Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tìm hiểu về việc áp dụng kinh tế học trong y tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.54 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Cung với sự thay đổi kinh tế của toàn xã hội, ngành Y tế cũng đã có những
thay đổi lớn lao, được biểu hiện bằng 3 chính sách: (1) Thu một phần viện phí;
(2) Thực hiện các mô hình bảo hiểm y tế; (3) Cho phép hành nghề y được tư
nhân. Những chính sách này liên quan chặt chẽ đến nội dung của kinh tế học
trong y tế. Chính vì thế việc trang bị những kiến thức về kinh tế y tế trở nên cần
thiết, không chỉ đối với các nhà hoạch định chính sách, những cán bộ quản lý
mà cho cả những sinh viên như chúng em.
Với nhiệm vụ làm bài tiểu luận môn học “Kinh tế vi mô” nhận thức được ý
nghĩa và tàm quan trọng đó là tạo cơ hội cho chúng em bước đầu làm quen với
việc nghiên cứu khoa học, tự mình đọc các tài liệu, nghiên cứu xử lý, sắp xếp
những ý tưởng để chứng minh những vấn đề được đặt ra. Và với đề tài nhóm 04
chúng em lựa chọn là “ Tìm hiểu về việc áp dụng Kinh tế học trong Y tế” làm
đề tài nghiên cứu.
2.Mục đích nghiên cứu
Với đề tài đã lựa chọn, nhóm chúng em đặt ra những mục đích nghiên cứu
như sau:
- Trình bày được khái niệm về kinh tế, kinh tế vi mô, kinh tế vĩ mô, thị
trường, cung và cầu.
- Mô tả mối lien quan giữa kinh tế và y tế, chức năng của kinh tế trong y tế.
- Phân tích cung cầu trong chăm sóc sức khỏe và đặc tính của thị trường trong
chăm sóc sức khỏe.
- Từ những kiến thức trên cơ sở lý thuyết được thầy cô giảng dạy và những
kiến thức học hỏi áp dụng trên thực tế và đưa ra những mặt tồn tại trong nghành
y tế, từ đó đưa ra các giải pháp.
NỘI DUNG
I.KINH TẾ HỌC VÀ VIỆC ÁP DỤNG KINH TẾ HỌC TRONG Y TẾ
1. Khái niệm kinh tế học
Hàng ngày chúng ta đều phải đưa ra các quyết định kinh tế. Là người tiêu
dùng chúng ta muốn đạt được sự thoả mãn cao hơn khi chi tiêu mỗi đồng tiền,


tức là chúng ta muốn thu được giá trị tối đa từ những đồng tiền của mình. Là nhà
sản xuất chúng ta tìm cách có nhiều lãi nhất, tức là tối đa lợi nhuận. Là chính
phủ chúng ta muốn đảm bảo đảm cho thế hệ tương lai sự tăng trưởng kinh tế ổn
định. Để đạt được những mong muốn này, kinh tế học sẽ giúp chúng ta tìm kiếm
được các giải pháp hợp lý.
Kinh tế học là khoa học của sự lựa chọn phương án tối ưu trong số các
phương án sử dụng các nguồn lực đang ngày càng trở nên khan hiếm, để thỏa
mãn nhu cầu của cá nhân và của cộng đồng.
Nguồn lực bao gồm nguyên liệu, năng lượng, sức lao động, vốn, cơ sở vật
chất, trang thiết bị
2. Khái niệm kinh tế vi mô
2.1. Kinh tế học vĩ mô
Là môn khoa học kinh tế tổng quát, nghiên cứu các quy luật hoạt động kinh tế
và khoa học hành vi ứng xử của toàn bộ nền kinh tế.
Phạm vi nghiên cứu của kinh tế vĩ mô ở mức tổng hợp, quốc gia, quốc tế.
Ví dụ: Vấn đề lạm phát, thất nghiệp, chính sách tiền lương của người lao
động, các giải pháp
Kết quả hoạt động kinh tế của nền kinh tế quốc dân được đo bằng chỉ số
GDP
(Gross Domestic Products - Tổng sản phẩm quốc nội) hoặc GNP (Gross
National
Products - Tổng sản phẩm quốc dân). GDP là chỉ số tính bằng tiền của tất cả
các sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ của
một quốc gia trong một năm. GNP là chỉ số được tính bằng tiền của tất cả các
sản phẩm và dịch vụcuối cùng được sản xuất ra bởi con người của một quốc gia
hay nói cách khác:
GNP = GDP + Thu nhập từ nước ngoài chuyển vào trong nước - Thu nhập từ
trong nước chuyển ra nước ngoài
2.2. Kinh tế học vi mô
Là môn khoa học quan tâm đến việc nghiên cứu phân tích và lựa chọn các vấn

đề kinh tế cụ thể các bộ phận của nền kinh tế.
Phạm vi nghiên cứu của kinh tế vi mô là các vấn đề chi tiêu cá nhân, kinh tế
hộ gia đình, các vấn đề cụ thể của doanh nghiệp Ví dụ: Tại sao các gia đình
lại thích dùng gas làm chất đốt hơn là dùng than, tại sao người dân lại thích đi
ôtô cá nhân hơn là đi xe máy
Kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô là hai bộ phận có mối quan hệ mật thiết và bổ
sung cho nhau, là hai bộ phận của kinh tế học. Kinh tế vi mô phụ thuộc vào sự
phát triển của kinh tế vĩ mô, kinh tế vĩ mô tạo môi trường để kinh tế vi mô phát
triển.
3. Thị trường
3.1. Khái niệm
Thị trường là tổng hợp các quan hệ kinh tế hình thành trong hoạt động mua và
bán. Theo nghĩa hẹp nhất, thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua, bán hàng
hoá.
Thị trường là một quá trình, trong đó người mua và người bán một thứ hàng
hoá, dịch vụ nào đó, tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và khối lượng
hàng hoá, dịch vụ.
Điều chung nhất đối với các thành viên tham gia vào thị trường là tìm cách
thực thi việc lựa chọn kinh tế tối ưu của mình.
Người sản xuất (hàng hoá-dịch vụ) Bán Tối đa lợi nhuận
Người tiêu dùng (cá nhân, hộ gia đình, cơ quan) Mua Tối đa lợi ích
3. 2. Cơ chế thị trường
Giá cả thị trường được định ra giữa người mua và người bán là do qui định
của luật cung - cầu.
Cơ chế thị trường thực hiện ba chức năng:
- Trao đổi thông tin về ý thức của người tiêu dùng, về sự khan hiếm, về hiệu
quảvà chi phí cơ hội của sản xuất.
- Khuyến khích người sản xuất sản xuất ra những sản phẩm có giá trị nhất cho
xã hội, và sản xuất chúng theo cách hiệu quả nhất.
- Thực hiện sự phân bổ đầu tiên về nguồn lực và thu nhập, giá cả sẽ quyết

