Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

366 Kiểm toán các khoản nợ phải trả trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Kiểm toán và định giá Việt Nam thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.63 KB, 124 trang )

Luận văn tốt nghiệp
MỞ ĐẦU
Trên thế giới, dịch vụ kiểm toán được coi là một trong những dịch vụ có tính
chuyên nghiệp cao và có ý nghĩa lớn trong việc tạo lập một môi trường kinh doanh
minh bạch và hiệu quả. Ở Việt Nam, mặc dù hoạt động kiểm toán độc lập mới chỉ
thực sự xuất hiện từ sau khi chuyển đổi cơ chế kinh tế nhưng do đòi hỏi khách quan
của nền kinh tế cũng như sự khuyến khích phát triển của nhà nước, ngành dịch vụ
kiểm toán đã phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam. Cho tới nay, số lượng các công ty kiểm
toán đã tăng lên đáng kể, các dịch vụ cung cấp không ngừng được đa dạng hóa. Tuy
nhiên, kiểm toán tài chính vẫn được xem là một dịch vụ quan trọng hơn cả vì các Báo
cáo tài chính do các doanh nghiệp lập ra là đối tượng quan tâm của rất nhiều người.
Trong các phần hành của kiểm toán Báo cáo tài chính thì kiểm toán nợ phải trả là một
nội dung quan trọng vì nó có liên quan trực tiếp tới khả năng thanh toán và do đó
cũng ảnh hưởng tới sự tồn tại của đơn vị. Chính vì vậy, kiểm toán khoản mục nợ phải
trả được xem là một phần việc quan trọng đối với các công ty kiểm toán.
Công ty Kiểm toán và định giá Việt Nam là một trong những công ty có uy tín
lớn trong ngành kiểm toán. Qua thời gian thực tập tại công ty, em đã nắm bắt được
rất nhiều kiến thức thực tiễn liên quan đến kiểm toán Báo cáo tài chính nói chung và
kiểm toán khoản mục nợ phải trả nói riêng. Đây chính là cơ sở để em hoàn thành luận
văn tốt nghiệp với đề tài: “Kiểm toán các khoản nợ phải trả trong kiểm toán Báo
cáo tài chính do Công ty Kiểm toán và định giá Việt Nam thực hiện”. Trong phạm
vi luận văn, em xin tập trung đi sâu vào nghiên cứu kiểm toán các khoản phải trả nhà
cung cấp và vay ngắn hạn, vay dài hạn.
Nội dung của luận văn gồm 3 phần chính:
Phần 1: Cơ sở lí luận về kiểm toán khoản mục nợ phải trả trong kiểm toán Báo
cáo tài chính.
Đặng Thị Hương Giang 1 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
Phần 2: Kiểm toán các khoản nợ phải trả trong kiểm toán Báo cáo tài chính do
Công ty Kiểm toán và định giá Việt Nam (VAE) thực hiện.
Phần 3: Một số nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kiểm toán các


khoản nợ phải trả do Công ty Kiểm toán và định giá Việt Nam thực hiện.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo ThS. Phan
Trung Kiên cùng sự giúp đỡ của toàn thể các anh chị kiểm toán viên trong công ty đã
giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Hà Nội, tháng 6/2006
Đặng Thị Hương Giang 2 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
PHẦN 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC NỢ
PHẢI TRẢ TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
I. KHÁI QUÁT VỀ KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1. Khái niệm và mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính
1.1 Khái niệm kiểm toán báo cáo tài chính
Thuật ngữ “kiểm toán” mới chỉ thực sự xuất hiện và được sử dụng ở nước ta từ
hơn chục năm trở lại đây. Trên thế giới, có rất nhiều quan niệm về kiểm toán và cho
đến nay vẫn chưa có một quan niệm thống nhất. Song nhìn chung có thể khái quát
quan niệm hiện đại về kiểm toán như sau: “Kiểm toán là hoạt động xác minh và bày
tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ
thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có
trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực”.
Kiểm toán có thể phân loại dựa theo nhiều tiêu thức khác nhau: theo đối tượng
cụ thể, theo phương pháp áp dụng, theo quan hệ giữa chủ thể và khách thể kiểm
toán...Nếu căn cứ theo đối tượng cụ thể thì kiểm toán bao gồm ba loại: kiểm toán báo
cáo tài chính, kiểm toán nghiệp vụ (hoạt động) và kiểm toán liên kết. Trong đó kiểm
toán báo cáo tài chính được xem là loại hình kiểm toán lâu đời và có ý nghĩa nhất
ngay từ khi ra đời và phát triển “kiểm toán báo cáo tài chính là hoạt động xác minh
và bày tỏ ý kiến về sự trình bày trung thực và hợp lý của các bảng khai tài chính do
các kiểm toán viên chuyên nghiệp tiến hành theo luật định”.
1.2. Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính
Trong cơ chế thị trường, có rất nhiều người quan tâm đến tình hình tài chính và
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp: các cơ quan nhà nước cần có thông tin để điều

tiết vĩ mô nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật hay chính sách kinh tế nói chung đối
với mọi thành phần kinh tế, các nhà đầu tư cần có thông tin để có hướng đầu tư đúng
dắn, các khách hàng và nhà cung cấp cũng cần hiểu rõ về tình hình hoạt động của
doanh nghiệp để có quyết định kinh doanh phù hợp... Những thông tin quan trọng về
doanh nghiệp lại được phản ánh khá đầy đủ trên Báo cáo tài chính: “báo cáo tài chính
là hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được
Đặng Thị Hương Giang 3 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
chấp nhận) phản ánh các thông tin kinh tế tài chính chủ yếu của đơn vị” (Chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam số 200 - Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo
cáo tài chính). Do đó các bảng khai tài chính mà bộ phận quan trọng là các Báo cáo
tài chính trở thành đối tượng quan tâm của nhiều người. Tuy nhiên, để những thông
tin trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp thực sự hữu ích thì những thông tin đó
phải là những thông tin trung thực, hợp lý, phản ánh được khái quát tình hình tài
chính của doanh nghiệp. Do đó kiểm toán tài chính ra đời với ý nghĩa quan trọng là
tạo niềm tin cho những người quan tâm. Điều này là nhân tố quyết định chi phối mục
tiêu hoạt động của loại hình kiểm toán này.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 200 - Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản
chi phối kiểm toán báo cáo tài chính “mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính là
giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng báo cáo tài
chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp
nhận), có tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các
khía cạnh trọng yếu hay không?”. Như vậy có thể thấy rằng mục tiêu của kiểm toán
tài chính là nhằm đảm bảo báo cáo tài chính được trình bày trung thực và hợp lý xét
trên các khía cạnh trọng yếu chứ không đảm bảo rằng tất cả các thông tin trên báo
cáo tài chính đều là những thông tin trung thực vì hoạt động kinh tế của doanh nghiệp
rất đa dạng, các nghiệp vụ phát sinh nhiều, việc đảm bảo rằng tất cả các thông tin
trình bày trên báo cáo tài chính đều trung thực,hợp lý là điều rất khó khăn, tốn kém
và cũng không cần thiết đối với những người sử dụng Báo cáo tài chính.
Ngoài mục tiêu trên, “mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính còn giúp cho

