Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

TẠO BIỂU TỰỢNG LỊCH SỬ CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở SƠN LA KHI DẠY BÀI 9: “CÁCH MẠNG MÙA THU” VÀ BÀI 10 “BÁC HỒ ĐỌC TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP” SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ VÀ ĐỊA LÝ LỚP 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 76 trang )


TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
KHOA TIỂU HỌC – MẦM NON
o0o



LÊ THỊ KIM CHI





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

TẠO BIỂU TƢỢNG LỊCH SỬ CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở
SƠN LA KHI DẠY BÀI 9: “CÁCH MẠNG MÙA THU” VÀ BÀI 10
“BÁC HỒ ĐỌC TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP” SÁCH GIÁO KHOA
LỊCH SỬ VÀ ĐỊA LÝ LỚP 5






Sơn La, tháng 5 năm 2014

TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
KHOA TIỂU HỌC – MẦM NON
o0o




LÊ THỊ KIM CHI




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

TẠO BIỂU TƢỢNG LỊCH SỬ CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở
SƠN LA KHI DẠY BÀI 9: “CÁCH MẠNG MÙA THU” VÀ BÀI 10
“BÁC HỒ ĐỌC TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP” SÁCH GIÁO KHOA
LỊCH SỬ VÀ ĐỊA LÝ LỚP 5


Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy hoc Tự nhiên – Xã hội


Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Phạm Văn Lực



Sơn La, tháng 5 năm 2014
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận này em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến
TS. Phạm Văn Lực, người đã tận tình chỉ dẫn và giúp đỡ em trong quá trình
hoàn thành khóa luận này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô trong khoa Tiểu
học - Mầm non, Thư viện, Phòng Đào tạo Đại học trường Đại học Tây Bắc,

trường tiểu học Quyết Tâm - Sơn La đã tạo điều kiện cho em trong quá trình
thực hiện khóa luận.
Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo để đề tài
thêm hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

Ngƣời thực hiện
Lê Thị Kim Chi










DANH MỤC VIẾT TẮT

CNXH Chủ nghĩa xã hội
XHCN Xã hội chủ nghĩa
SGK Sách giáo khoa
NXB Nhà xuất bản
GV Giáo viên
HS Học sinh
HSDTTS Học sinh dân tộc thiếu số







MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1
3. Đối tượng nghiên cứu, pham vi nghiên cứu, mục đích, nhiệm vụ, đóng góp
của đề tài. 3
3.1. Khách thể và địa bàn nghiên cứu 3
3.2. Giả thiết khoa học 3
3.3. Mục đích, nhiêm vụ nghiên cứu 4
3.4. Đóng góp của đề tài 4
4. Cơ sở tài liệu, phương pháp nghiên cứu 4
4.1. Cơ sở tài liệu 4
4.2. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Cấu trúc của khóa luận 5
NỘI DUNG 6
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TẠO BIỂU
TƢỢNG LỊCH SỬ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC 6
1.1. Cơ sở lí luận 6
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh 16
TIỂU KẾT 20
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO BIỂU TƢỢNG CHO HỌC
SINH KHI DẠY LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG TIỂU HỌC 21
2.1. Các biện pháp chung để tạo biểu tượng cho học sinh 21
2.2. Áp dụng các biện pháp để tạo biêu tượng cụ thể 28
2.3. Tạo biểu tượng khi dạy bài 9: Cách mạng mùa thu và bài 10: Bác Hồ đọc
Tuyên ngôn Độc lập 41

TIỂU KẾT 43
CHƢƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM 44
3.1. Mục đích thể nghiệm sư phạm 44
3.2. Đối tượng và thời gian thực nghiệm 44
3.3. Nội dung, phương pháp thực nghiệm 44
3.4. Kết quả thực nghiệm 47
TIỂU KẾT 48
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO 50








1
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Nói về con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có con người XHCN”. Để
góp phần đào tạo con người mới toàn diện về mọi mặt Đức – Trí – Thể - Mỹ và
Lao động phải có sự đóng góp của tất cả các môn học, trong đó có môn lịch sử
và phải được giáo dục, rèn luyện ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, trước
hết ở cấp học Mầm Non - Tiểu học.
Trong dạy học lịch sử nói chung, ở cấp học Tiểu học nói riêng, môn học
lịch sử trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản về tiến trình phát triển
hợp quy luật của lịch sử xã hội loài người và dân tộc, cung cấp cho học sinh

những hiểu biết bước đầu nhưng rất quan trọng về các “biểu tượng” lịch sử trên
cơ sở đó góp phần hình thành trong các em tư tưởng, tình cảm, lòng yêu nước xã
hội chủ nghĩa và tự hào dân tộc…đây lại là những phẩm chất cơ bản của con
người mới Việt Nam xã hội nghĩa.
Do đặc trưng của môn Lịch sử không thể trực tiếp tri giác được các sự
kiện, hiện tượng lịch sử đã xảy ra, không thể tái hiện lịch sử trong phòng thí
nghiệm. Chính vì vậy, việc tái tạo lịch sử bằng cách tạo biểu tượng đúng đắn,
sinh động về các sự kiện, hiện tượng lịch sử vừa là nguyên tắc vừa là biện pháp
trong việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông, giúp cho giờ học thêm sinh động,
học sinh hứng thú với môn học.
Vì thế, việc lựa chọn: “Tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh dân tộc
thiểu số (HSDTTS) ở Sơn La khi dạy bài 9: Cách mạng mùa thu và bài 10:
Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập” SGK Lịch sử và Địa lý lớp 5” làm đề tài
nghiên cứu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh tiểu học đã đươc đề cập trong một số
công trình, bài viết cụ thể:
+ “Biểu tượng lịch sử với học sinh tiểu học” của tác giả Trần Văn Lưu
trường THSP Thanh Hóa- Hội Giáo dục Lịch sử (thuộc hội khoa học Lịch sử
2
Việt Nam), khoa Sử trường Đại học Sư phạm (Đại học Quốc gia Hà Nội), trung
tâm nội dung phương pháp (Viện Khoa học Giáo dục), “Đổi mới việc dạy học
lịch sử lấy học sinh làm trung tâm”, . Tìm hiểu về một số biện pháp cụ thể hóa
sự kiện, nhân vật lịch sử [6].
+ Trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử” tập 1, 2; Giáo sư Phan
Ngọc Liên (chủ biên), Phó giáo sư. Tiến sĩ Trịnh Đình Tùng, Giáo sư. Tiến sĩ
NguyễnThị Côi, Nhà xuất bản Đại học sư phạm 2010, nêu lên một vài tri thức
lịch sử tác động tới việc tạo biểu tượng lịch sử, những vấn đề khái quát nhất về
biểu tượng lịch sử. Giúp chúng ta hiểu thế nào là biểu tượng lịch sử, vai trò và
việc phân loại biểu tượng, các biện pháp sư phạm để taọ biểu tượng lịch sử [5].

