Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Giáo dục đạo đức cho thanh niên thành phố việt trì tỉnh phú thọ giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.63 KB, 61 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của khóa luận
Thanh niên là lực lượng xã hội đặc biệt, có vai trò rất quan trọng trong lịch
sử, trong các giai đoạn cách mạng cũng như trong hiện tại và tương lai. Sinh
thời, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với thanh niên.
Khi đánh giá về thanh niên Hồ Chí Minh khẳng định: “Thanh niên là chủ nhân
tương lai của nước nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là
do các thanh niên”. Nhận thức đúng vai trò của thanh niên Đảng ta khẳng định:
“Sự nghiệp của nước ta thành công hay không, đất nước ta bước vào thế kỉ XXI
có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không chủ yếu là do lực lượng
thanh niên ngày nay quyết định. Tương lai của dân tộc Việt Nam, sự phát triển
của đất nước tùy thuộc vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên” [16; 7].
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo đã và đang đem lại
những kết quả to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những thành
tựu phát triển kinh tế, xã hội đã và đang tạo điều kiện, cơ hội cho thanh niên
được rèn luyện, phấn đấu và khẳng định mình. Song, bên cạnh những chuyển
biến tích cực đó, sự tác động mạnh mẽ từ mặt trái của cơ chế thị trường cũng là
mảnh đất màu mỡ làm nảy sinh lối sống ích kỷ vụ lợi, những thói hư tật xấu,
làm rạn nứt những khuôn mẫu, những giá trị đạo đức, hủy hoại nét đẹp truyền
thống. Ảnh hưởng từ mặt trái của kinh tế thị trường đã tạo ra trong xã hội một
lớp người không nhỏ trong đó có thanh niên chạy theo lối sống thực dụng,
buông thả, phai nhạt lý tưởng, bất chấp những quy phạm đạo đức, truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Hàng loạt vấn đề đặt ra đối với thanh niên là: làm
thế nào để thanh niên trong tương lai đủ sức đáp ứng yêu cầu đất nước đặt ra?
làm thế nào để họ có thể tự định hướng đúng, hình thành và rèn luyện phẩm chất
đạo đức trong đời sống kinh tế thị trường hiện nay? Làm thế nào để những ảnh
hưởng tiêu cực không làm suy giảm nguồn lực trẻ…? Do vậy, việc giáo dục đạo
đức nói chung và giáo dục cho thế hệ thanh niên là một vấn đề quan trọng trong
chiến lược phát triển con người của Đảng được toàn xã hội quan tâm. Yêu cầu
của sự nghiệp đổi mới, từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng và văn minh đã khách quan hóa tầm quan trọng và tính


bức thiết của việc giáo dục đạo đức cho thanh niên.
* Chú thích: kể từ trang này trở đi [16; 7]
[16] Số thứ nhất, là số thứ tự trong danh mục tài liệu tham khảo.
[7] Số thứ hai, là số trang trong tài liệu tham khảo.
Tỉnh Phú Thọ với dân số 1.400.226 người (năm 2009), diện tích 35.196
km
2
, gồm 1 thị xã và 10 huyện. Phú Thọ còn là mảnh đất thiêng liêng cội nguồn
của dân tộc Việt Nam với hàng ngàn năm lịch sử, khởi nghiệp 18 đời vua Hùng,
mảnh đất được coi là văn hiến và văn vật với văn minh nông nghiệp từ thuở
bình minh dựng nước. Điều đó đã có tác dụng lôi cuốn giáo dục đạo đức thanh
niên nói chung và thanh niên trong tỉnh nói riêng.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, sự chuyển biến mạnh mẽ của những
điều kiện kinh tế - xã hội đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến thanh niên, lớp
người trẻ tuổi nói chung và thanh niên Phú Thọ nói riêng. Một mặt, nền kinh tế
thị trường, xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế tri thức, việc ở rộng giao lưu với
quốc tế đang tạo nhiều cơ hội, điều kiện cho thanh niên ở Phú Thọ phát huy tính
năng động, chủ động, sáng tạo vươn lên để khẳng định mình. Mặt khác, trong
thanh niên đã nảy sinh nhiều hiện tượng suy thoái đạo đức, lối sống, chỉ coi
trọng đồng tiền, bất chấp đạo lý, chỉ đề cao giá trị vật chất mà xem thường giá trị
tinh thần dẫn đến thanh niên rơi vào tội lỗi và các tệ nạn xã hội. Đó vừa là
nguyên nhân vừa là biểu hiện làm suy giảm nguồn lực trẻ của tỉnh, là nỗi nhức
nhối của từng gia đình, địa phương và xã hội.
Giáo dục đạo đức và vai trò của đạo đức đối với sự phát triển của thanh
niên thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ gắn với những nét đặc thù của địa phương
là một vấn đề bức thiết, nảy sinh từ thực tiễn đòi hỏi phải được quan tâm, nghiên
cứu một cách hệ thống. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề “giáo dục đạo đức cho thanh
niên thành phố Việt Trì trong giai đoạn hiện nay” là một yêu cầu cấp thiết. Xuất
phát từ những lý do trên tôi mạnh dạn chọn đề tài này làm khóa luận tốt nghiệp
của mình.

