Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

phát triển các tổ chức xã hội dân sự góp phần phát triển nông thôn tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.1 KB, 117 trang )

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TÓM TẮT LUẬN VĂN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Trong công cuộc đổi mới đất nước, cùng với sự phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và dân chủ hoá đời sống xã hội đã mang lại cho nông
nghiệp – nông thôn một diện mạo mới; đời sống của người dân từng bước được cải
thiện, cơ cấu kinh tế nông nghiệp-nông thôn chuyển dịch theo hướng ngày càng hoàn
thiện, cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội được xây dựng và bước đầu hoàn thiện. Nhằm góp
phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, các tổ chức xã hội dân sự
đã được tạo điều kiện phát triển. Các tổ chức xã hội dân sự cũng đã phần nào phát huy
được vai trò tích cực đối với quá trình phát triển nông thôn.
Tuy nhiên, phát triển kinh tế thị trường tạo ra những bất cập rất lớn trên tất cả
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và môi trường. Những bất cập đó thể
hiện rõ nét trong khu vực nông thôn như: thu nhập thấp, người dân mất đất không có
việc làm, khoảng cách giàu nghèo gia tăng, nông dân bị hạn chế trong việc tiếp cận các
dịch vụ giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội; sản xuất không có tích lũy, ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng.
Để giải quyết những vấn đề trên, bên cạnh sự điều hành của Chính phủ còn cần
có sự đóng góp không nhỏ của xã hội dân sự mà nòng cốt là hệ thống các tổ chức xã
hội dân sự. Các tổ chức này được gắn kết bởi những nhu cầu, lợi ích chung, các giá trị
hoặc truyền thống chung để tiến hành nhiều hoạt động khác nhau nhằm phối hợp với
Nhà nước, bổ sung cho những khiếm khuyết của Nhà nước, đảm bảo sự ổn định, cân
bằng và phát triển bền vững của xã hội.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả chọn đề tài “Phát triển các tổ
chức xã hội dân sự góp phần phát triển nông thôn tỉnh Nghệ An” để nghiên cứu
trong luận văn thạc sỹ của mình.
1


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn về các tổ chức xã hội dân sự;
- Đánh giá thực trạng phát triển của các tổ chức xã hội dân sự và vai trò của nó
đến phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn tỉnh Nghệ An;
- Đề xuất các giải pháp phát triển các tổ chức xã hội dân sự nhằm hỗ trợ phát
triển nông thôn tỉnh Nghệ An.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác tổ chức và hoạt động các tổ chức xã
hội dân sự; bao gồm: Các Tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế-xã hội, các tổ
chức cộng đồng và các Quỹ và các tổ chức Phi Chính phủ (NGO) và vai trò của các tổ
chức xã hội dân sự đối với phát triển nông thôn tỉnh Nghệ An.
3.2- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian:
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về các tổ chức xã hội dân sự tại tỉnh Nghệ An.
+ Thời gian:
Các số liệu thống kê phục vụ cho nghiên cứu được thu thập từ năm 2005 đến hết
năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, trong quá trình thực hiện đề tài, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao
gồm:
- Phân tích tổng hợp, kết hợp phân tích định lượng và định tính để giải thích số
liệu, liên hệ với các nguyên nhân từ thực tiễn.
- Phương pháp thu thập tài liệu.
- Phương pháp xử lý tài liệu.
2
- Phương pháp điều tra khảo sát. Luận văn tiến hành điều tra khảo sát Lãnh đạo
tỉnh, Lãnh đạo MTTQ VN, các tổ chức XHDS và thành viên các tổ chức ở cấp tỉnh, 03
huyện và 10 xã trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

- Phương pháp chuyên gia.
5. Đóng góp của luận văn:
- Phân tích có tính hệ thống những vấn đề chung về các tổ chức xã hội dân sự
trong nông thôn và vai trò của nó đối với việc phát triển nông thôn.
- Làm rõ thực trạng phát triển các tổ chức xã hội dân sự cũng như vai trò của nó
đối với nông thôn tỉnh Nghệ An.
- Đưa ra được một số định hướng và giải pháp nhằm phát triển các tổ chức xã
hội dân sự góp phần phát triển nông thôn tỉnh Nghệ An.
6. Bố cục của luận văn:
Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề tài được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển các tổ chức xã hội dân sự nói
chung và ở nông thôn nói riêng
Chương 2: Thực trạng phát triển và vai trò hỗ trợ của các tổ chức xã hội dân sự
đối với phát triển nông thôn tỉnh Nghệ An thời gian qua
Chương 3: Chính sách và giải pháp phát triển các tổ chức xã hội dân sự ở nông
thôn tỉnh Nghệ An.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN CÁC TỔ CHỨC
XÃ HỘI DÂN SỰ NÓI CHUNG VÀ Ở NÔNG THÔN NÓI RIÊNG
1.1- Bản chất, chức năng của các tổ chức XHDS
1.1.1- Khái niệm
XHDS hiện đang là vấn đề được cả giới nghiên cứu khoa học lẫn các nhà hoạch
định chính sách quan tâm. Khái niệm “ xã hội dân sự” xuất hiện khá sớm ở Châu Âu.
Các định nghĩa phổ biến về “ xã hội dân sự” hiện nay đều nhấn mạnh tới tinh thần tự
nguyện của công dân trong việc bảo vệ các quyền lợi hợp pháp và giá trị của mình.
Theo đó, xã hội dân sự được tạo lập bởi các đoàn thể nhằm kết nối giữa những nhóm
quyền lợi hiện đại và những tổ chức truyền thống, giữa các tổ chức chính thức và phi
chình thức. Ở Việt Nam, ngoài các tổ chức xã hội truyền thống, nhiều tổ chức xã hội
mới đã và đang ra đời. Các tổ chức đó đang tích cực tham gia và đóng góp vào nhiều