+ Trong cuốn “Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong SGK lịch sử THCS
phần lịch sử Việt Nam” và cuốn “Kênh hình trong dạy học lịch sử ở trường
THPT” tập 1 phần lịch sử Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Thị Côi chủ biên,
cho chúng ta nắm được và lựa chọn các phương pháp phù hợp để tạo biểu
tượng lịch sử cho học sinh. Vì đặc điểm của tri thức lịch sử ở cấp tiểu học
cũng như ở các cấp học cao hơn, chỉ khác là nó ở mức đơn giản hơn nhưng ta
có thể vận dụng [1].
+ Nguyễn Thị Côi, (2011), “Các con đường biện pháp để nâng cao hiệu
quả bài học lich sử ở nhà trường phổ thông”, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
Đề cập đến một số biện pháp tạo biểu tượng nhân vật lịch sử, đặc biệt là tổ chức
tham quan học tập ở nhà bảo tàng cách mạng, nhà truyền thống, di tích lịch sử
và từ đó khẳng định vai trò của biện pháp này đó là “làm giàu cho càc em những
biểu tượng lịch sử cụ thể và là chỗ dựa để hình thành các kết luận khái quát” [1].
+ Nguyễn Anh Dũng, Trần Vĩnh Tường, (2003), “Những vấn đề chung
về bộ môn phương pháp dạy học Lịch sử ở trường Cao đẳng sư phạm”, NXB
Đại học sư phạm, nêu lên vai trò, nhiệm vụ của phân môn lịch sử ở trường phổ
thông [3].
+ Nguyễn Thị Côi (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Trần Viết Thụ, Nguyễn
Mạnh Khởi, Đoàn Văn Hưng, Nguyễn Thị Thúy Bình, (2011), “Rèn luyện kĩ năng
3
nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử”, NXB Đại học sư phạm nêu lên những kĩ năng
cơ bản mà người GV cần phải có, làm gì để có được những kĩ năng đó [2].
+ Phạm Văn Lực (1996): “ Cải tiến phương pháp dạy học lịch sử phù
hợp các trường phổ thông ở Tây Bắc” - Hội Giáo dục Lịch sử (thuộc hội khoa
học Lịch sử Việt Nam), khoa Sử trường Đại học Sư phạm (Đại học Quốc gia Hà
Nội), trung tâm nội dung phương pháp (Viện Khoa học Giáo dục), (1996), “Đổi
mới việc dạy học lịch sử lấy học sinh làm trung tâm”, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, để ra cách thức, nhiệm vụ cần làm để đối mới phương pháp dạy học
theo hướng tích cực lấy HS làm trung tâm, ý nghĩa của phương pháp này đối với
kết quả giảng dạy [7].

+ Về việc tạo biểu tượng các nhân vật lịch sử đã được đề cập khá rõ trong
cuốn “Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử” do Phan Ngọc Liên –
Trịnh Đình Tùng – Nguyễn Thị Côi – Trần Vĩnh Tường đồng chủ biên. Bài viết
của tiến sĩ Đặng Văn Hồ - Khoa lịch sử - Đại học sư phạm – Đại học Huế với
nhan đề “tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử để giáo dục tư tưởng, tình cảm
cho học sinh” đã nêu lên những lí luận cơ bản về tạo biểu tượng nhân vật lịch
sử, vai trò, ý nghĩa của việc tạo biểu tượng các nhân vật lịch sử, các nguyên tắc
và một số biện pháp cụ thể [4].
3. Đối tƣợng nghiên cứu, pham vi nghiên cứu, mục đích, nhiệm vụ, đóng
góp của đề tài.
3.1. Khách thể và địa bàn nghiên cứu
Học sinh khối 5 trường Tiểu học Quyết Tâm- thành phố Sơn La – tỉnh
Sơn La.
3.2. Giả thiết khoa học
Hiện nay việc tạo biểu tượng cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường
Tiểu học còn chưa được chú trọng và kết quả chưa cao. Nếu đưa ra một số giải
pháp cho việc việc tạo biểu tượng ở trong các bài học nhằm đổi mới phương
pháp dạy học để giúp các em khắc sâu kiến thức hơn, từ đó đạt kết quả học tập
cao hơn.

4
3.3. Mục đích, nhiêm vụ nghiên cứu
3.3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về vấn đề tạo biểu tượng lịch sử cho HSDTTS ở Sơn La khi dạy
“ bài 9 Cách mạng mùa thu và bài 10 Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập”.
3.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Qua nghiên cứu đề tài nhằm:
- Tìm hiểu vai trò của biểu tượng trong dạy học lịch sử ở trường Tiểu học.
- Tìm hiểu thực tế của việc sử dụng biểu tượng trong dạy học ở các trường
tiểu học hiện nay.