đơn vị được kiểm toán thấy rõ những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao
chất lượng thông tin tài chính của đơn vị” (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200).
Những yếu điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ cũng như cách thức khắc phục được
kiểm toán viên trình bày trong thư quản lý.
Tuy nhiên, người sử dụng báo cáo tài chính cũng cần hiểu rằng “ý kiến của
kiểm toán viên làm tăng thêm sự tin cậy của báo cáo tài chính nhưng người sử dụng
báo cáo tài chính không thể cho rằng ý kiến của kiểm toán viên là sự đảm bảo về khả
năng tồn tại của doanh nghiệp trong tương lai cũng như hiệu quả và hiệu lực điều
Đặng Thị Hương Giang 4 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
hành của bộ máy quản lý” (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200, đoạn 12). Trên
thực tế đã xảy ra khá nhiều vụ kiện các công ty kiểm toán do quan niệm sai lầm này.
2. Phương pháp tiếp cận của kiểm toán báo cáo tài chính
Các cuộc kiểm toán được thực hiện bằng cách chia các báo cáo tài chính thành
từng phần nhỏ hoặc từng yếu tố cấu thành. Việc phân chia này giúp cho cuộc kiểm
toán được thực hiện dễ dàng hơn. Có hai cách cơ bản để phân chia các Báo cáo tài
chính thành các phần hành cơ bản: phân theo khoản mục hoặc phân theo chu trình.
Phân theo khoản mục là cách phân chia máy móc từng khoản mục hoặc nhóm
các khoản mục theo thứ tự trong các Báo cáo tài chính vào một phần hành. Cách phân
chia này đơn giản nhưng không hiệu quả do tách biệt những khoản mục ở vị trí khác
nhau nhưng lại có liên hệ chặt chẽ với nhau như: doanh thu và các khoản phải thu
khách hàng. Tuy nhiên hiện nay, cách thức tiếp cận này vẫn được phần lớn các công
ty kiểm toán ở Việt Nam áp dụng.
Phân theo chu trình là cách chia các loại nghiệp vụ và các khoản mục có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau vào cùng một phần hành. Ví dụ như các nghiệp vụ về tiền
lương, các khoản trích theo lương... đều nằm trong chu trình lao động và tiền lương.
Cách phân chia này hiệu quả hơn do đã tính đến mối liên hệ vốn có của các nghiệp vụ
và khắc phục được nhược điểm của phương pháp tiếp cận các báo cáo tài chính theo
khoản mục. Theo cách phân chia này, kiểm toán báo cáo tài chính thường gồm các
phần hành cơ bản sau: + Kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền

+ Kiểm toán tiền mặt (tại két, tại ngân hàng hoặc tiền đang chuyển)
+ Kiểm toán chu trình mua hàng – thanh toán
+ Kiểm toán chu trình tiền và nhân viên
+ Kiểm toán chu trình hàng tồn kho
+ Kiểm toán chu trình huy động – hoàn trả vốn
II. QUY TRÌNH KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC NỢ PHẢI TRẢ TRONG
KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1. Khái quát chung về khoản mục nợ phải trả
1.1 Nội dung khoản mục nợ phải trả
Nợ phải trả là các nghĩa vụ hiện tại của doanh nghiệp, phát sinh từ các giao dịch
và sự kiện đã qua mà doanh nghiệp sẽ phải thanh toán từ các nguồn lực của mình.
Đặng Thị Hương Giang 5 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
Nợ phải trả là một chỉ tiêu quan trọng góp phần hình thành nên tài sản của
doanh nghiệp, thể hiện mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp vào các nguồn lực bên
ngoài. Trên thực tế, không có một doanh nghiệp nào chỉ sử dụng hoàn toàn nguồn
vốn chủ sở hữu để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh vì hoạt động của
doanh nghiệp rất đa dạng, nguồn vốn chủ sở hữu có thể không đủ để đáp ứng yêu cầu
thanh toán của doanh nghiệp. Hơn nữa việc kết hợp sử dụng một cách đúng đắn giữa
nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn đi chiếm dụng là một cách thức hiệu quả giúp
doanh nghiệp mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên, nếu nợ phải trả không được quản lý chặt chẽ sẽ làm cho doanh
nghiệp mất cân đối về tài chính và mất khả năng thanh toán, đe dọa đến sự tồn tại của
doanh nghiệp.
Trong các khoản nợ phải trả thì nợ phải trả người bán và các khoản vay ngắn
hạn, dài hạn được xem là nguồn tài trợ quan trọng cho tài sản của doanh nghiệp. Do
đó trong phạm vi luận văn, ngoài các khoản nợ phải trả nói chung, em xin đi sâu vào
nghiên cứu các khoản mục: nợ phải trả người bán và vay ngắn hạn, dài hạn.
Nợ phải trả người bán là những món nợ chưa thanh toán về hàng hóa và dịch vụ
nhận được trong tiến trình kinh doanh bình thường. Nợ phải trả người bán bao gồm

các món nợ của việc mua vào nguyên vật liệu, thiết bị, điện nước, sửa chữa và rất
nhiều sản phẩm, dịch vụ khác mà doanh nghiệp nhận được trước ngày kết thúc năm.
1.2. Phân loại các khoản nợ phải trả.
Theo cách phân chia để trình bày trên BCĐKT thì nợ phải trả được phân thành
nợ ngắn hạn và nợ dài hạn tùy theo thời hạn của chu kỳ kinh doanh bình thường của
doanh nghiệp, cụ thể như sau:
Đối với doanh nghiệp có chu kỳ kinh doanh bình thường trong vòng 12 tháng
thì nợ phải trả được thanh toán trong vòng 12 tháng kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán
năm được xếp vào nợ ngắn hạn. Nợ phải trả được thanh toán sau 12 tháng kể từ ngày
kết thúc kỳ kế toán năm được xếp vào loại dài hạn.
Đối với doanh nghiệp có chu kỳ kinh doanh bình thường dài hơn 12 tháng thì
nợ phải trả được thanh toán trong vòng một chu kỳ kinh doanh bình thường được xếp
vào loại ngắn hạn. Nợ phải trả được thanh toán trong thời gian dài hơn một chu kỳ
kinh doanh bình thường được xếp vào loại dài hạn.
Đặng Thị Hương Giang 6 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
Đối với doanh nghiệp do tính chất hoạt động không thể dựa vào chu kỳ kinh
doanh để phân biệt giữa ngắn hạn và dài hạn thì nợ phải trả được trình bày theo tính
thanh khoản giảm dần.
Thông thường các doanh nghịêp sử dụng các khoản nợ ngắn hạn để tài trợ cho
tài sản lưu động, còn khoản nợ dài hạn được sử dụng để tài trợ cho tài sản cố định và
đầu tư dài hạn do các doanh nghiệp muốn đảm bảo khả năng thanh toán của mình ở
mức an toàn.
1.3. Kiểm soát nội bộ đối với các khoản nợ phải trả.
Kiểm soát nội bộ đối với các khoản nợ phải trả là các thủ tục kiểm soát do đơn
vị thiết lập nhằm ngăn chặn những gian lận và sai sót xảy ra đối với các khoản nợ
phải trả. Các thủ tục kiểm soát này rất phong phú vì còn phụ thuộc vào nhu cầu của
từng đơn vị cũng như phong cách điều hành của nhà quản lý. Ở đây, em xin tập trung
vào các thủ tục kiểm soát nội bộ quan trọng được áp dụng đối với các khoản phải trả
nhà cung cấp và các khoản vay.