hoạt động xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam trong điều kiện
mới.
“Xã hội dân sự” là khái niệm xuất hiện sớm nhất ở nước Anh (1594), nó được
hiểu là những con người sống trong cộng đồng. Sau đó, khái niệm này có 2 nghĩa.
Trong lý thuyết của các nhà triết học Scottish (thế kỷ XVIII), xã hội dân sự có nghĩa là
xã hội văn minh với một Nhà nước không độc đoán. Đến thế kỷ XIX, ở nước Đức,
trong các trước tác chính trị của Hegen, thuật ngữ xã hội dân sự phân biệt với Nhà
nước. Hegen mô tả xã hội dân sự như là một phần của đời sống đạo đức, bao gồm ba
yếu tố gia đình, xã hội dân sự và Nhà nước, khái niệm hàm nghĩa lĩnh vực đời sống xã
hội, trong đó các cá nhân theo đuổi lợi ích riêng trong giới hạn đã được pháp luật thừa
nhận. Nhà triết học này thừa nhận rằng, một xã hội dân sự tự tổ chức cần phải do Nhà
4
nước cân nhắc và đặt trật tự cho nó, nếu không xã hội đó sẽ trở thành tư lợi và không
đóng góp gì cho lợi ích chung.
Xét về những điều kiện lịch sử của xã hội dân sự, nó có thể được coi là một
thành quả của sự phát triển lịch sử nhân loại.
Ở Việt Nam, trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, hàng loạt các tổ chức
XHDS đã ra đời và phát triển mạnh. Sự tham gia của người dân vào công cuộc phát
triển ngày càng được thúc đẩy. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có những nghiên cứu một
cách cơ bản về XHDS, làm rõ vai trò, vị trí và xây dựng những cơ chế chính sách nhằm
phát huy hơn nữa tính tích cực của người dân, sự đóng góp của XHDS và phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Ở nghiên cứu này, chúng ta có thể sử dụng một khái niệm tương đối đơn giản,
đó là: Xã hội dân sự (XHDS) bao gồm các tổ chức xã hội nằm ngoài nhà nước, nằm
ngoài các hoạt động của doanh nghiệp (thị trường), nằm ngoài gia đình, để liên kết
người dân với nhau trong những hoạt động vì một mục đích chung. Thành phần quan
trọng của XHDS là các Hội, Hiệp hội trong dân chúng, trong làng xóm, mang tính chất
liên kết cộng đồng.
Mặt khác có thể coi XHDS là diễn đàn, là nơi mọi người bắt tay nhau để thúc
đẩy quyền lợi chung. XHDS hỗ trợ người dân thực thi luật pháp, đồng thời phản ánh

nguyện vọng người dân. Nếu thể chế nhà nước hoạt động dựa vào luật, thể chế thị
trường hoạt động dựa vào lợi nhuận thì thể chế XHDS vẫn tuân theo pháp luật, tuân
theo thị trường, nhưng thúc đẩy khía cạnh đạo đức, khai thác tính nhân văn, tính cộng
đồng.
Một trong những phẩm chất tích cực của các tổ chức XHDS là khả năng thực
hiện các chính sách xã hội của họ đối với người nghèo và nhóm người kém vị thế trong
khi các chương trình của chính phủ khó có thể kham nổi. Sức mạnh của các tổ chức
XHDS là tính chuyên môn hóa và đưa ra được những ý tưởng và phương thức mới mẻ.
5
1.1.2- Bản chất
Cần phải nhấn mạnh rằng, bản chất của xã hội dân sự là tính tự lập của xã hội,
tức là xã hội phải giải quyết các vấn đề của nó. Nhà nước là một bộ phận của xã hội
nhằm giải quyết những vấn đề có chất lượng chiến lược của đời sống chứ không phải là
người giải quyết tất cả các vấn đề của đời sống. Xã hội dân sự là một xã hội tự quản lấy
mình và đến một mức độ mà nó không có khả năng để tự quản nữa thì phần còn lại đó
rơi vào nhà nước chuyên nghiệp. Hay nói cách khác, nhà nước chuyên nghiệp là bộ
phận nối dài của xã hội dân sự để giải quyết những công việc mà bản thân xã hội
không tự giải quyết được
Phải chăng XHDS chỉ là sản phẩm của nhà nước pháp quyền? Đúng nhưng không
đủ. XHDS ra đời trước hết là do kinh tế thị trường đòi hỏi quyền tự do kinh doanh và
được bảo vệ lợi ích của mình. Nhưng thị trường chỉ lo kinh tế, lo lợi nhuận là chính, ít
quan tâm và không lo được các vấn đề xã hội, lợi ích dân sinh. Đồng thời, nhà nước
cũng chỉ lo được những vấn đề lớn, nguồn lực, năng lực cũng có hạn, nên các tổ chức xã
hội do dân lập ra phải tự lo lấy và giải quyết các vấn đề của mình. Xã hội tự nó cũng có
nhu cầu tự tổ chức, tự thể hiện và tự vệ. Hơn nữa nhờ có XHDS đó mà tránh được phần
nào sự lạm quyền từ cả kinh tế thị trường và nhà nước. Các tổ chức xã hội ở nước ta
trước đây, có khi xuất hiện còn do các nhu cầu vận động nhân dân chống ngoại xâm, hay
tự vệ. Hiến pháp năm 1946 cũng cho phép nhân dân tự lập Hội. Nhưng ngày nay với nền
kinh tế mới, nhà nước pháp quyền, nền dân chủ của nhân dân, thì dân tự do lập hội, để
thể hiện và bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. XHDS vì vậy tạo nên một mạng lưới tổ

chức rộng khắp và đa tầng.
Đúng là XHDS không chỉ bị chi phối bởi kinh tế thị trường, mà cả nhà nước
pháp quyền. Nhưng chưa đủ, mà nó còn bị chi phố khá mạnh về truyền thống văn hóa
nói chung và văn hóa chính trị nói riêng, và phụ thuộc vào cả sự tương quan lực lượng
xã hội của nó.
6
1.1.3- Đặc điểm
Trong các xã hội hiện đại, dân chủ; XHDS đóng vai trò quan trọng đặc biệt.
Hành động của XHDS sẽ đem lại kết quả hiện thực trực tiếp từ điều tiết xã hội bởi các
công dân bình đẳng; Các lợi ích công dân có thể được thực hiện và trình tự đại diện
một cách dân chủ, được ảnh hưởng qua can thiệp của XHDS trong các quá trình ra
quyết định xã hội; Sự tham gia của XHDS đã giúp cho công dân nâng cao trình độ, có
kỹ năng cần thiết để thực hiện vai trò công dân của mình; Và các hoạt động XHDS có
thể cải thiện sự tự lực, trợ giúp cho người khác, về chất và lượng phù hợp với điều kiện
vật chất và xã hội, chứ không đơn giản là cung cấp lợi ích phúc lợi. Chúng ta có thể
khái quát các đặc điểm của XHDS như sau:
- Tính chất tự nguyện của XHDS thể hiện ở các tiêu chí của hành động XHDS:
Sự tham gia tổ chức XHDS là tự nguyện, các hành động được tổ chức một cách độc lập
và hành động nhằm trực tiếp đạt được lợi ích xã hội chung. Cần nhấn mạnh là, hành
động XHDS không phải là hành động tự phát cá nhân, hoặc được quyết định bởi các cá
nhân để dung hòa lợi ích của mình. Mặc dù, đó là hành động phi chính phủ, song nó
được coi là hành động chính trị, nơi các công dân hình thành các mục tiêu chung và
cách thức thực hiện mục tiêu thông qua hành động thống nhất. Nghĩa là, các hành động
nhóm xã hội, nếu không bao hàm mục tiêu vì lợi ích xã hội chung, thì không được coi
là bộ phận của XHDS.
- Tính tự tổ chức của XHDS, như cách diễn đạt của Habermas được khẳng định,
là “XHDS được hình thành từ các tổ chức hiệp hội, phong trào tương đối tự phát, có
trách nhiệm “thu-phát cô đọng hoặc phóng thanh” các âm điệu của đời sống cá nhân và
chuyển chúng thành mối quan tâm ở lĩnh vực chính trị hoặc công cộng.
- Tính tự chủ, đa dạng, đa nguyên và sự ảnh hưởng của các chủ thể XHDS thể

