Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

15 CÂU HỎI ÔN THI MÁC LÊNIN CÓ ĐÁP ÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.57 KB, 58 trang )

GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM

Câu 1: Hãy nêu và phân tích nội dung định nghĩa vật chất của Lênin? Từ đó rút ra phương
ý nghĩa phương pháp luận của nó?
Trả lời:
* Phạm trù vật chất trong lịch sử triết học duy vật:
- Thời kỳ cổ đại: quan niệm đồng nhất vật chất với các dạng vật chất cụ thể
+ Trường phái triết học Trung Hoa:
▪ Thuyết Âm dương cho rằng nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ biến của vạn vật là tương
tác của những thế lực đối lập nhau đó là âm và dương.
▪ Thuyết ngũ hành có xu hướng phân tích về cấu trúc của vạn vật để quy nó về yếu tố khởi
nguyên với tính chất khác nhau. Theo thuyết này có 5 nhân tố khởi nguyên là Kim- Mộc -
Thủy - Hỏa - Thổ. Trong đó chúng có quan hệ với nhau (tương sinh, tương khắc).
+ Trường phái triết học Ấn độ: Phái Nyaya và Vaisesia coi nguyên tử là thực thể của TG.
+ Ở phương tây: Một số quan điểm điển hình thời kỳ này là: Talét coi vật chất là nước,
Anaximen coi vật chất là không khí, Hêraclit coi vật chất là lửa. Đặc biệt đỉnh cao của quan
niệm về vật chất của thời kỳ Hy Lạp cổ đại là thuyết nguyên tử của Lơxip và Đêmôcrít.
Theo thuyết này thì thực thể tạo nên thế giới là nguyên tử và nó là phần tử nhỏ bé nhất và
không thể phân chia được, khôg thể xâm nhập và quan sát được, chỉ có thể nhận biết được
bằng tư duy.
- Thời kỳ cận đại: quan niệm đồng nhất vật chất với nguyên từ và khối lượng. Các phát
minh của của vật lý học cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã bác bỏ các quan niệm trên:
+ Năm 1895, Rơn-ghen (Đức): người phát hiện ra tia X - sóng điện từ có bước sóng rất
ngắn.
+ Năm 1896 Béc-cơ-ren (Pháp): Phát hiện ra hiện tượng phóng xạ. Đã chứng minh rằng
nguyên tử không phải là bất biến là cái không thể phân chia được và chuyển hóa cho nhau,
mà hoàn toàn ngược lại.
+ Năm 1897 Tôm-xơn (Anh): Phát hiện ra điện tử. Điện tử là một trong những yếu tố tạo ra
nguyên tử vì thế nguyên tử không phải là đơn vị cuối cùng tạo nên thế giới vật chất.


GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
+ Năm 1901 Kaufman (Đức): Phát hiện hiện tượng khi vận động khối lượng của điện tử
tăng khi vận tốc của nó tăng. Bác bỏ quan niệm cho rằng khối lượng là bất biến,
- Điều này đòi hỏi khắc phục “cuộc khủng hoảng” phương pháp luận của vật lý; tạo đà cho
phát triển tiếp theo của nhận thức duy vật biện chứng về vật chất, về những tính chất cơ bản
của nó.
* Định nghĩa vật chất của Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
* Phân tích nội dung:
- Cần phân biệt “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học với những dạng biểu hiện cụ
thể của vật chất. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát
hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện
tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả
những sự vật, những hiện tượng là những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên nó có
quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa. Vì vậy, không thể đồng nhất vật chất với một
hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
- Vật chất là thực tại khách quan ở ngoài và độc lập với ý thức con người là thuộc tính
chung, vĩnh hằng với mọi dạng, mọi đối tượng khác nhau của vật chất. Thuộc tính tồn tại
khách quan ở ngoài và độc lập với ý thức chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất
cái gì không phải là vật chất cả trong tự nhiên lẫn trong đời sống xã hội. Tất cả những cái gì
tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của con người đều là những dạng khác nhau của vật
chất. Ví dụ: những quan hệ kinh tế - xã hội, quan hệ sản xuất của xã hội tuy không tồn tại
dưới dạng vật thể, cũng không mang thuộc tính khối lượng, năng lượng, cũng không có cấu
trúc phân tử, nguyên tử những chúng tồn tại khách quan, có trước ý thức và quyết định ý
thức, bởi vậy chúng chính là vật chất dưới dạng xã hội. Thuộc tính này cũng là tiêu chuẩn
để khẳng định thế giới vật chất có tồn tại thật sự, tồn tại do chính nó hay không. Bởi vậy
thuộc tính đó là cơ sở khoa học để đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm.

- Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác tức là nó là nguồn gốc, nguyên nhân
của cảm giác, của ý thức, nó có trước ý thức và tạo nên nội dung của ý thức. Còn cảm giác
hay ý thức là sự chép lại chụp lại, phản ánh, nó có sau so với vật chất. Rõ ràng vật chất là
tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất quyết định ý thức.
- Tóm lại những luận điểm chính trong định nghĩa vật chất của Lênin:
+ Vật chất cái đang tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức của
con người.
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
+ Vật chất cái gây nên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó trực tiếp hay gián tiếp
tác động lên giác quan của con người.
+ Vật chất cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
+ Thuộc tính chung nhất của mọi dạng vật chất là tồn tại khách quan bên ngoài ý thức của
con người.
- V.I.Lênin đã thừa nhận:
+ Giúp phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa khái niệm vật chất trong triết học và các khóa
học chuyên ngành.
+ Vật chất là tính thứ nhất và là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức.
+ Bằng những phương thức nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lai, ) con người có khả
năng nhận thức được thế giới vật chất.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Định nghĩa vật chất của Lênin đã giải đáp một cách khoa học về vấn đề cơ bản của triết
học Phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, thuyết “bất khả tri” khi giải quyết các vấn
đề cơ bản của triết học.
- Khắc phục quan điểm trực quan, siêu hình trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy
vật cũ, đồng thời kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về vật chất.
- Là cơ sở của thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn cho các nhà khoa học trong việc
nghiên cứu về vật chất.
- Là cơ sở khoa học cho việc xây dựng quan điểm biện chứng trong lĩnh vực xã hội để có