- Tìm hiểu nội dung chương trình, SGK Lịch sử và Địa lý lớp 5.
- Phương pháp tạo biểu tượng lịch sử cho HSDTTS trong SGK Lịch sử
và Địa lý lớp 5.
3.4. Đóng góp của đề tài
- Cụ thể hóa và làm phong phú thêm hệ thống các phương pháp dạy học
lịch sử ở trường tiểu học.
-Thiết thực đổi mới phương pháp, tạo sự sinh động cho bài giảng, gây
hứng thú học tập cho học sinh .
-Nâng cao chất lượng dạy học lịch sử đáp ứng yêu cầu của cải cách giáo
dục, khắc phục tình trạng chán học môn lịch sử.
4. Cơ sở tài liệu, phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở tài liệu
- Để thực hiện khóa luận này, tôi đã sử dụng các tài liệu lưu trữ ở trung
ương và địa phương kết hợp khai thác các tài liệu đã được công bố trong các
công trình nghiên cứu sẽ được cụ thể hóa trong danh mục tài liệu tham khảo.
- SGK Lịch sử và Địa lí lớp 5.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện khóa luận này, tôi đã sử dụng hai phương pháp nghiên cứu
chính là nghiên cứu lí luận và điều tra thực tiễn.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc tham khảo tài liệu, phân tích tổng
hợp hóa, khái quát hóa các vấn đề tài liệu liên quan để lá cơ sở lí luận cho đề tài.
5
- Phương pháp điều tra thực tiễn: Với mục đích tìm hiểu thực trạng học
tập Lịch sử nói chung và việc sử dụng biểu tượng trong dạy học Lịch sử nói
riêng tôi đã tiến hành quan sát, phỏng vấn đàm thoại với một số giáo viên và học
sinh lớp.
5. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục đề tài gồm có 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn

Chương 2: Một số biên pháp tạo biểu tượng cho học sinh khi dạy lịch
sử ở trường Tiểu học
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm















6
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TẠO BIỂU TƢỢNG
LỊCH SỬ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC

1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1 Mục tiêu, nhiêm vụ của phân môn Lịch sử ở trường phổ thông
Theo Nghị quyết của Đại hội X (năm 2006) mục tiêu của giáo dục phổ thông
là: “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và
các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN,
xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học

lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Nhiều văn kiện chính trị cũng khẳng định mục tiêu giáo dục phổ thông là đào
tạo những con người có năng lực, phẩm chất, đạo đức, tri thức, sức khỏe,
thẩm mỹ. Trong giai đoạn hiện nay mục tiêu đào tạo là xây dựng nên con
người Việt Nam XHCN.
Để đạt được mục tiêu trên mỗi môn học có vai trò, vị trí nhất định, trong đó
phân môn Lịch sử có ưu thế đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng,
đạo đức, hình thành thế giới quan cho thế hệ trẻ. Phần lịch sử trong môn Tự
nhiên và Xã hội có 3 nhiệm vụ cơ bản: giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Cùng
với các môn học khác phân môn lịch sử với chức năng và nhiệm vụ của mình
góp phần tích cực cùng xã hội hoàn thành sứ mạng giáo dục thế hệ trẻ trong điều
kiện hiên nay.
 Giáo dưỡng
Phần lịch sử cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản của khoa học lịch
sử, trang bị cho các em hiểu biết ban đầu, tương đối có hệ thống về quá trình
phát triển lịch sử với những nhân vật, sự kiện năm tháng nổi bật ở từng thời kì
lịch sử khác nhau của dân tộc. Dạy lịch sử giúp các em có những biểu tượng về
lịch sử nhờ đó thấy được vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, nhớ
7
được các công lao của các anh hùng dân tộc. Qua đó, học sinh hiểu rõ hơn lịch
sử dân tộc, thêm yêu mến các vị anh hùng dân tộc.
 Giáo dục
Môn học Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học góp phần vào việc giáo dục tư
tưởng, tình cảm cho học sinh.Ví như phần địa lí dạy cho học sinh hiểu rõ đất
nước mình để tăng thêm lòng yêu Tổ quốc, yêu quê hương, có ý thức bảo vệ
thiên nhiên. Song phần lịch sử lại có những ưu thế riêng trong việc giáo dục tư
tưởng, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ cho học sinh mà ở những môn khác không
có được.
Những con người và những việc làm của quá khứ sẽ có sức thuyết phục, có
sự rung cảm mạnh mẽ với thế hệ trẻ. Những tấm gương anh dũng tuyệt vời của

các chiến sĩ đấu tranh và hi sinh cho độc lập tự do của Tổ quốc đều nêu gương
cho học sinh học tập, suy nghĩ về trách nhiệm của mình đối với đất nước. Sự tàn
ác dã man, sự phản phúc của bè lũ cướp nước và bán nước sẽ gây cho học sinh
sự căm phẫn. Cảnh sống lầm than và sự đấu tranh quật khởi của những người
người nghèo khổ, những số phận bị áp bức của dân tộc thuộc địa sẽ khơi dậy cho
học sinh sự đồng tình, đồng cảm sâu sắc.
Lịch sử không chỉ giáo dục học sinh tình cảm yêu ghét trong đấu tranh giai
cấp mà còn bồi dưỡng cho học sinh biết yêu quí trân trọng lao động và các giá
trị lao động, yêu cái đẹp có óc thẩm mỹ, biết cách ứng xử đúng đắn trong cuộc
sống hàng ngày.
Như vậy tác dụng của lịch sử là giáo dục thái độ học sinh ham học hỏi, tìm
hiểu kiến thức trong học tập và vận dụng vào cuộc sống, hình thành tình cảm
gắn bó, yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc. Tôn trọng, giữ gìn, bảo
vệ các giá trị văn hóa mà ông cha ta đã xây dựng.
 Phát triển
Những bài học lịch sử trong môn Tự nhiên và Xã hội giúp học sinh hình
thành năng lực tư duy và thực hành. Cụ thể là:
- Phát triển các năng lực: quan sát sự vật, tìm hiểu các nguồn tư liệu, thông
tin trong SGK và các tài liệu khác.
8
- Phát triển khả năng đặt câu hỏi, đưa ra thắc mắc, nghi vấn trong quá trình
học tập và lựa chọn các thông tin để giải đáp. Phát huy tính tích cực trong học
tập của học sinh.
- Nhận biết đúng các sự kiên, sự vật lịch sử. Có kiến thức hiểu biết đúng đắn về
lịch sử, các em sẽ có vốn hiểu biết về các sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc.
Ví dụ: Sự kiện ngày 2 – 9 – 1945 có ý nghĩa to lớn đối với dân tộc ta, là ngày
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.
- Khả năng diễn đạt, trình bày các quan điểm bằng nhiều hình thức khác nhau:
sơ đồ, tranh ảnh, ngôn ngữ… Những bài học lịch sử cần sử dụng nhiều tranh ảnh sơ
đồ…để tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh, các em được làm quen tiếp xúc nhiều