hiện ngày càng mạnh mẽ. Chẳng hạn, hiện nay, tồn tại một số dạng thức chủ thể XHDS
chính gồm các tổ chức phi chính phủ, các phong trào xã hội, các mạng lưới xã hội theo
kiểu tách biệt, linh hoạt và các nhóm XHDS cơ sở…Mỗi loại kiểu này khác nhau về
7
đặc điểm cấu trúc, quan niệm và định hình các vấn đề, phương thức hoạt động, các
mục tiêu chiến lược.
- Về hình thức, các tổ chức XHDS đa dạng, phong phú, song đều phải mang đặc
điểm chung là phi lợi nhuận, phi thương mại, hành động mang tính tập thể, có trách
nhiệm giải trình, cam kết minh bạch, tính chất dân sự và dân sự hóa. Các hình thức của
tổ chức XHDS, bao gồm tổ chức tình nguyện, nhóm cộng đồng, nhóm tôn giáo, công
đoàn, tổ chức phi chính phủ. Đó có thể là các đảng chính trị cam kết phát triển đất
nước và nhóm cấp tiến ở vị trí đối lập với trật tự cầm quyền hiện hành…Đó có thể là
hình thức tư nhân song hoạt động chỉ nhằm mục đích công cộng, định hướng vì lợi ích
xã hội chung, thể hiện tính đại diện, điều hành trên cơ sở đồng thuận và không ép buộc.
- Về mức độ hiện diện và hiệu quả hoạt động, một số tổ chức có đặc điểm nổi
trội khác biệt, tùy thuộc truyền thống lịch sử, thời gian vận động, điều kiện tồn tại,
tham gia các lĩnh vực hoạt động khác nhau, song, đều thể hiện vai trò định hình ảnh
hưởng tới các chương trình nghị sự chính trị quốc gia, và định hướng theo các mục tiêu
đặc thù của tổ chức. Thông thường các tổ chức phi lợi nhuận, phi chính phủ xác định
hoạt động ở những khoảng “ngách”, lĩnh vực còn “bỏ ngõ” hoặc ở nơi còn tồn tại
khoảng cách lớn về kinh tế - xã hội, triển khai các hoạt động định hướng khắc phục sự
thất bại của thị trường hoặc nhà nước, hoặc có tính chất bổ trợ cho hoạt động của tổ
chức thuộc khu vực công hoặc các nhà cung cấp dịch vụ khác.
- Về môi trường, điều kiện hoạt động XHDS: Trách nhiệm của nhà nước là tạo
điều kiện kinh tế, xã hội cho XHDS hoạt động. Nhà nước dân chủ hiện đại cần thúc
đẩy các hoạt động XHDS và tạo ra XHDS sống động, tạo ra cơ hội cho người dân tham
gia XHDS. Các tổ chức XHDS không thể hoạt động bình thường, nếu thiếu vắng
khuôn khổ thể chế luật pháp và đảm bảo các quyền cơ bản và tự do chính trị. Đối với
các tổ chức XHDS cần thiết lập cơ sở nền tảng pháp lý hiệu quả, bảo vệ các quyền
chính trị và dân sự cho cá nhân và nhóm xã hội và được đảm bảo bởi hiến pháp.

8
Bên cạnh các đặc điểm của XHDS nói chung như đã phân tích ở trên, thì các tổ
chức XHDS ở nông thôn Việt Nam còn mang một số đặc điểm như sau:
- Các tổ chức XHDS ở Việt Nam có sự thấm nhuần về văn hóa cộng đồng, tính
đoàn kết, tương trợ và đồng thuận xã hội cao, có mầm mống trong xã hội làng xã xưa.
- Có sự hình thành các tổ chức XHDS, hoặc là để đấu tranh chính trị, hoặc để
bảo vệ quyền lợi xã hội trong đời sống trước sự áp đặt của cường quyền.
- Các tổ chức XHDS hoạt động trong thể chế một đảng cầm quyền, do đó chúng
mang sắc thái của tổ chức chính trị - xã hội và trong hệ thống chính trị. Do đó các tổ
chức XHDS mang tính trung gian 2 mặt.
- Các tổ chức XHDS phát triển dựa trên nền kinh tế nhiều thành phần, định
hướng xã hội chủ nghĩa; đây là điểm khác biệt so với các tổ chức XHDS ở phương
Tây.
- Các tổ chức XHDS ở Việt Nam cơ bản không mang tính đối kháng trong nó và
đối lập với Nhà nước. Chúng có tính đồng thuận và đoàn kết xã hội khá cao.
- XHDS là khái niệm mới mẻ, tuy nhiên những nền móng của XHDS ở Việt
Nam đã tồn tại từ ngày xưa, trong các cộng đồng làng xã.
1.1.4- Chức năng
- Là cầu nối, kênh truyền dẫn tiếng nói, nguyện vọng của người dân đến với
nhà nước hay nói cách khác, là xã hội hóa các cá nhân, nối cá nhân với hệ thống xã hội.
- Tham gia hoạch định các chủ trương, chính sách của nhà nước, phối hợp với
nhà nước trong hoạch định, thực hiện và giám sát thực hiện các chính sách, góp phần
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý.
- Tổ chức phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách cũng như việc
thực hiện chính sách, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, kiểm soát và giám sát
hành vi của đội ngũ công chức nhằm góp phần chống quan liêu, tham nhũng, nâng cao
hiệu lực và hiệu quả của nhà nước.
9
- Phát huy các nguồn lực và tính năng động, sáng kiến của các tầng lớp dân
cư, tham gia hoạt động cung cấp dịch vụ công như giáo dục, y tế, văn hoá, khoa học,

bảo vệ môi trường, xoá đói giảm nghèo,… tạo điều kiện nâng cao chất lượng cuộc
sống của mỗi người và của toàn xã hội.
Cả bốn chức năng trên đều quan trọng và có quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc
xem nhẹ một trong các chức năng đó biểu hiện sự nhận thức không đúng về vai trò,
chức năng của xã hội dân sự và ảnh hưởng đến sự ổn định, phát triển của xã hội.
Mục tiêu của xã hội dân sự hiện đại là phát triển và hoàn thiện con người, coi đó là
điều kiện để phát triển cộng đồng, xã hội và nhân loại. Sự phát triển của xã hội dân sự
hướng tới những giá trị tiến bộ chung của nhân loại; đồng thời, phụ thuộc vào tính giai
đoạn, đặc điểm lịch sử cụ thể của từng nước cũng như hình thức, kiểu nhà nước và hệ
thống chính trị của mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, xã hội dân sự là một khu vực không thuần nhất, tính đồng thuận
không cao và thiếu tính nhất quán. Mặt khác, bản thân xã hội dân sự cũng có những
giới hạn và gặp phải một số thách thức nhất định, đó là khi các hiệp hội, hội, tổ chức
cộng đồng chỉ chăm lo đến lợi ích cục bộ của mình mà không quan tâm đến lợi ích
toàn xã hội. Khi đó, tính tự chủ, tự nguyện và tự quản của xã hội dân sự sẽ có nguy cơ
tạo ra các “lệ” riêng, cản trở việc thực thi chính sách và pháp luật của Nhà nước, hạn
chế sự phát triển chung của xã hội. Vì vậy, các thể chế của xã hội dân sự cần phải được
quản lý và định hướng bằng pháp luật của nhà nước, nhằm tạo ra một môi trường dân
chủ, lành mạnh cho sự phát triển hài hoà của toàn xã hội. Nói cách khác, điều kiện để
hình thành một xã hội dân sự lành mạnh là phải có một nhà nước pháp quyền vững
mạnh, có hiệu lực và hiệu quả để xây dựng khung pháp luật, tạo môi trường thuận lợi,
bảo vệ và trợ giúp cho xã hội dân sự, phục vụ xã hội dân sự.
10
1.2- Vị trí của các tổ chức XHDS trong mối quan hệ Nhà nước - Khu
vực tư nhân - Các tổ chức XHDS
1.2.1. Trong mối quan hệ với Nhà nước
Như chúng ta đã nói, một trong những chức năng của xã hội dân sự là cầu nối
giữa cá nhân với nhà nước. Nhà nước pháp quyền trong xu thế phát triển ngày càng có
tính phổ biến của nền chính trị hiện đại đã thể hiện những ưu thế, tính hiệu quả trong
việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, dân chủ hóa xã hội. Nhưng, nhà nước