2. Tình hình nghiên cứu khóa luận
Vấn đề đạo đức nói chung và đạo đức thanh niên nói riêng trong những
năm gần đây đã có nhiều tác giả nghiên cứu. Chẳng hạn: “Vai trò của đạo đức
với sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam hiện nay” Luận
án tiến sĩ triết học của Lê Thị Thủy năm 2001; “Quan hệ biện chứng giữa truyền
thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay”
Luận án tiến sĩ triết học của Lê Thị Hoài Thanh năm 2002; “Vấn đề giáo dục
đạo đức truyền thống cho thanh niên Việt Nam hiện nay”; Luận văn thạc sĩ của
Doãn Thị Chín năm 2004; “Vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống cho thanh
niên huyện Lạc Thủy tỉnh Hòa Bình hiện nay” của sinh viên trường Đại học Tây
Bắc năm 2010…
Nghiên cứu các khía cạnh tác động của đạo đức và giáo dục, rèn luyện đạo
đức với sự phát triển con người, nhân cách nói chung và thanh niên nói riêng
cũng có nhiều tác giả đề cập đến. Trong những tạp chí có những bài: “Lý tưởng
đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên trong điều kiện hiện
nay” của Đoàn Văn Kiên, tạp chí triết học số 2 – 2002; “Một số biểu hiện của sự
biến đổi giá trị đạo đức trong thời kỳ mới, phải giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ
phát triển toàn diện” của tổng bí thư Nông Đức Mạnh, tạp chí thanh niên số 15
– 2002; “Đổi mới hình thức tuyên truyền giáo dục thanh niên” của Lương Ngọc
Vĩnh, tạp chí thanh niên số9 – 2004; “Kết hợp giáo dục lý luận với giáo dục lý
tưởng đạo đức cho sinh viên hiện nay” của Nguyễn Ngọc Thu, tạp chí Cộng sản
số 92 - 2005; “Xây dựng lối sống văn hóa cho thanh niên hiện nay” của Nguyễn
Thị Mỹ Trang, tạp chí Cộng sản số 6 – 2006 và rất nhiều bài viết về con người,
thanh niên, về nhân cách, đạo đức, giáo dục đạo đức đối với thế hệ trẻ.
Nhưng hiện nay có chưa có một công trình nghiên cứu nào về “giáo dục
đạo đức cho thanh niên thành phố Việt Trì trong giai đoạn hiện nay” với mong
muốn thấy được thực trạng đạo đức và việc giáo dục đạo đức cho thanh niên
thành phố Việt Trì hiện nay và trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm góp
phần vào việc giáo dục đạo đức cho thanh niên thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ.
Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài trên làm khóa luận tốt nghiệp.

3. Mục đích và nhiệm cụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận, phân tích thực trạng đạo đức và việc giáo
dục đạo đức cho thanh niên thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ từ đó đề xuất một
số giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục
đạo đức cho thanh niên thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện
nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, khóa luận cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
Làm rõ tầm quan trọng, nội dung giáo dục đạo đức cho thanh niên thành
phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ giai đoạn hiện nay.
Tìm hiểu, phân tích thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho thanh niên
thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ giai đoạn hiện nay và nguyên nhân của thực
trạng đó.
Đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho thanh
niên thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đạo đức thanh niên và giáo dục đạo đức cho thanh niên thành phố Việt Trì
tỉnh Phú Thọ giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ khóa luận tôi chỉ đề cập tới một số nhân tố, điều kiện chủ
yếu tác động đến giáo dục đạo đức cho thanh niên thành phố Việt Trì tỉnh Phú
Thọ giai đoạn hiện nay. Các số liệu, tài liệu khảo sát chủ yếu đề cập từ năm
2000 trở lại đây.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lí luận
Khóa luận chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thanh niên,
nguồn nhân lực, vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho thanh niên, đồng thời

kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học khác có liên
quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận đã vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và lôgic, phân
tích và tổng hợp. Ngoài ra khóa luận còn sử dụng các phương pháp cụ thể như:
so sánh, thống kê và điều tra xã hội học để thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà
khóa luận đặt ra.
6. Đóng góp của khoá luận
Góp phần làm rõ thực trạng đạo đức thanh niên thành phố Việt Trì tỉnh Phú
Thọ, từ đó đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đạo đức
thanh niên trong điều kiện hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo trong việc
nghiên cứu và giảng dạy môn đạo đức học cho sinh viên chuyên ngành giáo dục
chính trị trường Đại học Tây Bắc.
7. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục, tài liệu tham khảo, khóa luận
được bố cục thành 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lí luận của việc giáo dục đạo đức cho thanh niên thành
phố Việt Trì trong giai đoạn hiện nay.
Chương 2. Thực trạng giáo dục đạo đức cho thanh niên thành phố Việt Trì
trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3. Một số định hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục đạo đức cho thanh niên thành phố Việt Trì trong giai đoạn hiện nay





CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH
NIÊN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Tầm quan trọng và nội dung của giáo dục đạo đức cho thanh niên thành phố
Việt Trì tỉnh Phú Thọ
1.1.1. Quan niệm về đạo đức và giáo dục đạo đức cho thanh niên
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, một trong những giá trị tinh thần
mà xã hội loài người đã sáng tạo ra. Đó là một hệ thống chuẩn mực, quan niệm,
giá trị và nguyên tắc được hình thành trong đời sống xã hội nhằm điều chỉnh
hành vi của con người, qua đó điều chỉnh mối quan hệ giữa người này với người
khác, giữa cá nhân với xã hội được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, truyền thống,
tập quán và sức mạnh của dư luận xã hội.
Bản chất của đạo đức là quan hệ lợi ích, biểu hiện ở sự quan tâm, tự
nguyện, tự giác của mỗi người đối với lợi ích của người khác và lợi ích của xã
hội, từ đó hình thành những phẩm chất, những đức tính của cá nhân thông qua
việc thực hiện các hành vi phù hợp với chuẩn mực, nguyên tắc, giá trị và yêu
cầu của xã hội.
Đạo đức hình thành và phát triển trong quá trình con người hoạt động, lao
động sản xuất, từ những quan hệ con người với con người trong quá trình hoạt
động. Sự hình thành những phẩm chất đạo đức của con người gắn với tình cảm
gai đình, với ý thức cộng đồng, giai cấp, dân tộc và nhân loại. Trong tác phẩm
Chống Đuy-Rinh, Ph.Ăngghen đã viết: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về
đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế xã hội lúc
bấy giờ” [19; 137].
Những phẩm chất đạo đức như lòng nhân ái, trung thành, dũng cảm… được
khẳng định như những giá trị, phẩm chất, nhân cách con người nói chung và
thanh niên nói riêng. Với tư cách là phương thức điều chỉnh hành vi con người
và quan hệ giữa cá nhân với xã hội, đạo đức có chức năng nhận thức, chức năng
giáo dục và chức năng điều chỉnh hành vi. Mỗi chức năng có vai trò, vị trí nhất
định đồng thời có mối liên quan mật thiết, tác động lẫn nhau. Trong đó, chức
năng giáo dục và chức năng điều chỉnh hành vi có vai trò quan trọng. Nhờ các