thể giải thích nguồn gốc bản chất và các quy luật khách quan của xã hội
- Là tiêu chuẩn phân biệt thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm.
Câu 2: Hãy phân tích nội dung cơ bản của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
và tính chất của lực lượng sản xuất? Vận dụng quy luật này vào thực tiễn cách mạng nước
ta hiện nay?
Trả lời:
* Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất:
- Khái niệm phương thức sản xuất: là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật
chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
- Khái niệm lực lượng sản xuất: là toàn bộ các nhân tố vật chất - kỹ thuật của quá trình sản
xuất tồn tại trong mối quan hệ kết hợp tạo thành năng lực thực tiễn để khai thác biến đổi
môi trường tự nhiên sáng tạo ra sản phẩm. Các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất:
người lao động, công cụ lao động, phương tiện lao động, đối tượng lao động. Lực lượng sản
xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và đồng thời nói lên trình độ chinh
phục tự nhiên của con người.
- Khái niệm quan hệ sản xuất: là mối quan hệ kinh tế giữa con người với nhau hình thành
khách quan do nhu cầu của quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ sở
hữu về tư liêu sản xuất (đóng vai trò quyết định), quan hệ tồ chức và quản lý, quan hệ phân
phối sản phẩm.
* Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:
- Là mối quan hệ thống nhất biện chứng quan hệ này biểu hiện thành quy luật cơ bản nhất
của sự vận động của đời sống xã hội, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Trình độ của lực lượng sản xuất: thể hiện ở:
▪ Trình độ của công cụ lao động.
▪ Trình độ tổ chức lao động xã hội.
▪ Trình độ ứng dụng khoa học vào sản phẩm.

▪ Kinh nghiệm và kỹ năng của người lao động.
▪ Trình độ phân công lao động.
+ Tính chất của lực lượng sản xuất (tính chất của lao động):
▪ Nền sản xuất thủ công: lao động mang tính cá thể.
▪ Nền sản xuất đạt đến trình độ cơ khí hóa: lực lượng sản xuất vận động trong sự hợp tác
rộng rãi trên cơ sở chuyên môn hóa cao dẫn đến tính chất của lao động có tính chất xã hội
hóa cao.
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản tất yếu của quá trình sản xuất
trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội
của quá trình sản xuất.
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất
với nhau:
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
+ Tương ứng với thực trạng phát triển của của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có một quan
hệ sản xuất phù hợp với nó trên cả ba phương diện: sở hữu tư liêu sản xuất, tổ chức và quản
lý, phân phối sản phẩm.
+ Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là trạng
thái mà ở đó các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất phải tạo điều kiện cho lực lượng sản
xuất phát triển.

- Theo C.Mác:
+ Động lực phát triển của lịch sử do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định.
+ Trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định các quan hệ kinh
tế và là nguyên nhân chủ yếu của các biến đổi xã hội.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất có
bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn:
+ Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ cao hơn dẫn đến sự thống nhất nói trên
bị phá vỡ dẫn đến mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất từ đó xã hội tìm

cách xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ và thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình
độ và tính chất của lực lượng sản xuất đã thay đổi và mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển.
+ Tuy nhiên, quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại đối với lực
lượng sản xuất:
▪ Quan hệ sản xuất quy định mục đích xã hội của sản xuất.
▪ Quy định thái độ của người lao động
▪ Quy định khuynh hướng phát triển của công nghệ.
Dẫn đến, quan hệ sản xuất có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất.
+ Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất biểu
hiện thành mâu thuẫn giai cấp.
* Vận dụng quy luật vào thực tiễn cách mạng việt nam:
- Nước ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua phương thức tư bản chủ nghĩa với ý
nghĩa bỏ qua chế độ chính trị của chủ nghĩa tư bản.
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
- Đối với Việt Nam vận dụng quy luật này thì chúng ta phải thấy lực lượng sản xuất của
nước ta còn thủ công, phân tán, phát triển không đồng đều.Để phù hợp với lực lượng sản
xuất có nhiều trình độ khác nhau đó, cần phát triển nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động
theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tình hình thực tế của nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian,
quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Từng bước xã hội hoá xã hội chủ
nghĩa, quá trình đó được thực hiện không phải bằng gò ép mà được thực hiện từng bước
thông qua sự hỗn hợp các hình thức sở hữu như công ty cổ phần, chủ nghĩa tư bản nhà
nước, các hình thức hợp tác xã v.v. để dần dần hình thành các tập đoàn kinh doanh lớn,
trong đó các đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể là nòng cốt. Chúng ta chỉ bỏ qua những gì
của xã hội cũ không còn phù hợp với xã hội mới thay thế và không đem lại hiệu quả kinh tế
- xã hội cao hơn; chúng ta chủ trương thực hiện sự chuyển hoá cái cũ thành cái mới theo

định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực
hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu.
- Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa hợp lý và hiệu quả cao:
+ Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước .
+ Thể hiện trong đường lối đối ngoại, trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
Câu 3: Hãy trình bày nội dung cơ bản của quy luật từ những sự thay đổi về lượng dẫn tới
sự thay đổi về chất và ngược lai? Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tiễn
bản thân?
Trả lời:
* Khái niệm chất, lượng:
- Khái niệm chất:
+ Chất là phạm trù của triết học dùng để chỉ tính khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng
là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính cấu thành nó, làm cho nó là nó không phải chất
khác.
+ Thuộc tính:
▪ Là những tính chất của sự vật.
▪ Chỉ bộc lộ khi tác động qua lại với sự vật khác.
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
▪ Mỗi sự vật, hiện tượng có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản, trong đó thuộc
tính cơ bản tạo thành chất của sự vật.
▪ Thuôc tính thay đổi thì chất thay đổi.
+ Để nhận thức được chất với tư cách là sự tổng hợp tất cả các thuộc tính vốn có của nó,
chúng ta phải nhận thức sự vật trong sự tổng hợp tất cả các mối quan hệ có thể có giữa sự
vật đó với sự vật khác.
+ Chất được xác định bởi:
▪ Chất của các yếu tố cấu thành nó.

