Tải bản đầy đủ (.doc) (146 trang)

Kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân của sinh viên sư phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 146 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HẢI
KỸ NĂNG QUẢN LÝ CẢM XÚC BẢN THÂN
CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM
Mã số CHUYÊxxÀCCCCHCCCC : 62.22.01.01
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số : 62 31 80 05
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC
1
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phan Trọng Ngọ
TS. Dương Thị Diệu Hoa
Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Xuân Thức
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Hồi Loan
Trường Đại học KHXH- NV, ĐHQGHN
Phản biện 3: PGS.TS. Mạc Văn Trang
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam
2
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Cảm xúc của cá nhân là một động lực cơ bản thôi thúc con người làm việc
bất kể họ làm gì. Cảm xúc còn có thể đem lại cho cá nhân những ý tưởng, những
lựa chọn đầy sáng tạo. Đời sống cảm xúc là lĩnh vực trong đó người ta có thể chứng
tỏ năng lực của mình. Theo Caroll E. Izard (1992)- nhà tâm lý học nghiên cứu hàng
đầu về cảm xúc cho rằng cảm xúc tạo nên hệ thống động cơ chính của con người.
Các cảm xúc có ý nghĩa phi thường trong hoạt động của cá nhân và hoàn toàn
không nên coi chung là cái đối lập với trí tuệ. Đúng hơn là bản thân các cảm xúc là
cấp bậc cao của trí tuệ. [39]


Cảm xúc có tính hai mặt, một mặt là động lực thúc đẩy cá nhân hoạt động có
hiệu quả, mặt khác, nếu không được quản lý và định hướng đúng đắn, cảm xúc sẽ
làm lệch hướng, thậm chí phá hủy nhận thức và hành động của cá nhân, dẫn đến
việc nhận thức và hành động của cá nhân trở nên “mù quáng” và sai lầm. Vì vậy,
quản lý và định hướng cảm xúc để trở thành động lực tích cực là một trong những
yếu tố quan trọng đảm bảo hiệu quả hoạt động. Thực tế cho thấy, những người hiểu
được các cảm xúc của mình, nắm được và làm chủ được chúng, đoán được những
cảm xúc của người khác và biết hòa hợp với họ một cách hữu hiệu, là những người
có lợi thế trong tất cả các lĩnh vực của cuộc đời để thành công và hạnh phúc. Ngược
lại, những người không kiểm soát được đời sống cảm xúc của mình sẽ thường
xuyên phải chịu những xung đột nội tâm, từ đó năng lực tập trung chú ý và tư duy
của họ sẽ bị phá vỡ và điều này chắc chắn có ảnh hưởng xấu đến hiệu quả hoạt
động cũng như cuộc sống của họ.
Cảm xúc và quản lý cảm xúc của con người hình thành, phát triển và thay
đổi trong các giai đoạn lứa tuổi. Những thành công, niềm vui, hạnh phúc hoặc
những thất bại, khó khăn, đau khổ… của mỗi con người phụ thuộc rất nhiều vào
cảm xúc, trong đó quản lý cảm xúc của bản thân đóng vai trò rất quan trọng. Trong
những năm cuối thế kỷ 20, nghiên cứu cảm xúc đã ngày càng được quan tâm ở
nhiều nước trên thế giới, đặc biệt đối với các trường học. Giáo dục phẩm chất nhân
3
cách của học sinh, sinh viên là những nội dung cốt lõi đều có liên quan đáng kể đến
cảm xúc và quản lý cảm xúc bản thân. Ở nước ta chủ yếu nghiên cứu về trí tuệ cảm
xúc và đã thu được một số kết quả đáng nghi nhận. Các kết quả đó làm sáng tỏ một
số vấn đề lý luận và thích nghi các phương pháp, kỹ thuật đánh giá và điều tra thực
trạng trình độ phát triển trí tuệ cảm xúc của học sinh, sinh viên. Vấn đề hình
thành và phát triển những kỹ năng kiểm soát và kỹ năng biểu hiện cảm xúc cho
thanh thiếu niên nhằm phát triển nhân cách hài hòa, thuận lợi ít đươc quan tâm
nghiên cứu.
Hiện nay, có một số tác giả nghiên cứu về cảm xúc của sinh viên sư phạm
nhưng chủ yếu là kỹ năng mềm hay nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc của sinh viên sư

phạm, bên cạnh đó cũng xuất hiện nhiều trung tâm đào tạo kỹ năng quản lý cảm xúc
cho các đối tượng nhưng những nghiên cứu về kỹ năng quản lý cảm xúc chưa
nhiều. Theo thống kê thanh niên, sinh viên hiện nay đang thiếu rất nhiều những kỹ
năng như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết phục, kỹ năng ra quyết định…, đặc biệt
kỹ năng quản lý cảm xúc khi đối mặt với các sự kiện, trong học tập, trong các mối
quan hệ trong cuộc sống.
Với sinh viên nói chung và sinh viên sư phạm nói riêng, việc quản lý cảm
xúc là hết sức quan trọng. Đặc biệt sinh viên sư phạm là những giáo viên trong
tương lai. Nhân cách của họ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển
nhân cách của học sinh khi họ trở thành người giáo viên thực thụ. Một mặt người
giáo viên phải làm chủ cảm xúc để làm chủ các tình huống sư phạm diễn ra rất đa
dạng, phong phú. Mặt khác, họ phải định hướng và giáo dục cho học sinh kỹ năng
quản lý cảm xúc giúp các em làm chủ cảm xúc của mình nhằm phát triển nhân cách
hài hòa, thuận lợi. Trên cơ sở đó họ phải biết vận dụng việc quản lý cảm xúc trở
thành một công cụ trong quá trình dạy học. Vì vậy, tác động hình thành cho sinh
viên sư phạm kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân là hết sức cần thiết và có ý nghĩa to
lớn. Đây là lý do để chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Kỹ năng quản lý cảm
xúc bản thân của sinh viên sư phạm”.
4
2. Mục đích nghiên cứu
Phát hiện được thực trạng kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân của sinh viên sư
phạm, phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng quản lý cảm xúc của sinh
viên sư phạm, đề xuất được một số biện pháp tác động nhằm cải thiện kỹ năng quản
lý cảm xúc bản thân cho sinh viên sư phạm.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện và mức độ kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân của sinh viên sư
phạm.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu gồm 360 sinh viên, trong đó có: 120 sinh viên của Trường

Đại học Sư phạm Hà Nội, 121 sinh viên của Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương
và 119 sinh viên của Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên.
4. Giả thuyết nghiên cứu
4.1. Kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân của sinh viên sư phạm ở mức trung
bình biểu hiện qua 4 kỹ năng: Kỹ năng nhận diện cảm xúc bản thân, kỹ năng kiểm
soát cảm xúc bản thân, kỹ năng điều khiển cảm xúc bản thân, kỹ năng sử dụng cảm
xúc bản thân, trong đó kỹ năng nhận diện cảm xúc tốt hơn những kỹ năng còn lại.
4.2. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân của
sinh viên sư phạm như: khí chất, giới tính, năm học, tính chất đào tạo của nhà
trường, năng lực học tập, khách thể giao tiếp. Trong đó, năng lực học tập (kết quả
học tập) và khách thể giao tiếp (giảng viên và bạn bè) có ảnh hưởng nhiều nhất đến
kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân của sinh viên sư phạm.
4.3. Có thể rèn luyện kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân của sinh viên sư phạm
thông qua việc tổ chức tập huấn kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân cho sinh viên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu về kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân
của sinh viên sư phạm, xác định những khái niệm cơ bản của vấn đề nghiên cứu
như: cảm xúc, kỹ năng, kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân của sinh viên sư phạm.
5
5.2. Xác định thực trạng biểu hiện và mức độ kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân
của sinh viên sư phạm, các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân của
sinh viên sư phạm.
5.3. Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp tác động để luyện tập kỹ năng
quản lý cảm xúc bản thân của sinh viên sư phạm.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Về nội dung nghiên cứu
Luận án chỉ tập trung nghiên cứu biểu hiện mức độ kỹ năng quản lý cảm xúc
bản thân của sinh viên sư phạm trong nhà trường, chủ yếu là trong quá trình học
tập, được biểu hiện qua 4 kỹ năng thành phần: kỹ năng nhận diện cảm xúc bản thân,
kỹ năng kiểm soát cảm xúc bản thân, kỹ năng điều khiển cảm xúc bản thân, kỹ năng