Kiểm soát nội bộ đối với các khoản phải trả nhà cung cấp: nợ phải trả người
bán gắn liền với quá trình mua hàng và thanh toán do đó các thủ tục kiểm soát nội bộ
đối với nợ phải trả người bán cũng gắn liền với chu trình mua hàng và thanh toán.
Các thủ tục kiểm soát chủ yếu đó là:
+Các hóa đơn mua hàng được đánh số thứ tự để tránh việc ghi trùng cũng như
ghi thiếu các nghiệp vụ phát sinh.
+Doanh nghiệp có thủ tục quy định việc ghi sổ càng sớm càng tốt sau khi nhận
được hàng hóa và dịch vụ để các nghiệp vụ mua hàng được ghi sổ đúng lúc, tránh
việc ghi thiếu cũng như ghi nhầm sang kỳ sau.
+Đối với những hóa đơn mua hàng đã thanh toán phải được kẹp với phiếu chi
(nếu doanh nghiệp thanh toán bằng tiền mặt).
+Có sự tách biệt trách nhiệm giữa kế toán thanh toán và kế toán tiền mặt tránh
việc cá nhân lợi dụng để rút tiền của đơn vị.
+Đối với các nhà cung cấp thường xuyên, doanh nghiệp phải mở sổ chi tiết theo
dõi cho từng đối tượng. Các nhà cung cấp vãng lai có thể được theo dõi trên cùng
một sổ chi tiết.
Đặng Thị Hương Giang 7 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
+Vào cuối tháng, doanh nghiệp có thực hiện việc đối chiếu giữa sổ chi tiết
người bán với báo cáo hàng tháng của nhà cung cấp đó và báo cáo của ngân hàng.
Công việc này phải được thực hiện bởi một người độc lập.
Kiểm soát nội bộ đối với các khoản vay:
Kiểm soát nội bộ đối với các khoản vay chủ yếu là thực hiện nguyên tắc ủy
quyền và phê chuẩn từ lúc khoản vay được hình thành cho đến khi hoàn trả. Đối với
các khoản vay nhỏ hay có tính chất tạm thời, Ban Giám đốc có thể quyết định theo
chính sách của đơn vị. Những khoản vay lớn hay dài hạn cần có sự chấp thuận của
Hội đồng quản trị hoặc người được ủy quyền. Người phụ trách về tài chính phải
chuẩn bị một báo cáo về kế hoạch vay trong đó phải có giải trình về nhu cầu và hiệu
quả của khoản vay.
Các khoản vay phải được theo dõi trên sổ chi tiết mở cho từng chủ nợ và theo

từng khoản vay. Hàng tháng, số liệu này phải được đối chiếu với sổ cái và những
khoản vay dài hạn phải định kỳ đối chiếu với chủ nợ.
2. Vai trò và mục tiêu kiểm toán khoản mục nợ phải trả trong kiểm
toán báo cáo tài chính
2.1 Vai trò kiểm toán khoản mục nợ phải trả
Nợ phải trả là một khoản mục quan trọng trên Báo cáo tài chính vì những sai
lệch về các khoản nợ phải trả có thể gây ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo tài chính
về các mặt: + Tình hình tài chính: Các tỷ suất quan trọng phản ánh khả năng thanh
toán và tình hình tài chính của doanh nghiệp đều có liên quan đến khoản mục nợ phải
trả:
 Nhóm tỷ suất phản ánh khả năng năng thanh toán:
-Tỷ suất thanh toán hiện hành (Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn/ Nợ ngắn
hạn): tỷ suất này bằng 2 được xem là hợp lý, tỷ suất này càng lớn hơn 2 thì khả năng
thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng lớn tuy nhiên nếu tỷ suất này quá cao
thì cũng không tốt vì doanh nghiệp nên đảm bảo sự phù hợp và cân bằng giữa việc bị
chiếm dụng vốn và đi chiếm dụng vốn.
Đặng Thị Hương Giang 8 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
-Tỷ suất thanh toán nhanh (Vốn bằng tiền + Đầu tư tài chính ngắn hạn + Các
khoản phải thu/ Nợ ngắn hạn) (tỷ suất này bằng 1 là thỏa đáng, càng lớn hơn 1 thì
khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp càng cao, ngược lại thì doanh nghiệp
càng khó khăn trong thanh toán công nợ ngắn hạn).
-Tỷ suất khả năng thanh toán dài hạn (Tổng tài sản lưu động/ Tổng số nợ phải
trả): tỷ suất này không những có ý nghĩa đối với việc đánh giá khả năng thanh toán
mà còn có tác dụng xem xét khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp để có ý
kiến nhận xét thích hợp trong Báo cáo Kiểm toán. Tỷ suất này càng nhỏ hơn 1 thì
nguy cơ phá sản của doanh nghiệp càng lớn.
Ngoài ra nợ phải trả còn có liên quan đến một số tỷ suất phản ánh khả năng
thanh toán khác như: tỷ suất khả năng thanh toán tức thời (Vốn bằng tiền + Đầu tư tài
chính ngắn hạn/Nợ ngắn hạn)...

 Nhóm tỷ suất về cấu trúc tài chính: tỷ suất nợ (Tổng số nợ phải trả/ Tổng
nguồn vốn); tỷ suất tự tài trợ (1 - tỷ suất nợ): tỷ suất nợ càng nhỏ (có nghĩa là tỷ suất
tự tài trợ càng lớn) thì khả năng độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp đối với
các chủ nợ càng lớn.
Các tỷ suất tài chính trên có ảnh hưởng rất lớn đến đánh giá về tình hình tài
chính và khả năng thanh toán của doanh nghiệp nên những sai lệch về nợ phải trả sẽ
dẫn đến những sai lệch về tình hình tài chính cũng như khả năng thanh toán của
doanh nghiệp.
+ Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: để phục vụ cho hoạt động sản xuất
kinh doanh, doanh nghiệp cần phải mua hàng hóa dịch vụ từ các nhà cung cấp, phần
lớn hoạt động mua bán này không được thanh toán ngay, do bút toán ghi sổ kép nên
những sai lệch về khoản nợ phải trả có thể sẽ ảnh hưởng đến hầu hết các khoản mục
khác: nguyên vật liệu, chi phí quản lý doanh nghiệp,...những sai lệch này sẽ làm ảnh
hưởng đến các chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp: giá vốn hàng
bán, lợi nhuận trước thuế.
Với tầm quan trọng như trên, các kiểm toán viên cần phải rất thận trọng khi xây
dựng chương trình kiểm toán cho các khoản mục nợ phải trả.
Đặng Thị Hương Giang 9 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
2.2. Mục tiêu kiểm toán khoản mục nợ phải trả
Tính hợp lý chung: số dư các tài khoản nợ phải trả và các số dư chi tiết trong sổ
hạch toán chi tiết nợ phải trả đều hợp lý.
Các mục tiêu đặc thù:
Tính có thật: các khoản nợ phải trả được phản ánh trên sổ sách kế toán là thực
sự xảy ra, không có khoản nào bị ghi khống.
Tính đầy đủ: tất cả các khoản nợ phải trả đều được ghi sổ, không có khoản nào
bị bỏ sót.
Sự đánh giá: các khoản nợ phải trả được đánh giá đúng đắn.
Tính chính xác cơ học: các khoản nợ phải trả được tính toán và cộng dồn,
chuyển sổ, sang trang chính xác.

Phân loại và trình bày: các khoản nợ phải trả được phân loại và trình bày đúng
theo các quy định của chuẩn mực kế toán hiện hành.
Quyền và nghĩa vụ: tất cả các khoản nợ phải trả đang được phản ánh đều là
nghĩa vụ hiện tại của doanh nghiệp.
3. Quy trình kiểm toán các khoản nợ phải trả trong kiểm toán báo cáo
tài chính.
Để đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế và tính hiệu lực của từng cuộc kiểm toán
cũng như để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán có hiệu lực làm căn cứ cho những
ý kiến của kiểm toán viên về tính trung thực và hợp lý của các Báo cáo tài chính,
cuộc kiểm toán thường được tiến hành theo quy trình gồm ba giai đoạn: lập kế hoạch
kiểm toán, thực hiện kế hoạch kiểm toán, và kết thúc kiểm toán. Kiểm toán các khoản
nợ phải trả là một phần hành trong kiểm toán do đó quy trình kiểm toán các khoản nợ
phải trả cũng gắn liền với quy trình chung của cuộc kiểm toán.
3.1. Lập kế hoạch kiểm toán
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300 - Lập kế hoạch kiểm toán: “Kiểm
toán viên và công ty kiểm toán phải lập kế hoạch kiểm toán đế đảm bảo cuộc kiểm
toán được tiến hành một cách có hiệu quả”, và “Kế hoạch kiểm toán phải được lập
cho mọi cuộc kiểm toán”.
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên của một cuộc kiểm toán, có vai trò
quan trọng chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc kiểm toán. Do
Đặng Thị Hương Giang 10 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
đó các công ty phải xây dựng kế hoạch kiểm toán phù hợp với đơn vị mình và phù
hợp với từng nhóm khách hàng cụ thể.
Ý nghĩa của lập kế hoạch kiểm toán:
+ Kế hoạch kiểm toán được lập một cách đầy đủ sẽ giúp kiểm toán viên thu
được bằng chứng đầy đủ và có hiệu lực vì kế hoạch kiểm toán giúp cho các kiểm
toán viên phối hợp ăn ý với nhau trong công việc cũng như không thực hiện sót các
công việc cần thiết. Cuộc kiểm toán được thực hiện tốt sẽ giúp công ty giữ vững
được uy tín nghề nghiệp và duy trì được khách hàng.