chức năng này mà con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình, bảo đảm hài
hòa quan hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng, tạo nên sự đồng thuận giữa phát triển
cá nhân và phát triển xã hội.
Trong cấu trúc nhân cách, đạo đức một bộ phận đặc biệt, là nét đặc trưng,
là thuộc tính căn bản. Theo tác giả Bandzelaze: “Đạo đức là nội dung cốt yếu
của tính cách con người”. Sự khác nhau giữa nhân cách này hay nhân cách khác
là sự khác nhau về đạo đức trong điều kiện hiện nay để thực hiện mục tiêu xây
dựng CNXH đòi hỏi phải có con người với tư cách là nguồn nhân lực. Động lực
của sự nghiệp CNH, HĐH là con người phát triển toàn diện: có tri thức khoa
học, được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, có năng lực sáng tạo trong tiếp thu
và ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại cùng những phẩm
chất đạo đức cần thiết.
Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là
động cơ, là xúc cảm đạo đức thôi thúc các thế hệ, các cá nhân nỗ lực hoạt động
trên mọi lĩnh vực để làm giàu cho bản thân và cho xã hội. Lợi ích cá nhân chính
đáng được thực hiện trong sự thống nhất biện chứng với lợi ích xã hội. Sự quan
tâm đến lợi ích xã hội, tới sự giàu có cho quê hương, đất nước là tiêu chí đánh
giá mọi hoạt động cuả cá nhân. Chính vì vậy, những giá trị đạo đức như yêu
nước, lòng nhân ái, ý thức cộng đồng, tình yêu lao động, tính trung thực, tận tụy,
ý chí tự lực, tự cường vẫn giữ vai trò chi phối mọi hoạt động của con người, đặc
biệt là đối với thanh niên. Yêu cầu của một nhân cách phát triển toàn diện là
những con người “có lí tưởng cao đẹp, ý thức, trách nhiệm công dân, có tri thức,
có sức khỏe và lao động giỏi, sống có văn hóa và có tình nghĩa, giàu lòng yêu
nước và tinh thần quốc tế chân chính” [1; 83].
Trong sự nghiệp đổi mới, sự phát triển nền kinh tế thị trường cùng với quá
trình giao lưu hội nhập quốc tế là những tác nhân mạnh mẽ hình thành những giá
trị mới, quan niệm và chuẩn mực mới trong sự phát triển của thanh niên. Thay
cho mẫu người hiền lành, nhẫn nại nhưng “lệ thuộc”, “thụ động” đang hình
thành những nhân cách mới năng động, chủ động, tích cực và sáng tạo trong lập
thân, lập nghiệp. Đó là những thanh niên mạnh dạn, tự tin, dám nghĩ, dám làm,

dám chấp nhận rủi ro và dám chịu trách nhiệm. Họ đang nỗ lực trong mọi hoạt
động lao động, học tập, nghiên cứu khoa học để làm giàu một cách chính đáng
cho bản thân, gia đình và xã hội. Sự cống hiến tài năng, trí tuệ và sức lực cho xã
hội thông qua hoạt động trên lĩnh vực chuyên môn của mình để khẳng định sự
trưởng thành về phẩm chất xã hội, đặc biệt là phẩm chất đạo đức. Đồng thời, đó
cũng là biểu hiện của sự phát triển nhân cách, tính cách của thanh niên. Thực tế
cho thấy, sự năng động, linh hoạt và sáng tạo của cá nhân nếu không dựa trên
những nền tảng những giá trị phẩm chất đạo đức sẽ không đưa đến sự hoàn thiện
và phát triển nhân cách. Thiếu sự rèn luyện theo các chuẩn mực đạo đức sẽ dẫn
đến sự lệch lạc, biến dạng về nhân cách như là một sự “tha hóa” mà biểu hiện đó
là chủ nghĩa cá nhân cực đoan, lối sống thực dụng, bất chấp luân thường đạo lí,
sẵn sàng chà đạp lên tất cả chỉ vì đồng tiền, địa vị và quyền lực cho riêng mình.
Nó là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội như tham
nhũng, quan liêu, buôn lậu, trốn thuế, cờ bạc, trộm cắp, ma túy, mại dâm… vì
vậy, đạo đức là một thành tố quan trọng, là nguồn lực nội sinh bảo đảm cho sự
phát triển bền vững.
Tại hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 5 khóa VIII Đảng ta nhấn mạnh:
“Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần xã hội. Theo nền tảng
tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển
kinh tế xã hội bền vững” [3; 55].
Nhân cách thanh niên được hình thành và phát triển trong lao động, học tập
và rèn luyện. Thông qua các hình thức hoạt động mà thanh niên nhận thức được
mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Động cơ thúc đẩy cá nhân
hoạt động là lợi ích của chính họ. Ngược lại, lợi ích cá nhân thực hiện bằng cách
chà đạp làm tổn hại đến lợi ích của người khác sẽ làm thanh niên tha hóa nhân
cách của họ.
Những tác động mạnh mẽ của những điều kiện kinh tế - xã hội trong giai
đoạn hiện nay, đặc biệt là tác động của cơ chế thị trường đã cho thấy: nếu chưa
thực sự trưởng thành về phẩm chất đạo đức, ý thức pháp luật, trình độ giác ngộ

về nghĩa vụ và trách nhiệm thì mỗi người nói chung và thanh niên nói riêng
chưa thể trở thành một nhân cách phát triển và hoàn thiện.
Kinh tế thị trường càng phát triển, sự nghiệp CNH, HĐH càng được đẩy
mạnh, quá trình hội nhập quốc tế càng được mở rộng và nền kinh tế tri thức hình
thành, con người càng trở nên thông minh, năng động hơn, học vấn cao hơn…
thì việc giáo dục đạo đức, rèn luyện những phẩm chất đạo đức là điều kiện, là cơ
sở cho sự phát triển toàn diện nhân cách. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn
mạnh vai trò của đạo đức và giáo dục đạo đức trong việc giáo dục và đào tạo
con người. Người coi: “Đạo đức là cái gốc của người cán bộ cách mạng”, “Đạo
đức là sức mạnh, có đạo đức thì mới có sức mạnh, nhờ đó người cách mạng mới
đi được xa”. Tuy công việc của mỗi người khác nhau nhưng ai giữ được phẩm
chất đạo đức là người cao thượng.
* Khái niệm giáo dục và giáo dục đạo đức
Giáo dục là hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các
biện pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ
năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp
hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích,
tiêu chuẩn cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội.
Giáo dục đạo đức là truyền lại cho thế hệ đang lớn lên những giá trị đạo
đức truyền thống. Trên cơ sở đó họ sẽ nhận thức được những giá trị đích thực
của cuộc sống hiện tại, đó là tính nhân bản, nhân ái và nhân văn sâu sắc. Giáo
dục đạo đức góp phần nhân đạo hóa môi trường sống của thanh niên, củng cố
những phẩm chất, những giá trị bền vững. Chẳng hạn, thông qua giáo dục chủ
nghĩa yêu nước mà hình thành nên niềm tự hào dân tộc, yêu hòa bình, độc lập,
tự do, sẵn sàng đấu tranh, hy sinh bảo vệ Tổ quốc và tôn trọng chủ quyền của
dân tộc khác.
Giáo dục đạo đức không chỉ hình thành những phẩm chất đạo đức mà gắn
liền với việc hình thành và phát triển tài năng. Tài và đức, phẩm chất và năng
lực là hai mặt không thể tách rời. Tài năng được khẳng định và phát triển trên cơ
sở đạo đức. Không có những phẩm chất, những giá trị đạo đức làm cơ sở làm