sử dụng cảm xúc bản thân.
6.2. Về khách thể nghiên cứu
Luận án chỉ tập trung nghiên cứu trên khách thể là sinh viên của 03 trường đại
học sư phạm (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm Nghệ
thuật Trunng, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên). Đây là các trường Sư
phạm lớn ở khu vực phía Bắc, là đại diện các trường sư phạm đào tạo giáo viên về
khoa học cơ bản, nghệ thuật và kỹ thuật. Luận án chỉ nghiên cứu ở sinh viên năm thứ
nhất, thứ 2 và thứ 3, không nghiên cứu năm thứ 4 vì quá trình nghiên cứu kéo dài nên
phạm vi nghiên cứu không cho phép.
7. Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu
7.1. Nguyên tắc tiếp cận nghiên cứu vấn đề
7.1.1. Nguyên tắc tiếp cận liên ngành khoa học
7.1.2. Nguyên tắc tiếp cận hoạt động
7.1.3. Nguyên tắc tiếp cận hệ thống
7.1.4. Nguyên tắc phát triển
7.1.5 Nguyên tắc tiếp cận lịch sử
7.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
6
7.2.2. Phương pháp chuyên gia
7.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
7.2.4. Phương pháp phỏng vấn sâu
7.2.5. Phương pháp quan sát
7.2.6. Phương pháp trắc nghiệm
7.2.7. Phương pháp thực nghiệm
7.2.8. Phương pháp phân tích chân dung tâm lý
7.2.9. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
8. Đóng góp mới của luận án
Luận án đã hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về cảm
xúc, kỹ năng, kỹ năng quản lý cảm xúc của sinh viên sư phạm; cụ thể hóa được 4 kỹ

năng thành phần trong kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân của sinh viên sư phạm
(Kỹ năng nhận diện cảm xúc bản thân, kỹ năng kiểm soát cảm xúc bản thân, kỹ
năng điều khiển cảm xúc bản thân, kỹ năng sử dụng cảm xúc bản thân).
Luận án chỉ ra được thực trạng biểu hiện mức độ kỹ năng quản lý cảm xúc
bản thân của sinh viên sư phạm ở mức trung bình thông qua các biểu hiện của 4 kỹ
năng thành phần và những yếu tố ảnh hưởng tới các kỹ năng quản lý cảm xúc bản
thân của sinh viên sư phạm (khí chất, giới tính, năng lực học tập, khách thể giao
tiếp). Kết quả nghiên cứu thực trạng giúp cho sinh viên sư phạm chú ý học tập và
rèn luyện kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân được tốt hơn.
Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo bổ ích cho các giảng
viên, sinh viên trong giảng dạy, học tập và làm việc ở các trường đại học sư phạm,
cao đẳng sư phạm, nhất là khi giảng dạy kỹ năng và kỹ năng quản lý cảm xúc cho
sinh viên.
9. Cấu trúc của luận án
Luận án bao gồm: mở đầu, 3 chương, kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.
7
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG QUẢN LÝ CẢM XÚC
BẢN THÂN CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân của
sinh viên sư phạm.
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
Cảm xúc và quản lý cảm xúc là lĩnh vực được quan tâm nghiên cứu trong tâm
lý học và đã thu được nhiều thành tựu. Có thể khái quát thành một số hướng chính:
1.1.1.1. Nghiên cứu cảm xúc với tư cách là hiện tượng tâm lý cá nhân
Theo hướng này quy tụ rất nhiều nhà nghiên cứu. Có thể điểm qua các công
trình của L.X.Vưgotxki (1997), X.L. Rubinxtein (1989), V.A. Cruchetxki (1982),
R.S.Fieldman (2003), Jo.Goderfroid (1998), Richard J. Gerrig và Philip
G.Zimbardo (2013), Nicky Hayes (2005), Carrol E. Izard (1992) Trong các công

trình này, các tác giả đã tập trung nghiên cứu các vấn đề về định nghĩa cảm xúc,
biểu hiện, độ ổn định, sự xuất hiện và nguồn gốc của cảm xúc, phân loại cảm xúc và
sự ảnh hưởng của các yếu tố tâm- sinh lí cá nhân đến cảm xúc và ảnh hưởng của
cảm xúc đến các hoạt động của cá nhân Chẳng hạn, trong công trình “Những cảm
xúc của người”, Carrol E. Izard (1992) đã trình bày một cách hệ thống những vấn
đề cơ bản về cảm xúc của cá nhân: cảm xúc là gì? Các loại cảm xúc, biểu hiện cảm
xúc qua nét mặt, điệu bộ, mối quan hệ và ảnh hưởng của cảm xúc đến nhận thức, ý
thức và hành vi của cá nhân v.v. P.A. Ruđich [1986], trong cuốn “Tâm lý học” đã
đề cập tới định nghĩa và đặc điểm cơ bản của cảm xúc, quan hệ giữa cảm xúc với
nhu cầu, vai trò của cảm xúc trong đời sống của con người, cơ sở sinh lí của cảm
xúc, những nét và biểu hiện bên ngoài của cảm xúc qua nét mặt Trong tác phẩm
“Tâm lý học (nguyên lí và sử dụng)”, Stephen Worchel- Wayne Shebilsue (2007),
đã đề cập tới hàng loạt vấn đề về cảm xúc, từ việc đi tìm một định nghĩa phổ biến
về cảm xúc, đến việc giới thiệu hàng loạt thuyết tâm lý học về cảm xúc như thuyết
8
James -Langer về cảm xúc và cho rằng sự xuất hiện cảm xúc là kết quả của những
tác động bên ngoài, của các thay đổi nội tại trong phạm vi vận động chú ý và không
chú ý. Kế thừa và phát triển quan niệm cảm xúc của Darwin, S. Freud (2002) cho
rằng cảm xúc có nguồn gốc từ các năng lượng tính dục, bản năng. Tổng hợp những
cảm giác gắn liền với những thay đổi đó chính là trạng thái cảm xúc. Theo James,
cảm xúc gắn với phạm vi rộng lớn các thay đổi ngoại biên còn Langer lại cho rằng
cảm xúc với trạng thái phân bổ thần kinh và độ thông của các mạch máu; Thuyết
Canon-Bar; các thuyết về nhận thức, thuyết phản hồi của Tomkins (1962), sau đó
được Izard và Ekman (1977), Friesen (1971) đào sâu và hiện vẫn là một lĩnh vực
nghiên cứu năng động….
1.1.1.2. Nghiên cứu cảm xúc với tư cách là một động lực thúc đẩy cá nhân trong
hoạt động và trong cuộc sống
Cảm xúc với tư cách là một động lực tâm lý được đề cập trong hầu hết công
trình nghiên cứu tâm lý học cá nhân, tâm lý học phát triển. Từ các thực nghiệm của
B.Skinner (1953), S. Freud (2002), A.Maslow (1970), Carrol E. Izard (1992),