cũng không phải là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi vấn đề của sự phát triển xã
hội. Bản thân nhà nước pháp quyền cũng gặp phải những giới hạn và thách thức nhất
định, như nguồn lực cần thiết để tổ chức và vận hành khá lớn, phải có những điều kiện
kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định và việc xây dựng nhà nước đó là một quá trình lâu
dài, khó khăn và phức tạp. Mâu thuẫn giữa tính bắt buộc, quy chuẩn có giới hạn của
pháp luật và sự phong phú, sinh động, đa dạng của nhu cầu mọi mặt của cá nhân cũng
như của xã hội bắt đầu xuất hiện. Pháp luật là tối thượng, nhưng trong không ít trường
hợp, khi đã nắm được quyền lực công, các tổ chức và cá nhân được trao quyền trở nên
quan liêu, tha hóa, tự đặt mình lên trên xã hội. Thậm chí, những người cai trị "bảo đảm
quyền này của họ bằng những đạo luật đặc biệt, những đạo luật khiến cho họ trở thành
đặc biệt thần thánh và đặc biệt bất khả xâm phạm. Trong tình huống này, tính tối
thượng của pháp luật có thể lại là mối nguy hiểm cho xã hội.
Quá trình phát triển của xã hội hiện đại cho thấy một thực tế hiển nhiên là các
cơ quan nhà nước và đội ngũ công chức nhà nước, dù hết sức tận tụy cống hiến hay có
tinh thần vì công chúng như thế nào đi chăng nữa, thì cũng không thể dự kiến trước
được tất cả các hàng hoá công cộng và dịch vụ mà các công dân muốn có. Việc xuất
hiện những biện pháp thay thế của các tổ chức quần chúng, tổ chức phi chính phủ và tư
nhân có thể giúp lấp đi những khoảng trống trong việc cung cấp hàng hoá công cộng,
cũng như cung cấp những hàng hoá và dịch vụ công nào mà các cá nhân muốn trả bằng
11
tiền của riêng họ. Các đoàn thể nhân dân, các hội có thể vừa là những cộng sự, vừa là
những đối thủ cạnh tranh trong việc cung cấp các dịch vụ công.
Cuối cùng chúng ta phải khẳng định rằng: “Không thể có “xã hội dân sự” nếu
không có “Nhà nước pháp quyền”, ngược lại, “nhà nước pháp quyền”không thể
hoạt động tốt, nếu không có “xã hội dân sự”.
Tóm lại, XHDS và Nhà nước thường có hai quan hệ chủ yếu sau đây cần khẳng
định:
- XHDS là một đối tác bình đẳng với nhà nước, cùng tham gia hoạch định chính
sách, đồng thời thực hiện và giám sát việc thực hiện các chính sách của nhà nước. Điều
quan trọng ở đây là cùng bình đẳng tham gia các chủ trương chính sách cơ sở, mà

XHDS không phải là “cánh tay nối dài” của nhà nước;
- XHDS là đối quyền với quyền lực nhà nước. Đối quyền ở đây không hoàn
toàn là đối lập, có người gọi là đối trọng, mang tính phản biện xã hội nhằm hoàn thiện
các chính sách của nhà nước. Tại nhiều nước trên thế giới, vai trò của XHDS rất đặc
biệt. Đây là nơi thể hiện quyền tự do nhiều mặt của công dân: Tự do lập hội, ra hội, tự
do ngôn luận…Về mặt ý nghĩa chính trị xã hội thì sự xuất hiện của XHDS - Có hoạt
động của các tổ chức phi chính phủ - Là một thước đo đánh giá trình độ văn minh, tiến
bộ xã hội. Nó nói lên tính đa dạng của thiết chế xã hội và chứng tỏ độ mở về dân chủ
trong xã hội. Không những thế, đứng về mặt bằng phát triển thì nó góp phần bảo đảm
ổn định xã hội, san sẻ trách nhiệm với nhà nước. Các hoạt động của NGO trong một
XHDS phát triển lành mạnh sẽ tạo nhiều sự đồng thuận trong xã hội, thêm động lực
cho phát triển bền vững.
1.2.2- Trong mối quan hệ với khu vực tư nhân
Trong một xã hội dân chủ, thì XHDS cũng như thị trường kinh tế đều là do các
tư nhân tổ chức và điều hành, mà không bị nhà nước không chế, lũng đoạn. Thế nhưng
có sự khác biệt về động cơ thúc đẩy hoạt động, đó là XHDS không nhằm tìm kiếm lợi
12
nhuận; trong khi đó thì các công ty, xí nghiệp trong khu vực Thị trường kinh tế chỉ
hoạt động với mục đích cốt yếu là để kiếm lời, để làm giàu cho bản thân và cho doanh
nghiệp của mình. Mặt khác, Thị trường kinh tế còn bị nhà nước kiểm soát để ngăn
ngừa nạn độc quyền, sự khai thác bóc lột nhân công, hay gây xáo trộn thị trường tiêu
thụ v.v…Tuy nhiên, các doanh nghiệp lại hỗ trợ tài chính cho các hoạt động từ thiện,
nhân đạo hay cho ngành giáo dục, văn hóa… Việc này được nhà nước khuyến khích
bằng cách cho miễn phải đóng thuế. Như vậy, chúng ta thấy giữa khu vực thị trường và
các tổ chức XHDS có sự phối hợp với nhau, cùng nhau chia sẻ những vấn đề của xã
hội với Nhà nước.
1.3- Các hình thức cơ bản của các tổ chức XHDS nói chung và ở nông
thôn nói riêng
Một cách khái quát không thể phủ nhận được với XHDS đó là một bước tiến
của loài người trong tổ chức của cộng đồng, bên cạnh sự tiến bộ của các thiết chế nhà