▪ Cấu trúc và phương thức liên kết.
▪ Thông qua các mối liên hệ cụ thể.
+ Ví dụ: Than và kim cương, Quan hệ quản lý chế độ tư bản chủ nghĩa,
+ Sự thay đổi về chất của sự vật phụ thuộc vào sự thay đổi các yếu tố cấu thành nó.
+ Chất có tính tương đối ổn định để khẳng định sự vật là gì, đồng thời là tiêu chuẩn để phân
biệt nó với cái khác.
- Khái niệm lượng:
+ Lượng dùng chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, biểu thị số
lượng, quy mô, nhịp điệu, trình độ của sự vận động , phát triển của sự vật.
+ Lượng:
▪ Đơn vị đo lường.
▪ Biểu thị dưới dạng trừu tượng.
- Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có tính tương đối. Ví dụ: các con số có thể biểu thị cả
chất và lượng.
* Quy luật từ những sự thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất và ngược lại:
- Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng,
chúng không tách rời nhau mà chất và lượng tác động lẫn nhau một cách biện chứng.
- Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn tới sự thay đổi về chất nhưng không phải sự thay đổi
về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định sự thay đổi
về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
thay đổi được gọi là độ. Độ là khoảng giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng chưa làm
thay đổi về chất, sự vật vẫn là nó chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác.
- Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Lượng biến
đổi trong phạm vi “độ” chưa làm chất thay đổi nhưng khi lượng thay đổi đến một giới hạn
nhất định thì sẽ dẫn tới sự thay đổi về chất.Giới hạn đó chính là điểm nút. Điểm nút là điểm
giới hạn mà tại đó những thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất.
- Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện xác định tất yếu sẽ dẫn đến

sự ra đời của chất mới. Sự thay đổi về chất gọi là bước nhảy. Bước nhảy là một phạm trù
dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi lượng trước đó gây ra.



- VD:
- Sự hình thành chất mới không phải là quá trình chấm dứt của sự vật, hiện tượng mà nó
mởi ra chu kỳ mới, sức sống mới cho chất đó phát triển, chuẩn bị cho sự chuyển hóa, tiến
hóa tiếp theo.
- Khi chất mới ra đời, sẽ tác động trở lại lượng mới. Khi sự vật mới ra đời, với chất mới lại
có một lượng mới phù hợp, tạo nên sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự tác động của
chất mới đối với lượng mới được biểu hiện ở quy mô, nhịp điệu phát triển về lượng thay
đổi.
- Nội dung cơ bản của quy luật từ những sự thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất và
ngược lại: Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất
và lượng; sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản
về chất của sự vật thông qua bước nhảy. Đến đây, chấm dứt một dạng tồn tại của vật chất.
Chất cũ, sự vật cũ mất đi; chất mới, sự vật mới hình thành. Chất mới ra đời sẽ tác động trở
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
lại lượng của sự vật, tạo ra sự biến đổi mới về lượng của sự vật, khi đạt tới điểm nút mới
chất mới sẽ ra đời.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy
định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau do đó trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn phải coi trọng cả hai phương diện chất và lượng.
- Những sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất trong điều kiện nhất định và
ngược lại do đó trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết từng bước tích
lũy về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. đồng thời phát huy tác động của chất

mới để thúc đẩy sự thay đổi về lượng của sự vật.
- Vì để tạo chất mới thì phải có sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút cho nên trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn không được nôn nóng, bảo thủ trì trệ.
- Bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong phú do vậy cần vận dụng linh
hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Đặc biệt trong đời sống
xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ
thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực chủ động
của các chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách hiệu quả nhất.
- Cũng cần khắc phục tư tưởng ngại khó, sợ sệt.
* Liên hệ bản thân về quy luật từ những sự thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất và
ngược lại:
- Trong quá trình nhận thức và thực tiển cần phải khắc phục cả hai khuynh hướng tả khuynh
và hữu khuynh.
+ Hành động tả khuỳnh là bất chấp quy luật, chủ quan, duy ý chí, không tích lũy về lượng
mà chỉ chú trọng thực hiện những bước nhảy liên tục về chất.
+ Hữu khuynh chính là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ,
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần chống lại tư tưởng nôn nóng, đốt cháy giai
đoạn khi chưa tích lũy đủ về lượng và khuynh hướng trôn chờ, bảo thủ bỏ lỡ thời cơ khi đả
có sự tích lũy đầy đủ về lượng.
+ Cần phải biết tích lũy dần dần về lượng (kiến thức) để làm biến đổi về chất (kết quả học
tập) theo quy luật.
+ Khi đã tích lũy đủ các điều kiện thì sẵn sàng thay đổi sang một giai đoạn mới cả về chất
và lượng nhưng tránh đốt cháy giai đoạn.
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
- Quy luật này giúp chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan trong học tập và trong hoạt động
thực tiễn hằng ngày.
Câu 4: Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và bản chất của con
người? Theo anh (chị) cần phải làm gì để con người phát triển toàn diện?

Trả lời:
* Khái niệm con người:
- Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội, có sự thống nhất biện chứng
giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
- Hai mặt của con người:
+ Mặt tự nhiên: thể hiện ở chỗ cũng giống như những động vật khác, con người cũng chịu
sự quy định của các quy luật sinh học, của tự nhiên như quy luật đồng hoá và dị hoá, quy
luật biến dị và di truyền, v.v. Dẫn đến con người là sản phẩm của tự nhiên.
+ Mặt xã hội: thể hiện ở chỗ, con người là một loại động vật có tính chất xã hội, trước hết
và cơ bản nhất là nhân tố lao động hay hoạt động sản xuất vật chất con người còn có ngôn
ngữ, tư duy, ý thức, sự tồn tại và phát triển của con người luôn bị chi phối bởi các nhân tố
xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng biến đổi và ngược lại,
sự phát triển của mỗi cá nhân lại trở thành tiền đề cho sự phát triển xã hội.Dẫn đến con
người là sản phẩm của xã hội.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch lịch sử về con người về con người: theo C.Mác:
“Con vật chỉ tái sản xuất lại chính bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ
giới tự nhiên”.
* Bản chất của con người:
- Theo C.Mác “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã
hội”.
- Bản chất của con người xét trên phương diện hiện thực của nó, chính là của các quan hệ xã
hội, là sản phẩm tất yếu của những quan hệ kinh tế, chính trị – xã hội trong những điều kiện
lịch sử nhất định.
- Khi những quan hệ xã hội thay đổi thay đổi thì bản chất của con người sẽ thay đổi.
- Con người làm ra lịch sử của chính mình. Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất
xã hội của con người thì sự hình thành và phát triển của con người cùng những khả năng
sáng tạo lịch sử của nó là xuất phát từ sự hình thành và phát triển của những quan hệ xã hội
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh


Trường Đại học Nông lâm TPHCM
của nó trong lịch sử., khi những quan hệ này thay đổi thì cũng có sự thay đổi về bản chất
của con người. Vì vậy, sự giải phóng bản chất con người cần phải hướng vào sự giải phóng
những quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội của nó, thông qua đó mà phát huy khả năng sáng
tạo lịch sử của con người.
- Khả năng sáng tạo của con người tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của xã
hội.
- Không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với điều kiện hoàn cảnh lịch sử nhất
định. Con người là sản phẩm của lịch sử, lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực
nào thì con người lại sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó. Đây là biện chứng của mối
quan hệ giữa con người – chủ thể của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo ra và đồng thời lại
bị quy định bởi chính lịch sử đó.
- Với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn tác động vào giới tự
nhiên, cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu của mình thì đồng thời con người cũng sáng tạo
ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó.





* Để con người phát triển toàn diện cần phải:

- Thứ nhất, về kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường, xây dựng mô hình tăng
trưởng kinh tế bền vững, gắn với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội nhằm đáp ứng
nhu cầu chính đáng và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân lao động, tạo tiền đề
vật chất để xây dựng và phát triển con người toàn diện.

- Thứ hai, về chính trị - xã hội, tiếp tục củng cố và giữ vững ổn định chính trị, phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nhằm tạo lập
quan hệ xã hội và môi trường sống lành mạnh để con người có điều kiện phát triển toàn diện.


- Thứ ba, về văn hóa - giáo dục, tiếp tục xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc làm nền tảng tinh thần cho mỗi cá nhân; tiếp
tục đổi mới giáo dục – đào tạo theo hướng dân tộc, hiện đại, toàn diện nhằm đáp ứng đòi hỏi
của thực tiễn đất nước và thời đại đặt ra.

- Thứ tư, việc phát triển con người toàn diện cần được quán triệt trong các chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trong từng giải pháp của các cấp, các ngành, các
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
địa phương và đến từng cá nhân. Để có được điều này, sự tham gia một cách chủ động, tích
cực của các phương tiện truyền thông là điều không thể thiếu.

Câu 5: Hãy phân tích nội dung cơ bản của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự
phát triển? Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận của nó và liên hệ với thực tiễn bản thân?

Trả lời:

* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:

- Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến:
+ Mối liên hệ: Dùng để chỉ sự quy định sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật ,
hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong TG.VD: Mối liên hệ
giữa điện tích dương và điện tích âm trong một nguyên tử; mối liên hệ giữa vô cơ với hữu
cơ;
+ Mối liên hệ phổ biến: Dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện
tượng của thế giới.
- Tính chất của các mối liên hệ:

+ Tính khách quan: Sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau
trong tổ chức, kết cấu của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có
của nó, tồn tại độc lập,không phụ thuộc vào ý thức của con người; con người chỉ có thể
nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
+ Tính phổ biến: Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay
quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác; đồng
thời cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao
gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn
tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống
khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
+ Tính đa dạng, phong phú: Các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có nhiều tổ
chức, cấu trúc khác nhau nên có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai trò, vị trí khác
nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của
sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong
quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau.
Đó là các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, mối liên
hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, v.v. Của mọi sự vật,
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
hiện tượng trong thế giới. Theo quan điểm duy vật biện chứng sự phân loại trên chỉ có tính
tương đối vì các loại liên hệ khác nhau có thể chuyển hóa lẫn nhau.
+ Tùy thuộc vào mối liên hệ mà qui định cho tính chất của sự vật, hiện tượng. Một sự vật có
rất nhiều tính chất, thuộc tính cơ bản và không cơ bản. thuộc tính cơ bản là thuộc tính vốn
có qui định cho bản chất của sự vật, mất thuộc tính này sự vật không còn là nó nữa thuộc
tính cơ bản qui định cho sự tồn tại và biến đổi sự vật. Biến đổi sự vật qui định ở những mặt
đối lập trong bản thân sự vật.
+ Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác
nhau đối với những sự vật nhất định, trong những điều kiện xác định. Đó là mối liên hệ bên
trong và bên ngoài, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, liên hệ chủ yếu và thứ yếu, liên hệ

trực tiếp và gián tiếp, liên hệ cơ bản và không cơ bản….Trong đó, liên hệ bên trong, bản
chất, chủ yếu, trực tiếp, cơ bản mang tính chất quyết định
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Vì mối liên hệ có tính khách quan và tính phổ biến cho nên trong nhận thức cũng như
trong thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện:
▪ Phải xem xét sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính
nhau của chính sự vật.
▪ Xem xét nó trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác.
▪ Cần xem xét “nó” trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người (tri thức đạt được
của con người về 1 sự vật hiện tượng nào đó điều có tính tương đối đầy đủ, không tròn vẹn
từ đó tránh tuyệt đối hóa những tri thức đã có sự thật – xem nó là những chân lý bất biến để
khỏi phạm sai lầm.
+ Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ cho thấy trong hoạt động nhận thức
và thực tiễn cần phải kết hợp quan điểm toàn diện với quan điểm lịch sử - cụ thể:
▪ Cần phải xem xét đến hoàn cảnh LS - cụ thể của đối tượng nhận thức và bối cảnh hiện
thực (khách quan, chủ quan).
▪ Khi xem xét 1 quan điểm, 1 luận thuyết cũng phải đặt nó trong mối QH.
- Liên hệ bản thân về nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
+ Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch
sử - cụ thể góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo
hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Song để thực hiện được chúng, mỗi chúng ta cần
nắm chắc cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý về mối liên hệ phổ biến . Đối với sinh viên,
ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, vẫn có thể sử dụng các nguyên tắc phương pháp
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
luận đó vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình góp phần xây dựng đất nước ngày
càng phồn vinh, xã hội ta ngày càng tươi đẹp.
+ Quan điểm toàn diện dạy cho ta biết rằng khi xem xét, đánh giá một sự vật, hiện tượng
phải xem xét đánh giá một cách toàn diện , mọi mặt của vấn đề để hiểu được bản chất thật