Goderfroid (1998), Richard J. Gerrig và Philip G.Zimbardo (2013), Nicky Hayes
(2005), Helen Greathead (2007), James L. Gibson (2011), Daniel Goleman (2002,
2007),Virender Kapoor (2012), Strongman K.T (1987), Keith Oatley & Fennifer
M.Jenkins (1995), Maurice Reuchlin (1995)… Trong các công trình này, cảm xúc
được nhìn nhận là một động lực thúc đẩy cá nhân hành động. Vì vậy, vấn đề là làm
thể nào để duy trì, thỏa mãn hay củng cố những cảm xúc của cá nhân. Nếu S. Freud
quy kết cảm xúc vào trong lĩnh vực động cơ vô thức, gắn với các yếu tố cơ thể và
cần được thỏa mãn (2002), thì B.Skinner và các nhà tâm lý học hành vi lại chú
trọng tới khía cạnh tác động xã hội tới các hành vi cảm xúc. Theo đó, các hành vi
cảm xúc của cá nhân được quyết định bởi các củng cố tích cực, tiêu cực hay sự
trừng phạt (1953). Trong công trình “Tâm lý học và đời sống”, Richard J. Gerrig và
Philip G.Zimbardo hướng đến các chức năng của cảm xúc đối với nhận thức và
hành vi của cá nhân, trong đó nhấn mạnh đến chức năng động cơ hành động, chức
năng điều chỉnh sự tương tác xã hội. Cảm xúc được ví như chất keo kết dính xã hội
9
hoặc là tác nhân để cá nhân xa lánh, từ bỏ xã hội. Đặc biệt, cảm xúc vừa là động lực
vừa là người dẫn đường cho các hoạt động nhận thức của cá nhân (2013). Những
kết quả nghiên cứu của Richard J. Gerrig và Philip G.Zimbardo cũng có thể tìm
thấy trong công trình “Những cảm xúc của người” của Carrol E. Izard (1992),
“Tâm lý học” của P.A. Rudich (1986),“Các con đường của tâm lý học” của
Goderfroid (1998), “Đời sống tình cảm của học sinh” của (P.M.Iacopxon, 1997).
1.1.1.3.Các nghiên cứu cảm xúc theo lứa tuổi
Với hướng nghiên cứu này có các công trình sau:
* Nghiên cứu sự phát triển của cảm xúc ở giai đoạn trẻ sơ sinh
Những nghiên cứu của Lewis hướng tới những thay đổi trong giai đoạn đầu
tiên của sự phát triển trong tình cảm, được thể hiện ở hai nhóm cảm xúc chính, đó là
cảm xúc nền tảng và cảm xúc tự ý thức. Cảm xúc nền tảng là xuất hiện trong 6
tháng đầu đời còn cảm xúc tự ý thức được xuất hiện khoảng từ 1,5 tuổi đến 2 tuổi
(Lewis, 2002).
Các nghiên cứu về khả năng giao tiếp bằng cảm xúc và nghiên cứu cảm xúc

của trẻ được thể hiện qua các cung bậc khác nhau. Chẳng hạn, nghiên cứu về
“Khóc” của Klein, & Marshall (1992); các nghiên cứu về “cười” của Emde,
Gaensbauer, Harmon (1976); Lewis, Hitchcock, & Sullivan (2004); các nghiên cứu
về sự “Sợ” của Emde, Gaensbauer, & Harmon (1976). Các nghiên cứu này đã phát
hiện khá nhiều điều thú vị về cảm xúc của trẻ sơ sinh. Chẳng hạn, nhà hành vi học
John Watson (1928) cho rằng cha mẹ dành quá nhiều thời gian phản ứng với trẻ sơ
sinh khóc, điều đó giống như phần thưởng và càng làm tăng tỷ lệ khóc của trẻ.
Nghiên cứu của Jacob Gewirtz (1977) cho thấy, sự đáp ứng nhanh chóng, nhẹ
nhàng của người chăm sóc càng làm trẻ tăng số lần khóc. Ngược lại, các nghiên cứu
Mary Ainsworth (1979) và John Bowlby (1989) về trẻ sơ sinh cho rằng, trẻ sơ sinh
được mẹ trả lời nhanh chóng khi chúng đã khóc lúc 3 tháng tuổi đã khóc ít hơn ở
giai đoạn sau này trong năm đầu tiên của cuộc sống (Ainsworth, 1972). Các nghiên
cứu về “cười” của Emde, Gaensbauer, Harmon (1976); Lewis, Hitchcock và
Sullivan (2004) phát hiện, “cười” xã hội không xảy ra cho đến khi trẻ được 2 tháng tuổi
10
(mặc dù một số nhà nghiên cứu tin rằng trẻ sơ sinh cười để đáp ứng với tiếng nói khi
được 3 tuần tuổi) (Sroufe và Waters, 1976) v.v
Một hướng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm là nghiên cứu về việc điều
chỉnh cảm xúc trong năm đầu tiên của trẻ (Eisenberg, 2001); Eisenberg, Spinrad
(2004), Thompson (1994), Grolnick (1996). Đến hai tuổi, trẻ có thể sử dụng ngôn
ngữ để xác định trạng thái cảm xúc của mình và những yếu tố gây khó chịu (Kopp
và Neufeld, 2002). Một em bé có thể nói: "Cảm thấy xấu hoặc là cảm thấy sợ con
chó". Điều này, có thể giúp trẻ em trong việc điều chỉnh cảm xúc.
* Nghiên cứu sự phát triển cảm xúc của trẻ ở lứa tuổi ấu thơ
Các nghiên cứu tập trung vào việc phát hiện khả năng hiểu cảm xúc của
mình ở trẻ em như nghiên cứu của Lewis (2002), phát hiện trẻ có thể hiểu được cảm
xúc của bản thân mình và biết phân biệt với những người khác lúc 2,5 tuổi; Nghiên
cứu của Harter (1999) cho thấy, trẻ 3 tuổi bắt đầu nhận thấy sự xuất hiện của những
cảm xúc tự ý thức như xấu hổ, tội lỗi, bối rối và tự hào. Trong các nghiên cứu của
Stipek (1995) cho thấy trẻ ở tuổi trước khi đến trường đánh giá thành tích của của

chúng và phản ứng cảm xúc đối với thành công và thất bại, biểu hiện kinh nghiệm
vui thích, không hài lòng không chỉ đối với nhiệm vụ mà còn đối với chính bản thân
trẻ
Một hướng nghiên cứu khá phổ biến về cảm xúc trẻ em tuổi ấu thơ là cảm
xúc dưới góc độ giới. Các nghiên cứu của Stipek, Recchia, & McClintic (1992) cho
rõ các em gái thường thấy xấu hổ hơn và tự hào hơn các em trai. Còn các nghiên
cứu của Cummings, Braungart-Rieker, & Du Rocher-Schudlich (2003) phát hiện
khía cạnh giới của các nguy cơ rối nhiễu cảm xúc trẻ em tuổi ấu thơ. Em gái có
nhiều nguy cơ bị rối loạn nội tâm, chẳng hạn như sự lo lắng và trầm cảm, trong đó
cảm giác xấu hổ và tự phê bình thường rõ ràng (Cummings, Braungart-Rieker, &
Du Rocher-Schudlich, 2003).
Các nghiên cứu về sự phát triển cảm xúc và nhận dạng các cảm xúc của trẻ
em như nghiên cứu của Kucbli (1994), Ridgeway, Waiters và Kuczaj (1985),
Denham (1998); Denham và những người khác (2003); Bruce, Olen và Jensen,
11
(1999); Havighurst, Harley (2004), Thompson (2006). Chẳng hạn, trẻ từ 2 đến 4
tuổi, số lượng các thuật ngữ mà trẻ sử dụng để mô tả cảm xúc tăng lên (Ridgeway,
Waiters, và Kuczaj, 1985). Trẻ cũng học về những nguyên nhân và hậu quả của cảm
xúc (Denham, 1998; Denham và những người khác, 2003). Khi được 4-5 tuổi, khả
năng phản ánh về cảm xúc ở trẻ tăng, trẻ thấy cần phải quản lý cảm xúc của mình
để đáp ứng các tiêu chuẩn xã hội (Bruce, Olen, và Jensen, 1999); phụ huynh, giáo
viên, và người lớn khác có thể giúp trẻ hiểu và điều chỉnh cảm xúc của bản thân
(Havighurst, Harley, 2004; Thompson, 2006, Thompson, 2005).
Trong một nghiên cứu tiến hành trong bối cảnh tương tác cùng bạn bè hàng
ngày, cho thấy sự phát triển khả năng tự điều chỉnh cảm xúc xã hội của trẻ (Fabes &
những người khác 1999). Những trẻ em kiểm soát phản ứng cảm xúc tốt có nhiều
khả năng ứng xử theo tiêu chuẩn xã hội trong một tình huống cảm xúc đầy khiêu
khích (như khi một trẻ khác nói xấu hoặc lấy một cái gì đó của trẻ).
* Sự phát triển cảm xúc của trẻ ở giai đoạn tuổi nhi đồng
Một khía cạnh quan trọng của sự trưởng thành xã hội liên quan đến sự hiểu