+ Kế hoạch kiểm toán giúp kiểm toán viên có thể kiểm soát và giữ chi phí ở
mức phù hợp. Các công ty kiểm toán cũng là một doanh nghiệp hoạt động vì mục
tiêu lợi nhuận, lợi nhuận là yếu tố quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của công
ty. Chi phí kiểm toán cao dẫn đến phí dịch vụ kiểm toán cao, do đó công ty khó có đủ
sức cạnh tranh trên thị trường.
+ Kế hoạch kiểm toán thích hợp giúp công ty kiểm toán hạn chế những bất
đồng với khách hàng. Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán đã lập, kiểm toán thống nhất
với khách hàng về nội dung công việc cần thực hiện, sự phối hợp, giúp đỡ của khách
hàng đối với các kiểm toán viên, trách nhiệm của mỗi bên...
+ Ngoài ra, kế hoạch kiểm toán còn là căn cứ để kiểm soát và đánh giá chất
lượng công việc kiểm toán, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả cuộc kiểm
toán.
Lập kế hoạch kiểm toán (bao gồm kế hoạch kiểm toán tổng quát và kế hoạch
kiểm toán chi tiết) gồm sáu bước công việc như sau:
Đặng Thị Hương Giang 11 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
Sơ đồ 1.1 Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán
3.1.1. Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán
Quy trình kiểm toán được bắt đầu khi kiểm toán viên và công ty kiểm toán thu
nhận một khách hàng. Trong một lĩnh vực phải chịu nhiều cạnh tranh như kiểm toán,
việc có và giữ được một khách hàng tuy có thể khó khăn nhưng kiểm toán viên vẫn
cần thận trọng khi tiếp nhận khách hàng bởi vì nếu cuộc kiểm toán không được thực
hiện tốt thì trách nhiệm pháp lý mà các công ty kiểm toán phải gánh chịu là rất lớn.
Nhìn chung các công ty kiểm toán phải cân nhắc các vấn đề sau đây:
Đánh giá khả năng thực hiện kiểm toán: việc đánh giá này dựa vào:
+ Khả năng có thể kiểm toán của khách hàng: khả năng có thể kiểm toán của
khách hàng được xác định căn cứ vào một số yếu tố: tính liêm chính của Ban Giám
đốc và hệ thống kế toán của khách hàng...
+ Năng lực và tính độc lập của công ty kiểm toán: Theo chuẩn mực Kiểm toán
Việt Nam số 220 - Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán “Trong quá trình duy

trì khách hàng hiện có và đánh giá khách hàng tiềm năng, công ty kiểm toán phải cân
nhắc đến tính độc lập và năng lực phục vụ khách hàng của công ty kiểm toán”. Công
Đặng Thị Hương Giang 12 Kiểm toán 44
Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán
Thu thập thông tin cơ sở
Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách
hàng và thực hiện các thủ tục phân tích
Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro kiểm toán
Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro
kiểm soát
Lập kế hoạch kiểm toán toàn diện và soạn thảo
chương trình kiểm toán
Luận văn tốt nghiệp
ty kiểm toán không nên nhận lời kiểm toán khi tính độc lập không được đảm bảo
hoặc xét thấy không đủ năng lực phục vụ khách hàng.
+ Nhận diện các lí do kiểm toán của công ty khách hàng: thực chất của việc
nhận diện các lý do kiểm toán của công ty khách hàng là việc xác định người sử dụng
Báo cáo tài chính và mục đích sử dụng của họ: nếu các Báo cáo tài chính được sử
dụng càng rộng rãi thì mức độ trung thực, hợp lý của các thông tin trên Báo cáo tài
chính được đòi hỏi càng cao do đó số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập càng
nhiều.
Về cơ bản, khách hàng của các công ty kiểm toán được chia thành hai nhóm:
nhóm khách hàng tiềm năng và nhóm khách hàng cũ. Đối với nhóm khách hàng cũ,
kiểm toán viên đã có những thông tin nhất định thu được qua lần kiểm toán trước, do
đó kiểm toán viên chỉ cần cập nhật, bổ sung các thông tin mới về khách hàng. Đối
với khách hàng mới: nếu những khách hàng này trước đây chưa từng được Công ty
kiểm toán nào kiểm toán thì để có thông tin về khách hàng, kiểm toán viên có thể tìm
hiểu qua sách báo, tạp chí chuyên ngành, thẩm tra các bên có liên quan như ngân
hàng, cố vấn pháp lý, các bên có mối quan hệ tài chính buôn bán với khách
hàng...thậm chí có thể thuê các nhà điều tra chuyên nghiệp để điều tra về vấn đề cần

thiết khác. Trong trường hợp đơn vị khách hàng đã có kiểm toán viên tiền nhiệm thì
kiểm toán viên mới phải chủ động liên lạc với kiểm toán viên cũ vì đây là nguồn
thông tin đầu tiên để đánh giá khách hàng: tính chính trực của các nhà quản lý đơn vị,
các bất đồng giữa hai bên (nếu có), lý do khiến họ không tiếp tục cộng tác với
nhau...Tuy nhiên việc thiết lập mối quan hệ giữa kiểm toán viên kế tục với kiểm toán
viên tiền nhiệm phải được sự chấp thuận của khách hàng. Kiểm toán viên phải rất
thận trọng trong các trường hợp sau:
+ Khách hàng không đồng ý cho tiếp xúc với kiểm toán viên tiền nhiệm
+ Đã xảy ra những bất đồng nghiêm trọng giữa kiểm toán viên tiền nhiệm với
công ty khách hàng
+ Qua ý kiến của kiểm toán tiền nhiệm, kiểm toán viên mới đã phát hiện ra
những vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng đến đánh giá của kiểm toán viên về khả năng
có thể kiểm toán được của công ty khách hàng.
Đặng Thị Hương Giang 13 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
Ngoài việc tiếp xúc với kiểm toán viên tiền nhiệm, kiểm toán viên mới có thể
thu thập thông tin về khách hàng tiềm năng giống như cách thức thu thập thông tin
đối với khách hàng cũ.
Lựa chọn đội ngũ nhân viên
Sau khi đánh giá khả năng có thể chấp nhận cuộc kiểm toán, công ty kiểm toán
tiến hành lựa chọn đội ngũ nhân viên thực hiện kiểm toán. Đội ngũ nhân viên kiểm
toán phải đảm bảo hai yếu tố: năng lực chuyên môn và tính độc lập. Theo Chuẩn mực
Kiểm toán chung được thừa nhận GAAS “quá trình kiểm toán phải được thực hiện
bởi một hoặc nhiều người đã được đào tạo đầy đủ thành thạo như một kiểm toán
viên”. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 - Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi
phối kiểm toán báo cáo tài chính có quy định: kiểm toán viên không được nhận làm
kiểm toán cho các đơn vị mà mình có quan hệ kinh tế hoặc quyền lợi kinh tế cũng
như những đơn vị mà bản thân có quan hệ họ hàng thân thuộc (bố, mẹ, vợ, chồng,
con cái, anh chị em ruột) với những người trong bộ máy quản lý của đơn vị được
kiểm toán.