sự của sự vật hiện tượng. Chúng ta không thể chỉ nhìn bề ngoài mà phán xét về phẩm chất,
đạo đức của người đó.Vẻ bề ngoài không nói lên được tất cả , ví dụ: có thể một bạn có
gương mặt lạnh lùng nhưng tính bạn rất cởi mở, hòa đồng, dễ gần. Vì vậy muốn đánh giá 1
con người cần phải có thời gian tiếp xúc lâu dài , nhìn nhận họ trên mọi phương diện , ở
từng thời điểm ,từng hoàn cảnh khác nhau.
+ Khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta cần xem xét
chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách giải quyết, xử lý tốt .
Khi ta học kém đi , điểm số giảm cần tìm nguyên nhân do đâu khiến ta như vậy. Do lười
học, không hiểu bài, không làm bài tập hay không có thời gian học. Nếu tìm được nguyên
nhân cụ thể, chủ yếu , thì sẽ tìm được cách giải quyết đúng đắn.Phải xác định rõ, vị trí vai
trò khác nhau của mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những
giải pháp đúng đắn và hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Chống lại cách xem
xét cào bằng, dàn trãi. Chống lại cách xem xét siêu hình, phiến diện, 1 chiều.
+ Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong việc học tập: Trong học tập bao giờ
cũng xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn thì mới có kết quả cao hơn. Việc vận
dụng quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể trong học tập sẽ giúp định hướng học tập sâu
hơn và cao hơn, quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể là thế giới quan của mỗi con người.



* Nguyên lý về sự phát triển:
- Khái niệm phát triển:
+ Quan điểm biện chứng: Phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình
vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn.
+ Khái niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm vận động mà chỉ là một trường hợp
đặc biệt của sự vận động.Vận động là mọi biến đổi nói chung, chưa nói lên khuynh hướng
cụ thể: đi lên hay đi xuống, tiến bộ hay lạc hậu, còn phát triển là sự biến đổi về chất theo
hướng hoàn thiện của sự vật. Phát triển là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh


Trường Đại học Nông lâm TPHCM
quan vốn có của sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và kế
thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật.
+ Nguồn gốc của sự phát triển:
▪ Phát triển là quá trình phát sinh và giải quyết những mâu thuẫn khách quan vốn có của sự
vật.
▪ Phát triển cũng là quá trình thống nhất giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và kế thừa
năng cao những nhân tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật.
+ Cách thức của sự phát triển: sự phát triển chính là kết quả của quá trình thay đổi về lượng
dẫn đến sự biến đổi về chất của sự vật.
+ Khuynh hướng của sự phát triển: Sự phát triển diễn ra theo đường xoáy ốc (cái mới ra đời
dường như có sự quay trở lại điểm xuất phát nhưng trên cơ sở mới cao hơn).
- Tính chất của sự phát triển:
+ Tính khách quan của sự phát triển: Sự phát triển bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng
là quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng.
+ Tính phổ biến của sự phát triển: Quá trình phát triễn diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi quá
trình, mọi giai đoạn.
+ Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển:
▪ Phát triển là khuỳnh hướng chung của thê giới vật chất nhưng ở mỗi sự vật, hiện tượng
quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau.
▪ Trong hiện thực tùy vào hình thức tồn tại cụ thể của các dạng vật chất sự phát triển được
thực hiện khác nhau.
▪ Trong quá trình phát triển sự vật, hiên tượng chịu nhiều tác động khác nhau làm thay đổi
chiều hướng của sự vật.
▪ Tồn tại trong những không gian, thời gian khác nhau thì sự vật sẽ phát triễn khác nhau.
+ Sự phát triển thường diễn ra quanh co phức tạp trãi qua những khâu trung gian, thậm chí
có những bước thụt lùi tạm thời song phát triển luôn là khuynh hướng chung của sự vật,
hiện tượng.
Dẫn đến, phát triển là tiến lên có sự kế thừa.

- Ý nghĩa phương pháp luận:
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
+ Cần phải có quan điểm phát triển:
▪ Phải xem xét sự vật trong sự vận động và phát triển trong sự “tự vận động”
▪ Phải phát hiện khuynh hướng phát triển chuyển hóa của nó.
▪ Phải thấy được tính quanh co, phức tạp không bi quan, dao động
▪ Cần phải khắc phục tư tưởng, bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lặp với sự phát triển.
▪ Phải phát hiện ra cái mới ủng hộ cái mới và tạo điều kiện cho cái mới chiến thắng cái cũ.
+ Cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể
▪ Khi xem xét giải quyết sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử -
cụ thể mà nó tồn tại, chống máy móc, giáo điều, khuôn rập.
▪Tuyệt đối hóa 1 nhận thức nào đó về sự vật có được trong hoàn cảnh lịch sử nhất định và
xem đó là nhận thức duy nhất về sự vật dẫn đến sai lầm.
- Liên hệ bản thân về nguyên lý về sự phát triển:
+ Việc tuân thủ và vận dụng sáng tạo nguyên lý về sự phát triển giúp chúng ta khắc phục
được quan điểm (tư duy) siêu hình trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của mình.
+ Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta. Nếu chúng ta tuyệt đối hoá nhận thức,
nhất là nhận thức khoa học về sự vật hay hiện tượng nào đó thì các khoa học tự nhiên, khoa
học xã hội và nhân văn sẽ không thể phát triển và thực tiễn sẽ dậm chân tại chỗ. Chính vì
thế, chúng ta cần phải tăng cường phát huy nỗ lực của bản thân trong việc hiện thực hoá
quan điểm phát triển vào nhận thức và cải tạo sự vật nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của
chúng ta và của toàn xã hội.
+ Trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng đòi hỏi tư duy phải mềm dẽo, đổi mới, bổ
sung và phát triển cho phù hợp với sự biến đổi của thế giới khách quan.
+ Trong hoạt động thực tiễn, phải tìm ra mâu thuẫn của chính sự vật và bằng hoạt động thực
tiễn mà giải quyết mâu thuẫn.
Câu 6: Hãy phân tích các thuộc tính của hàng hóa và mối liên hệ giữa nó với tính chất hai