định ai sẽ nhận được hàng hoá hay dịch vụ gì trong thị trường.
3.3. Các dạng thị trường
- Chợ: Người mua - người bán trực tiếp thoả thuận về giá cả.
- Siêu thị: Người mua tự chọn loại hàng hóa và số lượng hàng hoá; số lượng
người bán hàng ít.
- Đấu giá: Người mua tự định giá, người bán đóng vai trò thụ động.
- Thị trường chứng khoán: Người mua và người bán giao tiếp gián tiếp qua
fax, điện thoại, internet
4. Cầu
4.1. Các khái niệm
- Lượng cầu: Số lượng hàng hoá và dịch vụ mà người mua có khả năng và
sẵn sàng mua ở một mức giá có thể trong một thời gian nhất định, với giả thuyết
các yếu tố khác như thị hiếu, thu nhập và giá cả của các hàng hoá khác là giữ
nguyên.
- Cầu: Là số lượng hàng hoá, dịch vụ mà người mua có khả năng và sẵn sàng
mua ở các mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định.
- Cầu khác với lượng cầu: Cầu không phải là con số cụ thể mà mô tả toàn diện
về lượng hàng hoá, dịch vụ mà người mua có thể mua và sẵn sàng mua ở mọi
mức giá.
- Cầu khác nhu cầu: Là những mong muốn, nguyện vọng hầu như vô hạn của
con người. Cầu hàm ý chỉ những nhu cầu có khả năng thanh toán (khả năng
mua và ý muốn sẵn sàng mua).
- Cầu thị trường: Là tổng số hàng hoá, dịch vụ mà mọi người sẵn sàng và có
khả năng mua ở mức giá khác nhau, trong một khoảng thời gian nhất định. Cầu
thị trường = tổng cầu cá nhân.
- Biểu cầu: Thể hiện mối quan hệ giữa lượng cầu của một hàng hoá và giá cả
của chính nó. Đặc điểm chung của đường cầu là nghiêng xuống dưới và về phía
bên phải, phản ánh mối quan hệ tỷ lệ nghịch có tính phổ biến giữa P và Q.
- Luật cầu: Khi giá cả một mặt hàng tăng lên, lượng cầu về hàng hoá đó sẽ
giảm đi và ngược lại với giả thiết các yếu tố khác là không đổi. Mặc dù giá cả là

yếu tố quan trọng quyết định đến cầu nhưng nó không phải là duy nhất.
4.2. Các yếu tố quyết định đến cầu
- Thu nhập.
- Qui mô của thị trường (số lượng người mua) : Số lượng người mua tăng
gấp 2 lần thì cầu về hàng hoá cũng tăng khoảng 2 lần.
- Giá cả và tính sẵn có của hàng hoá khác:
+ Hàng hóa không liên quan (hàng hoá độc lập): Sự thay đổi giá của mặt hang
này không làm ảnh hưởng đến cầu của hàng hoá kia. Ví dụ: Quần áo và than tổ
ong là hai loại hàng hóa độc lập.
+ Hàng hoá thay thế được cho nhau: Nếu giá của mặt hàng này tăng thì cầu
của hàng hoá thay thế sẽ tăng (quan hệ thuận chiều). Ví dụ thị trường chất đốt:
Giá gas tăng dẫn đến cầu của than tổ ong tăng.
+ Hàng hoá bổ sung cho nhau: Nếu giá mặt hàng này tăng thì cầu của mặt
hàng kia giảm (quan hệ nghịch chiều).
- Thị hiếu (mốt, quảng cáo).
- Kỳ vọng về giá cả, thu nhập, thị hiếu, giá cả của các hàng hoá khác
5. Cung
5. 1. Các khái niệm
- Lượng cung: Là số lượng hàng hoá, dịch vụ mà người bán có khả năng và
sẵn sàng bán ở một mức giá cụ thể trong một thời gian nhất định, với điều kiện
các yếu tốkhác là như nhau như: Công nghệ, giá cả đầu vào, chính sách của Nhà
nước không bị thay đổi.
- Cung: Là lượng hàng hoá và dịch vụ mà người bán có khả năng bán và sẵn
sàng bán ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định.
- Cung khác lượng cung: Cung không phải là số lượng cụ thể mà là sự mô tả
toàn diện mối quan hệ giữa giá cả và lượng cung hàng hoá. Cung là một hàm số
thể hiện hành vi của người bán ở các mức giá khác nhau.
- Hai yếu tố không thể thiếu được của cung là: Sự sẵn sàng và khả năng bán.
Cung thị trường = tổng cung cá nhân.
- Biểu cung: Thể hiện mối quan hệ giữa lượng cung của một hàng hoá và giá

trị của chính nó. Đặc điểm của biểu cung là lên trên và nghiêng về bên phải, thể
hiện mối quan hệ tỷ lệ thuận có tính phổ biến giữa P và Q.
- Luật cung: Giá một mặt hàng tăng thì
lượng cung tăng và ngược lại với giả thiết
các yếu tố khác là không đổi.
+ Nếu giá tăng có thể đưa lại lợi nhuận
nhiều hơn cho doanh nghiệp khiến họ bán
ra một lượng hàng hóa/ dịch vụ lớn hơn;
hoạc có them nhà doanh nghiệp sản xuất
hàng hóa/ dịch vụ này tham gia vào thị
trường.
+ Nếu giá giảm có thể làm cho lợi nhuận thấp đi khiến doanh nghiệp bán ra
một lượng hàng hóa/ dịch vụ nhỏ hơn; hoạc sẽ có thể rút ra khỏi ngành đó.
Một số ngoại lệ trái luật cung: Khi giá cả một loại mặt hàng tăng, nhưng do có
lạm phát nên doanh nghiệp vẫn không bán hàng.
5.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới cung Điểm cân bằng
- Công nghệ.
- Giá cả đầu vào.
- Số lượng người sản xuất.
- Chính sách điều tiết của Nhà nước.
- Kỳ vọng về giá cả, chính sách của Nhà nước, giá cả đầu vào
6. Kinh tế y tế
6.1. Khái niệm
Là một chuyên ngành của khoa học kinh tế. Nó vận dụng kinh tế học vào
quản lý ngành y tế; nó tập trung vào việc nghiên cứu bằng cách nào sử dụng
một cách tối ưu nguồn lực của ngành y tế để cải thiện sức khoẻ cộng đồng.
6. 2. Mối quan hệ qua lại giữa kinh tế và y tế
6.2.1. ảnh hưởng của hệ thống y tế đến nền kinh tế quốc dân
Y tế được coi là một bộ phận không thể tách rời nền kinh tế quốc dân và đã
trở thành yếu tố tất yếu và cần thiết để bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân: Tạo ra