nền tảng thì tài năng khó đem lại những giá trị chân chính, thậm chí còn dẫn đến
những hành vi lệch lạc, phản đạo đức, gây tai họa cho người khác. Tài năng
được bộc lộ, được phát triển khi nó thực hiện có mục đích tích cực, chủ động,
sáng tạo, tạo ra những giá trị xã hội, với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao,
đó là sự biểu hiện về đạo đức. Đồng thời, người có đạo đức không chỉ thể hiện ở
thái độ, động cơ mà khẳng định ở kết quả, hành động, thống nhất giữa động cơ
và hiệu quả. Như vậy, đạo đức được thể hiện ở tài năng và tài năng phải dựa trên
cơ sở đạo đức.
Sự thống nhất giữa tài năng và đạo đức đã khẳng định tầm quan trọng của
giáo dục đạo đức, bao hàm cả sự phát triển về tài năng, thống nhất giữa phẩm
chất và năng lực là yêu cầu và biểu hiện của nhân cách phát triển toàn diện của
thanh niên hiện nay.
Tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho thanh niên thành phố Việt Trì
tỉnh Phú Thọ hiện được quy định bởi vai trò của đạo đức với sự hình thành và
phát triển nhân cách thanh niên. Đồng thời, việc giáo dục đạo đức cho thanh
niên thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ cần được quan tâm, chú trọng bởi đặc
điểm và vai trò của thanh niên thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội.
* Khái niệm thanh niên
Thanh niên là một khái niệm có thể hiểu và định nghĩa theo nhiều cách.
Tùy thuộc vào nội dung tiếp cận, góc độ nhìn nhận hoặc cấp độ đánh giá mà
người ta đưa ra những định nghĩa khác nhau về thanh niên.
Thứ nhất, thanh niên là một nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù có độ tuổi từ
14, 15 đến trên dưới 30 tuổi. Thanh niên dù xét ở bất cứ góc độ nào, phương tiện
nào cũng thuộc phạm trù con người, phạm trù xã hội. Họ là một lớp người, một
thế hệ sống trong cộng đồng xã hội với những đặc điểm chung, riêng trong quan
hệ với chính họ, với giai cấp và với xã hội.
Thứ hai, thanh niên là giai đoạn đang trưởng thành có khả năng phát triển
về trí tuệ và nhân cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển nhanh chóng về thể chất.
Đây là giai đoạn đầu của người lớn, là những năm tháng sung sức đẹp đẽ nhất

của đời người và cũng có những đặc điểm tâm sinh lý đặc trưng của lứa tuổi.
Thứ ba, thanh niên là đối tượng có mặt ở tất cả các vùng miền, các thành
phần kinh tế, xã hội. Tùy theo môi trường hoạt động và đặc điểm nghề nghiệp
mà thanh niên được phân thành nhiều nhóm khác nhau, các đối tượng xã hội
khác nhau: thanh niên nông thôn, thanh niên công nhân, thanh niên học sinh –
sinh viên, thanh niên trí thức, thanh niên dân tộc, thanh niên tôn giáo… Mỗi
nhóm này lại có đặc điểm nhu cầu, sở thích riêng, nguyện vọng riêng.
1.1.2. Tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho thanh niên thành phố Việt Trì
tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay
Sự nghiệp trồng người là một trong những vấn đề chiến lược của Đảng ta
nhất là đối với thanh niên – những chủ nhân tương lai của đất nước. Bác Hồ, vị
cha già kính yêu của dân tộc đã dạy rằng: “vì sự nghiệp mười năm thì phải trồng
cây, vì sự nghiệp trăm năm thì phải trồng người”. Bất cứ một quốc gia một chế
độ xã hội nào muốn tồn tại, phát triển đều phải quan tâm tới việc chăm lo, bồi
dưỡng, giáo dục thế hệ tương lai. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: tương lai của
dân tộc, tiền đồ của Tổ quốc và sự thắng lợi, phát triển của cách mạng phần lớn
phụ thuộc vào giáo dục thanh niên. Giáo dục đào tạo và bồi dưỡng về mọi mặt
cho thanh niên trong đó giáo dục đạo đức là bộ phận quan trọng, là yêu cầu
thường xuyên, liên tục trong chiến lược phát triển con người của Đảng ta. Yêu
cầu giáo dục đạo đức cho thanh niên thành phố Việt Trì nằm trong yêu cầu
chung của việc giáo dục đạo đức cho thanh niên.
Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo, nhằm xây dựng xã hội ta ngày càng giàu mạnh, tốt đẹp thì
chúng ta cần có nguồn lực con người phát triển toàn diện về mọi mặt: có trình
độ trí tuệ nhất định, được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, có năng lực trong
việc sáng tạo, tiếp thu và sử dụng những thành tựu khoa học, công nghệ hiện
đại, đồng thời phải có những phẩm chất đạo đức cần thiết. Trong đó, đạo đức là
nguồn gốc của con người, là vấn đề có ý nghĩa quyết định của việc xây dựng con
người mới. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh lần thứ VIII có nêu: “Người thanh niên trong thời kỳ CNH, HĐH đất