nước ngày càng hợp lý thì xã hội cũng hình thành một loạt các thiết chế xã hội da dạng
phong phú, hợp với xu thế phát triển mà các lý luận về chủ nghĩa xã hội của Chủ nghĩa
Mác đã nói: Nhà nước sẽ nhỏ đi và xã hội sẽ lớn lên. Vai trò của tự quản trong cộng
đồng mạnh lên là một chặng đường thăng tiến đáng kể của nhân loại. Vai trò tự quản
ấy chính là nằm ở các tổ chức xã hội với thiết chế riêng bên cạnh thiết chế nhà nước đó
là nhân tố bộ phận hợp thành XHDS.
Các tổ chức XHDS rất đa dạng về loại hình, tuy nhiên trong khuôn khổ luận văn
này chúng ta phân tích các hình thức cơ bản của các tổ chức XHDS trong nông thôn
hiện nay gồm 04 nhóm, bao gồm:
Nhóm 1: Các tổ chức xã hội có tính đại diện giới, ở Việt Nam còn gọi là các tổ
chức quần chúng hay là các tổ chức chính trị xã hội; bao gồm các tổ chức thuộc hệ
thống Mặt trận tổ quốc.
13
Nhóm 2: Các tổ chức xã hội có tính đại diện nghề nghiệp, ngành, lĩnh vực. Ở
Việt Nam thường gọi là các tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp hay là các tổ chức
xã hội nghề nghiệp; mà đại diện là các Hội, Hiệp Hội…
Nhóm 3: Các tổ chức Phi Chính phủ (NGO), hay thường có tên gọi là các Quỹ.
Đây là loại hình rất đa dạng và phong phú. Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay, có
200 quỹ có phạm vi hoạt động toàn quốc hoặc liên tỉnh như: Quỹ chử thập đỏ, Quỹ bảo
trợ nạn nhân chất độc da cam, Quỹ khuyến học, Quỹ tình thương…Ở từng địa phương,
tùy tình hình của từng địa phương mà chính quyền cũng đã cho phép thành lập hàng
trăm tổ chức các loại quỹ xã hội, quỹ từ thiện
Nhóm 4: Các tổ chức cộng đồng; đây là các tổ chức mang tính chất “phi chính
thức”, do người dân tự lập ra trong các cộng đồng dân cư.
1.4- Vai trò của các tổ chức XHDS:
1.4.1- Đối với phát triển kinh tế xã hội nói chung:
Ở nước ta, trong công cuộc đổi mới, cùng với sự phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và dân chủ hoá đời sống xã hội, Nhà nước đã từng
bước chuyển sang thực hiện chức năng định hướng, bảo trợ, tạo lập môi trường và điều
kiện thuận lợi cho người dân được tự do phát triển sản xuất kinh doanh, tổ chức cuộc

sống. Nhờ đó, khu vực xã hội dân sự ngày càng có điều kiện phát triển, quan hệ xã hội
của người dân được tự do, cởi mở hơn; nhu cầu giao tiếp, liên hệ giữa các cá nhân có
điều kiện được thoả mãn; tính tích cực xã hội của người dân, của các đoàn thể nhân
dân, các hội, tổ chức phi chính phủ, các nhóm xã hội có tư cách pháp nhân và không có
tư cách pháp nhân được phát huy mạnh mẽ, góp phần vào sự phát triển của đất nước.
Mặt khác, xu thế đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng đa phương hoá,
đa dạng hoá trong quan hệ quốc tế đòi hỏi các quan hệ đối ngoại không chỉ được thực
hiện theo con đường của Nhà nước, mà còn bằng các hình thức đối ngoại nhân dân
thông qua các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ.
14
Nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức quần
chúng, các hội trong sự nghiệp đổi mới đất nước, ngay từ năm 1990, trong Nghị quyết
số 8B-NQ/ HNTW (khoá VI), Đảng ta đã chủ trương: “Trong giai đoạn mới, cần thành
lập các hội đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống nhân dân hoạt
động theo hướng ích nước, lợi nhà, tương thân, tương ái. Các tổ chức hội quần chúng
được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài chính trong
khuôn khổ pháp luật”. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Mở rộng và
đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức
xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hoá, hữu nghị, từ thiện - nhân đạo…”
Hiện nay, ở nước ta, bên cạnh các đoàn thể nhân dân có truyền thống lịch sử gắn
với quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, các hội, tổ chức phi chính phủ đã, đang được
thành lập và hoạt động trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội với nhiều mô hình rất đa
dạng, phong phú. Tính đến tháng 6 - 2005, đã có 320 hội hoạt động trên phạm vi toàn
quốc, hơn 2.150 hội có phạm vi hoạt động tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
và hàng chục vạn hội, tổ chức cộng đồng tự quản, tổ hoà giải có phạm vi hoạt động tại các
quận, huyện, thị xã, thị trấn, xã, thôn, làng, ấp, bản… Đồng thời, hiện có khoảng 600 tổ
chức phi chính phủ nước ngoài có quan hệ với Việt Nam, trong đó có gần 350 tổ chức có
chương trình, dự án đối tác với Việt Nam. Nhiều tổ chức đang đề nghị Chính phủ Việt
Nam cho lập các văn phòng đại diện, văn phòng dự án…
Ngoài các hội, tổ chức phi chính phủ được thành lập theo quy định của pháp

luật, có tư cách pháp nhân, còn có các hội quần chúng, tổ chức cộng đồng có tính
truyền thống hoặc do người dân tự nguyện thành lập, không có tư cách pháp nhân (hay
còn gọi là hội không chính thức), như tổ, nhóm tự quản, hội đồng hương… và các câu
lạc bộ.
Tuỳ tính chất và chức năng, nhiệm vụ của mỗi loại hình tổ chức, bên cạnh việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên, thành viên, các tổ chức này đã có
nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất nước trên nhiều phương diện:
15
- Các tổ chức có tính chất chính trị - xã hội đã tập hợp, giáo dục và phản ánh
yêu cầu, nguyện vọng cũng như bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của quần chúng
nhân dân, thực sự là cầu nối giữa nhân dân và nhà nước; tham gia có hiệu quả vào việc
xây dựng và thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát huy và thực
hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, giám sát đối với các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán
bộ, công chức; tư vấn và phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách của Nhà
nước.
Trong điều kiện hệ thống chính trị do một Đảng duy nhất lãnh đạo và đóng vai
trò hạt nhân, dễ xảy ra nguy cơ đội ngũ cầm quyền sẽ xa dân, quan liêu, lạm quyền…
Vì vậy, các tổ chức chính trị – xã hội là những thể chế thích hợp để vừa đảm bảo sự
lãnh đạo của Đảng, vừa tránh được mọi nguy cơ nói trên, tức là thực hiện sự giám sát
và phản biện xã hội đối với Đảng và Nhà nước. Với ý nghĩa đó, các tổ chức chính trị –
xã hội không chỉ có chức năng tập hợp, động viên quần chúng, phản ánh tâm tư,
nguyện vọng của đoàn viên, hội viên, mà còn có chức năng thực hành dân chủ, giám
sát, phản biện xã hội nhằm bảo đảm cho sự lãnh đạo và điều hành đất nước tránh được
những sai lầm, khuyết điểm do tình trạng quan liêu, chủ quan duy ý chí gây nên.
- Xã hội dân sự với vai trò phản biện và vai trò trọng tài:
Xã hội dân sự là một xã hội tự cân bằng. Chính sự tự cân bằng của xã hội đã tạo
ra chức năng và nội dung của hoạt động nhà nước. Ở mỗi một thời đại, mỗi một thể chế
chính trị hoặc mỗi một trình độ phát triển, nội dung của xã hội dân sự khác nhau. Gần
đây, khi nói đến xã hội dân sự người ta vẫn nói đến các tổ chức độc lập với nhà nước,
tức là các tổ chức phi chính phủ.