biết về cảm xúc. Các nghiên cứu của P.L Harris (1994), Saarni, Mumme và Campos
(1998) về việc sử dụng tên gọi của các cảm xúc để nói về cảm xúc của mình;
Nghiên cứu của Josephs (1994), Saarni (1998) về sự che dấu cảm xúc; Nghiên cứu
của Kuebli (1994); Wintre và Vallance (1994) về sự thay đổi cảm xúc của trẻ em
tuổi nhi đồng. Chẳng hạn P.L Harris, Saarni, Mumme và Campos phát hiện, ở tuổi
này, trẻ có xu hướng biểu lộ cảm xúc của bản thân trong mối liên quan với người,
vật, hoặc sự kiện làm tăng mức độ cảm xúc và trẻ thường tiếp cận bằng cách nói về
vui mừng vì sinh nhật. Cole (1986) đã cho thấy trẻ ở độ tuổi mẫu giáo cố gắng để
che đậy sự thất vọng bằng cách mỉm cười khi nhận được món quà đáng thất vọng,
nhưng trẻ không thể che giấu cảm xúc tiêu cực khi trẻ ở một mình. Saarni và cộng
sự [1998] cho rằng, những tín hiệu xã hội có thể hướng dẫn trẻ đưa ra phản ứng xã
hội thích hợp. Trẻ 6 tuổi thường tìm đến người cho quà tặng để cung cấp một gợi ý
về những phản ứng cảm xúc mong đợi, ở trẻ lớn hơn đã không cần đến các tín hiệu
xã hội. Các nghiên cứu (Josephs, 1994, Saarni, 1998) cho thấy, trẻ từ 4 -5 tuổi có
12
thể che dấu người khác bằng cách áp dụng một biểu hiện gây hiểu lầm khi nói dối.
Trẻ cũng có thể giả vờ rằng một ly nước ép trái cây đã được ngọt, để lừa một người
lớn, và cảm thấy thỏa thích dự đoán phản ứng của người lớn như thế nào khi phát
hiện ra rằng ly nước thực sự chua. Nghiên cứu của Joseph cũng cho thấy, các trẻ ở
tuổi mẫu giáo thường cười khúc khích hoặc che miệng bằng hai bàn tay để che giấu
một nụ cười khi người lớn bị lừa về nước trái cây chua.
Điều chỉnh cảm xúc là khả năng theo dõi, đánh giá và bổ trợ đáp ứng cảm
xúc của chính mình nhằm để hoàn thành một nhiệm vụ (Thompson,1994). Điều
chỉnh cảm xúc cần phải có khả năng để định dạng, hiểu được và làm nhẹ đi cảm xúc
của mình khi thích hợp. Điều chỉnh cảm xúc có thể liên quan đến việc ức chế hoặc
làm dịu bớt các phản ứng cảm xúc, ví dụ: trẻ có thể thở sâu, đếm đến 10 nhằm giúp
trẻ bình tĩnh khi đối mặt với cảm xúc khó chịu. Điều chỉnh cảm xúc cũng có thể liên
quan đến việc gia tăng cường độ thức tỉnh cảm xúc nhằm để đạt được một mục tiêu.
Ví dụ, trẻ có thể gia tăng sự tức giận nhằm để có được can đảm đứng trước một kẻ
bắt nạt, hoặc trẻ có thể gia tăng các cảm xúc tích cực bằng cách nhớ lại hoặc tái diễn

lại một kinh nghiệm vui vẻ. Thực chất, điều chỉnh cảm xúc cho phép trẻ là “ông chủ
của chính mình”- theo cách nói của một thân chủ trẻ em. (Kuebli, 1994); Wintre và
Vallance, 1994) đã phát hiện trẻ ngày càng phát triển nhận thức về quản lý và kiểm
soát cảm xúc của mình để đáp ứng các tiêu chuẩn xã hội và có sự thay đổi quan
trọng trong sự phát triển cảm xúc: Khả năng hiểu các cảm xúc phức tạp tăng lên,
như là niềm tự hào và sự xấu hổ; tăng khả năng hiểu được có thể trải nghiệm nhiều
cảm xúc hơn là một cảm xúc trong một tình huống cụ thể; có xu hướng tăng trong
việc tính đến các sự kiện dẫn đến các phản ứng cảm xúc; có những cải tiến trong
khả năng ngăn chặn hoặc che giấu những phản ứng cảm xúc tiêu cực; Xuất hiện
việc sử dụng các chiến lược tự chuyển hóa cảm xúc; xuất hiện khả năng cảm xúc và
sự hiểu biết cảm xúc (Thompson và Goodvin, 2005).
* Sự phát triển cảm xúc của trẻ ở tuổi vị thành niên
Điểm nhấn trong nghiên cứu cảm xúc của trẻ em tuổi thiếu niên là nghiên
cứu sự “biến động” trong cảm xúc của lứa tuổi này: Nghiên cứu về rối loạn cảm xúc
13
(Hall, 1904); trạng thái "cơn bão và căng thẳng", nhưng có sự gia tăng các cảm xúc
cao và thấp trong giai đoạn đầu tuổi vị thành niên (Rosenblum và Lewis, 2003).
Nghiên cứu sự mất cân bằng giữa cường độ cảm xúc của trẻ với các sự kiện. Ở đây
cảm xúc dường như không tương ứng với các sự kiện gợi ra chúng (Steinberg và
Levine, 1997). Nghiên cứu dưới góc độ giới, trẻ gái đặc biệt dễ bị trầm cảm ở tuổi vị
thành niên (Nolen-Hoeksema, 2007).
Các nghiên cứu của Larson và Maryse Reed Richards (1994) thấy rằng, trẻ vị
thành niên tự đánh giá những cảm xúc tiêu cực và những cảm xúc thoáng qua nhiều
hơn so với cha mẹ chúng đánh giá ở trẻ.
Các nhà nghiên cứu cũng cho thấy, trẻ trong độ tuổi từ lớp 5 đến lớp 9, ở cả
nam và nữ đều có trải nghiệm cảm xúc "rất hạnh phúc" bị sụt giảm 50 phần trăm
(Larson và Lampman-Petraitis, 1989). Cũng trong nghiên cứu này, trẻ vị thành niên
có nhiều khả năng tự đánh giá trạng thái cảm xúc tiêu cực cao hơn so với trẻ ở lứa
tuổi trước đó.
Trong một số công trình, đã chỉ ra nguyên nhân của sự “biến động” cảm xúc