lực lượng lao động kể cả số lượng, chất lượng và làm tái sản xuất sức lao động.
6.2.2. Một số đặc điểm của hệ thống y tế mang ý nghĩa kinh tế
Thông thường giá cả rẻ, thu nhập cao thì sức mua sẽ lớn. Trong y tế điều này
không luôn đúng. Y tế có 3 trường hợp:
- Nhu cầu chạy chữa cho các bệnh tật không nguy hiểm, không đe doạ sự
sống sẽ bị tác động mạnh mẽ bởi thu nhập của người bệnh và giá cả dịch vụ.
Thu nhập cao sẽ chi phí nhiều hơn cho chăm sóc sức khỏe.
- Trong trường hợp đe doạ cuộc sống thì sẽ không tuân theo qui luật thong
thường trên. Đòi hỏi về dịch vụ điều trị trong các trường hợp này thường không
bị ảnh hưởng bởi thu nhập của người bệnh và giá cả dịch vụ. Ví dụ: Trường hợp
bệnh nhân chấn thương sọ não bắt buộc đến bệnh viện mà không tính đến thu
nhập hoặc hiện tại anh ta có bao nhiêu tiền để trả cho các dịch vụ y tế sẽ sử dụng
để điều trị chấn thương sọ não.
- Nhu cầu về các dịch vụ phòng bệnh xuất hiện không bị ảnh hưởng bởi thu
nhập và giá cả dịch vụ.
Người tiêu dùng các dịch vụ y tế không xác định được chủng loại, số lượng
và chất lượng những cái mà anh ta mua. Người thầy thuốc đưa ra quyết định
còn người bệnh trả tiền, tuy vậy người bệnh không có khả năng xét đoán về mặt
kỹ thuật và cũng không ở vị trí để đánh giá dịch vụ mà anh ta nhận được.
Sự cạnh tranh trong bệnh viện không phải do hạ giá thành dịch vụ mà là chất
lượng dịch vụ và độ tin cậy. Bởi vì sự cạnh tranh giữa các bệnh viện không dựa
trên nền tảng chi phí mà trên dịch vụ và hiệu quả y học. Người thầy thuốc không
thể quyết định gửi bệnh nhân đến nơi có chi phí thấp mà thường dựa trên khả
năng chẩn đoán và điều trị của cơ sở đó. Bệnh nhân cũng không yêu cầu thầy
thuốc gửi họ tới cơ sở y tế rẻ tiền mà thường yêu cầu gửi tới nơi nào có dịch vụ
tốt và tiện nghi thoải mái.
Mục đích tiếp thị để tăng yêu cầu dịch vụ chỉ áp dụng cho các chương trình
phòng bệnh và tăng cường sức khoẻ. Với bệnh viện thì mục đích tốt hơn là đảm
bảo dân khoẻ mạnh để họ không cần vào bệnh viện.
Không phải tất cả các trung tâm chi phí trong một bệnh viện đều có lãi. Một

số dịch vụ trong bệnh viện có thể không bao giờ tạo ra nguồn vốn có lãi nhưng
vẫn duy trì lâu dài do nhu cầu của cộng đồng.
Lợi ích từ bên ngoài: Nghĩa là lợi ích của việc chi tiêu không chỉ phụ thuộc về
cá nhân sử dụng chi phí đó mà còn cho cả cộng đồng. Ví dụ: Tiêm chủng mở
rộng hay tham gia phòng chống bệnh sốt rét lợi ích cho cá nhân và phòng lây
nhiễm cho cả cộng đồng.
Nhu cầu, mong muốn, đòi hỏi y tế. Nhu cầu sức khoẻ của nhân dân là số
lượng dịch vụ y tế do chuyên môn y học qui định. Mong muốn hay đòi hỏi về
dịch vụ y học được định nghĩa là số lượng dịch vụ y học mà thành viên cộng
đồng cảm thấy họ tiêu thụ dựa trên sự nhận thức về nhu cầu sức khoẻ và y học.
Như vậy khi nói đến nhu cầu thường trên quan điểm y học, còn nói đến mong
muốn và đòi hỏi thường bao gồm cả quan điểm kinh tế.
Trong lĩnh vực y tế, đặc biệt là chăm sóc y học, khả năng của đồng vốn hay
các máy chuyên dùng để thay thế hoạt động của con người là rất hạn chế và
thậm chí ở các lĩnh vực mà máy móc được sử dụng thì cũng có rất nhiều người
tham gia. Đối tượng phục vụ của y tế là con người đang mắc các điều phiền
muộn khác nhau. Đòi hỏi không chỉ có kiến thức, kỹ năng khoa học mà còn cả
hiểu biết tính nhân bản. Y tế là mục tiêu của tiêu dùng và đầu tư. Theo thông lệ,
nhà kinh tế cho y tế là khoản mục tiêu dùng. Hiện nay quan điểm này đã thay
đổi. Nguồn lực dành cho chăm sóc sức khoẻ biểu hiện một phần đầu tư trong y
tế.
6.2.3. Sự phát triển của nền kinh tế quốc dân tác động đến hệ thống y tế
Sự phát triển của nền kinh tế quốc dân tác động đến nhiều mặt của hệ thống y
tế:
Tình trạng sức khoẻ của nhân dân, sự thay đổi mô hình bệnh tật; sự phát triển
đến các chuyên ngành y tế, mạng lưới y tế từ Trung ương đến y tế thôn bản.
7. Chức năng của kinh tế y tế
- Tạo nguồn lực cho ngành y tế. Tư vấn cho các nhà lãnh đạo nhằm tạo nguồn
lực tối ưu cho ngành y tế để giải quyết các vấn đề liên quan đến sức khoẻ Bao
gồm: Con người, kinh phí, trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho các loại

hình dịch vụ y tế.
- Thiết lập mục tiêu chăm sóc sức khoẻ: Tư vấn để lựa chọn các vấn đề chiến
lược các mục tiêu tổng thể, mục tiêu chuyên biệt cho toàn ngành y tế hoặc cho
các chương trình, hoạt động y tế dựa trên cơ sở phân tích vấn đề sức khoẻ và
nguồn lực dành cho y tế.
- Phân tích việc sử dụng các nguồn lực: Tư vấn việc phân bổ nguồn lực cho
các chương trình, hoạt động y tế nhằm mang lại hiệu quả cao trong chăm sóc
sức khoẻ một cách tối ưu cho các mục tiêu kinh tế - xã hội của quốc gia, khu vực
và địa phương.
- Lựa chọn các vấn đề ưu tiên: Nguồn lực luôn có hạn vì vậy cần phải nghiên
cứu để xác định vấn đề ưu tiên phù hợp với điều kiện địa lý, kinh tế, xã hội trong
từng giai đoạn nhất định.
- Phân tích và đánh giá hiệu quả: Các chính sách, các quyết định cần phải
được phân tích đánh giá một cách khách quan nhằm đạt được mục đích và
lường trước những điều bất lợi có thể xảy ra, cũng như các giải pháp tác động
tiếp theo.
- Nghiên cứu mô hình dịch vụ y tế. Nhằm tận dụng tối đa các nguồn lực và
hiệu quả kinh tế xã hội.
- Nghiên cứu khoa học quản lý trong ngành y tế. Quản lý ngành, quản lý dịch
vụ y tế, quản lý bệnh viện, quản lý dược
8. Cung, cầu trong chăm sóc sức khoẻ
8. 1. Đặc điểm cung cầu trong chăm sóc sức khoẻ
Tình huống: Chị Mường là cán bộ của Uỷ ban nhân dân xã, sống ở xã vùng
cao.
Người dân trong làng có thói quen cúng khi ốm đau vì theo họ là do ma làm
người ốm.
Một số người dân cũng đến nhà ông lang Tèo rất nổi tiếng chữa được nhiều
bệnh bằng uống thuốc từ các loại lá cây. Đôi khi chị cũng thấy người dân đến
trạm y tế xã để chữa bệnh. Cách nhà chị Mường khoảng 10 km trên phố huyện
có bà bác sỹ già chữa bệnh tại nhà, bà còn có cả máy siêu âm để khám bệnh, bà