mặt của lao động sản xuất hàng hóa.
Trả lời:
* Khái niệm hàng hóa:
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
- Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và thông
qua trao đổi, mua bán.
- Hàng hóa là 1 phạm trù kinh tế phản ánh những mối QH kinh tế-xã hội của những người sản
xuất và trao đổi hàng hóa.
- Có hai hình thức:
+ Hàng hóa hữu hình: có thể sờ, nắm, được (lương thực, thực phẩm, sắt, thép, )
+ Hàng hóa vô hình: chỉ có thể cảm nhận được (giáo dục, văn hóa, )
* Hai thuộc tính hàng hóa:
- Giá trị sử dụng:
+ Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
trực tiếp hay gián tiếp.
VD: gạo để ăn, vậy giá trị sử dụng của gạo là để ăn.
+ Bất kỳ hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định làm cho nó có giá trị
sử dụng.
+ Công dụng của vật phẩm là do những thuộc tính tự nhiên của vật chất quyết định mỗi một
vật có thể có nhiều thuộc tính tự nhiên khác dẫn đến nó sẽ có nhiều giá trị sử dụng hay công
dụng khác.
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa
học - kỹ thuật và của lực lượng sản xuất nói chung. Xã hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất
càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng
phong phú, chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao.
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội vì giá trị sử dụng của hàng hóa
không phải là giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác, cho xã hội,
thông qua trao đổi mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn quan tâm

đến nhu cầu của xã hội, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng được nhu cầu của xã hội.Giá
trị sử dụng của hàng hóa là vật mang giá trị trao đổi.
+ Giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.
+ Một vật khi đã là hàng hóa thì phải có giá trị sử dụng và giá trị sử dụng có 2 đặc điểm:
▪ Giá trị sử dụng do người khác, do xã hội không được người sản xuất ra nó quyết định.
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
▪ Được chuyển từ tay người này sang người khác thông qua trao đổi, mua bán.
- Giá trị hàng hóa:
+ Muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi.Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ
về lượng mà qua đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng
loại khác vì chúng đều là sản phẩm của lao động.
VD: 1 m vải = 10 kg lúa
Tuy hai hàng hóa khác nhau, có giá trụ sử dụng khác nhau: của vải là để may quần áo, của
thóc là để làm thức ăn. Thế nhưng chúng lại có thể trao đổi được với nhau vì giữa chúng tồn
tại điểm chung: đều là sản phẩm của lao động và lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa
ẩn giấu trong hàng hóa. Nhờ đó mà chúng có thể trao đổi với nhau.
+ Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong hàng
hóa.
+ Chất của giá trị là lao động. Lượng của giá trị là số lượng lao động của người sản xuất
kết tinh trong hàng hóa.
+ Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung, là cơ
sở của giá trị trao đổi.
+ Giá trị còn biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa dẫn đến giá trị là một
phạm trù lịch sử, nó chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hóa.
+ Lao động hao phí để sản xuất hàng hóa càng nhiều thì giá trị càng cao.
- Tóm lại, bất kỳ một vật nào muốn thành hàng hóa đều phải có đủ hai thuộc tính: giá trị sử
dụng và giá trị hàng hóa.
* Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa với tính chất hai mặt của lao động sản xuất

hàng hóa: Hàng hóa có hai thuộc tính vì lao động của người sản xuất hàng hóa có tính hai
mặt: vừa mang tính chất cụ thể (lao động cụ thể) vừa mang tính chất trừu tượng (lao động
trừu tượng).


- Lao động cụ thể:
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
+ Lao động cụ thể là lao động có ích ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp
chuyên môn nhất định.
+ Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương tiện riêng, phương pháp
riêng và kết quả riêng. Những cái riêng này phân biệt lao động cụ thể khác nhau.
+ VD: lao động của người thợ mộc là:
▪ Mục đích là sản xuất cái bàn, cái ghế,
▪ Đối tượng lao động là gỗ.
▪ Phương tiện là cái cưa, cái đục, cái bào,
▪ Phương pháp là các thao tác cưa, bào, khoan, đục,
▪ Kết quả là tạo ra cái bàn, cái ghế,
+ Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ thể càng nhiều
loại càng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khá nhau.
+ Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội.
+ Lao động cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng lao động cụ thể chỉ
thay đổi hình thức tồn tại của giá trị sử dụng lao động cụ thể chỉ thay đổi hình thức tồn tại
của các vật chất, làm cho nó thích hợp với nhu cầu của con người.
+ Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì vậy lao động cụ thể cũng là phạm trù vĩnh viễn
tồn tại gắn liền với sản phẩm, nó là điều kiện không thể thiếu trong bất cứ hình thái kinh tế -
xã hội.
- Lao động trừu tượng:
+ Lao động trừu tượng là sự hao phí sức lực ( tiêu hao sức cơ bắp, thần kinh) của người sản

xuất hàng hóa nói chung.
+ Tuy nhiên, sự hao phí sức lực nào của con người cũng là lao động trừu tượng.
+ Lao động trừu tượng chỉ có trong nền sản xuất hàng hàng hóa do mục đích của sản xuất là
để trao đổi.
+ Lao động trừu tượng tạo ra giá trị, làm cơ sở cho sự ngang bằng trong trao đổi.
+ Lao động trừu tượng là một phạm trù có lịch sử riêng của sản xuất hàng hóa.
- Lao động cụ thể và lao động trừu tượng không phải là hai loại lao động mà là hai mặt của
cùng một lao động.
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
- Lao động cụ thể là một trong hai nhân tố tạo thành giá trị sử dụng, lao động trừu tượng là
nhân tố duy nhất tạo ra giá trị của hàng hóa.
- Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa vừa có tính chất tư nhân vừa có tính chất xã
hội
+ Tính xã hội: sản xuất hàng hóa dựa trên điều kiện phân công lao động xã hội
+ Tính tư nhân: sản xuất hàng hóa dựa trên điều kiện sự tách biệt tương đối về kinh tế giữa
những người sản xuất.
- Đây là mâu thuẫn của nền sản xuất hàng hóa. Chính vì vậy sản xuất hàng hóa vửa vận
động, phát triển, lại vừa tiềm ẩn khả năng “khủng hoảng thừa”.
Câu 7: Hãy phân tích mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. Vì sao nói hàng hóa sức
lao động là chìa khóa giải quyết mâu thuẩn của công thức chung của tư bản?
Trả lời:
* Công thức chung của tư bản:
- Tiền là sản phẩm cuối cùng của lưu thông hàng hoá, đồng thời là hình thức biểu hiện đầu
tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định.
Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản.
- Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định, khi chúng được sử dụng để
bóc lột lao động của người khác.
- Tiền với tư cách là tiền thông thường vận động theo công thức: H - T - H’. Tiền với tư