Xã hội dân sự là xã hội phi nhà nước. Xã hội dân sự tồn tại song song với nhà
nước. Nó có quy tắc văn hóa để hạn chế tất cả sự cực đoan, tất cả những hành vi không
phù hợp với lợi ích công cộng. Trong đời sống dân sự hàng ngày con người ít cần đến
nhà nước, con người có những tổ chức phi chính phủ để thể hiện những loại hình ý chí
khác nhau của cộng đồng, họ thương thảo với nhau và tạo ra sự đồng thuận xã hội.
16
Sẽ không thể có hoạt động phản biện xã hội nếu xã hội dân sự không được tôn
trọng hoặc không có được địa vị hợp pháp của nó. Bởi thứ nhất, phản biện là một
quyền tự nhiên, là tiếng nói của xã hội dân sự, xã hội không có địa vị hợp pháp thì có
nghĩa là quyền ấy cũng không hợp pháp. Vậy làm thế nào để xã hội thực hiện quyền
phản biện? Thứ hai, xã hội cũng chính là trọng tài của các cuộc phản biện, hay nói
đúng hơn là trọng tài giữa các khuynh hướng khác nhau tranh luận với nhau thông qua
phản biện, Sự đánh giá đúng sai được thể hiện bằng sự hoan hô của xã hội đối với từng
loại ý kiến, đối với từng mức độ chất lượng của ý kiến.Nếu xã hội không được tôn
trọng, xã hội không có địa vị hợp pháp thì liệu xã hội có thể tự do thể hiện sự hoan hô
của mình đối với những ý kiến có chất lượng không? Và khi đó phản biện xã hội liệu
có còn tác dụng? Cho nên, vấn đề ở đây là chúng ta cần phải xác định rõ vai trò và địa
vị của xã hội dân sự để có được quan niệm đúng đắn về xã hội dân sự, dựa vào đó mà
thức tỉnh xã hội về những quyền hợp pháp của mình, đồng thời thức tỉnh nhà nước về
việc tôn trọng địa vị hợp pháp của xã hội dân sự.
- Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp được thành lập nhằm mục đích phối hợp sức
mạnh sản xuất kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh, góp phần xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tư vấn thẩm định, phản biện xã hội đối với các
chính sách, công trình kinh tế của nhà nước, bảo vệ hàng hoá, chất lượng sản phẩm;
tìm hiểu và nắm bắt nhu cầu thị trường, bảo vệ người tiêu dùng, thương lượng giải
quyết các tranh chấp thương mại. Vụ kiện áp đặt Luật chống bán phá giá cá Basa và cá
da trơn, bán tôm vào thị trường Hoa Kỳ… của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản
Việt Nam (VASEP) là ví dụ điển hình. Đồng thời, nhiều tổ chức này đã bước đầu đảm
nhiệm tương đối có hiệu quả việc cung ứng một số dịch vụ công phục vụ xã hội, góp
phần thực hiện chủ trương xã hội hoá của Đảng và Nhà nước.

- Các hội, tổ chức phi chính phủ đã góp phần khai thác mọi nguồn lực để phát
triển kinh tế, văn hoá - xã hội; vận động hội viên tích cực tham gia vào nhiệm vụ xây
dựng xã hội, phát triển kinh tế; phát huy tính năng động, tính tích cực xã hội của mỗi
17
công dân; góp phần cùng Nhà nước giải quyết những khó khăn về kinh tế - xã hội do
chiến tranh, do nền kinh tế chậm phát triển cũng như do sự phân hoá giàu nghèo trong
quá trình phát triển kinh tế thị trường gây nên.
- Mặt khác, các tổ chức đó còn góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân,
tăng cường sự hiểu biết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các quốc gia trong việc giải
quyết các vấn đề có tính chất toàn cầu, như bảo vệ môi trường sinh thái, chống đói
nghèo, giảm nhẹ hậu quả do thiên tai…
Tuy nhiên, hiện vẫn còn một số cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức cũng như
người dân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng và tác dụng của khu vực xã hội
dân sự trong đời sống xã hội; có biểu hiện xem nhẹ vai trò, tác dụng của các đoàn thể
nhân dân, các hội; chậm ban hành, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức,
hoạt động và quản lý hội cho phù hợp với tình hình mới. Mặt khác, bản thân các đoàn
thể nhân dân, các hội chưa phát huy đầy đủ chức năng đại diện cho lợi ích của quần
chúng nhân dân và hội viên của mình. Một số tổ chức đoàn thể nhân dân, hội còn mang
tính hình thức, hoạt động kém hiệu quả, chưa đáp ứng được nguyện vọng và lợi ích của
đoàn viên, hội viên, hoặc có biểu hiện trông chờ vào sự tài trợ của nhà nước; “hành
chính hoá” về mặt tổ chức và hoạt động. Do đó, khả năng thu hút quần chúng của các
tổ chức này còn hạn chế; việc tham gia cung cấp dịch vụ công chưa được triển khai
đúng với tôn chỉ và mục đích, thậm chí có trường hợp chạy theo lợi nhuận kinh tế đơn
thuần.
1.4.2- Đối với phát triển kinh tế xã hội nông thôn nói riêng
Trước hết, tỷ lệ dân số sống ở nông thôn đã giảm đi, từ 75,8% năm 2000 xuống
73% năm 2005, tức giảm bình quân 0,7%/năm, trong khi tỷ lệ dân số sống ở thành thị
đã tăng lên, từ 24,2% năm 2000 lên 27% năm 2005. theo tổng cục Thống kê, số liệu sơ
bộ năm 2009 là tỷ lệ dân số trong nông thôn là 70,40%.
18