của trẻ tuổi thiếu niên. Chẳng hạn, nghiên cứu sự thay đổi hormone của
(Rosenbaum và Lewis, 2003). Khi trẻ bước vào giai đoạn trưởng thành, cảm xúc trở
nên ít khắc nghiệt hơn và điều này làm giảm sự biến động về tình cảm, có thể phản
ánh mức độ thích ứng với hormone; nghiên cứu quan hệ giữa cảm xúc với tuổi dậy
thì của Archibald, Graber và Brooks- Gunn (2003); Brooks-Gunn, Graber và
Paikoff (1994); Dorn, Williamson, Ryan (2002). Hầu hết các nhà nghiên cứu kết
luận rằng ảnh hưởng của nội tiết tố là nhỏ và những thay đổi về cảm xúc xảy ra ở
trẻ thường được kết hợp với các yếu tố khác như stress, chế độ ăn uống, hoạt động
tình dục và các mối quan hệ xã hội (Rosenbaum và Lewis 2003); (Susman, Dorn,
Schiefelhein 2003); (Susman và Rogol, 2004).
Các nghiên cứu về sự điều chỉnh cảm xúc ở thanh thiếu niên. (Gumora và
Arsenio 2002) cho thấy, từ trẻ từ lớp 6 đến lớp 8 trẻ có những biểu hiện cảm xúc
tiêu cực có điểm trung bình ở thói quen thường xuyên học tập thấp hơn so với
14
những trẻ có trải nghiệm cảm xúc tích cực hơn, ngay cả khi khả năng nhận thức
được kiểm soát.
* Sự phát triển cảm xúc ở thanh niên và người lớn trưởng thành
Cũng giống như trẻ em, người lớn thích ứng hiệu quả hơn khi có trí tuệ cảm
xúc- khi họ có khả năng nhận thức và thể hiện cảm xúc, hiểu biết cảm xúc, sử dụng
cảm xúc để tư duy và quản lý cảm xúc hiệu quả. Sự thay đổi cảm xúc tiếp tục phát
triển trong những năm ở độ tuổi trưởng thành (Carstensen, Mikels và Mather 2006);
(Knight và Mather 2006). Những thay đổi liên quan đến một nỗ lực để tạo ra lối
sống đáp ứng, dự đoán, và quản lý cảm xúc, thông qua lựa chọn nghề nghiệp, hôn
nhân và các hoạt động khác. Tất nhiên, không phải tất cả thành công trong việc làm
như vậy. Chủ đề của phát triển tình cảm ở tuổi trưởng thành là sự tích hợp thích ứng
của cảm xúc vào đáp ứng cuộc sống hàng ngày và các mối quan hệ thành công với
những người khác (Thompson và Goodvin, 2005).
Cuộc sống tình cảm của người trưởng thành có khác so với khi còn trẻ không?
Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy rằng trên mẫu nghiên cứu đa dạng, Na Uy, người Mỹ
gốc Phi, Trung Mỹ, châu Âu và châu Mỹ- người trưởng thành lớn tuổi có khả năng kiểm

soát tốt những cảm xúc của họ và có ít cảm xúc tiêu cực hơn so với người trưởng thành
trẻ tuổi các nghiên cứu Carsiensen và Lockenhoff (2004); Carstensen, Mikels và
Mather, (2006); Charles và Carstensen, (2004); Mroczek, (2001).
Thông thường theo khuôn mẫu, chúng ta thường nghĩ rằng, ở người cao tuổi,
cảm xúc của họ thường mang tính ảm đạm, mà hầu hết sống buồn, cuộc sống cô
đơn, nhưng các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một hình ảnh khác (Carstensen và
Lockenhoff, 2004; Carstensen, Mikels, và Mather, 2006). Một nghiên cứu của một
mẫu người Mỹ cho thấy: Những người lớn tuổi trải qua những cảm xúc tích cực hơn
và ít cảm xúc tiêu cực hơn so với người lớn ít tuổi, và cảm xúc tích cực tăng theo
tuổi ở người lớn với một tốc độ gia tăng.
Trong một nghiên cứu khác, với các sự kiện tích cực (ví dụ: buổi liên hoan
sinh nhật của một đứa trẻ) và những cảnh tiêu cực (ví dụ: cảnh một đốt nạn nhân)
được hiển thị trên một máy đo não MRI quét, thực nghiệm tiến hành trên người lớn
15
ở lứa tuổi khác nhau (Mather, 2004). Kết quả cho thấy: Não bộ của người trưởng
thành ít tuổi hoạt động nhiều hơn để đáp ứng với những sự kiện tiêu cực xảy ra, còn
ở não bộ của người lớn nhiều tuổi hoạt động đáp ứng với những sự kiện tích cực
cao hơn. Sự khác biệt hoạt động được rõ ràng nhất trong các hạch hạnh nhân, đó là
nơi đặc biệt quan trọng trong qui trình cảm xúc.
Tóm lại, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy rằng cuộc sống tình cảm của người
lớn tuổi là tích cực hơn so với giả thuyết Carstensen, 1998; Carstensen, Mikels, và
Mather, (2006), Castensen và những người khác, (2003), Charles và Carstensen,
2004; Mroczek, (2001).
Một lý thuyết được phát triển bởi Laura Carstensen (1991, 1995, 1998);
Carstensen, Mikels, (2006); Carstensen và những người khác, (2003) có ý nghĩa
quan trọng trong suy nghĩ về những thay đổi trong sự phát triển cảm xúc ở tuổi
trưởng thành, đặc biệt là ở người lớn tuổi, đó là lý thuyết chọn lọc cảm xúc xã hội
(Socioemotional selectivity Theory). Lý thuyết chọn lọc cảm xúc xã hội cho rằng,
người lớn tuổi trở nên có chọn lọc về các mạng xã hội của họ, bởi vì họ đặt giá trị
cao về sự hài lòng cảm xúc. Người cao niên thường dành nhiều thời gian hơn với

các cá nhân quen thuộc, người mà họ đã có mối quan hệ thân thiện. Lý thuyết này
lập luận rằng những người lớn tuổi cố ý rút lui khỏi liên hệ với xã hội với cá nhân
thuộc phạm vi bên ngoài cuộc sống của họ, trong khi họ duy trì hoặc tăng cường
liên hệ với người bạn thân và các thành viên gia đình, với người mà họ đã có mối
quan hệ thú vị. Sự lựa chọn này thu hẹp tương tác xã hội, tối đa hóa trải nghiệm
cảm xúc tích cực và giảm thiểu rủi ro về tình cảm khi đã cao tuổi. Theo lý thuyết
này, người lớn tuổi trau dồi có hệ thống mạng xã hội của mình để các đối tác xã hội
đáp ứng nhu cầu tình cảm của họ.
Tóm lại:
Theo hướng nghiên cứu về cảm xúc với tư cách là hiện tượng tâm lý, các nhà
khoa học đã nghiên cứu các vấn đề về định nghĩa cảm xúc, biểu hiện, độ ổn định,
sự xuất hiện và nguồn gốc của cảm xúc, phân loại cảm xúc và sự ảnh hưởng của
các yếu tố tâm- sinh lí cá nhân đến cảm xúc và ảnh hưởng của cảm xúc đến các
16
hoạt động của cá nhân. cho rằng cảm xúc có nguồn gốc từ các năng lượng tính
dục, bản năng. Tổng hợp những cảm giác gắn liền với những thay đổi đó chính là
trạng thái cảm xúc. Cảm xúc gắn với phạm vi rộng lớn các thay đổi ngoại biên và
cảm xúc gắn với trạng thái phân bổ thần kinh và độ thông của các mạch máu.
Theo hướng nghiên cứu về cảm xúc với tư cách là động lực thì cảm xúc được
nhìn nhận là một động lực thúc đẩy cá nhân hành động. Vì vậy, vấn đề là làm thể
nào để duy trì, thỏa mãn hay củng cố những cảm xúc của cá nhân và cần có những
kích thích tác động để cải thiện cảm xúc tiêu cực, tăng cảm xúc tích cực nhằm thúc
đẩy hoạt động của con người.
Hướng nghiên cứu cảm xúc theo lứa tuổi cho thấy, các tác giả nghiên cứu
cảm xúc ở các lứa tuổi có sự phát triển cảm xúc khác nhau. Kết quả cho thấy càng
trưởng thành việc quản lý các cảm xúc sẽ thuận lợi hơn so với những lứa tuổi khác.
1.1.1.4. Các nghiên cứu về quản lý cảm xúc.
Trong các nghiên cứu trí tuệ cảm xúc, mà trong đó hàm chứa các yếu tố nhận
biết và kiểm soát, điều khiển cảm xúc của mình và của người khác, còn có các công
trình nghiên cứu quản lý cảm xúc. Chẳng hạn, Fischer, Manstead, Evers, Timmers,

