước ngoài (kể cả bí quyết kỹ thuật, công nghệ, đầu mối cung cấp vật tư,
nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm). Do đó, nếu tỷ trọng FDI chiếm quá lớn trong
tổng vốn đầu tư phát triển thì tính độc lập tự chủ bị ảnh hưởng, nền kinh tế phát
triển có tính lệ thuộc bên ngoài, thiếu vững chắc, nhất là khi dòng vốn FDI có sự
15
biến động, giảm sút lớn.
Hai là, các nhà đầu tư nước ngoài thường sử dụng lợi thế của mình đối với
doanh nghiệp nước tiếp nhận trong trường hợp liên doanh để thực hiện biện pháp
“chuyển giá” thông qua cung ứng nguyên vật liệu, chi tiết, linh kiện, sản phẩm dở
dang với giá cao, thu lợi ngay từ khâu này làm cho giá sản phẩm cao một cách giả
tạo, giảm lợi nhuận, thậm chí “lỗ giả, lãi thật” gây thiệt hại cho người tiêu dùng và
giảm thu ngân sách của nước sở tại. Đôi khi, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
thực hiện chính sách cạnh tranh bằng con đường bán phá giá, chịu lỗ trong giai đoạn

đầu và các hình thức cạnh tranh không bình đẳng khác để loại trừ đối thủ cạnh tranh,
độc chiếm hoặc khống chế thị trường, lấn át các doanh nghiệp trong nước, làm cho
một ngành hoặc một số ngành sản xuất trong nước không phát triển được.
Ba là, Lợi dụng trình độ công nghệ thấp và quản lý yếu kém của nước chủ
nhà, một số nhà đầu tư nước ngoài thông qua con đường FDI để tiêu thụ những
máy móc, thiết bị lạc hậu, đã thải loại sang nước tiếp nhận FDI.
Bốn là, Thông qua sức mạnh hơn hẳn về tiềm lực tài chính, các doanh
nghiệp có vốn nước ngoài, các công ty xuyên quốc gia có khả năng gây ra một số
ảnh hưởng bất lợi về kinh tế - xã hội như làm tăng chênh lệch về thu nhập, làm gia
tăng sự phân hoá trong các tầng lớp nhân dân, tăng mức độ chênh lệch phát triển
trong một số vùng hoặc giữa các vùng. Nước chủ nhà khó chủ động trong việc
điều phối, phân bổ sử dụng nguồn vốn FDI vì về cơ bản quyết định đầu tư thuộc
về nhà đầu tư.
Tuy nhiên, những mặt bất lợi của FDI gây ảnh hưởng như thế nào còn phụ
thuộc vào yếu tố chủ quan của nước chủ nhà như quan điểm, nhận thức, chiến
lược, thể chế, chính sách, công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Nếu có
sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đầy đủ và có các biện pháp phù hợp, nước tiếp nhận FDI có
thể hạn chế, giảm thiểu được những tác động tiêu cực, bất lợi, xử lý hài hồ mối
quan hệ giữa lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài và lợi ích quốc gia, tạo ra lợi ích
tổng thể tích cực của việc tiếp nhận FDI cho tiến trình phát triển kinh tế - xã hội
16
của đất nước theo mục tiêu, định hướng của mình.
1.4. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI VIỆC THU HÚT FDI
Trước hết, đó là sự ổn định của thể chế chính trị - xã hội ở quốc gia thu
hút vốn FDI. Đây là một trong những điều kiện quan trọng nhất đối với nhà
đầu tư. Bất cứ sự bất ổn nào của thể chế chính trị - xã hội đều có thể dẫn đến
rủi ro và tổn thất, thậm chí cả nguy cơ phá sản. Hiện nay, trên 70% dòng vốn
FDI trên thế giới được chuyển dịch giữa các nước tư bản phát triển, ngoài các
yếu tố quan trọng khác như những yếu tố về thị trường, sự ổn định về thể chế
chính trị - xã hội cũng là một nhân tố có sức hấp dẫn cao.