Ngoài ra, đối với khách hàng lâu năm, một mặt tổ chức kiểm toán nên hạn chế
việc thường xuyên thay đổi kiểm toán viên vì những kiểm toán viên đã thực hiện việc
cung cấp dịch vụ cho khách hàng thì họ đã nắm được những nét đặc thù trong kinh
doanh cũng như đặc điểm quan trọng của công ty khách hàng, do đó tiết kiệm được
chi phí kiểm toán năm tiếp theo và duy trì được mối liên hệ mật thiết giữa hai
bên...Mặt khác, tổ chức kiểm toán phải có chính sách luân chuyển kiểm toán viên để
tránh việc quá quen thuộc với khách hàng dẫn đến sức ỳ về tâm lý và kiểm tra theo
lối mòn hoặc mất đi tính khách quan độc lập...
Kí kết hợp đồng kiểm toán
Khi đã chấp nhận kiểm toán cho khách hàng, bước cuối cùng trong giai đoạn
chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán mà Công ty kiểm toán phải thực hiện là ký kết hợp
đồng kiểm toán. Hợp đồng kiểm toán là sự thỏa thuận chính thức giữa khách hàng và
công ty kiểm toán về các vấn đề liên quan đến cuộc kiểm toán. “Hợp đồng kiểm toán
phải được lập và ký chính thức trước khi tiến hành công việc kiểm toán nhằm bảo vệ
lợi ích của khách hàng và của công ty kiểm toán (Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số
210 - Hợp đồng kiểm toán).
Đặng Thị Hương Giang 14 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
Hợp đồng kiểm toán thường bao gồm các nội dung chính sau: mục đích và
phạm vi kiểm toán, trách nhiệm của Ban giám đốc công ty khách hàng và kiểm toán
viên, hình thức thông báo kết quả kiểm toán, thời gian tiến hành cuộc kiểm toán, căn
cứ tính giá phí cuộc kiểm toán và hình thức thanh toán.
3.1.2. Thu thập thông tin cơ sở
Những thông tin cơ sở mà kiểm toán viên cần thu thập được để phục vụ cho quá
trình lập kế hoạch bao gồm:
Thu thập kiến thức chung về ngành nghề kinh doanh của khách hàng: để hiểu
được đầy đủ ý nghĩa của các thông tin thu được trong suốt cuộc kiểm toán, kiểm toán
viên phải hiểu được những đặc thù nổi bật trong lĩnh vực kinh doanh của khách hàng.
Mỗi ngành nghề sản xuất kinh doanh có hệ thống kế toán và nguyên tắc kế toán
riêng. Thêm vào đó, tầm quan trọng của mỗi nguyên tắc kế toán cũng thay đổi theo

ngành kinh doanh của khách hàng. Thí dụ, trong lĩnh vực bán lẻ thì việc đánh giá
hàng tồn kho là rất quan trọng nhưng trong lĩnh vực xây dựng thì điều quan trọng lại
là tiêu chuẩn xác định doanh thu. Những kiến thức này kiểm toán viên có thể thu thập
thông qua sách báo chuyên ngành, các Hiệp hội ngành...số liệu của ngành có thể lấy
từ Niên giám thống kê do Tổng cục Thống kê phát hành hằng năm.
Thu thập kiến thức về hoạt động kinh doanh của khách hàng: trong cùng một
lĩnh vực, ngoài những đặc thù chung của ngành thì mỗi công ty lại có những đặc
điểm riêng biệt khác nhau ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh: vốn, cơ cấu
tổ chức, dây chuyền và các dịch vụ sản xuất... Kiểm toán viên có thể thu thập những
kiến thức này thông qua:
+Xem xét Báo cáo tài chính và hồ sơ kiểm toán các năm trước (nếu có) của đơn
vị: những tài liệu này thường chứa đựng rất nhiều những thông tin đặc trưng của
khách hàng và xu hướng thay đổi, phát triển của khách hàng trong tương lai.
+Xem xét các chính sách của công ty: những chính sách này ảnh hưởng quan
trọng tới hoạt động của khách hàng: chính sách tín dụng... nhưng lại không được
phản ánh trong số sách kế toán và có thể thay đổi qua các năm.
+Tham quan nhà xưởng: việc tham quan nhà xưởng, quan sát trực tiếp hoạt
động kinh doanh của khách hàng sẽ cung cấp cho kiểm toán viên những điều mắt
thấy tai nghe về quy trình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Ngoài ra, kiểm toán
Đặng Thị Hương Giang 15 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
viên cũng có những nhận định ban đầu về phong cách quản lý của Ban giám đốc, tính
hệ thống trong việc tổ chức, sắp đặt công việc...
+Ngoài ra, kiểm toán viên có thể thu thập thông tin qua việc trao đổi với nhân
viên của khách hàng, với các kiểm toán viên khác và các nhà tư vấn...
Nhận diện các bên hữu quan: Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 550 –
Các bên liên quan: “các bên được coi là liên quan nếu một bên có khả năng kiểm soát
hoặc có ảnh hưởng đáng kể đối với bên kia trong việc ra quyết định tài chính và hoạt
động”. Các nghiệp vụ giữa các bên hữu quan có có ảnh hưởng lớn đến nhận định của
người sử dụng Báo cáo tài chính. Do vậy, kiểm toán viên phải xác định các bên hữu

quan và nhận định sơ bộ về mối quan hệ này ngay trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm
toán.
Dự kiến nhu cầu chuyên gia bên ngoài: Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam
số - Sử dụng tư liệu của chuyên gia: “chuyên gia là một cá nhân hoặc tổ chức có
năng lực, kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn cao trong một lĩnh vực riêng biệt
ngoài lĩnh vực kế toán và kiểm toán”. Kiểm toán viên phải dự kiến nhu cầu chuyên
gia để đảm bảo chuyên gia đã có sẵn khi cần và có đủ năng lực, tính khách quan để
đảm nhận công việc.
3.1.3. Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng và thực hiện các
thủ tục phân tích
Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu sự điều tiết của rất nhiều các quy
định khác nhau. Những quy định này không chỉ là các văn bản pháp luật mang tính
cưỡng chế của nhà nước đối với các tế bào trong nền kinh tế mà còn là các quy định
riêng doanh nghiệp phải tuân thủ trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
Những quy định này được thể hiện trong các tài liệu sau:
+Giấy phép thành lập và điều lệ công ty: đây là tài liệu quy định những vấn đề
mang tính chất nội bộ của đơn vị: cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các
phòng ban, thủ tục phát hành cổ phiếu, trái phiếu...
+Biên bản các cuộc họp cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc: là những
tài liệu chính thức về các vấn đề quan trọng: xét duyệt mua bán, phê chuẩn giải thể
hoặc hợp nhất các đơn vị trực thuộc...
Đặng Thị Hương Giang 16 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
+Các hợp đồng và cam kết quan trọng: hợp đồng mua, bán hàng...
+Ngoài ra, các quy định mà doanh nghiệp phải tuân thủ còn được thể hiện trong
các công văn của cơ quan quản lý. Thí dụ: công văn của Cục Hải quan đồng ý cho
doanh nghiệp có sử dụng nguyên vật liệu, phụ tùng nhập khẩu áp dụng tỉ lệ nội địa
hóa đối với một số mặt hàng.
Thực hiện các thủ tục phân tích

Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 520 – Quy trình phân tích: “Quy trình
phân tích là việc phân tích các số liệu, thông tin, các tỷ suất quan trọng qua đó tìm ra
những xu hướng, biến động và tìm ra những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông
tin liên quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với giá trị đã dự kiến”. Chuẩn mực
này cũng quy định kiểm toán viên phải thực hiện thủ tục phân tích trong tất cả các
giai đoạn của cuộc kiểm toán. Trong giai đoạn lập kế hoạch, thủ tục phân tích giúp
kiểm toán viên: +Tăng cường hiểu biết về công việc kinh doanh của khách hàng:
thông qua thủ tục phân tích, kiểm toán viên có thể nhận biết được tình hình tài chính
và những biến động quan trọng trong hoạt động kinh doanh của khách hàng.
+Xác định những vùng có thể có rủi ro: những chênh lệch lớn ngoài dự kiến
giữa số liệu tài chính chưa được kiểm toán ở năm hiện hành so với số liệu so sánh là
vấn đề quan trọng mà kiểm toán viên cần phải lưu ý và tìm ra nguyên nhân vì khả
năng xảy ra sai phạm trong các trường hợp này là rất lớn.
+Đánh giá khả năng hoạt động liên tục của khách hàng: giả định hoạt động liên
tục là một nguyên tắc cơ bản khi lập và trình bày báo cáo tài chính do đó khi lập kế
hoạch kiểm toán, kiểm toán viên không thể không xem xét đến tính liên tục hoạt
động của doanh nghiệp “trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên và
công ty kiểm toán phải cân nhắc những sự kiện hoặc điều kiện có thể gây ra sự nghi
ngờ đáng kể về khả năng hoạt động liên tục của đơn vị” (Chuẩn mực Kiểm toán Việt
Nam số 570 - Hoạt động liên tục). Thủ tục phân tích chính là một công cụ hữu hiệu
giúp kiểm toán viên đánh giá vấn đề này. Thí dụ: dựa trên các tỷ suất thể hiện khả
năng thanh toán của doanh nghiệp, kiểm toán viên có thể đánh giá liệu doanh nghiệp
có thể thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình với các đối tác không? Nếu không thì đây
chính là một yếu tố quan trọng đe dọa đến khả năng hoạt động liên tục của doanh
nghiệp.
Đặng Thị Hương Giang 17 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
Thủ tục phân tích được kiểm toán viên sử dụng gồm hai loại cơ bản:
+Phân tích ngang (phân tích xu hướng): là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh
các trị số của cùng một chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính. Các chỉ tiêu phân tích ngang

thường sử dụng:
 So sánh số liệu giữa các kỳ với nhau
 So sánh số liệu thực tế với số liệu kế hoạch hoặc số liệu ước tính của
kiểm toán viên
 So sánh số liệu của doanh nghiệp với số liệu chung của ngành
+Phân tích dọc (phân tích tỷ suất): là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các
tỷ lệ tương quan của các chỉ tiêu và khoản mục khác nhau trên Báo cáo tài chính. Các
tỷ suất tài chính thường dùng trong phân tích dọc bao gồm: các tỷ suất về khả năng
thanh toán, tỷ suất về khả năng sinh, tỷ suất về cơ cấu vốn...
Như vậy, thông qua thủ tục phân tích, kiểm toán viên có thể xác định được nội
dung cơ bản của cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính. Mức độ, phạm vi và thời gian áp
dụng các thủ tục phân tích thay đổi tùy thuộc vào quy mô và tính chất phức tạp trong
hoạt động kinh doanh của khách hàng.
3.1.4. Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro kiểm toán
Đánh giá tính trọng yếu
Như trên đã nói, mục tiêu của kiểm toán Báo cáo tài chính là giúp cho kiểm
toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến về sự trung thực và hợp lý của các Báo
cáo tài chính trên các khía cạnh trọng yếu. Điều này có nghĩa là khi thực hiện cuộc
kiểm toán, kiểm toán viên chỉ cần quan tâm đến các sai phạm trọng yếu. Vậy, trọng
yếu là gì? Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 320 – Tính trọng yếu trong kiểm
toán: “Trọng yếu là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin
(một số liệu kế toán) trong BCTC. Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu
thiếu thông tin đó hoặc thiếu tính chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các
quyết định của người sử dụng Báo cáo tài chính” và “Tính trọng yếu của thông tin
phải xem xét trên cả phương diện định lượng và định tính”.
Như vậy, để đưa ra mức trọng yếu thích hợp, kiểm toán viên phải có hiểu biết
về những người sử dụng BCTC và các quyết định sẽ đưa ra của họ trong các trường
Đặng Thị Hương Giang 18 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
hợp khác nhau. Do đó, xét đoán về tính trọng yếu là một công việc khó khăn và chủ

yếu dựa vào kinh nghiệm của kiểm toán viên.
Báo cáo Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế SAS 47 quy định “kiểm toán viên nên
xem xét rủi ro kiểm toán và vấn đề trọng yếu trong khi lập kế hoạch kiểm toán và
thiết kế các thủ tục kiểm toán cũng như khi đưa ra kết luận kiểm toán”. Các bước
công việc liên quan đến trọng yếu kiểm toán viên phải thực hiện trong giai đoạn lập
kế hoạch kiểm toán:
+ Ước lượng sơ bộ về tính trọng yếu: Sự ước lượng bước đầu về tính trọng yếu
là lượng tối đa mà kiểm toán viên tin rằng ở mức đó các báo cáo có thể bị sai nhưng
vẫn chưa ảnh hưởng đến các quyết định của những người sử dụng hợp lý. Sự ước
lượng này sẽ thường xuyên thay đổi trong suốt cuộc kiểm toán khi các tình huống
thay đổi hoặc có sự xuất hiện các nhân tố mới.
Ước lượng sơ bộ về tính trọng yếu thường được kiểm toán viên đánh giá theo
quy mô. Có hai hướng đánh giá: quy mô tuyệt đối và quy mô tương đối.
Kiểm toán viên có thể sử dụng con số tuyệt đối để đánh giá tính trọng yếu. Tuy
nhiên một sai số có quy mô nhất định có thể là trọng yếu đối với một công ty nhỏ
nhưng lại không trọng yếu đối với một công ty lớn hơn. Do đó, quy mô tương đối
được kiểm toán viên sử dụng phổ biến hơn.
Căn cứ để tính toán mức trọng yếu có thể được quy định như sau:
Bảng 1.1 Căn cứ để tính toán mức trọng yếu
Khoản mục Chắc chắn không trọng
yếu
Có thể trọng yếu Chắc chắn trọng yếu
BCĐKT <0.25% tổng tài sản 0.25% - 0.5% tổng tài
sản
>0.5% tổng tài sản
BCKQKD <5% lợi nhận trước thuế 5% - 10% lợi nhuận
trước thuế
>10% lợi nhuận
trước thuế
+Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục: Mức trọng