& Valk (2004) nghiên cứu quản lý cảm xúc các hoàn cảnh khác nhau. Erber,
Wegner và Therriault (1996) đưa ra thực nghiệm về việc tăng cường hay ức chế
cảm xúc để có kinh nghiệm và thể hiện cảm xúc mà họ tin rằng sẽ tạo điều kiện
thực hiện trong một tình huống cụ thể. Diamond & Aspinwall (2003) kết luận rằng,
cảm xúc tốt hay cảm xúc xấu không phải là bất biến và động lực điều chỉnh cảm
xúc chỉ có thể được hiểu trong bối cảnh cụ thể mà trong đó cảm xúc xảy ra.
Hochschild (1983) chỉ ra rằng các khuôn mẫu cảm xúc (được xây dựng trên quy tắc
hiển thị cảm xúc ra ngoài và có thể là kinh nghiệm cảm xúc trong một hoàn cảnh đã
cho) đã tạo động lực cho quản lý cảm xúc. Các nghiên cứu của Rime và các cộng sự
(1991), chỉ ra sự chia sẻ xã hội không chỉ đóng một vai trò quan trọng trong việc
cung cấp những thông tin mà có thể phục vụ chức năng quan trọng về tâm lý và xã
hội. Chia sẻ xã hội, có thể làm giảm khoảng cách vật lý và các đặc điểm cá nhân và
đóng góp vào sự phát triển của quan hệ gần gũi. Thoits (1984), Collins và Miller
17
(1994) tìm thấy rằng những người chia sẻ cảm xúc của họ và cảm xúc với những
người khác có nhiều hơn những người thích giữ chúng ở lại. Các nghiên cứu của
Zech & Rime (1996) đã phát hiện sự chia sẻ cảm xúc được đánh giá là có ý nghĩa
hơn và thú vị hơn là nói chuyện một cách khách quan và mô tả.
Dưới góc độ nghiên cứu sự nghiền ngẫm hay ngăn cản cảm xúc, Nolen-
Hoeksema, McBride và Larsen (1997); Nolen-Hoeksema và Morrow (1993) kết
luận cho thấy nghiền ngẫm về sự tức giận, tội lỗi và những suy nghĩ lo lắng liên
quan đến việc tạo ra những cảm xúc mạnh hơn. (Wegner, 1994). Kopel & Arkowitz
(1974) nghiên cứu sự kìm hãm các biểu hiện đau, Wegner (1994) nghiên cứu sự
ngăn chặn suy nghĩ về cảm xúc đau đã cho thấy giảm cảm giác do bản thân tự thông
báo. McCanne và Anderson (1987) cho thấy sự ngăn chặn biểu lộ cảm xúc trong khi
những hoàn cảnh cảm xúc dễ chịu hoặc khó chịu làm suy giảm khả năng của những
người tham gia để cảm nhận những cảm xúc tương ứng. Giảm khả năng nhận thức
cho sự ngăn chặn hành vi biểu cảm đến từ một sự nghiên cứu bởi Ginbe, Krull, và
Pelham (1988) đã cho thấy sự kiềm chế cái nhìn làm suy yếu sự thực hiện hành vi
nhận thức. Richards và Gross (1999) cho thấy, ngăn chặn biểu hiện cảm xúc làm suy yếu

bộ nhớ cho thông tin gặp phải trong thời kỳ ngăn chặn. Tuy nhiên, có rất ít bằng chứng
cho thấy sự ngăn chặn biểu hiện cảm xúc tự nhiên dẫn đến suy giảm kinh nghiệm cảm
xúc và kích thích sinh lý ngoài các thao tác của biểu hiện sự đau đớn.
Carstensen, Gottman và Levenson (1995), Levenson, Carstensen và
Gottman (19940 và các đồng nghiệp đã chỉ ra rằng, sự hài lòng của hôn nhân
tăng khi giảm biểu hiện cảm xúc tiêu cực. Thành công việc sửa đổi nét mặt của
cảm xúc, có thể quan trọng trong mối quan hệ của con người xã hội và hôn nhân,
nhưng nó không giúp nhiều để làm giảm cảm xúc tiêu cực của một người.
Lazarus và Alfert (1964) cho thấy, đánh giá lại, một cách hiệu quả để giảm
bớt cảm xúc tiêu cực cũng như kích thích sinh lý đi kèm. Các nghiên cứu của
Kramer và các đồng nghiệp cho thấy, đánh giá lại không tiêu thụ các nguồn lực
nhận thức nó, không làm ảnh hưởng bộ nhớ. Trong truyền thông tâm lý [Bucci,
1995] sự tích tụ của những cảm xúc không thể hiện được có liên quan đến các rối
loạn tâm thần và thể chất.
18
Tất cả các các giả trên khi nghiên cứu về quản lý cảm xúc cũng chỉ ra những
biểu hiện cảm xúc và nguyên nhân có những cảm xúc đó, họ chưa đưa ra nhưng
phương pháp để quản lý cảm xúc.
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam có khá nhiều công trình nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc của giáo
viên, học sinh, sinh viên trên nhiều vùng miền. Xu hướng chung của các nhà tâm lý
học là làm sáng tỏ những vấn đề bản chất, cấu trúc của trí tuệ cảm xúc, cơ sở
phương pháp luận nghiên cứu trí tuệ cảm xúc; đồng thời từng bước thử nghiệm và
mau chóng đưa vào những trắc nghiệm phù hợp nhằm xác định chỉ số trí tuệ cảm
xúc của con người Việt Nam. Các tác giả Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Huy Tú,
Trần Trọng Thủy, … được coi là những tác giả tiên phong trong lĩnh vực này.
Bài viết của tác giả Nguyễn Huy Tú: “Chỉ số thông minh cảm xúc cao - một
tiêu đề thành công” [81], “Trí tuệ cảm xúc - bản chất và phương pháp chẩn
đoán”[82] và “Các mô hình lý thuyết về trí thông minh cảm xúc” do Nguyễn Công
Khanh (dịch) [54] đã bước đầu tiếp cận đến trí tuệ cảm xúc. Gần đây, các tác giả

Nguyễn Công Khanh, Đinh Thị Kim Thoa và Nguyễn Thành Đoàn cũng đã bàn đến
phương pháp luận nghiên cứu trí thông minh cảm xúc.
Tác giả Dương Thị Hoàng Yến với đề tài: “Trí tuệ cảm xúc của giáo viên
tiểu học” đã rút ra kết luận: Trí tuệ cảm xúc của giáo viên tiểu học là một yếu tố
quan trọng tạo nên thành công trong sự nghiệp. [ theo 90]
Đề tài cấp Nhà nước của tác giả Nguyễn Công Khanh [theo 54]: “Nghiên
cứu trí tuệ cảm xúc ở học sinh Trung học phổ thông” đã sử dụng trắc nghiệm
MSEIT của J. Mayer, P. Salovey và D. Caruso được Việt hóa đo lường trên 17000
học sinh. Kết quả cho thấy sự phát triển trí tuệ cảm xúc của học sinh chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố và là sản phẩm của quá trình tương tác liên tục giữa bản
thân và môi trường sống.
Tác giả Đào Thị Oanh (2010), Nghiên cứu trí tuệ cảm xúc và giáo dục trí tuệ
cảm xúc cho học sinh THCS trong gia đình và nhà trường hiện nay, Đề tài khoa học
cấp bộ, cho thấy [theo 59]: Nhìn chung, biểu hiện trạng thái cảm xúc của thiếu niên
19
được nghiên cứu là tích cực và phần lớn đạt ở mức tốt. Thiếu niên nam trải nghiệm
sự lo âu, căng thẳng nhiều hơn so với các thiếu niên nữ và các thiếu niên nữ thường
cảm thấy tự tin hơn. Có thể là do các em nữ trưởng thành sớm hơn các em nam, các
cách thức biểu hiện cảm xúc kín đáo hơn, trong khi các trẻ nam tỏ ra hồn nhiên, bộc
lộ cảm xúc trực tiếp và bột phát hơn. Có sự mâu thuẫn nhất định trong tự đánh giá
về trạng thái cảm xúc của học sinh ở lứa tuổi này. Đó là mâu thuẫn giữa sự tự đánh
giá về “tính tích cực” của bản thân học sinh với “tâm trạng” và với những trạng thái
có liên quan tới “sức khoẻ” sinh lí thể chất: một mặt các em luôn tự cho mình là
“mạnh mẽ”, “vui vẻ”, “yêu đời”, “hạnh phúc”, “tươi tỉnh”, “sung sức”…, nhưng
cùng lúc đó lại cảm thấy “thụ động”, “không muốn làm việc”, “không muốn động
chân tay”, “đầu óc mụ mẫm” không tập trung được. Điều này có thể lí giải bằng đặc
điểm phát triển tâm sinh lí của lứa tuổi này do sự chi phối của quy luật về tính mất
cân đối tạm thời trong sự phát triển cá nhân của trẻ. Và chính đây là điều làm cho
bản thân thiếu niên vấp phải những khó khăn không nhỏ. Tương tự, sự khác biệt rõ
rệt giữa nữ và nam thiếu niên vừa được đề cập ở trên cũng có thể được giải thích