cũng bán thuốc cho người đến khám bệnh ngay tại nhà. Khi chồng bị ốm, mẹ
chồng chị sắm lễ để cúng ma, các bà làm cùng Uỷ ban với chị khuyên đến nhà
ông lang Tèo, nhưng chị nghe theo lời khuyên của anh Tinh - nhân viên y tế
thôn bản đến khám tại trạm y tế xã. Ở trạm y tế xã, chị phải đợi mãi mới thấy cô
y sĩ trẻ xuất hiện, cô hỏi mấy câu rồi phát thuốc cho chồng chị miễn phí vì xã chị
là xã vùng cao nên được hưởng chính sách, chị thắc mắc tại sao chữa bệnh dễ
thế, có vẻ giống ông lang Tèo. Hai ngày sau, thấy chồng mình không đỡ nhiều
nên chị đã cố gắng thu xếp tiền để đi đến nhà bà bác sỹ trên phố huyện. Tại
đây bà bác sỹ đã siêu âm, hỏi tỉ mỉ, bán thuốc và dặn dò chu đáo, còn hẹn chồng
chị khám lại sau 3 ngày nữa. Chị Mường đã rất hài lòng với việc khám bệnh của
bà bác sỹ tuy chị phải trả khoản tiền mà theo chị là tương đối lớn nhưng chắc là
chồng chị sẽ khỏi bệnh.
Tình huống trên đây mô tả một số đặc điểm của thị trường chăm sóc sức
khoẻ.
Loại hình cung cấp dịch vụ y tế khác nhau như tư nhân hoặc nhà nước. Cầu
trong y tế xuất phát khi người dân ốm đau hoặc có nhu cầu được nâng cao sức
khoẻ. Giá cả cũng là yếu tố ảnh hưởng tới việc lựa chọn dịch vụ y tế nhưng
người dân không chỉ nghệ đến chi phí trực tiếp cho y tế mà tính toán tổng thể
như thời gian chờ đợi, mức độ khỏi bệnh hay chất lượng dịch vụ.
- Cầu của chăm sóc y tế cũng được quyết định một phần bởi trình độ của
thầy thuốc và bị ảnh hưởng bởi kỹ thuật công nghệ.
- Đối với y tế, người bệnh chỉ biết chút ít về tính hiệu quả, phẩm chất hoặc
hậu quả của việc điều trị hay không điều trị, hay nói cách khác kiến thức của
người tiêu dùng hàng hoá này nói chung là thấp.
- Về tổng thể, chăm sóc sức khoẻ không có nhạy cảm với giá cả. Tuy nhiên,
thu nhập giảm, cầu sẽ nhạy cảm hơn với giá cả. Điều đó đúng một phần khi
chăm sóc sức khoẻ không mất tiền cho việc chăm sóc, khi những chi phí lúc này
là tương đối cao.
Chi phí cho chăm sóc sức khoẻ có thể cao hơn so với thu nhập, sức khoẻ kém
sẽ làm giảm khả năng kiếm sống.

- Người tiêu dùng khó dự đoán nhu cầu của họ đối với y tế. Nhu cầu tương lai
về y tế, chi phí cho việc ốm đau thường không chắc chắn và thường tốn kém;
dẫn tới việc hình thành các quĩ bảo hiểm của khu vực tư nhân hay công cộng để
chia sẻ rủi ro và giảm bớt sự bất ổn.
- Rất ít các dịch vụ có thể thay thế được dịch vụ y tế khi người ta bị ốm đau.
Tuy vậy, trường hợp thuốc phòng, điều trị bệnh cũng có khá nhiều sự thay thế
và giá cả của chúng đóng vai trò khá quan trọng.
- Người bệnh tham gia trực tiếp vào “sản xuất, tiêu thụ” dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ. Quyết định tiêu thụ hay không tiêu thụ một dịch vụ y tế có thể dẫn đến
những hậu quả không hồi phục được (có thể dẫn đến tử vong hoặc tàn phế vĩnh
viễn).
- Thị trường chăm sóc sức khoẻ không hướng tới cạnh tranh tự do, khống chế
người cung cấp tham gia vào thị trường chăm sóc sức khoẻ. Cần duy trì các
chuẩn mực hành nghề và giảm rủi ro do năng lực nghề nghiệp, điều này có
nhược điểm làm tăng chi phí do làm giảm cung cấp. Khi tham gia vào thị trường
cần có giấy phép hành nghề, chuyên nghiệp hoá, tăng số người đào tạo có chất
lượng, giảm tính không chắc chắn do năng lực nghề nghiệp, chính là để chống
lại cạnh tranh trong thị trường.
8.2. Thành phần cung cấp dịch vụ y tế và hiệu quả của từng dịch vụ
Trong giai đoạn hiện này, ảnh hưởng của cơ chế thị trường trong đời sống
kinh tế đối với sự công bằng trong ngành y tế (sự cách biệt giữa người giàu và
người nghèo, sự cách biệt giữa người miền núi và miền xuôi, tiếp cận với dịch
vụ và điều trị, tiếp cận với dịch vụ y tế Nhà nước và dịch vụ y tế tư nhân) đã đặt
ngành y tế trước sự lựa chọn cấp bách:
- Hoặc là hướng nền y tế về phía thị trường (tư nhân).
- Hoặc là hướng nền y tế vào vị trí trung gian, Nhà nước và tư nhân đóng vai
trò như nhau.
- Hoặc là hướng nền y tế quay lại thời kỳ bao cấp, nghĩa là Nhà nước đảm bảo
gần như toàn bộ mọi chi phí y tế.
- Hoặc là hướng nền y tế về phía mà ở đó Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tư

nhân là một lực lượng cùng tham gia và cùng chia sẻ.
Với quan điểm coi trọng tính công bằng và đầu tư ổn định hiện nay, ngành y
tế Việt Nam đi theo chiều hướng Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tư nhân là
một lực lượng cùng tham gia và cùng chia sẻ. Với chiều hướng này, ngành y tế
sẽ kết hợp tốt giữa phòng và chữa bệnh, nguồn đầu tư bền vững, dựa trên nhu
cầu, người dân có quyền lựa chọn dịch vụ y tế.
- Khu vực y tế Nhà nước: Không lấy mục tiêu vì lợi nhuận làm nòng cốt. Dịch
vụ y tế công cộng thường do các tổ chức rất lớn cung cấp với số lượng lớn nhìn
viên, điều này có thể dẫn tới kém hiệu quả trong quản lý. Tuy nhiên, có một số
cơ chế trong khu vực y tế công cộng có thể làm tăng hiệu quả thông qua việc
tăng cường khả năng và động cơ hoạt động của những người quản lý, xây dựng
kế hoạch.
- Khu vực y tế tư nhân không vì lợi nhuận: Giống như khu vực công cộng, các
tổ chức phi Chính phủ không đặt vấn đề lợi nhuận là mục đích hoạt động của
mình. Họ cố gắng giữ vững tổ chức, ngay cả khi nguồn tài chính không bền
vững. Do phụ thuộc nguồn tài chính nên tập trung phần phòng bệnh không đắt
tiền. Việc sử dụng quĩ tài chính thường là hiệu quả.
- Khu vực tư nhân vì lợi nhuận: Cung cấp dịch vụ hoàn toàn vì động cơ lợi
nhuận. Trong tình hình có nhiều người cung cấp cạnh tranh nhau, không ai làm
ảnh hưởng tới giá cả, vì thế mọi người cạnh tranh nhau bằng cách làm giảm chi
phí đến mức thấp nhất. Nếu chỉ có số ít các dịch vụ y tế, nghĩa là cung cấp hạn
chế thì giá cả sẽ tăng, làm tăng lợi nhuận. Tuy vậy, với sản xuất và cung cấp
dịch vụ ở mức hạn chế, chi phí có thể không phải ở mức thấp nhất do tỷ lệ kỹ
thuật, công nghệ đầu vào Ngoài mục đích lợi nhuận, loại hình dịch vụ này cũng
đóng góp phần quan trọng vào việc tăng cường tính tiếp cận của người dân với
dịch vụ y tế và tăng cường nguồn lực cho ngành y tế.
9. Công bằng trong chăm sóc sức khoẻ
Công bằng trong chăm sóc sức khoẻ ở Việt Nam được xác định bởi hai loại
tiêu chí:
- Tiêu chí về tính tiếp cận: Tức là lấy khả năng đáp ứng với nhu cầu tiếp cận