Mặc dù tỷ lệ này có giảm nhưng giảm rất chậm và đang có hiện tượng một bộ
phận dân cư không nhỏ tuy sống ở nông thôn nhưng không còn là nông dân vì không
còn đất canh tác do đất canh tác đã được giải tảo cho các dự án khu công nghiệp, chế
xuất, thậm chí không có việc làm. Theo tài liệu của Hội nông dân Việt Nam, mỗi năm
có khoảng 200.000 ha đất bị thu hồi, kéo theo 1,5 triệu nông dân mất đất, mất việc làm,
mất thu nhập.
Nông nghiệp là một ngành mà chúng ta phải duy trì và phát triển, không phải vì
lợi thế cạnh tranh nào cả, mà vì phát triển nông nghiệp là chuyện bắt buộc phải làm,
không là chết. Người ta tính đến năm 2050, thế giới cần lương thực gấp đôi hiện nay,
đến cuối thế kỷ thì nhu cầu tăng gấp ba. Việt Nam có 86 triệu dân, con số không hề
nhỏ. Phải xây dựng được nền nông nghiệp ít nhất là đảm bảo an ninh lương thực của
Nhà nước, còn nếu biết làm tốt hơn thì càng có lợi về kinh tế.
Thu nhập thấp, mất đất, không có việc làm. Khoảng cách thu nhập, chênh lệch
mức sống giữa thành thị và nông thôn là rất lớn. Nông dân ở nông thôn không được
tiếp cận rộng rãi với giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội, không có tích lũy. Nhà có người
ốm đi viện một lần là của cải mất hết, trắng tay. Thêm một đứa con đi học xa, học lên
cao là cả nhà lao đao.
Việc làm cho nông dân là vấn đề nghiêm trọng đối với Việt Nam và cũng là vấn
đề lớn với thế giới. Nhìn chung, thế giới càng công nghiệp hóa càng thừa lao động, bởi
vì công nghiệp và dịch vụ sử dụng lao động ít hơn nông nghiệp. Nói cách khác, công
nghiệp và dịch vụ không thể “nuốt” hết số lao động dôi dư. Thừa lao động nông nghiệp
là một trong các kết quả của quá trình phát triển.
Ở ta, nông thôn thừa khoảng 50% lao động, nhưng lại không phải là kết quả của
sự phát triển công nghiệp, mà do họ làm nông nghiệp thì không có đất, không làm nông
nghiệp thì chẳng biết dùng họ vào việc gì.
Như vậy, vấn đề quan trọng nhất của phát triển là phải có sự tham gia của cộng
đồng, của người dân. Các tổ chức phi chính phủ đến Việt Nam đều nói rằng nông thôn
19
Việt Nam không có cộng đồng. Ngày xưa, chúng ta đã có cộng đồng làng xã, thôn xóm
đấy thôi, mà đại diện là những lý trưởng, xã trưởng. Bây giờ thì chỉ còn mấy ông bà

cán bộ - ông bí thư, chủ tịch xã, chủ tịch hợp tác xã, bà tổ trưởng phụ nữ… Người dân
chẳng được tham gia gì cả.
Chúng ta cần phải hướng dẫn, phải tạo cơ chế để giúp nông dân tổ chức lại được
với nhau, xây dựng các doanh nghiệp xã hội (social entrepreneur). Nhà nước không thu
thuế đối với họ. Dĩ nhiên, họ cũng có một mức lãi nào đó, nhưng về bản chất, họ là một
hệ thống các tổ chức chăm lo phát triển xã hội. Hệ thống đó là một phần của XHDS.
1.5- Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển các tổ
chức XHDS
Luận văn phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của
các tổ chức XHDS báo gồm: Các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài.
1.5.1- Các nhân tố bên ngoài:
1.5.1.1- Sự phát triển kinh tế thị trường:
Đây là nhân tố tiền đề kinh tế của sự phát triển các tổ chức XHDS. Có thể nói,
cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, nền kinh tế của Việt Nam đã có những
nhân tố quan trọng đối với sự thay đổi và phát triển; tỷ lệ tăng trưởng cao cùng với việc
cải cách theo hướng mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế đã giúp đại bộ phận dân số thoát
nghèo. Đây là một trong những nhân tốt đảm bảo sự ủng hộ đáng kể của người dân đối
với chính quyền các cấp. Nền kinh tế - xã hội Việt Nam có tính ổn định và tỷ lệ tăng
trưởng cao.
Mặc dù vậy, với điểm xuất phát thấp, các vấn đề chính mà chúng ta đang phải
đối mặt là tình trạng nghèo đói, sự chênh lệch giàu – nghèo và một số xung đột trong
nước. Đây là những hạn chế đối với sự hình thành và phát triển các tổ chức XHDS.
Để đảm bảo được sự tác động tích cực của kinh tế thị trường lên sự phát triển
các tổ chức XHDS, chúng ta phải giải quyết thấu đáo 3 vấn đề chủ yếu như sau:
20
+ Thực hiện có hiệu quả chiến lược xóa đói giảm nghèo, hạn chế tối đa bất bình
đẳng trong xã hội. Mục tiêu xóa đói giảm nghèo luôn được Chính phủ, các tổ chức
XHDS và toàn xã hội đánh giá cao; tuy nhiên để giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải có
sự vào cuộc mạnh mẽ và đồng bộ từ các cấp, các ngành và toàn xã hội. Việc thực hiện
có hiệu quả chiến lược xóa đối giảm nghèo, hạn chế tố đa bất bình đẳng trong xã hội sẽ

tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi cho các tổ chức XHDS phát triển.
+ Khuyến khích làm từ thiện và thường xuyên nâng cao trách nhiệm xã hội của
các doanh nghiệp. Quan điểm về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã xuất hiện ở
Việt Nam, nhưng chủ yếu bắt nguồn từ các mối quan hệ với các công ty đa quốc gia
đầu tư vào nhà máy ở trong nước. Các công ty trong nước đã bắt đầu ý thức về khía
cạnh tác động tiêu cực của phát triển công nghiệp và các tổ chức XHDS ở Việt Nam
cũng đã phản ánh các doanh nghiệp về địa điểm nhà máy, do có sự phản đối của người
dân. Chính vì vậy việc thường xuyên nâng cao trách nhiệm xã hội của các doanh
nghiệp và khuyến khích làm từ thiện là vấn đề cốt lõi để xử lý hài hòa các mối quan hệ
lợi ích trong xã hội.
+ Tạo điều kiện thuận lợi để các NGOs quốc tế đến và hoạt động. Như chúng ta
biết, kinh tế thị trường bên cạnh những mặt tốt vẫn tồn tại nhiều méo mó, ảnh hưởng
đến đời sống xã hội. Các NGOs quốc tế có nhiệm vụ tổ chức các chương trình, dự án;
đặc biệt ở các lĩnh vực và địa bàn khó khăn, do đó việc tạo điều kiện thuận lợi để các
NGOs quốc tế đến và hoạt động tại khu vực nông thôn sẽ tạo ra nhiều thuận lợi để phát
triển các tổ chức XHDS. Thông qua việc thực hiện các chương trình, dự án mà các
NGOs quốc tế phối hợp cùng với các tổ chức XHDS trong nước sẽ nâng cao trình độ
và các giá trị của các tổ chức đó.
21
1.5.1.2- Nhà nước pháp quyền:
Bên cạnh kinh tế thị trường, sự phát triển các tổ chức XHDS còn bị chi phối bởi
vấn đề nhà nước pháp quyền. Đây là nhân tố tiền đề chính trị, pháp lý của các tổ chức
XHDS.
Để đảm bảo được nhân tố này cần có các yêu cầu như sau:
+ Bộ máy nhà nước và sự phân cấp trong bộ máy nhà nước. Điều này đòi hỏi
phải thực hiện tốt các chỉ tiêu của Chính phủ được chuyển giao cho các cơ quan chức
năng cấp dưới. Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã tiến hành phân cấp triệt
để các lĩnh vực hoạt động của mình, tuy nhiên kết quả của hoạt động này cần phải xem
xét ở trên góc độ hiệu quả và khả năng thực hiện của cấp dưới.
+ Hoạt động của Nhà nước phải hiệu quả. Mục này chúng ta xem xét việc nhà