bằng quy luật về tính không đồng đều trong sự chín muồi giới tính, kéo theo những
khác biệt về tâm lý, trong đó có khác biệt về cảm xúc.
Ngoài ra còn có các tác giả khác nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc như: Nguyễn
Thị Thanh Tâm (2012), Trí tuệ cảm xúc của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong giao
tiếp công vụ, Luận án tiến sĩ tâm lý học; Phan Trọng Nam (2012), Trí tuệ cảm xúc
của sinh viên đại học sư phạm, Luận án tiến sĩ.
Tóm lại: Các tác giả trong nước chủ yếu nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc, trí
tuệ cảm xúc của sinh viên trong đó có sinh viên sư phạm và những cảm xúc tiêu cực
của học sinh chứ chưa nghiên cứu về kỹ năng quản lý cảm xúc, đặc biệt là kỹ năng
quản lý cảm xúc bản thân của sinh viên sư phạm. Các nghiên cứu cũng làm sáng tỏ
những vấn đề bản chất, cấu trúc của trí tuệ cảm xúc, cơ sở phương pháp luận nghiên
cứu trí tuệ cảm xúc; đồng thời từng bước thử nghiệm và mau chóng đưa vào những
trắc nghiệm phù hợp nhằm xác định chỉ số trí tuệ cảm xúc của con người Việt Nam.
20
1.2. Một số vấn đề lí luận cơ bản về kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân của
sinh viên sư phạm
1.2.1. Cảm xúc
1.2.1.1 Khái niệm
Theo “Từ điển tiếng Việt” định nghĩa: “Cảm xúc là rung động trong lòng do
tiếp xúc với sự việc gì đó” (Hoàng Phê, 1997)[64]
Theo “Từ điển Tâm lý học” (Nguyễn Khắc Viện, 1991) “Cảm xúc là phản
ứng rung chuyển của con người trước một kích động vật chất hoặc một sự việc gồm
hai mặt: Những phản ứng sinh lý do thần kinh thực vật, như tim đập nhanh, toát mồ
hôi, hoặc run rẩy, rối loạn tiêu hóa; Phản ứng tâm lý, qua những thái độ, lời nói,
hành vi và cảm giác dễ chịu, khó chịu, vui sướng, buồn khổ có tính bột phát, chủ
thể kiềm chế khó khăn. Lúc phản ứng chưa phân định gọi là cảm xúc, lúc phân định
rõ nét gọi là cảm động, lúc biểu hiện với cường độ cao gọi là cảm kích”. [84]
Theo Từ điển Tâm lý học (Vũ Dũng, 2000), cảm xúc: “là sự phản ánh tâm lý
về mặt ý nghĩa sống động của các hiện tượng và hoàn cảnh, tức mối quan hệ giữa
các thuộc tính khách quan của chúng với nhu cầu của chủ thể, dưới hình thức những

rung động trực tiếp”. [10, tr.29]
Trong tâm lý học, cảm xúc được nhiều nhà nghiên cứu đề cập, dưới nhiều
góc độ khác nhau:
Tiếp cận cảm xúc dưới góc độ nguồn gốc phát sinh có rất nhiều quan niệm
như MC. Dougall coi cảm xúc là những cái được di truyền; B.F.Skinner, J.Dolar và
N.E. Miller lại giải thích cảm xúc là cách thức hay khuôn mẫu phản ứng được tiếp
thu theo nguyên tắc học tập điều kiện hóa hoặc học tập bắt chước; S.Freud lại cho
rằng cảm xúc chính là sự giải tỏa những năng lượng libido bị dồn nén.
Thông thường, chúng ta cho rằng cảm xúc là nguyên nhân gây ra những biến
đổi sinh lý của cơ thể con người ví dụ như khi ta sợ hãi thì tim đập nhanh hơn
nhưng theo nhà tâm lý học người Mỹ William James (1890) và nhà tâm lý học
người Đan Mạch Carl Lange (1922) thì cảm xúc là hệ quả của những thay đổi sinh
lý trong cơ thể con người. Hay nói cách khác là hiện tượng cảm xúc là sự phản ứng
21
đối với những biến đổi sinh lý bên trong cơ thể hay biến đổi nội tạng (visceral
changes). Các biến đổi này phát sinh như một sự đáp ứng với những việc xảy ra
trong môi trường sống. Các biến đổi nội tạng được giải thích là các phản ứng cảm
xúc, hay sự biến đổi nội tạng được xem là nguồn gốc của cảm xúc.
Sợ hãi → tim đập nhanh (Cảm xúc → Thay đổi sinh lý)
Tim đập nhanh → Sợ hãi (Thay đổi sinh lý → cảm xúc)
Theo lý thuyết của James - Lange thì cảm xúc là sự cảm thụ của cơ thể đối
với những biến đổi nội quan, đặc biệt là hệ tim mạch.
Tuy nhiên đến năm 1890 James đưa ra giáo trình “Những nguyên lý cơ bản
của tâm lý học” trong đó có đề cập tới cảm xúc, nghiên cứu này độc lập với thuyết
cảm xúc của Carl Lange. Trong thuyết cảm xúc của mình, James cho rằng, cảm xúc
là tri giác của trí tuệ và những điều kiện sinh lý học xuất phát từ những kích thích.
Nói cách khác, các cảm xúc mà chúng ta cảm thấy tùy thuộc vào điều chúng ta làm.
Thuyết cảm xúc của James khuyên chúng thực hành “Hãy hành động theo cách mà
bạn muốn, bạn cảm thấy”.
Hai nhà tâm lý học người Mỹ là Walter Cannon (1927) và Philip Bard (1934)

lại cho rằng, cảm xúc và những thay đổi sinh lý xảy ra độc lập và không có quan hệ
hệ quả như trong học thuyết của James Lange. Theo Cannon Bard thì cảm xúc xuất
phát từ hệ thần kinh trung ương chứ không như ở ngoại vi như James Lange.
Cannon Bard tiến hành thực nghiệm tiêm chất hóa học chỉ định vào máu và
kết quả là hoạt động tim mạch bị biến đổi nhưng lại không thấy xuất hiện những
cảm xúc tương ứng với sự biến đổi đó. Từ đó ông đã rút ra được kết luận đối lập
hẳn với quan niệm của James – Lange đó là:
- Khi đem tách các cơ quan nội tạng ra khỏi hệ thần kinh trung ương sẽ
không làm biến đổi hành vi cảm xúc.
- Những biến đổi nội tạng diễn ra quá chậm nên không thể giải thích được
những hiện tượng cảm xúc vốn xảy ra quá nhanh.
- Những biến đổi nội tạng được tạo nên bằng cách nhân tạo sẽ không gây nên
những cảm xúc.
22
Trong khi đó, theo học thuyết hai yếu tố của hai nhà tâm lý học Stanley
Schacter và Jerome Singer (1962) lại có thêm yếu tố môi trường. Điều này có nghĩa
là, con người phụ thuộc vào môi trường để giải thích những thay đổi sinh lý trong
cơ thể và hình thành cảm xúc. Học thuyết hai yếu tố của Schacter – Singer cho thấy
sự hình thành cảm xúc có sự tham gia của yếu tố môi trường và yếu tố thay đổi sinh
lý trong cơ thể. Sự kết hợp của hai yếu tố này là điều kiện cần và đủ để hình thành
nên cảm xúc tích cực cũng như tiêu cực ở con người.
Theo T.Fesher và Russell, J.A (2003) thì cảm xúc là thứ mà tất cả mọi người
đều biết nhưng không thể định nghĩa được. Điều này có nghĩa là, về mặt ngữ nghĩa,
cảm xúc có thể được coi là sự trải nghiệm bằng cảm giác. Chúng ta chỉ cảm nhận
được cảm xúc chứ không nghĩ ra nó. Khi nghe một lời nói hay chứng kiến một hành
động có ý nghĩa với bản thân, các cảm xúc của chúng ta lập tức xuất hiện, đồng thời
cũng xuất hiện những suy nghĩ tương đồng, những thay đổi về mặt sinh lý và nảy
sinh cảm giác thôi thúc muốn được làm điều đó. Ví dụ như khi có một người nào đó
nhất quyết sai khiến chúng ta làm một việc mà chúng ta không thích và làm cho
chúng ta tức giận. Lúc đó tình trạng cơ thể sẽ xuất hiện những biểu hiện như nhịp