nước là người có lý tưởng và đạo đức cách mạng, có lối sống văn hóa; có ý chí
tự tôn, tự cường dân tộc, có trình độ học vấn, giỏi về chuyên môn, nghề nghiệp;
có sức khỏe tốt; có năng lực tiếp cận và sáng tạo công nghệ mới, có ý chí chiến
thắng nghèo nàn và lạc hậu, phấn đấu cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” [7; 39].
Đạo đức là một giá trị văn hóa tồn tại trong tất cả quan hệ và hoạt động của
con người. Giáo dục đạo đức, một trong những con đường, cách thức cơ bản, là
yêu cầu bức thiết để hình thành phẩm chất mới cho thanh niên trong xã hội hiện
đại.
Hiện nay, Đảng và nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, bên cạnh mặt tích cực cần được khẳng định, bản thân nền
kinh tế thi trường cũng bộc lộ nhiều khuyết tật của nó. Trong đó có nguy cơ phát
triển một thế hệ con người mới phiến diện, chỉ coi trọng đời sống vật chất mà
xem nhẹ đời sống tinh thần, lợi ích cá nhân được đặt trên lợi ích của cộng đồng,
tính ích kỷ, sự bon chen, cạnh tranh không lành mạnh nảy sinh và ngày càng phổ
biến. Giá trị đạo đức bị phai nhạt, lý tưởng cách mạng bị lu mờ…
Sự phát triển của khoa học công nghệ đã tạo ra các phương tiện lao động và
tiện nghi sinh hoạt hiện đại, tiện lợi mà thanh niên là lớp người tiếp thu, nắm bắt
và sử dụng các phương tiện này một cách nhanh chóng. Điều đó có nguy cơ làm
cho các mối quan hệ của họ với xã hội, với cộng đồng bị thu hẹp lại, cuộc sống
tinh thần trở nên đơn điệu, nghèo nàn hơn.
Trong bối cảnh ấy, giáo dục đạo đức với chức năng của nó sẽ tạo lập sự hài
hoà, cân đối giữa đời sống vật chất và tinh thần, giữa con người với con người,
giữa con người với tự nhiên, hướng họ tới những cái tốt đẹp mang tính nhân văn
và nhân đạo. Giáo dục đạo đức nhằm năng cao ý thức đạo đức, xây dựng tình
cảm đạo đức lành mạnh, trong sáng và điều chỉnh hành vi đạo đức, trang bị cho
tuổi trẻ hành trang bước vào cuộc sống mới. Đó là sức đề kháng trước mọi tác
động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường.
Nhận rõ tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho thanh niên và vai trò
của thanh niên đối với sự phát triển xã hội, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X

của Đảng khẳng định: “Đối với thế hệ trẻ, thường xuyên giáo dục chính trị,
truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải
trí, phát triển thể lực, trí tuệ, góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Từ thực tế tình hình đạo đức của thanh niên thành phố Việt Trì, bên cạnh
những thành tích đạt được trên các lĩnh vực mà thanh niên Việt Trì đã, đang và
sẽ tiếp tục phát huy góp phần đưa đất nước ngày một phát triển, thì vấn đề đạo
đức của thanh niên nói chung và thanh niên ở Việt Trì nói riêng hiện nay đang
đặt ra những vấn đề mang tính thời sự, mà các cấp, các ngành cần phải quan tâm
hơn nữa. Do vậy, việc giáo dục đạo đức cho thanh niên, đội quân hùng hậu của
hiện tại và chủ nhân tương lai của đất nước với những nội dung thiết thực, phù
hợp có tầm quan trọng và mang tầm chiến lược của Đảng và Nhà nước ta.
1.2. Nội dung giáo dục đạo đức cho thanh niên thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ
trong giai đoạn hiện nay
Thanh niên vừa là một phạm trù lứa tuổi, vừa như một phạm trù xã hội học,
có đặc trưng trưởng thành sớm về mặt tâm sinh lý, song còn hạn chế về khả
năng và kinh nghiệm sống để tham gia có trọng lượng, có uy tín vào các thiết
chế xã hội để xây dựng và phát triển đất nước. Sự tự ý thức trong thanh niên
thường mang tính cực đoan đôi khi còn mang tính xung đột, thiếu ổn định về
nhân cách, lý tưởng và niềm tin, trong nhiều thanh niên còn thiếu tính tích cực
xã hội. Việc giáo dục cho thanh niên nói chung và thanh niên Việt Trì nói riêng
là việc làm cần thiết đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đạo đức bao hàm nhiều nội dung, song với đặc thù ở Việt Trì cũng như
những mặt hạn chế của việc giáo dục đạo đức cho thanh niên thành phố Việt Trì
bước đầu có thể đề xuất một số nội dung giáo dục đạo đức như sau:
Một là, giáo dục đạo đức truyền thống cho thanh niên.
Thành phố Việt Trì là vùng đất được coi là vùng đất địa linh vì đây là nơi
đã được các vua Hùng chọn làm nơi dựng nên kinh đô Văn Lang – kinh đô đầu
tiên của nước Việt Nam ta. Là vùng đất có nền văn hóa giàu bản sắc, có truyền
thống yêu nước và truyền thống cách mạng. Thế hệ thanh niên thành phố Việt
Trì hiện nay có vinh dự được thừa kế những giá trị văn hóa tinh thần to lớn ấy

mà biết bao thế hệ cha anh họ đã tạo nên.
Thanh niên Việt Trì hiện nay là thế hệ được sinh ra, lớn lên và trưởng thành
trong hòa bình, thống nhất đất nước, họ không trực tiếp chứng kiến những biến
cố lịch sử to lớn. Họ không hiểu thấu đáo những mất mát trong chiến tranh….
Chính vì vậy, việc giáo dục, nâng cao đạo đức cho thanh niên Việt Trì về lịch sử
về truyền thống cách mạng mà cha anh họ đã tạo dựng là nhiệm vụ rất cơ bản và
quan trọng nhằm năng cao lòng tự hào dân tộc, bồi đắp thêm cho hành trang tuổi
trẻ trươc yêu cầu, nhiệm vụ mới. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Đảng ta khẳng định: “Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu
quốc tế, phải đặc biệt giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và
phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc” [2;
111].
Những giá trị đạo đức truyền thống như lòng yêu nước, lòng nhân ái, thủy
chung, yêu lao động, đức tính siêng năng cần cù thông minh sáng tạo trong lao
động sản xuất, ý thức cộng đồng, tình nghĩa…. Là những giá trị nhân văn mang
tính ổn định tương đối được lưu truyền qua các thế hệ, thể hiện trong các chuẩn
mức phổ biến và cơ bản để điều chỉnh và đánh giá hành vi đạo đức của các cá
nhân.
Tình yêu quê hương, yêu đất nước là những giá trị đạo đức xuyên suốt quá
trình lịch sử của dân tộc Việt Nam. Là một trong những nguyên tắc của đạo đức
mới. Khái quát lịch sử Việt Nam nhiều thế kỷ qua, tại Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam ngày 11/02/1951 Hồ Chí Minh
nói: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta.
Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết
thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó vượt qua tất cả bè lũ bán nước
và lũ cướp nước” [11; 171].
Trong các cuộc kháng chiến giữu nước trước đây, lòng yêu nước được thể
hiện tập trung cao nhất ở những hành động dũng cảm, sự hy sinh cho cuộc đấu
tranh giành độc lập dân tộc. Ngày nay, trong xây dựng và phát triển đất nước
theo dịnh hướng CNH, HĐH, việc phát huy lòng yêu nước chính là nhằm mục

tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Yêu nước
phải gắn liền với ý chí tự lực, tự cường, sự nỗ lực trong học tập, lao động, sáng
tạo trong tư duy và hành động nhằm phát huy mọi tiềm năng để chiến thắng đói
nghèo, lạc hậu, nhân dân được ấm no, hạnh phúc, thực hiện quyền bình đẳng và
độc lập dân tộc, vươn lên ngang tầm thời đại.
Lòng nhân ái, bao dung là một giá trị truyền thống đặc sắc và vô cùng quý
báu thể hiện đạo lý làm người của con người đất tổ. Con người Việt Trì vốn có
đặc điểm nồng nhiệt, hiếu khách, dễ đồng cảm, chia sẻ với người khác. Đó là cơ
sở của chủ nghĩa nhân đạo, thống nhất với mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta
theo tư tưởng Hồ Chí Minh là làm cho mọi người đều có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành, xã hội công bằng và văn minh. Ngày nay, việc khuyến
khích cái thiện phải gắn liền với việc ngăn chặn cái ác. Tình yêu con người gắn
với sự căm thù, phẫn nộ và đấu tranh chống lại mọi sự nô dịch con người. Nó
thể hiện sự quan tâm tới sự bất hạnh của người khác, biết đau nỗi đau nhân loại.
Trong giai đoạn hiện nay, giá trị truyền thống ấy càng được phát huy và thể hiện
tới cao độ bằng những việc: từ thiện, nhân đạo, quyên góp giúp đỡ các đối tượng
đặc biệt khó khăn… mà xã hội ta vẫn đang phát động.
Với đặc điểm tâm sinh lý của tuổi trẻ, thanh niên dễ dàng tiếp thu cái mới
mà quên đi quá khứ và khả năng chịu sự hướng dẫn, lôi cuốn cái mới, hiện đại
hơn là truyền thống. Đặc biệt có những thanh niên nhiễm nặng tư tưởng sùng
ngoại, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân theo kiểu phương Tây, các giá trị
hiện đại lấn át giá trị truyền thống, giá trị trước mắt trội hơn giá trị lâu dài, lợi
ích cá nhân coi trọng hơn lợi ích Tổ quốc, tập thể, cộng đồng. Nhiều cách sống,
ứng xử trái với đạo lý truyền thống tốt đẹp, những phong tục, tập quán của quê
hương, của dân tộc. Trong bối cảnh xã hội bùng nổ thông tin hiện nay, sự đan
xen giữa giá trị thật, với các giá trị giả đang làm nhiều thanh niên mất định
hướng, sống gấp, hưởng thụ mà không có ý thức và thời gian so sánh, nhận biết
giá trị truyền thống. Vì thế càng đi vào hiện đại, càng hội nhập với khu vực và
thế giới thì càng phải giáo dục thanh niên phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, biết
gạn đục khơi trong, nâng niu, trân trọng và giữ gìn những giá trị truyền thống,

có thái độ tôn trọng và biết ơn sự hy sinh của các thế hệ cha anh đi trước vì độc
lập, tự do cho dân tộc, vì hạnh phúc và tương lai của các thế hệ mai sau. Biết
làm giàu tri thức của bản thân bằng trí tuệ, tinh hoa văn hóa của nhân loại nhưng
không bao giờ lãng quên cội nguồn, thờ ơ với truyền thống.
Như vậy, giáo dục đạo đức truyền thống hình thành trong thanh niên tình
cảm yêu quê hương, đất nước, trung thành với Tổ quốc và dân tộc, giúp thế hệ
trẻ ở Việt Trì vượt qua những cám dỗ vật chất tầm thường do tác động tiêu cực
của nền kinh tế thị trường và những phản văn hóa giá trị ngoại lai trong quá
trình thực hiện chính sách mở cửa là vấn đề cần thiết và cấp bách hiện nay. Chỉ
trên cơ sở giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống dân tộc, con người mới đủ
bản lĩnh để đứng vững trước sự đảo lộn định hướng giá trị, coi tiền bạc, địa vị xã
hội và sự giàu sang vật chất là giá trị mục đích mà xem thường các giá trị tinh
thần, chuẩn mực đạo đức.
Hai là, giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên.
Trong cuộc sống của mình, con người không thể sống mà không có lý
tưởng.
Lý tưởng vừa là mục tiêu cao cả con người hướng tới, vừa là động lực thôi
thúc con người hành động để thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích. Nếu như mất lý
tưởng con người sẽ cảm thấy mình mất phương hướng, thiếu niềm tin trong cuộc
sống. “Lý tưởng của con người sẽ làm cho họ có thái độ tích cực trong nhận
thức, nồng nhiệt trong tình cảm, mãnh liệt trong ý chí, quyết tâm trong hành
động” [13; 3]. Không có lý tưởng và niềm tin thì làm sao có đức hy sinh và lòng
dũng cảm; sự cao thượng và lòng vị tha; dám nghĩ, dám làm, dám chấp nhận khó
khăn, gian khổ…nghĩa là không thể hình thành, phát triển những giá trị đạo đức,
những giá trị nhân cách cho thanh niên.
Lý tưởng chưa phải là cái hiện thực, lý tưởng đó là mục đích cao nhất, tốt
đẹp nhất, là hình ảnh mẫu mà người ta phấn đấu đạt tới. Đối với chúng ta, lý
tưởng không phải là ảo tưởng, không phải điều xa vời mà bắt nguồn từ cuộc
sống. Lý tưởng đó được xây dựng trên cơ sở thế giới quan khoa học, là sự thống
nhất giữa khoa học và niềm tin, giữa lý trí và tình cảm. Để hình thành lý tưởng