Thứ hai, sự ổn định và tính minh bạch của hệ thống chính sách kinh tế,
chính sách quản lý và các chính sách có liên quan. Một hệ thống chính sách
ổn định, rõ ràng sẽ giúp cho nhà đầu tư hoạch định chiến lược đầu tư và kinh
doanh dài hạn trên cơ sở luận cứ khoa học. Nếu hệ thống chính sách thường
xuyên bị điều chỉnh, không ổn định chắc chắn sẽ gây sự lo ngại cho nhà đầu
tư, do họ không thể dự báo được tương lai, do đó không hoạch định được kế
hoạch, bước đi cụ thể cả ngắn hạn cũng như dài hạn. Trong các hệ thống
chính sách cần được ổn định lâu dài và minh bạch thì những chính sách tài
chính, thuế khó, chính sách thương mại quốc tế và những chính sách trực tiếp
tác động đến khả năng thu lợi nhuận của nhà đầu tư giữ vai trò quan trọng và
quyết định đối với việc thu hút vốn FDI.
Thứ ba, Về vị trí địa lý, tính phong phú, đa dạng của các nguồn lực tự
nhiên và các lợi thế của quốc gia muốn thu hút FDI, đặc biệt là đối với các
nước đang phát triển. Chính những quốc gia đang phát triển có nhiều tài
nguyên, hoặc có lợi thế về địa lý, dân số là những quốc gia thu hút được mạnh
nhất dòng vốn FDI. Bản chất tìm kiếm lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài là
khai thác được các yếu tố đầu vào với giá rẻ.
Thứ tư, nguồn nhân lực dồi dào. Nguồn nhân lực ở đây không chỉ đơn
thuần hiểu về số lượng, mà các nhà đầu tư quan tâm đặc biệt tới nguồn nhân
17
lực có trình độ tay nghề cao, có ý thức kỷ luật lao động tốt, đặc biệt đối với
những ngành kinh tế có hàm lượng tri thức cao. Không phải ngẫu nhiên dòng
vốn FDI dịch chuyển chủ yếu giữa 3 trung tâm kinh tế phát triển nhất là Tây
Âu, Nhật Bản, Bắc Mỹ (chiếm 70%). Chỉ một số ngành công nghiệp hoặc chỉ
một số công đoạn cần nhiều nhân công lao động phổ thông là đặc biệt quan
tâm đến các nước đang phát triển có nguồn lao động phổ thông rẻ và dồi dào.
Thứ năm, Trình độ phát triển của nền kinh tế (điều kiện hạ tầng, chất
lượng cung cấp các dịch vụ) và đặc điểm phát triển của nền văn hoá xã hội
được coi là yếu tố quản lý vĩ mô. Sự thuận lợi hay không thuận lợi về ngôn
ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán đều có thể trở thành sự khuyến khích hay

kìm hãm việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ sáu, môi trường pháp lý và nền hành chính quốc gia. Nếu có ổn
định chính trị - xã hội, tài nguyên phong phú, nhưng môi trường pháp lý
không ổn định, rõ ràng thì cũng làm cho các nhà đầu tư e ngại. Thủ tục hành
chính rườm rà làm cho các nhà đầu tư mất đi cơ hội kinh doanh. Do đó vấn đề
hoàn thiện môi trường pháp lý và cải cách hành chính luôn là yếu tố khuyến
khích các nhà đầu tư mạnh dạn bỏ vốn đầu tư.
Ngoài những nhân tố trên, xuất phát từ mục tiêu của các nhà đầu tư nước
ngoài là tìm kiếm lợi nhuận, do đó bất cứ nhân tố nào có tác dụng tăng khả năng
thu lợi nhuận từ hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng sẽ được nhà đầu tư
quan tâm đó là:
Yếu tố lãi suất: Lãi suất càng cao thì lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu
tư càng giảm, đương nhiên là sẽ không khuyến khích được các nhà đầu tư bỏ vốn
đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Chi phí sản xuất: bao gồm chi phí nguyên nhiên vật liệu, chi phí nhân công và
chi phí cho các dịch vụ hỗ trợ sản xuất của doanh nghiệp. Chi phí sản xuất càng cao
thì lợi nhuận càng thấp điều này không khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài.
Tỷ giá hối đoái: là yếu tố quan trọng trong việc thu hút FDI. Nếu đồng
18
tiền của nước sở tại tăng giá thì đồng nghĩa với chi phí đầu tư tăng lên và ngược
lại. Đây là yếu tố khá nhậy cảm trong việc thu hút FDI của mỗi quốc gia.
1.5. KINH NGHIỆM THU HÚT FDI CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG Ở
VIỆT NAM
1.5.1. Thu hút FDI của Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội
Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh do có những lợi thế về vị trí địa lý, cơ sở hạ
tầng và môi trường kinh doanh cùng với sự quan tâm của lãnh đạo thành phố
trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài nên đã sớm
thu hút được nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI so với các địa phương
khác trong phạm vi cả nước. Từ 1988 - 1994, ngay sau khi Luật đầu tư nước

ngođi năm 1987 được ban hành và có hiệu lực, thành phố đã bắt đầu thu hút
nguồn vốn FDI nhưng số dự án còn ít và hiệu quả hoạt động chưa cao. Năm
1995, thành phố thu hút được 155 dự án với tổng vốn đầu tư là 2.498 triệu
USD (mức thu hút cao nhất trong cả giai đoạn 1988-2006). Sau khi đạt mức
đỉnh điểm vào năm 1995, trong 2 năm tiếp theo, do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam Á bộc phát ở Thái Lan vào
năm 1997, số dự án và số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào TP HCM có sự
giảm đáng kể và tổng vốn FDI thu hút vào thành phố tiếp tục giảm dần, đạt
thấp nhất vào năm 2000 với mức thu hút rất khiêm tốn, chỉ đạt 224 triệu USD.
Trong giai đoạn 2000 - 2005, thành phố thực hiện quá trình chuyển đổi cơ
cấu kinh tế theo hướng ưu tiên thu hút các dự án làm tăng tỷ trọng ngành dịch vụ
cao cấp, vừa đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế, vừa khắc phục tình trạng đất
đai ngày càng khan hiếm ở khu vực nội thành. Đây là nguyên nhân khiến thành
phố khó thu hút được các dự án FDI có qui mô lớn, đòi hỏi mặt bằng rộng. Các
dự án FDI quy mô lớn, đòi hỏi diện tích đất rộng đã chuyển hướng sang các địa
phương khác. Mặc dù vậy, nguồn vốn FDI thu hút vào thành phố cũng tăng dần
qua các năm tuy vẫn còn ở mức thấp, chỉ ở hàng trăm triệu USD mỗi năm. Tổng
19

×