của dân với hệ thống y tế là tiêu chí đánh giá công bằng trong chăm sóc sức
khoẻ. Người dân (không phân biệt giàu nghèo, địa lý, dân tộc, giới ) càng dễ
tiếp cận với hệ thống y tế bao nhiêu thì hệ thống y tế thể hiện tính công bằng
càng lớn bấy nhiêu. Ngược lại người dân càng hạn chế tiếp cận với dịch vụ y tế
thì tính không công bằng càng lớn.
- Tiêu chí "sàn": Tức là quy định về dịch vụ thiết yếu và công bằng được
đánh giá ở chỗ không một người dân nào được đáp ứng thấp hơn dịch vụ thiết
yếu đó.
Dưới góc độ cung - cầu và sự điều tiết cung - cầu chúng ta hiểu công bằng
trong chăm sóc sức khoẻ không phải là cào bằng và bình quân. Khác với các loại
dịch vụ khác, các chính sách và hoạt động về sức khoẻ trước hết trước hết phải
đáp ứng theo yêu cầu chăm sóc sức khoẻ của từng loại đối tượng, bên cạnh đó
có loại hình phục vụ sức khoẻ theo yêu cầu (tức là theo khả năng chi trả). Phải
lấy việc phục vụ nhu cầu làm ưu tiên hàng đầu chứ không thể lấy việc thực hiện
yêu cầu làm ưu tiên hàng đầu.
Nói một cách khác không thể thương mại hoá dịch vụ y tế.
II. NHỮNG MẶT HẠN CHẾ TỒN TẠI TRONG Y TẾ , GIẢI PHÁP
KHẮC PHỤC
1. Những mặt hạn chế tồn tại trong y tế
1.1. Nguồn lực tài chính hạn chế
1.1.1. Tỷ trọng chi công cho y tế còn thấp
Trong những năm qua, mặc dù ngân sách Nhà nước chi cho y tế đã tăng
nhưng tỷ trọng còn thấp. Đến năm 2009 tỷ trọng chi cho y tế chiếm 10,3% tổng
chi ngân sách Nhà nước, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư của
ngành y tế. Trong những năm tới tỷ trọng này nếu có tăng thêm nữa cũng vẫn
không thể đáp ứng được nhu cầu đầu tư, hơn nữa tỷ trọng này không thể cứ tăng
thêm được mãi vì nhu cầu của các ngành khác trong xã hội cũng rất cao. Điều
này cho thấy nếu tài chính y tế chỉ “trông đợi” vào NSNN thì chắc chắn sẽ
không theo kịp sự phát triển và nhu cầu của xã hội, bên cạnh đó cũng cho thấy
tính cấp bách cần đổi mới toàn diện cơ chế tài chính y tế, có như vậy nền tài

chính y tế mới có thể huy động được nhiều nguồn lực đầu tư hơn trong tương
lai.
1.1.2. Tính hiệu quả của việc chuyển đổi cách hỗ trợ ngân sách Nhà nước
Trong nền tài chính y tế ở Việt Nam, NSNN chi cho y tế chủ yếu theo hình
thức đầu tư trực tiếp cho các cơ sở y tế ở các tuyến TW và địa phương. Từ năm
2003 đến nay, trong khoản chi tiêu cho y tế, NSNN đã dành một khoản kinh phí
đáng kể dùng để hỗ trợ Quỹ Khám chữa bệnh người nghèo (Quỹ 139) và mua
thẻ BHYT cho người nghèo. Một số các đối tượng khác cũng được NSNN hỗ
trợ mua thẻ KCB như trẻ em dưới 6 tuổi, người già trên 85 tuổi… Việc sử dụng
một phần kinh phí của NSNN trực tiếp mua thẻ BHYT cho người dân là một
thay đổi mang tính bước ngoặt rất quan trọng trong quan điểm và thực tiễn của
tài chính y tế: chuyển một phần ngân sách đầu tư cho các cơ sở y tế sang hỗ trợ
trực tiếp cho người bệnh.
Tuy nhiên, tính hiệu quả của việc chuyển đổi hình thức hỗ trợ NSNN cho y tế
trực tiếp sang người dân ở một số địa phương có những hạn chế. Sau khi ban
hành QĐ 139/2002/QĐ-TTg, người nghèo có nhiều cơ hội sử dụng các dịch vụ
khám chữa bệnh, đã cải thiện khả năng tiếp cận các cơ sở y tế rõ rệt. Một số
người nghèo đã tiếp cận và sử dụng DVYT tại tuyến tỉnh, trung ương. Tuy nhiên
đa số người nghèo chủ yếu sử dụng các DVYT có chất lượng thấp ở tuyến cơ sở.
Trong các năm triển khai Quỹ KCB cho người nghèo có tình trạng khá nhiều
tỉnh không sử dụng hết kinh phí, trong số đó chủ yếu là các tỉnh miền núi. Như
vậy mặc dù người nghèo đã được hỗ trợ kinh phí nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn
khi đi KCB do các rào cản khác nhau. Sau khi NSNN hỗ trợ người nghèo bỏ
hình thức quỹ KCB 139, chuyển sang hệ thống chung của BHYT lại phát sinh
hiện tượng "bao cấp ngược", tức là "người nghèo ở miền núi hỗ trợ kinh phí
KCB cho người có BHYT ở miền xuôi". Sau khi ban hành Luật BHYT năm
2008, người nghèo có khả năng tiếp cận với các dịch vụ KCB có chất lượng cao
hơn. Tuy nhiên do còn nhiều rào cản về thủ tục hành chính, chi phí gián tiếp, đi
lại khó khăn và quy định đồng chi trả 5% nên người nghèo chưa thực sự được
hưởng các dịch vụ KCB có chất lượng như các đối tượng khác. Như vậy việc hỗ