với các phương tiện đó nên học sinh có được khả năng vận dụng tốt.
- Khả năng vận dụng những hiểu biết vào cuộc sống.
Như vậy, mục tiêu của phần lịch sử trong môn Tự nhiên và Xã hội ở trường
Tiểu học là cung cấp kiến thức cơ bản ban đầu về lịch sử của dân tộc và xã hội
loài người. Trên cơ sở đó giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc cho các em và
phải được thực hiện một cách hoàn chỉnh các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và
phát triển.
Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên có nhiều yếu tố chi phối, tác động
đó là sự quan tâm của xã hội với lịch sử, sự đầu tư trang thiết bị dạy học. Song
yếu tố quyết định là vấn đề phương pháp dạy học lịch sử. Gần đây liên tục có
những hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học lịch sử. Trong đó các nhà giáo
dục khá quan tâm đến việc tạo biểu tượng cho học sinh Tiểu học khi dạy lịch sử
nhằm gây hứng thú học tập và khắc sâu kiến thức.
1.1.2. Vai trò của biểu tượng trong dạy học lịch sử ở trường Tiểu học
1.1.2.1. Một vài đặc điểm của tri thức lịch sử tác động tới việc tạo biểu tượng
trong dạy học lịch sử
Để xác định đúng đắn các biện pháp sư phạm nhằm giúp học sinh nắm vững
kiến thức lịch sử với tri thức của nhiều bộ môn khoa học khác, tri thức lịch sử có
những đặc điểm rất nổi bật, đó là tính quá khứ, tính không lặp lại, tính cụ thể,
tính hệ thống, sự thống nhất giữa “sử” và “luận”.
9
* Tính quá khứ
Lịch sử là quá trình hợp quy luật của xã hội loài người từ lúc con người và xã
hội hình thành đến nay. Tất cả những hiện tượng lịch sử được chúng ta nhắc đến
đều là những chuyện đã xảy ra, nó mang tính quá khứ. Đây là điều khác biệt
giữa hiện tượng lịch sử với những hiện tượng tự nhiên. Bởi vậy, người ta không
trực tiếp quan sát được lịch sử quá khứ mà chỉ nhận thức được chúng một cách
gián tiếp thông qua các tài liệu được lưu lại, hoặc giả, dựa vào các hiện tượng
lịch sử tương tự của cái mới, của các dân tộc khác để phân tích, suy nghĩ những
vấn đề lịch sử mà chúng ta đang nghiên cứu; dùng các tài liệu này để tham khảo

chứ không để thay thế hiên tượng lịch sử khách quan mà chúng ta đang nghiên
cứu. Và như vậy, trong việc giảng dạy lịch sử có những khó khăn nhất định,
song xét từ góc độ khác, nó cũng mang lại cho việc giảng dạy lịch sử những ưu
thế mà bộ môn khác không thể có được; chẳng hạn, nó rất có ích cho chúng ta bồi
dưỡng trí tượng tượng của học sinh (tất nhiên trí tưởng tượng tái tạo này khác với
sự tưởng tượng sáng tạo, hư cấu trong văn học nghệ thuật, tuy rằng cả hai loại
tưởng tượng đều xuất phát từ hiện tượng khách quan và phản ánh sự chân thực
của quá khứ với những hình thức, phương tiện phù hợp với bộ môn).
* Tính không lặp lại
Tri thức lịch sử nhìn chung mang tính không lặp lại về thời gian và cả không
gian. Mỗi sự kiện, hiện tượng lịch sử chỉ xảy ra trong một thời gian và không
gian nhất định, trong những thời gian và không gian khác nhau. Không có một
sự kiện, hiện tượng lịch sử nào xảy ra cùng thời điểm, trong các thời kì khác
nhau là hoàn toàn giống nhau; dù có điểm giống nhau; lặp lại mà là sự kế thừa,
phát triển, “sự lặp lại trên cơ sở không lặp lại” [5]. Đời sống của xã hội loài
người, cũng như của mỗi dân tộc trong quá trình phát triển lịch sử của mình đã
trải qua những sự thay đổi lớn lao. Tất cả mọi lĩnh vực từ trình độ sản xuất, chế
độ chính trị, quan hệ xã hội, đến ăn, ở, đi lại, tư tưởng triết lí, đạo đức đều đã trải
qua những biến cố không ngừng.
Chính điều này buộc các nhà giảng dạy lịch sử khi trình bày một sự kiện,
hiện tượng nào đó trong lịch sử phải xem xét tính cụ thể gian và cả về thời gian
10
và không gian làm nảy sinh sự kiện, hiện tượng đó. Qua đó nhận thấy các sự
kiện lịch sử cụ thể, riêng biệt song có mối quan hệ với kế thừa.
* Tính cụ thể
Lịch sử là khoa học nghiên cứu tiến trình lịch sử cụ thể của các nước, các dân
tộc khác nhau và quy luật của nó.
Mặt khác các quốc gia, các dân tộc khác nhau sống trên những khu vực khác
nhau, tuy bị những quy luật chung, trải qua quá trình phát triển, trình độ sản xuất
không ngừng nâng cao, đời sống văn hóa tinh thần của con người ngày càng