yếu đối với từng khoản mục chính là sai lệch tối đa được phép đối với từng khoản
mục. Số tiền này được tính dựa trên mức trọng yếu tổng thể đã được ước lượng. Đây
là một công việc cần thiết vì trước khi đưa ra ý kiến kết luận về tính trung thực và
Đặng Thị Hương Giang 19 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
hợp lý của Báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải đánh giá tính trung thực và hợp lý
cho từng bộ phận, khoản mục trên Báo cáo tài chính.
Kiểm toán viên thường phân bổ tính trọng yếu cho các tài khoản trên BCĐKT
thay vì phân bổ cho các tài khoản trên BCKQKD vì: các sai phạm ảnh hưởng đến
BCKQKD thì đều ảnh hưởng tới BCĐKT vì bút toán ghi sổ kép và hầu hết các thể
thức thường tập trung vào các tài khoản trên BCĐKT.
Kiểm toán viên phân bổ mức trọng yếu cho từng khoản mục theo hai phía: sai
số theo hướng lớn hơn tức là số liệu trên sổ sách lớn hơn thực tế (overstatement) và
sai số theo hướng nhỏ hơn tức là số liệu trên sổ sách nhỏ hơn thực tế
(understatement). Căn cứ để kiểm toán viên tiến hành phân bổ là:
+Chi phí kiểm toán đối với từng khoản mục
+Kinh nghiệm của kiểm toán viên về khả năng sai phạm của từng khoản mục,
nghiệp vụ và mức độ ảnh hưởng của sai phạm đó tới tính trung thực hợp lý của Báo
cáo tài chính.
Phân bổ mức trọng yếu cho các khoản nợ phải trả: các khoản nợ phải trả thể
hiện nghĩa vụ hiện tại của doanh nghiệp nên các khoản này thường bị cố tình khai
thiếu để làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt hơn. Do đó, kiểm toán viên
thường phân bổ mức trọng yếu theo hướng số liệu trên sổ sách nhỏ hơn so với thực
tế. Ngoài ra, đối với nợ phải trả cho người bán và các khoản vay (vay ngắn hạn, vay
dài hạn) là những khoản mục có liên quan đến bên thứ 3, đòi hỏi sự trình bày trung
thực, hợp lý càng cao nên kiểm toán viên thường phân bổ mức trọng yếu thấp cho các
khoản mục này.
Đánh giá rủi ro kiểm toán
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 – Đánh giá rủi ro và kiểm soát
nội bộ: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý

kiến nhận xét không thích hợp khi Báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những
sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán bao gồm 3 bộ phận: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm
soát và rủi ro phát hiện”.
Mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau. Mức
trọng yếu càng thấp thì rủi ro kiểm toán càng cao và ngược lại.
Đặng Thị Hương Giang 20 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
Kiểm toán viên thường đưa ra một mức rủi ro kiểm toán mong muốn, là mức rủi ro
chấp nhận được về việc kiểm toán viên đưa ra ý kiến nhận xét không xác đáng về Báo cáo
tài chính đã được kiểm toán. Mỗi kiểm toán viên sẽ đưa ra một mức rủi ro kiểm toán khác
nhau cho các cuộc kiểm toán khác nhau. Điều này phụ thuộc vào xét đoán nghề nghiệp
của kiểm toán viên. Một số nhân tố có ảnh hưởng đến xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán
viên về mức rủi ro kiểm toán mong muốn, đó là:
+Số người sử dụng Báo cáo tài chính của đơn vị: Báo cáo tài chính của đơn vị
được càng nhiều người quan tâm thì mức rủi ro kiểm toán mong muốn càng thấp. Để
đánh giá xem liệu Báo cáo tài chính của đơn vị có được nhiều người quan tâm không,
kiểm toán viên có thể dựa vào: quy mô của công ty khách hàng, số người sở hữu
công ty và bản chất, quy mô công nợ.
+Khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo kiểm toán
được công bố.
+Quan niệm của kiểm toán viên về mức rủi ro kiểm toán chấp nhận được: mỗi
kiểm toán viên có quan niệm về mức rủi ro kiểm toán chấp nhận được khác nhau.
Một số kiểm toán rất thận trọng, họ luôn muốn hạn chế tối đa nguy cơ bị kiện và bị
mất uy tín nghề nghiệp.
+Trình độ, kinh nghiệm làm việc của kiểm toán viên: các kiểm toán viên giỏi sẽ
dễ dàng thực hiện một cuộc kiểm toán có chất lượng cao với chi phí thấp. Do đó, họ
thường đưa ra một mức rủi ro kiểm toán thấp hơn những kiểm toán viên khác.
+Đạo đức của kiểm toán: một số kiểm toán viên luôn mong muốn thực hiện một
cuộc kiểm toán chất lượng cao để đảm bảo quyền lợi cho những người sử dụng Báo
cáo tài chính kể cả khi họ phải chấp nhận một mức lợi nhuận thấp hơn.

Rủi ro kiểm toán mong muốn đối với các khoản nợ phải trả được kiểm toán
viên xác định dựa vào rủi ro kiểm toán mong muốn đối với toàn bộ Báo cáo tài chính
vì nhìn chung rủi ro kiểm toán thường được xác định ở cùng một mức cho tất cả các
khoản mục, nghiệp vụ. Tuy nhiên, đối với một số khách hàng mà kiểm toán cho rằng
các khoản công nợ phải trả là đặc biệt quan trọng thì rủi ro kiểm toán mong muốn đối
với các khoản nợ phải trả sẽ thấp hơn.
Đặng Thị Hương Giang 21 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro được thể hiện qua mô hình sau:
AR = IR x CR x DR
Hay: DR = AR/(IR x CR)
IR (rủi ro tiềm tàng): là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng khoản mục,
nghiệp vụ trong Báo cáo tài chính chứa đựng những sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ
hoặc tính gộp mặc dù có hay không hệ thống kiểm soát nội bộ (Chuẩn mực Kiểm
toán Việt Nam số 400 – Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ).
Rủi ro tiềm tàng phải được xác định cụ thể cho từng khoản mục, nghiệp vụ liên
quan đến từng cơ sở dẫn liệu. Mặc dù đối với những doanh nghiệp khác nhau thì
đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro tiềm tàng đối với các khoản nợ phải trả là khác
nhau nhưng nhìn chung rủi ro tiềm tàng đối với các khoản nợ phải trả được đánh giá
theo các cơ sở dẫn liệu như sau:
Đầy đủ: đây là cơ sở dẫn liệu dễ bị vi phạm nhất liên quan đến các khoản nợ
phải trả vì như trên đã nói: nợ phải trả là nghĩa vụ hiện tại của doanh nghiệp nên dễ bị
khai thiếu để làm cho tình hình tài chính phản ánh trên Báo cáo tài chính tốt hơn thực
tế. Rủi ro tiềm tàng đối với cơ sở dẫn liệu này cao.
Tồn tại hoặc phát sinh: mặc dù cơ sở dẫn liệu này ít bị vi phạm hơn nhưng vẫn có những
trường hợp nợ phải trả bị khai khống để rút tiền của đơn vị một cách bất hợp pháp.
Phân loại và trình bày: sự phân loại sai đối với các khoản nợ phải trả cũng làm
người sử dụng Báo cáo tài chính hiểu sai khả năng thanh toán thực tế của đơn vị do
đó đây cũng là cơ sở dẫn liệu dễ bị vi phạm. Rủi ro tiềm tàng đối với cơ sở dẫn liệu
này cũng được đánh giá ở mức cao.

Tính giá: đây là cơ sở dẫn liệu dễ bị vi phạm đối với các khoản nợ phải trả có
gốc ngoại tệ. Doanh nghiệp phải nắm vững và cập nhật các nguyên tắc hạch toán cơ
bản đối với các khoản nợ phải trả có gốc ngoại tệ.
CR (rủi ro kiểm soát): phụ thuộc vào hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị. Hệ
thống kiểm soát nội bộ của đơn vị càng hiệu quả thì rủi ro kiểm soát càng thấp và
ngược lại. Vấn đề này sẽ được xem xét kỹ hơn trong phần sau.
DR (rủi ro phát hiện): Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong
từng khoản mục, nghiệp vụ trong Báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà
trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không phát hiện ra
Đặng Thị Hương Giang 22 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
được. Rủi ro phát hiện là yếu tố chính của mô hình vì “mức độ rủi ro phát hiện có
liên quan trực tiếp đến thử nghiệm cơ bản của kiểm toán viên” (Chuẩn mực Kiểm
toán Việt Nam số 400, đoạn 43).
Rủi ro phát hiện được kiểm toán viên xác định dựa vào rủi ro kiểm toán, rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Mối quan hệ của rủi ro với bằng chứng kiểm toán phải
thu thập được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1.2 Các mối quan hệ của rủi ro với bằng chứng phải thu thập
Trường
hợp
Rủi ro kiểm
toán
Rủi ro tiềm
tàng
Rủi ro kiểm
soát
Rủi ro phát
hiện
Số lượng bằng chứng
cần thu thập