trợ kinh phí trực tiếp cho nhóm đối tượng dễ bị tổn thương ở một số địa phương
mặc dù đã mua được thẻ BHYT nhưng người dân chưa thực sự được hưởng các
DVYT có chất lượng.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Luật BHYT, NSNN cũng được sử dụng để hỗ
trợ cho đối tượng cận nghèo tối thiểu 50% mức phí tham gia BHYT. Đến nay,
đối tượng cận nghèo tham gia BHYT mới chỉ đạt khoảng 10%. Bên cạnh đó, các
nhóm đối tượng tham gia BHYT bắt buộc khác như học sinh sinh viên, trẻ em
dưới 6 tuổi, người cao tuổi… cũng chưa đạt tỷ lệ 100% có thẻ BHYT do nhiều
nguyên nhân, trong đó có cả những nguyên nhân thuộc về cơ chế, chính sách, sự
phối hợp thực hiện giữa các ban, ngành chức năng, nhận thức pháp luật của một
bộ phận nhân dân… Khoản NSNN dành để mua thẻ BHYT cho các đối tượng
này cũng không được sử dụng để mua thẻ. Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có
giải pháp phù hợp để sử dụng tốt nguồn lực ngân sách dành cho hỗ trợ cho
người cận nghèo và một số đối tượng khác mua thẻ BHYT.
1.1.3. Tài chính cho y tế dự phòng chứa đựng nhiều bất hợp lý và vướng
mắc
Việc phân bổ tài chính cho y tế dự phòng hiện nay đang có nhiều vướng mắc.
Thứ nhất, việc tính toán tách bạch rành mạch các khoản chi cho YTDP rất khó
khăn do YTDP bao gồm nhiều hoạt động, nguồn chi và mục chi khác nhau. Hiện
nay, kinh phí chi cho YTDP thông qua nhiều dòng kinh phí như hỗ trợ trực tiếp
cho cơ sở y tế hoặc hỗ trợ thông qua chương trình mục tiêu y tế quốc gia, dự
án… Chính vì vậy, để xác định được kinh phí được cấp cho YTDP đã đủ hay
chưa theo tinh thần của Nghị quyết số 18 Quốc Hội khóa XII còn khá phức tạp.
Việc giao quyền tự chủ theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP cho các đơn vị dự
phòng có nhiều vấn đề bất hợp lý và chưa thực sự mang lại hiệu quả. Các đơn vị
thuộc khối YTDP có những nét đặc thù riêng như các hoạt động mang tính chất
phục vụ cộng đồng và phòng chống bệnh dịch là chủ yếu; nguồn thu trực tiếp từ
người dân do DVYT dự phòng mang lại tương đối hạn hẹp. Chính vì vậy, khi áp
dụng Nghị định 43 vào các đơn vị khối YTDP sẽ dẫn đến nghịch lý là “đơn vị
nào hoạt động càng tích cực thì khoản kinh phí tiết kiệm được sẽ càng ít”. Hầu

như đơn vị nào cũng đều rất có ý thức trong việc tiết kiệm các khoản chi thường
xuyên như điện, nước, xăng xe v.v. Tuy nhiên nếu tiết kiệm xăng xe thì việc đó
cũng gần như là phải giảm hoạt động đi cộng đồng, từ đó dẫn đến các hoạt động
chuyên môn không được thực hiện đầy đủ, làm giảm hiệu quả hoạt động.
Như vậy, cơ chế phân bổ tài chính cho khối YTDP và việc áp dụng Nghị định
43/2006/NĐ-CP cho các đơn vị dự phòng có nhiều bất hợp lý, ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động của YTDP. Thực trạng này đòi hỏi nhu cầu cấp bách
cần đổi mới cơ chế phân bổ tài chính y tế.
1.1.4. Bất hợp lý trong phân bổ ngân sách Nhà nước cho khối bệnh viện
Hiện nay, NSNN phân bổ cho các bệnh viện chủ yếu dựa trên xếp hạng bệnh
viện và quy mô giường bệnh. Hình thức phân bổ NSNN cho các bệnh viện mang
tính chất bình quân đã được thực hiện từ rất lâu và vẫn tiếp tục được thực hiện
cho đến ngày nay. Sự bất hợp lý rất lớn nằm ở chỗ là việc phân bổ kinh phí đơn
thuần dựa vào các chỉ số mang tính hành chính mà không dựa vào các chỉ số
hoạt động của bệnh viện. Như vậy sẽ có tình trạng là có những bệnh viện hoạt
động tốt, thu hút đông người bệnh cũng chỉ được phân bổ kinh phí tương đương
với bệnh viện hoạt động yếu, ít bệnh nhân nếu cùng số giường và đồng hạng.
Chính cơ chế phân bổ tài chính bất hợp lý như vậy sẽ dẫn đến hàng loạt những
hệ quả khác như có những bệnh viện chú trọng vào việc tăng số giường bệnh
hơn là chú trọng phát triển chuyên môn, bởi vì phát triển chuyên môn thì khó
được tăng ngân sách hơn là tăng số giường bệnh.
Hơn nữa, hình thức NSNN phân bổ cho các bệnh viện có bất hợp lý khác là
hiện tượng “bao cấp ngược”. Hiện nay bệnh viện tuyến cao nhất nhận được
nhiều kinh phí nhất tính theo số giường bệnh và bệnh viện tuyến thấp hơn nhận
được ít kinh phí hơn. Việc phân bổ như vậy cơ bản là hợp lý do tuyến trên điều
trị các ca bệnh phức tạp hơn, đòi hỏi trang thiết bị, con người… cao hơn tuyến
dưới. Tuy nhiên, nếu xét về khả năng tiếp cận thì tỷ lệ người nghèo được sử
dụng các DVYT tuyến trên so với người giàu thấp hơn rất nhiều. Do vậy, việc
phân bổ này ngầm chứa nghịch lý “bao cấp ngược”: NSNN phân bổ nhiều hơn,
hỗ trợ nhiều hơn cho các đối tượng thu nhập cao hơn. Việc NSNN cấp cho các

bệnh viện tuyến huyện hạn chế cũng chưa thực sự khuyến khích người dân sử
dụng dịch vụ bệnh viện ở tuyến dưới. Thực trạng này đòi hỏi nhu cầu đổi mới và
cần có các cơ chế phân bổ tài chính hợp lý hơn cho các bệnh viện, làm thế nào
để việc phân bổ kinh phí dựa trên hoạt động thực chất của bệnh viện, khuyến
khích người dân sử dụng các DVYT tuyến dưới và tránh hiện tượng “bao cấp
ngược” cho người giàu.
1.2. Sử dụng tài chính chưa hiệu quả
Bên cạnh các khó khăn như nguồn lực tài chính hạn chế, phân bổ còn nhiều
bất cập thì tính hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực tài chính đang có nhiều
vấn đề tồn tại.
1.2.1. Giá và sử dụng dịch vụ y tế khó kiểm soát
Từ khi Chính phủ ban hành Nghị định 95-CP về việc thu một phần viện phí
năm 1994 cho đến nay vẫn không có thay đổi chính thức nào về mặt văn bản.
Sau 16 năm, giá viện phí trên lý thuyết vẫn áp dụng khung giá từ năm 1994 đã
bộc lộ quá nhiều bất hợp lý so với mặt bằng giá cả chung của xã hội. Chính vì
giá viện phí không bù đắp đủ chi phí cho các DVYT nên để tồn tại được trong
nền kinh tế thị trường, các bệnh viện và CSYT đã tự áp dụng các quy định và
hình thức khác nhau nhằm tăng thêm nguồn thu, bù đắp vào khoản thiếu hụt.
Điều này dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực khác như giá một số dịch vụ bệnh viện
gia tăng khó kiểm soát, trong đó có vấn đề lạm dụng thuốc và xét nghiệm (theo
báo cáo y tế thế giới năm 2010 lãng phí 40%). Mặc dù hiện nay không có công
cụ và biện pháp hữu hiệu nào để đánh giá được việc lạm dụng thuốc và dịch vụ
cận lâm sàng, nhưng theo kết quả một số nghiên cứu thì hiện tượng này đang tồn
tại ở nhiều CSYT Nhà nước và đặc biệt là CSYT tư nhân. Một nghiên cứu đánh
giá việc thực hiện tự chủ bệnh viện theo Nghị định 43 cho biết có nguy cơ lạm
dụng, tăng chỉ định sử dụng các XN và TTB kỹ thuật cao tại một số bệnh viện
các tuyến; tỷ lệ sử dụng MRI và CT trên lượt bệnh nhân tăng qua các năm, 20%
bác sỹ được điều tra cho biết có nguy cơ lạm dụng xét nghiệm. Bệnh viện tuyến
TW có chi phí điều trị ngoại trú của bệnh nhân BHYT tăng từ 1,2-2,6 lần năm
2008 so với năm 2005; chi phí điều trị nội trú tăng 1,1-2,8 lần.