phong phú, đa dạng nhưng tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc không
hoàn toàn giống nhau.
Ví dụ: Các Việt Nam trải qua tiến trình lịch sử từ thời nguyên thủy, xã hội
phong kiến, rồi đến xã hội chủ nghĩa song ở một số nước tư bản như
Pháp, Mĩ lại có chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ tư bản chủ nghĩa nó không nhảy
vọt như nước ta.
Thậm chí cùng một loại hình kinh tế - xã hội, các dân tộc, quốc gia khác
nhau cũng có các mặt kinh tế, thể chế nhà nước, hình thái ý thức khác nhau,
mang sắc thái riêng. Chính đặc điểm này đòi hỏi việc trình các sự kiện, hiện
tượng lịch sử càng cụ thể bao nhiêu, càng sinh động bao nhiêu lại càng hấp dẫn
bấy nhiêu.
Ví dụ: Chế độ phong kiến ở Việt Nam khác với chế độ phong kiến ở
Trung Quốc.
* Tính hệ thống
Khoa học lịch sử vừa bao gồm các sự kiện hiện tượng về cơ sở kinh tế
đấu tranh xã hội, vừa bao gồm nội dung của kiến trúc thượng , tình hình sản xuất
và quan hệ sản xuất…Nội dung tri thức lịch sử như vậy rất phong phú, đề cập
tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội loài người, bao gồm cả chính trị, quân sự,
kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, khoa học kĩ thuật v.v…Phân môn lịch sử ở trường
Tiểu học tuy giản lược song cũng phải bao quát được các mặt đó. Những nội
dung tri thức lịch sử đó lại có mối quan hệ chằng chịt, phức tạp.
11
Điều này đòi hỏi người giáo viên phải luôn luôn chú ý đến mối quan hệ
ngang dọc, trước sau của vấn đề lịch sử cũng như mối quan hệ ngang, nội tại
giữa các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa để cung cấp cho học sinh những tri thức
lịch sử khoa học mang tính hệ thống và hoàn chỉnh, nêu được cái lôgic (cái bản
chất, cái lõi của lịch sử), dễ hiểu (cái lôgic).
* Tính thống nhất giữa “sử” và “luận”
Sử học là một ngành của khoa học xã hội. Nó xuất hiện từ rất sớm. Từ trước
đến nay, nhiều quốc gia, nhiều dân tộc trên thế giới đã xuất hiện nhiều sử gia nổi

tiếng. Họ ghi chép lại nhiều sự kiện lịch sử và hiện tượng lịch sử mà họ cho rằng
có ý nghĩa quan trọng, nhằm để lại cho hậu thế những trước tác lịch sử quí báu.
Họ đã tích lũy được những tư liệu lịch sử phong phú và cũng trình bày những
quan điểm tư tưởng về sử học và phương pháp giải quyết những vấn đề lịch sử.
Những ghi chép về quá trình phát triển xã hội loài người từ những góc độ khác
nhau đó đều là những nội dung quan trọng của di sản văn hóa nhân loại. Thế
nhưng, lí luận lịch sử cũng như quan điểm lịch sử trước khi có chủ nghĩa Mác,
về cơ bản đều xuất phát từ lập trường bảo vệ lợi ích của giai cấp bóc lột. C.
Mác và Ph. Ăngghen là những người đầu tiên vạch ra được quy luật phổ biến
của sự phát triển xã hội loài người. Các ông đứng trên lập trường của giai cấp
vô sản, vận dụng những nguyên lí của chủ nghĩa duy vật biện chứng giữa sức
sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng, từ đó
vạch ra quá trình nói chung của sự phát triển tuần tự các hình thái kinh tế xã
hội, đã chứng minh: lao động sản xuất và đấu tranh giai cấp là động lực chủ
yếu thúc đẩy sự phát triển của xã hội, rằng quần chúng nhân dân là người sáng
tạo thực sự của lịch sử. Và như vậy, sử học mới bắt đầu trở thành một khoa học
thực sự, chân chính.
Mặt khác, do mục tiêu lí tưởng đấu tranh của giai cấp vô sản cùng với sự
phát triển hợp qui luật của lịch sử mà nhân dân lao động, và giai cấp vô sản đã
trân trọng sự thật lịch sử, đấu tranh cho quan điểm, đường lối của giai cấp vô sản
mà đại diện là Đảng Cộng sản chân chính theo chủ nghĩa Mác. Vì vậy, việc
nghiên cứu và dạy học lịch sử đấu tranh chống sự xuyên tạc lịch sử của các giai
12
cấp bóc lột cần dựa vững chắc vào những nguyên lí của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử để quan sát, nghiên cứu quá trính phát triển của xã hội
loài người thì những nhận định, kết luận rút ra mới đảm bảo tính khoa học, vận
dụng có hiệu quả vào cuộc sống. Từ đặc điểm này mà trong giảng dạy lịch sử
người giáo viên phải đảm bảo sự thống nhất giữa trình bày sự kiện với giải thích
bình luận. Mọi giải thích, bình luận đều phải xuất phát từ sự kiện lịch sử cụ thể
chính xác, đáng tin cậy và không có sự kiện, hiện tượng nào không được giải

thích làm sáng tỏ bản chất của sự kiện hiện tượng đó. Đó là sự thống nhất giữa
tính khoa học và tính đảng của nghiên cứu và dạy học lịch sử theo chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1.2.2. Đặc điểm của nhận thức lịch sử
Quá trình học tập lịch sử cũng như một quá trình nhận thức cho nên việc
nhận thức môn học này cũng tuân thủ theo quy luật chung của nhận thức: từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng trở về với thực tiễn.
Song xuất phát từ những đặc trưng của môn lịch sử mà quá trình nhận thức lịch
sử cũng có những đặc điểm riêng.
Trong học tập lịch sử, học sinh không thể trực tiếp quan sát (trực quan sinh
động) đối tượng nghiên cứu như trong học tập các mon khoa học tự nhiên.
Trong việc học tập lịch sử, không thể tiến hành các thí nghiệm để tái hiện lịch sử
quá khứ khách quan (trừ một vài trường hợp đặc biệt, với những hình thức phù
hợp với bộ môn, như đóng vai, diễn kịch, tranh ảnh….).
Nhận thức lịch sử bao giờ cũng phức tạp vì con người là một bộ phận không
thể tách rời được của đối tượng nghiên cứu – xã hội loài người. Chương trình
lịch sử cấu tạo các sự kiện từ quá khứ đến hiện tại, mà trình độ nhận thức phù
hợp với trình độ học sinh phải từ gần đến xa do đó học sinh dễ rơi vào tình trạng
“hiện đại hóa” lịch sử.
Do những đặc điểm như vậy, quá trình lịch sử bắt đầu từ việc nắm các sự
kiện. Khoa học chân chính khác với các quan niệm duy tâm ở chỗ nó dựa trên
các sự kiên chân thực: “Bất cứ lĩnh vực khoa học trong lĩnh vực tự nhiên cũng
như xã hội, lịch sử phải xuất phát từ sự kiện chúng ta biết được” [5].
13
Từ những điều đã nói ở trên việc tổ chức dẫn dắt học sinh tạo biểu tượng lịch
sử là cái chốt để đi vào khám phá lịch sử.
1.1.2.3. Khái quát về biểu tượng
Biểu tượng là khái niệm được giải thích ở các mức độ và lĩnh vực nhận thức
khác nhau. Theo tâm lí học, biểu tượng là biểu tượng của kí ức. Tức là những
hình ảnh của các sự vật, hiện tượng không phải đang được tri giác mà là đã được