tim tăng, áp máu tăng cao hay nói cách khác là có sự thay đổi về mặt sinh lý, đồng
thời lúc đó về mặt tâm lý chúng ta cũng muốn có hành động như muốn đánh, hay
cãi lại người đã sai khiến mình.
Tiếp cận nghiên cứu cảm xúc như là sản phẩm tất yếu của quá trình thỏa
mãn các nhu cầu cơ bản của con người như ăn, ở, mặc, vận động…
Theo X.L. Rubinstein (1960) khi xem xét cảm xúc về mặt nội dung thì các
cảm xúc được xác định bởi mối quan hệ xã hội của con người, bởi tập quán và thói
quen trong từng hoàn cảnh xã hội, tư tưởng của nó.
Theo quan điểm của X.L.Rubinstein khi xem xét dưới góc độ hình thức thì
các cảm xúc được phân chia theo cường độ của nó: 1) cảm xúc nội tại hướng vào
chủ thể hay nhân cách. 2) Trạng thái cảm xúc . 3) Xúc động là loại cảm xúc diễn ra
rất mạnh và có tác động tổ chức hành vi. Tùy theo nguồn gốc nảy sinh liên quan
đến những điều kiện hoàn cảnh có thể phân ra những kiểu cảm xúc khác nhau:
23
- Cảm xúc sơ cấp liên quan trực tiếp đến tri giác đến hoạt động hướng đích, ví
dụ: giận dữ, vui vẻ hay sợ hãi.
- Cảm xúc sống liên quan đến tri giác cơ thể hay đối tượng tạo ra niềm khoái
lạc hay không khoái lạc cơ thể, ví dụ: ốm, đau đớn.
- Cảm xúc với môi trường bên ngoài như căm thù, yêu nước, yêu người thân…
Theo quan niệm của X.L.Rubinstein thì mọi quá trình cảm xúc chỉ có thể hiểu
được nhờ quan hệ của chúng với hoàn cảnh đặc biệt nó gắn liền giữa động cơ và
nhu cầu của cá nhân và luôn luôn thay đổi trong sự biến đổi của hoàn cảnh xã hội.
Nội dung của cảm xúc chỉ có thể được nhận thức trong sự phụ thuộc chặt chẽ với
các điều kiện xã hội. Qua việc phân tích nguồn gốc, sự nảy sinh và biểu hiện dưới
góc độ lý thuyết hoạt động, ông khẳng định: Cảm xúc của con người xét về nguồn
gốc, chức năng hay sự biểu hiện luôn mang tính xã hội. [69]
Các nhà tâm lý học mác xít khẳng định tâm lý là kết quả hoạt động của não,
là sự phản ánh hiện thực khách quan. Trong số đó có quan điểm của nhà nghiên cứu
X.L.Rubinstein (1960) cho rằng: “Cảm xúc là một hiện tượng tâm lý, là sự rung
cảm của chủ thể đối với môi trường xung quanh, là trạng thái tinh thần của chủ thể

trong mối quan hệ với đối tượng”.[69]
J.Mayer, P.Salovey và D.Caruso (2000) cho rằng: “Cảm xúc là một hệ thống
đáp lại của cơ thể giúp điều phối những thay đổi về sinh lý, tri giác, kinh nghiệm,
nhận thức và các thay đổi khác thành những trải nghiệm mạch lạc về tâm trạng và
tình cảm, chẳng hạn như hạnh phúc, tức giận, buồn chán, ngạc nhiên…” [54,tr.4]
Daniel Goleman (2002), dưới góc độ nghiên cứu cảm xúc và mối quan hệ giữa
cảm xúc và trí tuệ, đã định nghĩa: “Cảm xúc vừa là một tình cảm và các ý nghĩ, các
trạng thái tâm lý và sinh học đặc biệt, vừa là thang của các xu hướng hành động do
nó gây ra” [27]. Ông cho rằng số lượng các cảm xúc rất phong phú do không chỉ có
các cảm xúc đơn lẻ mà còn có sự kết hợp, sự biến thể và biến đổi của các cảm xúc
tạo ra.
Trong cuốn sách “Thấu hiểu cảm xúc” hai tác giả Keith Oatley và Fennifer
M. Jenkins [106] đã định nghĩa cảm xúc như sau:
24
“1- Một cảm xúc hình thành từ sự lượng định chủ định hay vô tình của một
người đối với một sự kiện liên quan đến một sự việc (một mục đích) đáng quan tâm.
Cảm xúc sẽ được cảm nhận một cách tích cực nếu điều quan tâm đó là một sự kiện
thuận lợi và một cách tiêu cực nếu đó là một sự kiện mang tính ngăn trở.
2- Cốt lõi của một cảm xúc là sự sẵn sàng để hành động và thúc đẩy những dự
định; một cảm xúc là tác nhân để bắt đầu một hay một số cách hành động nào đó.
3- Một cảm xúc thường được trải nghiệm như một hình thức phân biệt của
trạng thái tinh thần, thường dẫn đến những hành động, phản ứng hay thay đổi của
một con người. (theo Kevin, 2008)
Theo Carroll E.Izard (1992) nhà tâm lý học Mỹ với các công trình nghiên cứu
về cảm xúc, không nêu một định nghĩa cụ thể của cảm xúc mà cho rằng những cảm
xúc tạo nên hệ thống động cơ chính của con người bao gồm ba yếu tố đặc trưng sau:
- Cảm giác được thể nghiệm hay là được ý thức về cảm xúc.
- Các quá trình diễn ra trong hệ thần kinh, hệ nội tiết, hô hấp, tiêu hóa và các
hệ khác của cơ thể.
- Các phức hợp biểu cảm cảm xúc được quan sát, đặc biệt là những phức hợp

phản ánh trên bộ mặt.
Theo C.Izard (1992) định nghĩa cảm xúc trọn vẹn “Phải tính đến tính chất thể
nghiệm của nó, phải bao hàm những thành tố thần kinh và biểu cảm”. Khi xem xét
nguồn gốc cảm xúc ông cho rằng: “Các cảm xúc nảy sinh như là kết quả của những
biến đổi trong hệ thần kinh và những biến đổi này có thể được quy định bởi các sự
kiện bên trong cũng như bên ngoài”.
Cùng quan niệm như vậy, Nguyễn Huy Tú (1975) định nghĩa “Cảm xúc của
con người là những rung động khác nhau của chúng ta nảy sinh do sự thỏa mãn hay
không thỏa mãn những nhu cầu nào đó, do sự phù hợp hay không phù hợp của các
biến cố hoàn cảnh, cũng như trạng thái bên trong cơ thể với mong muốn, hứng thú,
khuynh hướng, niềm tin và thói quen của chúng ta”.
Các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Xuân Thức đều có chung một nhận
định về cảm xúc là những thái độ thể hiện rung cảm của con người đối với những sự
25

×