Như vậy, những bất hợp lý trong quy định giá viện phí quá thấp đã dẫn đến
nhiều hậu quả tiêu cực khác, dẫn đến tình trạng rất khó kiểm soát giá DVYT
cũng như việc sử dụng DVYT của các bệnh viện. Thực trạng này càng đòi hỏi
nhu cầu cần đổi mới toàn viện về giá viện phí và cơ chế tài chính.
1.2.2. Bàn tay quản lý của Nhà nước chưa phát huy hiệu quả cao
Vai trò của quản lý Nhà nước về mặt tài chính y tế trong những năm qua chưa
thực sự phát huy được hiệu quả. Do mô hình tổ chức y tế liên tục thay đổi dẫn
trong những năm gần đây dẫn đến việc phân bổ tài chính, quản lý tài chính y tế
cũng thay đổi qua các đơn vị y tế sang chính quyền và ngược lại. Vai trò của
Nhà nước trong quản lý giá DVYT chủ yếu chỉ dừng ở mức các cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt giá DVYT do bệnh viện và các CSYT đề xuất. Vai trò
của quản lý Nhà nước không có hiệu quả cao các khía cạnh kiểm soát giá và sử
dụng DVYT, định hướng và khuyến khích các loại DVYT nào nên phát triển
nhằm đem lại lợi ích lớn cho cộng đồng và hạn chế loại DVYT nào chưa nên
phát triển.
1.2.3. Cơ chế tài chính y tế ít phát huy động lực làm việc cho đội ngũ cán
bộ y tế bệnh, cơ sở y tế mà ảnh hưởng rất nhiều đến đội ngũ CBYT. Hệ thống tài
chính y tế chưa tạo động lực làm việc hiệu quả cho đội ngũ cán bộ y tế trên một
số khía cạnh. Thứ nhất, giá DVYT và tiền công trực tiếp trả cho CBYT quá
thấp, trong khi tính chất công việc của CBYT đòi hỏi tư duy cao, tiêu tốn sức
lực và nhiều nguy hiểm, rủi ro… vì vậy không khuyến khích được CBYT cống
hiến hết mình cho sự nghiệp. Thứ hai, cơ chế phân bổ tài chính cho các CBYT
thực hiện các công việc mang tính chất khác nhau nhưng mang tính bình quân
chủ nghĩa, vì vậy không khuyến khích được CBYT làm việc ở những công việc
độc hại, nguy hiểm hoặc ít có thu nhập phụ khác. Cơ chế bất cập này đã dẫn đến
nhiều hậu quả tiêu cực trong những năm gần đây như tình trạng dịch chuyển
CBYT từ vùng nông thôn ra thành thị; từ tuyến dưới lên tuyến trên hoặc từ bệnh
viện công sang bệnh viện tư.
1.2.4. Thực hiện tự chủ bệnh viện dẫn đến những tác động không mong
muốn

Bên cạnh những mặt tích cực thì chủ trương của Chính phủ giao quyền tự chủ
cho các bệnh viện và cơ sở y tế đã dẫn đến một số tác động tiêu cực không
mong muốn. DVYT là một loại hàng hóa đặc biệt không tuân theo quy luật kinh
tế thị trường nhưng các bệnh viện được giao tự chủ và vận hành theo cơ chế thị
trường, chính vì vậy điều này đã bộc lộ những mâu thuẫn từ mặt lý luận đến bất
cập trong triển khai tự chủ bệnh viện. Các bệnh viện được giao tự chủ nhưng
không tính đủ chi phí trong cơ cấu giá dịch vụ làm cho các bệnh viện thiếu
nguồn lực, từ đó dẫn đến các bệnh viện đều có chủ trương tận thu. Theo một
nghiên cứu về việc triển khai NĐ 43, tất cả các bệnh viện đều chủ động mở rộng
các loại hình dịch vụ KCB góp phần làm tăng số lượt bệnh nhân đến KCB tại
bệnh viện. Điều này dẫn đến tình trạng bệnh viện tuyến trên làm cả các DVYT
tuyến dưới, từ đó góp phần làm tăng thêm quá tải bệnh viện, giảm chất lượng
điều trị… Theo nghiên cứu này thì công suất sử dụng giường bệnh tăng rõ rệt
lên 25% tại các BV tự chủ toàn phần (so sánh năm 2008 và 2005).
Việc thực hiện tự chủ bệnh viện cũng làm tăng nguy cơ lạm dụng, tăng chỉ
định sử dụng các xét nghiệm và TTB kỹ thuật cao và tăng chí phí điều trị. Mặt
khác, khả năng thực hiện tự chủ của bệnh viện tuyến huyện rất hạn chế, đặc biệt
tại các vùng kinh tế chưa phát triển do các CSYT ít có khả năng tăng thu từ
người dân. Như vậy, việc thực hiện tự chủ đã làm cho các vấn đề bất cập hiện có
tại tuyến huyện càng trở nên khó khăn hơn. Điều này cũng cho thấy không thể
áp dụng một mô hình tự chủ tài chính chung cho các bệnh viện và CSYT mà cần
có những cơ chế tài chính mềm dẻo và phù hợp hơn với từng nhóm bệnh viện.
Như vậy, nhu cầu cần đổi mới toàn diện cơ chế tài chính y tế là vấn đề rất cấp
thiết đối với ngành y tế.
2. Các giải pháp
2.1. Tăng chi công cho y tế thông qua tăng chi NSNN cho y tế và tăng độ
bao phủ BHYT.
Đến hết năm 2009 tỷ lệ chi công cho y tế đã đạt 45% tổng chi y tế. Phấn đấu
tới năm 2012 tỷ lệ này đạt sấp sỉ 50% và tới năm 2015 đạt 55%. Để đạt được chỉ
số chi công cho y tế ở mức sấp sỉ 50% Việt Nam phải nỗ lực rất nhiều, đặc biệt