tri giác trước đây. Trong quá trình tri giác thế giới khách quan, con người phản
ánh sự vật và hiện tượng xung quanh mình dưới dạng các hình ảnh và sự phản
ánh đó mang tính trực quan. Các hình ảnh trực quan đó luôn tác động lên các cơ
quan thụ cảm khác nhau của hệ thần kinh con người và được duy trì một khoảng
thời gian nhất định trong ý thức của họ. Với quan niệm trên P. A. Ruđích cho
rằng biểu tượng là “Những sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh được giữ
lại trong ý thức và hình ảnh trên cơ sở tri giác và cảm giác xảy ra trước đó” [5].
Tuy nhiên, trong thưc tế các biểu tương thường mê nhát hơn các tri giác và
những dấu hiệu về các sự vật, hiện tượng đã tri giác được có thể không có
trong biểu tượng. Quá trình tri giác luôn mang tính trực quan cụ thể. Các hình
ảnh của biểu tượng phản ánh đặc điểm bên trong của sự vật.Đó là nhận thức
của hoạt động tư duy. Như vậy, theo tâm lí học biểu tượng là những hình ảnh
trực quan nảy sinh trong não người về những sự vật và hiện tượng đã được tri
giác trước đây.
Do đặc trưng của nhận thức lịch sử, việc học tập lịch sử không bắt đầu từ
trực quan sinh động. Vì lịch sử là những cái đã qua, không thể trực tiếp quan sát
quá khứ cũng như tái tạo lại nó trong phòng thí nghiệm như toán học … Bởi
vậy, việc học tập lịch sử phải bắt đầu từ việc nắm các sự kiện và tạo biểu tượng
lịch sử. Trong học tập lịch sử không có biểu tượng nảy sinh từ trực giác đối với
các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Mà việc hình thành nên những biểu tượng lịch
sử phải dựa trên những sự kiện, hiện tượng đã được con người nhận thức từ
trước để nhằm tái tạo lại một cách chính xác và sinh động.
Ví dụ: Khi tạo biểu tượng lịch sử về không gian địa lí Điện Biên Phủ trong
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954. Chúng ta không được trực tiếp
14
quan sát trận địa Điện Biên Phủ tại thời điểm đó giữa ta và địch như thế nào.
Muốn tạo biểu tượng chúng ta phải sử dụng những hình ảnh, ghi chép lại…khi
đó biểu tượng lịch sử sẽ được hình thành dựa trên cơ sở của sự tri giác gián tiếp.
Với những quan điểm trên , có thể định nghĩa biểu tượng lịch sử “Là hình
ảnh về những sự kiện, nhân vật lịch sử, điều kiện địa lý v.v… được phản ánh

trong óc học sinh với những nét chung nhất, điển hình nhất” [5]. Như vậy, nội
dung của một sự kiện lịch sử được học sinh nhận thức thông qua việc tạo nên
hình ảnh về quá khứ, bằng những hoạt động của các giác quan: thị giác tạo nên
những hình ảnh trực quan, thính giác đem lại những hình ảnh về quá khứ thông
qua lời giảng của giáo viên…
Cũng như biểu tượng nói chung, biểu tượng lịch sử tái hiện những đặc
trưng cơ bản của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Tuy nhiên, việc tạo biểu tượng
lịch sử cho học sinh không chỉ dừng lại ở miêu tả bề ngoài mà còn đi sâu vào
bản chất sự kiện, nêu đặc trưng, tính chất của sụ kiện để tiến tới việc nắm
khái niệm lịch sử. Vì vậy, biểu tượng lịch sử rất gần với khái niệm sơ đẳng
(còn gọi là khái niệm đơn giản). Nói cách khác, biểu tượng lịch sử là cơ sở để
hình thành khái niệm.
 Các loại biểu tượng với học sinh tiểu học
Có nhiều cách phân lọai biểu tượng lịch sử. Cụ thể các biểu tượng sau:
- Biểu tượng về hoàn cảnh địa lý
Một sự kiện lịch sử bao giờ cũng diễn ra trong một không gian nhất định.
Không gian của sự kiện có thể là một khu vực rộng lớn hoặc diễn ra ở phạm vi
hẹp như địa điểm của một trận đánh hay một cuộc khởi nghĩa. Vì vậy tạo biểu
tượng về hoàn cảnh địa lý nơi xảy ra sự kiện là yêu cầu trong dạy học lịch sử để
xác định không gian lịch sử.
- Biểu tượng về văn hóa vật chất
Đó là những hình ảnh về những thành tựu của loài người trong việc chế ngự
thiên nhiên, trong lao động sáng tạo sản xuất ra của cải vật chất cũng như văn
hóa tinh thần của xã hội loài người.
15
- Biểu tượng về nhân vật chính diện cũng chư phản diện, những đại biểu điển
hình của một giai cấp, một tập đoàn xã hội, những nhân vật kiện xuất.
- Biểu tượng về thời gian, về những quan hệ xã hội của con người.
Những biểu tượng lịch sử nêu trên không tách rời nhau mà có mối quan hệ
mật thiết với nhau, tạo thành một hệ thống trọn vẹn về một bức tranh lịch sử. Để