1 Cao Thấp Thấp Cao Thấp
2 Thấp Thấp Thấp Trung bình Trung bình
3 Thấp Cao Cao Thấp Trung bình
4 Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình
5 Cao Thấp Trung bình Trung bình Trung bình
Nguồn: Auditing – Alvin A.Arens, Jame K.Loebbecke
3.1.5. Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát.
Nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng và đánh giá rủi ro kiểm
soát là một phần việc hết sức quan trọng mà kiểm toán viên phải thực hiện trong giai
đoạn lập kế hoạch kiểm toán “Kiểm toán viên phải có đủ hiểu biết về hệ thống kế
toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng để lập kế hoạch kiểm toán tổng thể
và chương trình kiểm toán thích hợp, có hiệu quả” (Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam
số 400 – Đánh giá rủi ro và kiếm soát nội bộ).
Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng
khoản mục trong Báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế
toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa
chữa kịp thời. Ngoài ý nghĩa là giúp kiểm toán viên đưa ra mức rủi ro phát hiện dự
kiến, rủi ro kiểm soát còn có ảnh hưởng trực tiếp đến các phương pháp kiểm toán cần
áp dụng: vấn đề này sẽ được xem xét dưới đây.
Hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ thống chính sách và thủ tục nhằm bốn mục
tiêu sau: bảo vệ tài sản của đơn vị, bảo đảm độ tin cậy của các thông tin, bảo đảm
việc thực hiện các chế độ pháp lý và bảo đảm hiệu quả hoạt động.
Hệ thống kiểm soát của đơn vị bao gồm 4 yếu tố chính:
Đặng Thị Hương Giang 23 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
+Môi trường kiểm soát: gồm các yếu tố bên trong (đặc thù về quản lý, cơ cấu tổ
chức, chính sách nhân sự, công tác kế hoạch, ủy ban kiểm soát...) và các yếu tố bên
ngoài đơn vị (sự kiểm soát của các cơ quan chức năng của Nhà nước, môi trường
pháp lý, đường lối phát triển của đất nước...). Môi trường kiểm soát mạnh sẽ hỗ trợ
đáng kể cho các thủ tục kiểm soát phát huy tác dụng.

+Hệ thống kế toán: là các quy định về kế toán và các thủ tục kế toán mà đơn vị
được kiểm toán áp dụng để thực hiện các ghi chép kế toán và lập Báo cáo tài chính.
+Các thủ tục kiểm soát: là các quy chế và thủ tục do Ban lãnh đạo đơn vị thiết
lập và chỉ đạo thực hiện trong đơn vị nhằm đạt được mục tiêu quản lý cụ thể. Các thủ
tục kiểm soát này được thiết lập trong đơn vị dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản: nguyên
tắc phân công, phân nhiệm; nguyên tắc bất kiêm nhiệm; nguyên tắc ủy quyền và phê
chuẩn
+Kiểm toán nội bộ: là một bộ phận độc lập được thiết lập trong đơn vị tiến hành
công việc kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ yêu cầu quản trị nội bộ đơn vị.
Kiểm toán viên xem xét hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị trên hai mặt: thiết
kế và hoạt động liên tục, có hiệu lực của kiểm soát nội bộ. Những hiểu biết của kiểm
toán viên về hệ thống kiểm soát nội bộ thường được thể hiện theo một trong 3 cách
sau: bảng tường thuật về kiểm soát nội bộ, bảng câu hỏi về hệ thống kiểm soát nội bộ
và lưu đồ. Ngoài ra, kiểm toán viên có thể sử dụng kết hợp cả ba loại trên để có hiểu
biết rõ nét hơn về hệ thống kiểm soát nội bộ của công ty khách hàng.
Nếu hệ thống kiểm soát nội bộ được đánh giá là có hiệu quả thì rủi ro kiểm soát
thấp và ngược lại. Rủi ro kiểm soát luôn tồn tại do hệ thống kiểm soát nội bộ dù được
thiết kế hoàn hảo đến đâu cũng không thể ngăn ngừa hay phát hiện mọi sai phạm có
thể xảy, đó là những hạn chế cố hữu của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Quá trình đánh giá rủi ro kiểm soát đối với các khoản nợ phải trả được thực
hiện theo các bước sau:
+Nhận diện các mục tiêu kiểm soát chủ yếu đối với các khoản nợ phải trả: mục
tiêu kiểm soát chủ yếu đối với các khoản nợ phải trả cũng là các cơ sở dẫn liệu dễ bị
vi phạm vì hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết kế để ngăn chặn, phát hiện và sửa
chữa những sai phạm có thể xảy ra trong đơn vị. Do đó, mục tiêu quan trọng đối với
các khoản nợ phải trả là đầy đủ và trình bày.
Đặng Thị Hương Giang 24 Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp
+Nhận diện các quá trình kiểm soát đặc thù: Quá trình kiểm soát đặc thù là các
thủ tục kiểm soát có ảnh hưởng lớn nhất đến việc thỏa mãn các mục tiêu kiểm soát

chủ yếu. Thí dụ: đối với cơ cở dẫn liệu “đầy đủ” của nợ phải trả người bán thì quá
trình kiểm soát đặc thù là đánh số thứ tự các hóa đơn mua hàng, có sự đối chiếu giữa
Sổ chi tiết công nợ phải trả với Báo cáo của người bán vào cuối tháng...Quá trình
kiểm soát nội bộ đối với nợ phải trả người bán đã được trình bày ở phần trên.
+Nhận diện và đánh giá các nhược điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ: sự thiếu
sót của các quá trình kiểm soát thích đáng sẽ làm tăng rủi ro kiểm soát. Kiểm toán
viên so sánh giữa thủ tục kiểm soát cần có với thủ tục kiểm soát hiện tại của doanh
nghiệp để tìm ra nhược điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ.
+Đánh giá rủi ro kiểm soát: theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 –
Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ: “Kiểm toán viên thường đánh giá rủi ro kiểm
soát ở mức độ cao đối với cơ sở dẫn liệu của Báo cáo tài chính trong trường hợp:
 Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không đầy đủ.
 Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không hiệu quả.
 Kiểm toán viên không được cung cấp đầy đủ cơ sở để đánh giá sự đầy đủ
và hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng.
Nếu rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức tối đa thì kiểm toán viên sẽ bỏ qua
các thử nghiệm kiểm soát nhưng nếu rủi ro kiểm soát được đánh giá thấp hơn tối đa
thì các thử nghiệm kiểm soát sẽ được thực hiện ở giai đoạn hai của cuộc kiểm toán.
Các thử nghiệm này sẽ chứng minh liệu đánh giá ban đầu của kiểm toán viên về rủi
ro kiểm soát là đúng hay sai.
3.1.6. Lập kế hoạch kiểm toán tổng thể và soạn thảo chương trình kiểm toán.
Lập kế hoạch kiểm toán tổng thể
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 300 - Lập kế hoạch kiểm toán: “Kế
hoạch kiểm toán tổng thể là việc cụ thể hóa kế hoạch chiến lược và phương pháp tiếp
cận chi tiết về nội dung, lịch trình và phạm vi dự kiến của các thủ tục kiểm toán” và
“Kế hoạch kiểm toán tổng thể phải được lập cho mọi cuộc kiểm toán”.
Hình thức và nội dung của kế hoạch kiểm toán tổng thể phụ thuộc vào quy mô
khách hàng và tính chất phức tạp của công việc kiểm toán. Những vấn đề mà kiểm
toán viên phải trình bày trong kế hoạch kiểm toán tổng thể là các thông tin chung mà
Đặng Thị Hương Giang 25 Kiểm toán 44

×