là cần phải có các giải pháp mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị để tăng mức độ
bao phủ của BHYT.
2.2. Đổi mới cách phân bổ ngân sách và tăng chi NSNN nhằm tạo thêm
nguồn lực cho công tác y tế dự phòng.
Hiện nay việc phân bổ ngân sách cho các đơn vị y tế dự phòng tại địa phương
chủ yếu vấn dữa theo cơ chế phân bỏ theo đầu cán bộ công chức và thực hiện
khoán theo NĐ43. Tuy nghiên cách phân bổ này đã tỏ ra lỗi thời và không phù
hợp với NQ18 của Quốc hội. Vì vậy việc đổi mới cơ chế phân bổ NSNN cho
khối y tế dự phòng cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
- Tăng chi cho công tác y tế dự phòng theo NQ18 của Quốc hội.
- Việc lập dự toán NSNN của các đơn vị y tế dự phòng cần phải dựa trên
nhiệm vụ và các hoạt động chuyên môn làm cơ sở, tức là một mặt phải đảm bảo
toàn bộ kinh phí chi cho con người và hoạt động của cơ quan, đồng thời phải
thoả mãn các hoạt động chuyên môn y tế dự phòng.
- Từng bước chuyển đổi từ hình thức “khoán kinh phí” theo NQ43 sang
“khoán việc” hay nói một cách khác là phân bổ ngân sách nhà nước theo kết quả
đầu ra.
2.3. Đối với các bệnh viện cần phải thực hiện mạnh hơn việc chuyển đổi
sự hỗ trợ NSNN từ cơ sở cung ứng dịch vụ sang hỗ trợ cho người sử dụng
dịch vụ thông qua quỹ BHYT và quỹ hỗ trợ KCB đối với những người khó
khăn đột xuất khi khám chữa bệnh

với chi phí cao mà người bệnh không có khả
năng chi trả. Như vậy các bệnh viện phải tính đủ giá dịch vụ và thu đủ nhằm
phục hồi chi phí đồng thời nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Người bệnh sẽ
được quỹ BHYT trả thay hoặc tự trả từ tiền túi hoặc được nhà nước hỗ trợ một
phần thông qua quỹ hỗ trợ khám chữa bệnh. Tuy nhiên để đảm bảo cho tất các
các bệnh viện hoạt động bình thường và khuyến khích người bệnh sử dụng dịch
vụ KCB ở tuyến dưới, NSNN sẽ hỗ trợ cho các bệnh viện tuyến huyện, các bệnh
viện ở vùng núi, các bệnh viện phổi, tâm thần, phong .v.v. Mức độ hỗ trợ sẽ

được tính toán phù hợp với khả năng đóng góp của nhân dân và thực hiện chính
sách an sinh xã hội, công bằng trong chăm sóc sức khoẻ.
2.4. Đổi mới cơ chế tài chính y tế phải tác động theo hướng có lợi cho
người dân, người bệnh và tác động theo hướng tích cực tới đội ngũ cán bộ y
tế.
Vậy bằng cách nào đổi mới cơ chế tài chính y tế tác động tới đội ngũ thầy
thuốc, làm cho họ làm việc hiệu quả hơn. Nhìn chung đội ngũ thầy thuốc có
mong muốn và yêu cầu rất chính đáng là làm việc trong môi trường có đủ trang
thiết bị y tế để phát huy tối đa năng lực chuyên môn và tăng thu nhập. Về cơ sở
vật chất, Chính phủ đã có các đề án đầu tư theo QĐ47-TTg, QĐ930-TTg và
QĐ950-TTg để đầu tư cho các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, huyện và các trạm
y tế xã. Do vậy điều kiện làm việc của cán bộ y tế đã và đang được cải thiện. Về
thu nhập, Chính phủ cũng đã từng bước có các quyết định tăng mức phụ cấp
thu hút, phụ cấp ưu đãi ngành .v.v. Nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Trong đề án
đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính y tế, Chính phủ cũng đã đồng ý cho
phép kết cấu vào giá dịch vụ KCB một tỷ lệ thoả đáng để tạo nguồn thu nhằm
tăng thu nhập cho cán bộ y tế nói chung và khuyến khích các thầy thuốc thực
hiện các kỹ thuật chuyên sâu và như các thầy thuốc công tác tại tuyến huyện,
vùng sâu .v.v.
2.5. Tăng cường công tác quản lý nhà nước
Đổi mới luôn có 2 mặt, mặt tích cực và những tác động không mong muốn.
Đổi mới cơ chế tài chính y tế diễn ra trong ngành y tế, một ngành cung ứng dịch
vụ cho xã hội với tư cách một hàng hoá đặc biệt đòi hỏi vai trò của quản lý nhà
nước cao hơn của Chính phủ, các Bộ, cũng như lãnh đạo chính quyền địa
phương.
Ở cấp vĩ mô việc ban hành các cơ chế chính sách với các giải pháp phải đồng
bộ. Tức là một bên phải tạo cơ chế thông thoáng để các bệnh viện vận hành và
chất lượng ngày càng cao trong mối quan hệ tương tác với thị trường. Một bên
khác Chính phủ phải dùng NSNN hỗ trợ để người dân có khả năng tiếp cận được
với các dịch vụ khám chữa bệnh thông qua quỹ BHYT và quỹ hỗ trợ khám chữa

bệnh để bảo đảm rằng không một ai khi có nhu cầu KCB mà không được KCB
và khi đã KCB thì không một ai bị rơi vào bẫy nghèo đói do phải chi trả dịch vụ
KCB. Ở cấp triển khai thực hiện, cần tổ chức thực hiện nghiêm túc các cơ chế
chính sách của Chính phủ. Thực tế cho thấy trong thời gian vừa qua khi thực
hiện QĐ 139/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về KCB cho người
nghèo nhiều địa phương đã dành một phần ngân sách để hỗ trợ cho nhiều người
bệnh gặp khó khăn đột xuất khi mắc bệnh nặng với chi phí điều trị cao; nhưng
cũng còn những địa phương chưa thực hiện và như vậy cấp thực hiện đã chưa
chuyển tải đầy đủ chính sách của Nhà nước tới người dân.
Bên cạch đó các đơn vị địa phương cũng cần phải tăng cường hơn nữa vai trò,
trách nhiệm trong việc mua sắm hàng hoá, thuốc men, thiết bị y tế nhằm phát
huy tối đa nguồn lực giành cho y tế.
KẾT LUẬN
Khoa kinh tế học áp dụng cho ngành y tế với yêu cầu hạch toán các dịch vụ y
tế, nhằm đạt hiệu quả cao và tiết kiệm nhất trong mọi lĩnh vực liên quan đến sức
khoẻ, đồng thời đảm bảo phúc lợi cho nhân dân và cho người lao động hoạt
động trong ngành y tế.
Ở Việt Nam, dịch vụ y tế bao gồm mọi hoạt động liên quan đến tổ chức sản
xuất thuốc men, trang thiết bị, lưu thông phân phối, khám chữa bệnh, phòng
chống bệnh dịch, vệ sinh môi trường, v.v… nhằm thực hiện chiến lược “sức
khoẻ cho mọi người” thông qua chăm sóc sức khoẻ ban đầu.

×