cách là tư bản thì vận động theo công thức: T - H - T’. Bất cứ tiền nào vận động theo công
thức T - H - T đều chuyển hoá thành tư bản.
- So sánh công thức H - T - H’ và công thức T - H - T’
+ Điểm giống nhau:
▪ Đều phản ánh sự vận động của kinh tế hàng hóa.
▪ Đều chứa đựng hai hành vi đối lập nhau đó là mua và bán.
▪ Đều cấu thành bởi hai nhân tố vật chất đó là tiền và hàng.
▪ Đều biểu hiện quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán.
+ Điểm khác nhau:
▪ Lưu thông hàng hoá giản đơn bắt đầu bằng việc bán (H - T) và kết thúc bằng việc mua (T
- H). Điểm xuất phát và điểm kết thúc của quá trình đều là hàng hoá, còn tiền chỉ đóng vai
trò trung gian.
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
▪ Lưu thông của tư bản bắt đầu bằng việc mua (T - H) và kết thúc bằng việc bán (H – T).
Tiền vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc của quá trình, còn hàng hoá chỉ đóng vai
trò trung gian; tiền ở đây không phải là chi ra dứt khoát mà chỉ là ứng ra rồi thu về.
▪ Mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu, nên các
hàng hoá trao đổi phải có giá trị sử dụng khác nhau. Sự vận động sẽ kết thúc ở giai đoạn
hai, khi những người trao đổi có được giá trị mà họ cần.
▪ Mục đích của lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa giá trị
tăng thêm. Vì vậy, nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra, thì quá trình vận động trở nên vô
nghĩa. Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ của
tư bản phải là T - H - T', trong đó T' = T + ΔT. Số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra (ΔT),
C.Mác gọi là giá trị thặng dư, ký hiệu là m. Số tiền ứng ra ban đầu chuyển hoá thành tư bản.
- Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích lưu thông tư bản là sự lớn lên của
giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động của tư bản là không có giới hạn, vì sự lớn lên
của giá trị là không có giới hạn.
C.Mác gọi công thức T - H - T' là công thức chung của tư bản, vì sự vận động của mọi tư

bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó, dù là tư bản thương nghiệp, tư
bản công nghiệp hay tư bản cho vay.
* Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản:
- Công thức chung của tư bản: T - H - T’ cho thấy hình như lưu thông đã tạo ra giá trị thặng
dư, nhưng thực chất không phải vậy.
- Xét trong lưu thông (lưu thông trong đó diễn ra quá trình mua và bán)
+ Trương hợp trao đổi ngang giá (T - H hay H - T): thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá
trị, từ tiền thành hàng hay từ hàng thành tiền, còn tổng gó trị cũng như phần giá trị thuộc về
mỗi bên tham gia trao đổi trước sau vẫn không đổi. Tuy nhiên, về mặt giá trị sử dụng, thì cả
hai bên đều có lợi.
+ Trường hợp trao đổi không ngang giá: có ba trường hợp có thể xảy ra:
▪ Bán hàng cao hơn giá trị được lợi khi bán và thiệt khi mua vì người bán cũng đồng thời là
người mua dẫn đến không mang lại một chút giá trị thặng dư nào.
▪ Mua hàng hóa thấp hơn giá trị được lợi khi là người mua còn là người bán bị thiệt từ đó
không tạo ra giá trị thặng dư.
▪ Mua rẻ - bán đắt (bịp bượm, lừa gạt) dẫn đến người được, người mất (giá trị người này thu
được là số giá trị mà người khác bị mất) từ đó tổng giá trị hàng hóa không tăng lên.
- Theo C.Mác: “Lưu thông hay trao đổi hàng hóa không sáng tạo ra một giá trị nào cả”.
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
- Xét ngoài lưu thông: tiền không vận động trong lưu thông, tức là đứng ngoài lưu thông, thì
cũng không thể lớn lên được.
+ Tiền được đưa vào cất trữ.
+ Hàng hóa để trong kho.
+ Do đó không tạo ra giá trị thặng mới được.
- Theo C.Mác: “ Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và càng không thể xuất hiện ở bên
ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu
thông”.
- Đó chính là mâu thuẫn chứa đựng trong công thức chung của tư bản.

* Nói hàng hóa sức lao động là chìa khóa giải quyết mâu thuẫn của công thức của tư bản vì:
- Phải tìm ra hàng hóa nào đó để khi sử dụng tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị của bản thân
nó, đồng thời nó làm rõ mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản. Đó là hàng hóa sức
lao động.
- Theo C.Mác: “Sức lao động, đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể một con
người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm
cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”.
- Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện:
+ Thứ nhất, người có sức lao động phải tự do về thân thể, làm chủ sức lao động của mình và
có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa.
+ Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi TLsản xuất và TLSH, họ trở
thành người “Vô sản”, để tồn tại buộc anh ta phải bán sức lao động của mình để kiếm sống.
- Sức lao động trở thành hàng hóa là điều kiện quyết định để biến tiền thành tư bản. Nó là
một bước ngoặc, một bước tiến trong lịch sử trong phương thức kết hợp người lao động và
tư liệu sản xuất.
- Đặc điểm của hàng hóa sức lao động: Giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao
động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.
- Giá trị hàng hóa sức lao động:
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
+ Giá trị hàng hóa sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái
sản xuất sức lao động quyết định.
+ Thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động được quy thành thời gian
lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra ra những tư liệu sinh hoạt của người công nhân.
+ Như vậy, lượng giá trị của hàng hóa sức lao động bao gồm 3 bộ phận:
▪ Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để duy trì đời sống của bản
thân người công nhân để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động.
▪ Phí tổn đào tạo người công nhân.
▪ Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái (người thân)