dạy học lịch sử có hiệu quả thì cần phải có biện pháp để tạo các biểu tượng này
được sụ thể, chính xác và sinh động.
Ví dụ: Khi nói về chiến dịch Điện Biên Phủ khi dạy bài “Chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ” (SGK lớp 5) giáo viên phải cho học sinh có đầy đủ biểu tượng
về thời gian tồn tại của cuộc kháng chiến, về địa hình…
1.1.2.4. Biểu tượng trong dạy học lịch sử với học sinh tiểu học
Do đặc điểm của sự nhận thức lịch sử, việc học tập lịch sử không bắt đầu từ
trực quan sinh động mà từ việc nắm tài liệu, sự kiện và tạo biểu tượng lịch sử.
Tuy vậy, việc học tập lịch sử cũng tuân thủ quy luật chung của quá trình nhận
thức: qua hai giai đoạn nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính. Có thể nói tạo
biểu tượng là giai đoạn nhận thức cảm tính.
“Biểu tượng lịch sử là hình ảnh về những sự kiên, nhân vật lịch sử, điều kiện
địa lí v.v… được phản ánh trong óc học sinh với những nét chung nhất, điển
hình nhất”. Do đó phải sử dụng các phương tiện trực quan kết hợp lời giảng giải
của giáo viên để tái hiện lại sự kiện lịch sử.
Việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh tiểu học là một vấn đè khó khăn vì
yêu cầu cơ bản của dạy học lịch sử là phải tái tạo lại những hình ảnh về các sự
kiện đúng như nó tồn tại, mà những sự kiện đó, học sinh lại không được trực
tiếp quan sát, xa lạ với đời sống hiện nay, với kinh nghiệm và hiểu biết của các
em. Vì vậy, trong tạo biểu tượng, giáo viên phải làm cho các sự kiện lịch sử
khách quan xích lại gần với khả năng hiểu biết của các em.
Vai trò, ý nghĩa to lớn của việc tạo biểu tượng trong dạy học lịch sử trước
tiên ở chỗ nó là cơ sở để hình thành khái niệm lịch sử. Nội dung của các hình
ảnh lịch sử, của bức tranh quá khứ càng phong phú bao nhiêu thì hệ thống kinh
nghiệm mà học sinh thu nhận được càng vững chắc bấy nhiêu. Việc tạo biểu
16
tượng lịch sử cho học sinh không chỉ dừng ở việc miêu tả bề ngoài mà còn đi
sâu vào bản chất sự kiện, nêu đặc trưng, tính chất của sự kiện. Vì vậy, biểu
tượng rất gần với khái niệm đơn giản. Việc tạo biểu tượng lịch sử có ý nghĩa
giáo dục lớn đối với học sinh, vì thông qua những hình ảnh cụ thể, sinh động, có

sức gợi cảm mới tác động mãnh mẽ tới tư tưởng tình cảm của các em. Tạo biểu
tượng trong dạy học lịch sử nhằm các mục đích sau:
- Tái tạo hình ảnh của những sự kiện xảy ra trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội: về đời sống vật chất (công cụ lao động, nghề nghiệp, hoạt động sản
xuất của con người…), về đời sống xã hội, cơ cấu hoạt động của Nhà nước, đấu
tranh giai cấp…, về các nhân vật lịch sử, về đời sống tinh thần văn hóa…
- Tạo nên sự nhận thức cụ thể về thời gian, trong đó diễn ra các sự kiện lịch
sử, về sự phát triển đi lên hợp lôgic của lịch sử xã hội loài người cũng như của
dân tộc.
- Xác định được không gian diễn ra các sự kiện lịch sử, qua đó học sinh nhận
thức đúng về vai trò của hoàn cảnh địa lí, mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội
qua các giai đoạn khác nhau của sự phát triển xã hội loài người.
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc tạo biểu tƣợng lịch sử cho học sinh
Mặc dù thời lượng dành cho phân môn lịch sử không nhiều so với môn
học khác chỉ 1 tiết/ tuần, nhưng môn Lịch sử đã có những đóng góp to lớn vào
những thành tựu chung của nền giáo dục Việt Nam. Đó là nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần xây dựng con người Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Trong thời gian qua việc dạy học lịch sử đã đạt được những thành tựu
đáng kể:
Thứ nhất: Nội dung chương trình luôn được điều chỉnh, bổ sung, cập nhật bắt
kịp với sự phát triển của khoa học lịch sử. Chương trình SGK được giảm tải,
hoàn thiện đảm bảo cung cấp cho học sinh những tri thức lịch sử đày đủ, chính
xác và hệ thống qua đó làm rõ các giai đoạn phát triển của lịch sử dân tộc.
Thứ hai: Nhiều giáo viên đã cố gắng tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng các
phương pháp, phương tiện dạy học mới để tạo hứng thú lịch sử cho học sinh,
17
chú ý cách trình bày miệng sao cho sinh động, hấp dẫn, giàu hình ảnh để lôi
cuốn học sinh; cố gắng kết hợp nhiều phương pháp trong một giờ học để thay
thế cho một phương pháp truyền thống là phương pháp thuyết trình; áp dụng

phương pháp dạy học mới phát huy tính cực học tập của học sinh: dạy học theo
nhóm, dạy học nêu vấn đề….Giáo viên cũng chú trọng đến sử dụng các phương
tiện kĩ thuật hiện đại vào dạy học: Power point, Violet…tạo ra húng thú học tập
lịch sử cho học sinh.
Thứ ba: Hằng năm có nhiều cuộc thi lịch sử được tổ chức: Thi học sinh giỏi
môn lịch sử các cấp… đem lại thành công to lớn, phát hiên ra nhiều nhân tài cho
đất nước. Nhiều cuộc thi tìm hiểu lịch sử được phát động trên các phương tiện
truyền thông đại chúng: “Theo dòng lịch sử”, Thi tìm hiểu và học tập theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh… thu hút được sự quan tâm, tham gia và hưởng
ứng đông đảo của quần chúng. Đó là những tín hiệu đáng mừng cho các nhà
giáo dục lịch sử. Tuy nhiên quá trình dạy học lịch sử vẫn còn đang tồn tại những
bất cập và hạn chế lớn chưa thể khắc phục:
Một hiện trạng rất đáng buồn là trong những năm gần đây có hiện tượng
“dân ta” không biết “sử ta”. Trong thời gian gần đây do nhiều nguyên nhân chủ
quan và khách quan chất lượng dạy học lịch sử ngày càng giảm sút đến mức báo
động. Các phương tiện truyền thông đại chúng đã lên tiếng về tình trạng giảm
sút chất lượng một cách nghiêm trọng của môn lịch sử.
Rất nhiều học sinh không có hứng thú học tập môn lịch sử. Bên cạnh đó
phương pháp dạy học chậm được đổi mới phương pháp mà giữ khư khư phương
pháp dạy học kiểu “thầy đọc – trò ghi”.
Đặc biệt, Tây Bắc là địa phương miền núi có địa hình phức tạp và hiểm
trở. Sự giao lưu đi lại trong vùng và giữa Tây Bắc với các địa phương trong
nước khó khăn. Tây Bắc có 23 dân tộc anh em sinh sống: Thái, Khơ mú, Lự,
Mường, Tày, Hoa, Kinh …,người Thái chiếm 70% dân số[7]. Trình độ văn hóa
– xã hội, dân trí còn thấp.Thông tin sách báo, tài liệu, nhất là sách phục vụ giáo
dục và sách dùng cho trẻ em còn thiếu nghiêm trọng.
18
Giáo dục nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, ở một địa phương miền núi
mà kinh tế, văn hóa xã hội chậm phát triển, điều kiện phục vụ giảng dạy học tập
thiếu thốn như vậy nên khó đạt chất lượng cao.