nước có khả năng thực hiện chức năng đã được quy định. Nhà nước Việt Nam hoạt
động khá trơn tru, nhưng không phải lúc nào cũng hiệu quả. Đã có nhiều bước cải cách
hệ thống hành chính sao cho hiệu quả hơn và dễ tiếp cận hơn đối với công chúng,
chẳng hạn việc áp dụng thành công cơ chế một cửa để công dân thực hiện các thủ tục
hành chính liên quan. Chính phủ điện tử đang bắt đầu phát triển với số lượng truy cập
và các dịch vụ được cung cấp qua mạng ngày càng tăng. Tuy nhiên, bộ máy hành chính
vẫn gặp nhiều vấn đề, sự liên kết hạn chế giữa các ngành và cơ quan. Ngoài ra hệ
thống lương dựa trên thâm niên không khuyến khích được tính hiệu quả trong công
việc của cán bộ, công chức.
+ Khuyến khích cả Nhà nước và toàn xã hội góp phần hoàn thiện, đề cao Hiến
pháp và pháp luật. Kể từ thập niên 90 của thế kỷ trước, nguyên tắc quản trị nhà nước
đã cơ bản chuyển từ sự cai trị bằng pháp luật sang sự cai trị của pháp luật với nhiều văn
bản pháp luật được Quốc hội, Thủ tướng và Chính phủ thông qua. Tuy nhiên, việc thực
hiện và thi hành các luật và nghị định mới còn chậm và những quyền cơ bản và hệ
thống mới trong lĩnh vực hành chính và luật pháp còn chưa được phổ biến đến đại bộ
22
phận dân chúng, đặc biệt là ở vùng nông thôn và những đối tượng nghèo đói. Chất
lượng của các luật vẫn còn yếu và không đồng nhất, quá trình xây dựng các văn bản
pháp quy chưa khuyến khích được sự tham gia ý kiến của các cơ quan nhà nước liên
quan, các chuyên gia và các tổ chức xã hội; các văn bản dưới luật không được chuẩn bị
nhất quán với luật chính thức, các chính quyền địa phương đôi khi ban hành quá nhiều
văn bản pháp quy dẫn đến sự phấn tán quyền lực pháp lý và các thủ tục hành chính còn
cồng kềnh và quá chặt chẽ dẫn đến lạm dụng quyền lực và tham nhũng.
1.5.2- Các nhân tố bên trong:
1.5.2.1- Sự tham gia của thành viên các tổ chức XHDS
Trong đó cần đánh giá cả sự đa dạng về số lượng và chất lượng tham gia. Đây là
nhân tố nội tại bên trong các tổ chức XHDS, nó quyết định đến sự ổn định và phát triển
các hoạt động của các tổ chức.
Để đáp ứng được nhân tố này cần chú ý các vấn đề như sau:
+ Thu hút hội viên tham gia với số lượng lớn và chất lượng hội viên ngày càng

cao. Đòi hỏi của xã hội và người dân đối với hoạt động của các tổ chức XHDS ngày
càng cao; do đó, để các hoạt động của các tổ chức ngày càng có chất lượng thì việc
tham gia một cách rộng rãi về thành viên, cũng như trình độ của hội viên là rất đáng
được quan tâm.
+ Nội dung, chương trình hoạt động của tổ chức phải đáp ứng được nhu cầu của
hội viên. Sau khi thu hút được sự tham gia đông đảo của các hội viên, thì việc đề ra các
nội dung, chương trình hoạt động mang tính sống còn đối với các tổ chức XHDS. Với
đặc điểm, sự tham gia của người dân vào các tổ chức là mang tính tự nguyện do đó,
nếu các nội dung hoạt động không đáp ứng được một nhu cầu nào đó, thì hội viên sẽ
không nhiệt tình thậm chí từ bỏ việc sinh hoạt trong tổ chức của mình.
1.5.2.2- Sự trưởng thành và trình độ phát triển của bản thân các tổ chức XHDS.
Để đảm bảo vấn đề này, cần chú ý:
23
+ Tăng cường quyền lực cho hội viên và công dân.
+ Cơ chế tổ chức phải chặt chẽ, linh hoạt.
+ Đa dạng hóa trong việc huy động các nguồn lực hoạt động của các tổ chức và
đảm bảo sử dụng các nguồn lực đó một cách có hiệu quả nhất.
+ Duy trì các giá trị của tổ chức như: Tính dân chủ, tính minh bạch, tính khoan
dung và tính phi bạo lực.
1.5.2.3- Vai trò của người lãnh đạo, người đứng đầu của các tổ chức.
Đây là yếu tố hết sức cơ bản đối với sự phát triển của bất cứ một tổ chức nào; đặc
biệt đối với các tổ chức XHDS có cơ cấu tổ chức không thực sự chặt chẽ, thì việc phát huy
vai trò của người lãnh đạo sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động của các tổ chức.
1.6- Kinh nghiệm về sự hình thành và phát triển các tổ chức XHDS ở
nông thôn Thái Lan
1.6.1- Một số vấn đề chung về môi trường hoạt động của XHDS ở Thái Lan
1.6.1.1- Nguồn gốc lịch sử của xã hội dân sự Thái Lan
Cũng như các xã hội nông nghiệp truyền thống, trong lòng xã hội Thái từ xa xưa đã
tồn tại sự cố kết và những mối liên hệ chặt chẽ theo chiều ngang ở cấp độ vi mô, làng bản,
còn gọi là các thể chế không có kết cấu. Người dân cư xử và hợp tác trên cơ sở quan hệ

thân tộc và những nguyên tắc tương trợ lẫn nhau, bao gồm đổi công trong công việc đồng
áng như trồng cấy, gặt hái mùa màng, xây cất nhà cửa và chuẩn bị các nghi lễ, hội hè…
Nhà chùa đã trở thành trung tâm của đời sống xã hội và những giao dịch xã hội nói
trên. Chính vì vậy yếu tố đầu tiên và trước hết cần đề cập là Phật giáo. Với tư cách là Quốc
đạo, bao trùm mọi lĩnh vực đời sống chính trị - xã hội cả trong thời kỳ hiện đại, Phật giáo
Thái Lan đã cấu thành một bộ phận quan trọng của xã hội dân sự Thái Lan.
Bên cạnh các hoạt động từ thiện, tự nguyện của các Chùa và do các tổ chức Phật
giao tiến hành; còn có một số mô hình XHDS được coi là “bản địa” tồn tại từ nhiều thế kỷ
trước, đó là các tổ chức phục thiện của người Hoa như Hội ái hữu, Hội tương thân tương
24

×