người công nhân.
▪ Ngoài ra, lượng giá trị hàng hóa sức lao động còn phụ thuộc vào ngành nghề và lĩnh vực
làm việc của công nhân trong nền kinh tế và phụ thuộc vào các yếu tố tinh thần, lịch sử, tức
là vào các điều kiện cụ thể của từng nước (khí hậu, tập quán, trình độ văn minh, nguồn gốc,
hoàn cảnh ra đời và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân).
+ Hình thức của giá trị sức lao động là tiền công.
+ Khi nền sản xuất xã hội ngày càng phát triển
▪ Nhu cầu về lao động phức tạp càng tăng, chi phí đào tao càng lớn.
▪ Nhu cầu về những hàng hóa và dịch vụ mới cũng sẽ tăng theo.
Từ đó giá trị sức lao động cũng tăng theo
Nhưng, do sức lao động tăng, giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ có xu hướng giảm. Do đó
để xác định giá trị sức lao động ở một thời điểm, cần phân tích cụ thể sự vận động của hai xu
hướng.
+ Hình thức của giá trị sức lao động là tiền công.
- Giá trị sử dụng sức lao động:
+ Giá trị sử dụng sức lao động là sự thỏa mãn nhu cầu người mua nó, tức là để tiêu dùng
vào quá trình lao động. Khác với các hàng hóa thông thường, trong quá trình sử dụng, hàng
hóa sức lao động có thể tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó - giá trị
thặng dư.
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
- Đó là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn công thức chung của tư bản. Vì chỉ có trong lưu
thông tư bản mới mua được một thứ hàng hóa đặc biệt đó là hàng hóa sức lao động. Sau đó
nhà tư bản sử dụng hàng hóa sức lao động mà mình đã mua tiến hành sản xuất hàng hóa
trong đó có giá trị thặng dư, và cuối cùng nhà tư bản bán sản phẩm mình sản xuất thu về giá
trị trong đó có giá trị thặng dư là giá trị tiền lớn hơn (T’ > T).




Câu 8: Tư bản bất biến, tư bản khả biến, tư bản cố định, tư bản lưu động là gì? Căn cứ và ý
nghĩa của việc phân chia tư bản tư bản sản xuất các loại tư bản trên?
Trả lời:
* Khái niệm tư bản, bản chất của tư bản:
- Các nhà kinh tế học tư sản thường cho rằng, mọi công cụ lao động, mọi tư liệu sản xuất đều là
tư bản. Thực ra bản thân tư liệu sản xuất không phải là tư bản, nó chỉ là yếu tố cơ bản của sản
xuất trong bất cứ xã hội nào.
- Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà tư bản và được dùng
để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế độ tư bản bị xoá bỏ thì tư liệu sản xuất không còn là tư
bản nữa.
- Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của công
nhân làm thuê.
- Tư bản có bốn loại: tư bản bất biến, tư bản khả biến, tư bản lưu động và tư bản cố định. Cả
bốn loại đều phản ánh quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị
thặng dư do giai cấp công nhân sản tạo ra
- Tư bản có bốn loại: tư bản bất biến, tư bản khả biến, tư bản lưu động và tư bản cố định. Như
vậy, về bản chất cả bốn loại tư bản đều phản ánh quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp
tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sản tạo ra. Chia thành hai nhóm: tư
bản bất biến và tư bản khả biến; tư bản lưu động và tư bản cố định.
* Tư bản bất biến, tư bản khả biến, căn cứ và ý nghĩa của việc phân chia:
- Tư bản bất biến và tư bản khả biến:
GVHD: Nguyễn Thị Phương Linh

Trường Đại học Nông lâm TPHCM
+ Muốn tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng tư bản ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao
động, tức là, biến tư bản tiền tệ thành các yếu tố của quá trình sản xuất, thành các yếu tố tồn tại
khác nhau của tư bản sản xuất.
+ Trước hết, tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất có nhiều loại, có
loại được sử dụng toàn bộ trong quá trình sản xuất, nhưng chỉ hao mòn dần, do đó chuyển dần
từng phần giá trị của nó vào sản phẩm của máy móc, thiết bị, nhà xưởng, Có loại khi đưa vào

sản xuất thì chuyển toàn bộ giá trị của nó vào sản phẩm như nguyên, nhiên liệu. Song, giá trị
của bất kỳ tư liệu sản xuất nào cũng đều nhờ có lao động cụ thể của công nhân mà được bảo
toàn và di chuyển vào sản phẩm, nên giá trị đó không thể lớn hơn giá trị tư liệu sản xuất đã bị
tiêu dùng để sản xuất ra sản phẩm. Đó là:
+ Bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bào toàn và được chuyển vào sản
phẩm, tức là không thay đổi về lượng giá trị của nó, được C.Mác gọi là tư bản bất biến (ký hiệu
là c).
+ Bộ phân tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu
tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến đổi về lượng, được C.Mác gọi là tư bản
khả biến (ký hiệu là v).
+ Như vậy, tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để sản xuất ra giá trị
thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá trình đó, vì nó chính là bộ phận
tư bản đã lớn lên.
- Căn cứ cho sự phân chia đó là dựa vào vai trò khác nhau của các bộ phận của tư bản trong
quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.
- Ý nghĩa của sự phân chia: vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, phản ánh được
nguồn gốc snh ra giá trị thặng dư, trong quá trình sản xuất, tư bản bất biến là điều kiện để sinh
ra giá trị thặng dư còn tư bản khả biến mới là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư - chỉ có lao
động của công nhân mới tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
* Tư bản cố định, tư bản lưu động, căn cứ và ý nghĩa của việc phân chia:
- Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận và có thời gian chu chuyển khác nhau về mặt giá trị, do
đó ảnh hưởng đến thời gian chu chuyển của toàn bộ tư bản.
- Căn cứ của sự phân chia: căn cứ vào sự khác nhau trong phương thức (đặc điểm) chu chuyển
về mặt giá trị nhanh hay chậm của các bộ phận tư bản để phân chia tư bản sản xuất thành tư
bản cố định và tư bản lưu động.
- Tư bản lưu động và tư bản cố định:

×