Học sinh dân tộc ở Tây Bắc có một đặc thù nổi bật là có ngôn ngữ, phong
tục tập quán và trình độ nhận thức khác nhau. Do quan hệ xã hội hạn hẹp, nghèo
về thông tin, sự giao tiếp, hoạt động vui chơi hòa đồng vào thế giới trẻ em không
rộng rãi nên học sinh Tây Bắc thiếu hẳn sự bạo dạn tự nhiên, vốn am hiểu về
lĩnh vực văn hóa còn hạn chế. Ngoài ra, những phong tục tập quán, truyền thống
cộng đồng làng bản, tâm lí dân tộc cũng trực tiếp chi phối đến học sinh các dân
tộc Tây Bắc, nhất là các dân tộc thiểu số ở vùng sâu xa như Dáy, Khơ mú,…
Các em nhận thức được những vấn đề cụ thể, chi tiết, còn những khái niệm,
thuật ngữ khoa học, hoặc những vấn đề trừu tượng chung thì tiếp nhận chậm. Có
khi do kém linh hoạt, do hạn chế về khả năng phán đoán suy luận nên các em
nhận thức sai lệch nôi dung vấn đề. Ngoài ra, vốn tiếng phổ thông của nhiều em
còn nghèo nên trong lĩnh hội tri thức bài học khó nắm bắt hết được ý nghĩa của
những khái niệm, thuật ngữ lịch sử. Cũng như cái hay cái đẹp của tiếng Việt.
Tuy nhiên, Tây Bắc là mảnh đất lịch sử văn hóa. Nhân dân các dân tộc
Tây Bắc có truyền thống lâu đời gắn liền với truyền thống đấu tranh kiên cường
bất khuất trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam. Các dân tộc Tây Bắc có một nền văn hóa phát triển rực rỡ, đậm đà bản
chất dân tộc, với những tinh hoa văn hóa độc đáo thể hiện trong nghệ thuật kiến
trúc với những đường nét mặt phà, trong những sinh hoạt nghi lễ, phong tục tập
quán. Những tinh hoa văn hóa đó đã đóng góp to lớn vào kho tàng văn hóa của
cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Dạy học lịch sử ở Tây Bắc không chỉ dừng ở việc làm các em nắm một
vài sự kiện, hiểu một cách chung chung về lịch sử dân tộc và lịch sử nhân loại,
mà phải giúp các em thấy được truyền thống lịch sử và văn hóa của chính quê
hương mình. Từ đó khơi dậy ở các em lòng tự hào chân chính về quê hương đất
nước, làm cho các em thêm gắn bó với quê hương bản mường. Vì thế, trong dạy
19
học lịch sử ở Tây Bắc phải chú ý kết hợp vào truyền thụ tri thức với giáo dục
truyền thống, nhất là truyền thống yêu quê hương bản mường.
Tìm hiểu đặc điểm của dạy học lịch sử ở Tây Bắc và nắm chắc những đặc

điểm của địa phương, chúng ta thấy được cái chung và cái riêng của quá trình
dạy học lịch sử.Từ đó gợi mở phương pháp đổi mới về nội dung cung như
phương pháp dạy học lịch sử cho phù hợp với thực tế địa phương. Do chưa nhận
thức được điều này nên việc dạy học lịch sử địa phương cho học sinh dân tộc
còn chưa được chú ý.Trong khi đó Tây Bắc lại là địa phương có nhiều lợi thế về
lịch sử cần phải nghiên cứu giảng dạy nhất là về truyền thống lịch sử và văn hóa
đậm đà bản sắc dân tộc. Nhiều địa phương thuộc Sơn La, Điện Biên có nhiều địa
danh nổi tiếng như nhà tù Sơn La, Điện Biên Phủ, có nhiều di tích lịch sử - cách
mạng quí như chiến trường Điện Biên Phủ, tượng đài kỉ niệm Bác Hồ lên thăm
Tây Bắc 1959… Một số trường Thuận Châu có phong trào giáo dục mạnh (30%
tổng số trường đã tổ chức hoạt động ngoại khóa và giảng dạy lịch sử địa phương
nhưng chất lượng, hiệu quả giáo dục còn thấp) [7]. Các phương pháp dạy học lịch
sử được sử dụng phổ biến ở Tây Bắc là các phương pháp “truyền thống”, đặc biệt
là cảnh “thông báo” kiến thức theo kiểu dạy dồn, dạy ép, nhồi nhét kiến thức.
Do qui mô trường ở vùng cao nhỏ, số giáo viên ít nên nhiều người phải
đảm nhận dạy nhiều môn. Trong trường hợp này chỉ lo có kiến thức dạy, chứ
chưa nói đến phương pháp dạy học sao cho học sinh tiếp thu bài nhanh và nắm
chắc được kiến thức. Vì vậy, vấn đề cấp thiết hiện nay trong giáo dục nói chung,
dạy học lịch sử nói riêng là phải có sự đổi mới và lựa chọn phương pháp phù
hợp với đối học sinh dân tộc ở vùng núi cao.
Trong những năm qua Sở giáo dục Sơn La đã thường xuyên tổ chức các
cuộc thi giáo viên giỏi cấp tỉnh. Một trong những mục tiêu mà ban tổ chức đề ra
đánh giá chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên và việc vận dụng các
phương pháp dạy học tích cực phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc Tây Bắc.
Kết quả đạt được rất phấn khởi, nhưng bên cạnh đó còn bộc lộ nhiều hạn chế về
sự vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc ở

×