cho mình mỗi thanh niên phải biết phân tích, đánh giá, lựa chọn, khái quát hóa
hiện thực để xây dựng cho mình một hình ảnh mẫu mực cần vươn tới. Tất nhiên
hình ảnh đó phải phù hợp với xu thế phát triển của cuộc sống, của thời đại, với
các chuẩn mực đạo đức xã hội.
Nếu xác định lý tưởng đúng đắn, cao đẹp người thanh niên sẽ trở thành một
nhân cách có ích cho xã hội, gia đình và chính bản thân mình.
Ý nghĩa cuộc sống của mỗi người, nhất là lớp trẻ không chỉ bị bó hẹp trong
đời sống riêng tư mà phải vươn lên, gắn mình với xã hội, quan tâm tới mọi
người, tới Tổ quốc, tới nhân dân trở thành lý tưởng và hoài bão lớn. Lý tưởng
cách mạng của thanh niên Việt Nam ngày nay là: “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội”, phấn đấu vì một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng và văn minh” vững bước đi lên CNXH ngay trên mảnh đất quê hương
mình. Đây là một lý tưởng vừa cao đẹp, vừa khoa học.
Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên có nhiều nội dung.
Trước hết, giáo dục nhận thức để giác ngộ lý tưởng, giúp họ hiểu lý tưởng
đó cao đẹp như thế nào, xây dựng cho họ niềm tin vào CNXH và lý tưởng cách
mạng, biết biến lý tưởng thành hiện thực, biết cụ thể hóa lý tưởng sống của mình
trong học tập, lao động và sinh hoạt.
Thứ hai, giáo dục tình cảm cách mạng, giáo dục lòng tin yêu đối với Đảng,
với giai cấp công nhân, với nhân dân lao động, với chế độ xã hội chủ nghĩa,…
Việc giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên hiện nay cần kết hợp
những giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại. Lý
tưởng cách mạng phải được củng cố bằng niềm tin vào hiện thực tốt đẹp của dân
tộc.
Truyền thụ lý tưởng cách mạng cho thanh niên không chỉ nhằm giúp họ
lĩnh hội được các giá trị văn hóa, lịch sử, hình thành và phát triển nhân cách theo
yêu cầu mục tiêu của giáo dục mà còn phải nuôi dưỡng, bồi đắp cho thanh niên
lòng nhiệt tình cách mạng và phương pháp cách mạng, nhất là những hiểu biết,
tiếp cận vấn đề mới trong cuộc sống. Chúng ta coi việc giáo dục lý tưởng cách
mạng là là một trong những nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của giáo dục đạo đức, là

cơ sở, nền tảng để phát triển nhân cách con người Việt Nam nói chung và thanh
niên nói riêng. Nhận thức được vấn đề này thanh niên bằng tất cả nhiệt tình, ý
chí, tài năng, trí tuệ họ lấy phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân làm lẽ sống
cao quý của mình.
Ba là, giáo dục lối sống văn hóa cho thanh niên.
Thanh niên luôn là lớp người đi đầu trong công cuộc xây dựng và phát triển
đất nước, họ là chủ nhân tương lai của nước nhà, là nguồn hạnh phúc của mọi
gia đình và xã hội. Trong công cuộc đổi mới đất nước, thực tiễn có nhiều biến
đổi thì lực lượng thanh niên cần được quan tâm nhiều hơn nữa. Quan tâm tới
thanh niên cần phải quan tâm tới lối sống của họ. Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII đã đề cập: “Nổi lên trước hết ở nhận thức – tư tưởng đạo đức và lối sống”
[3; 46]. Vì vậy, giáo dục lối sống cho thanh niên nói chung và thanh niên thành
phố Việt Trì nói riêng là điều rất cần thiết.
Lối sống, nếp sống văn hóa của thanh niên hình thành trên cơ sở tâm lý,
nhu cầu của giới trẻ, được phát triển từ môi trương xã hội đổi mới – đó là thứ
văn hóa trẻ. Những yêu cầu về phát triển học vấn, tri thức nghề nghiệp, về lý
tưởng, đạo đức, nhân cách tốt đẹp của xã hội chi phối toàn bộ đời sống của
thanh niên. Nhìn chung thanh niên đang hướng tới các giá trị được coi trọng là:
độc lập, tự do và hạnh phúc, ấm no cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên, nước ta
hiện nay đang trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
rộng rãi cùng với sự bùng nổ thông tin và kinh tế, những hoạt động hội nhập và
giao lưu quốc tế cũng đang tác động và có ảnh hưởng sâu sắc trong quan niệm,
lối sống và các quan hệ xã hội của thanh niên. Đồng thời, sự biến đổi của thang
giá trị xã hội cũng ảnh hưởng rất lớn đến lối sống của thanh niên. Có những biến
đổi về quan hệ ứng xử, định hướng giá trị từ gia đình, lại có những biểu hiện tiêu
cực trong xã hội phát triển nhanh mà chưa có cách ngăn chặn, trong lối sống của
một số người lớn tuổi, đã thực sự trưởng thành, có vị trí trong xã hội còn những
biểu hiện chưa gương mẫu cho con em họ noi theo như tham nhũng, sống xa
hoa, trụy lạc, cá nhân vị kỷ. Lối sống cá nhân vị kỷ hiện nay cũng là điều đáng
bàn ở thanh niên. Nhiều thanh niên trong học tập, trong công tác luôn đặt quyền

lợi của mình lên trên quyền lợi của mọi người và để đạt được mục đích cho
riêng mình họ đã làm bất cứ điều gì dù điều đó có hại cho người khác. Triết lý
sống chỉ biết đến mình, sống ích kỷ, sống vô trách nhiệm trước tập thể và cộng
đồng, lối sống như vậy sẽ ăn mòn dần dần đạo lý sống đã được xây dựng trên
nền tảng của cái thiện, đẩy con người rơi vào tình trạng tha hóa bản thân.
Các cơ quan văn hóa nghệ thuật, các thiết chế văn hóa còn chưa làm tốt
chức năng của mình, thậm chí trên một số báo chí, phim ảnh còn có không ít
những nội dung thiếu lành mạnh ảnh hưởng tiêu cực đến lối sống thanh niên.
Bên cạnh đó, công tác quản lý thanh niên ở nhà trường, trong gia đình, ngoài xã
hội và trong các tổ chức của thanh niên còn chưa chặt chẽ, chưa thực sự có sức
thuyết phục, chưa hấp dẫn đông đảo các tầng lớp thanh niên. Tất cả những điều
đó đều ảnh hưởng và tác động làm biến đổi lối sống của thanh niên, dẫn đến
những biểu hiện thiếu văn hóa trong lối sống của họ. Do vậy, cần phải làm rõ
những thông tin tích cực và tiêu cực, những văn hóa phẩm giá trị và phản giá trị,
những lối sống đẹp và lối sống trụy lạc để đấu tranh loại bỏ ảnh hưởng xấu, giúp
thanh niên có ý thức, tri thức và năng lực trong đấu tranh để xây dựng một đời
sống có văn hóa tinh thần phong phú và cao đẹp phù hợp với xã hội Việt Nam
trong thời kỳ CNH, HĐH.
Vì vậy, việc giáo dục đạo đức lối sống giúp cho thanh niên sớm nhận thức
đúng, có thái độ đấu tranh tích cực chống lại mọi thái độ vị kỷ, những cách sống
toan tính cá nhân, tự do buông thả, thiếu kỷ cương hành vi vô pháp luật, đan xen
trong cách sống của thanh niên, đôi khi tạo xung đột với lối sống tốt đẹp của xã
hội hiện đại, một số lối sống tiêu thụ và nhất thời do ảnh hưởng mặt trái của
kinh tế thị trường và phản văn hóa của phương Tây du nhập, xa lạ với những giá
trị truyền thống cao đẹp của dân tộc, và của đại đa số thanh niên đang tích cực
hiện thực hóa các nghị quyết của Đảng xây dựng đất nước giàu đẹp, xã hội công
bằng dân chủ, văn minh.
Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa VIII đã nhấn
mạnh các hoạt động văn hóa phải: “Quan tâm, giáo dục lý tưởng, đạo đức và lối
sống có nghĩa là bồi dưỡng cho lớp trẻ một thái độ sống đúng đắn, không dung

thứ lối sống thực dụng, sung bái vật chất, ích kỷ ăn bám, chạy theo danh vọng.
Phải có thái độ đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác với các tệ nạn
xã hội là một trong những phẩm chất tiêu biểu của một lối sống lành mạnh, sống
có trách nhiệm với mình và với chính cộng đồng”. Như vậy, giáo dục đạo đức
lối sống cho thanh niên nói chung và thanh niên ở Việt Trì nói riêng đang là đòi
hỏi khách quan và cũng là một trong những nội dung cơ bản của giáo dục đạo
đức trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, đào tạo họ trở thành nguồn nhân lực
không chỉ đông về số lượng, trẻ, khỏe, mà còn có chất lượng cao trở thành con
người có văn hóa biết phát huy khả năng sáng tạo và nhân lên những ưu thế vốn
có của thế hệ thanh niên góp phần hình thành nhận thức đúng đắn, thái độ tích
cực và những hành vi đúng mực để hướng tới lối sống cao đẹp, sống văn minh,
giữu gìn và phát triển bản sắc văn hóa, đạo đức, lối sống dân tộc, tự đề kháng, tự
miễn dịch của lối sống ngoại lai, lối sống làm hạ phẩm giá của con người, cũng
như lối sống ích kỷ, sùng bái đồng tiền, ảnh hưởng của những mặt trái của cơ
chế thị trường. Đó không chỉ là ước mơ mà còn là yêu cầu của nhân loại hiện
nay, ngày mai và cả tương lai.
Bốn là, giáo dục thái độ lao động cho thanh niên.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn xác định vai trò to lớn của lao động đối với sự tồn tại và phát triển của xã
hội loài người. Chính Ph.Ăngghen đã từng viết: “Lao động là điều kiện cơ bản
đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý
nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người”
[19; 641].
Hồ Chí Minh dạy rằng: “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống,
nguồn hạnh phúc của chúng ta”. Trong mỗi con người đặc biệt là thế hệ trẻ,
đang lớn lên cần phải ý thức rằng: lao động sinh ra con người không chỉ vì lao
động là phương tiện để tồn tại mà còn là điều kiện thực hiện nhu cầu sáng tạo, là
sự biểu hiện bản chất người của con người và do đó lao động là sự thực hiện
hạnh phúc cao nhất của con người.
Giá trị đạo đức của lao động là ở chỗ, thông qua lao động có ích mà con

người biết sống và cần phải sống bằng lao động trung thực của mình. Với lao
động, con người không những không gây trở ngại cho sự tồn tại của người khác
mà còn có điều kiện giúp đỡ người khác và đóng góp cho xã hội, góp phần đem
lại hạnh phúc cho mọi người. Sự thấu hiểu, cảm thông giữa những con người
trong lao động là cơ sở hình thành những xúc cảm, tình cảm đạo đức, trong đó
có tình cảm nghĩa vụ và tình cảm đạo đức như trách nhiệm, sự tận tụy cũng như
niềm tự hào đối với công việc của mình. Những xúc cảm và tình cảm đạo đức là
động lực thúc đẩy chủ thể đạo đức thực hiện hành vi đạo đức nhằm sáng tạo ra
những giá trị đạo đức, nó tạo ra sự hứng thú và niềm say mê sáng tạo, là yếu tố
đem lại hiệu quả cao trong hoạt động của chủ thể. Do vậy, cần hình thành thái
độ lao động tự giác, lao động có kỷ luật và đạt năng suất cao.
Thanh niên Việt Trì hiện nay chiếm hơn 50% lực lượng lao động, đây là
nguồn lực thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH; với họ được lao động là động lực để
rèn luyện và phát triển. Tuy nhiên, rất ít thanh niên ý thức được vấn đề này nên
dẫn đến lười lao động, ý thức và tinh thần lao động kém, không cống hiến hết tài
năng, sức lực và trí tuệ của mình trong công tác, học tập và lao động sản xuất,
chỉ quen hưởng thụ mà không muốn làm việc. Đặc biệt, đối với đối tượng thanh
niên nông thôn, họ quen làm việc trong môi trường tự do, không phải chịu sự
quản lý của tổ chức nên họ thích thì làm không thích thì chơi, việc hôm nay
không làm để ngày mai, công việc đơn giản không yêu cầu đến trình độ, kỹ
thuật. Chính vì thế, khi nhập cuộc với công việc yêu cầu về trình độ, kỷ luật,
thời gian, dưới sự quản lý của tổ chức… họ đã không đáp ứng được yêu cầu dẫn
đến tình trạng đi muộn về sớm, chậm chễ trong công việc, vô tổ chức, vô kỷ
luật. Trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, xu thế hội nhập quốc tế chúng ta
cần phải khắc phục tình trạng này để đảm bảo thời gian lao động cũng như việc
thực hiện kỷ cương, nguyên tắc làm việc đáp ứng yêu cầu đặt ra trong một xã
hội CNH, HĐH.
Tóm lại, đạo đức là một yêu cầu cơ bản, là tiêu chí và là nền tảng trong sự
phát triển nhân cách thanh niên. Đó là thành phần nòng cốt trong cấu trúc nhân
cách của con người nói chung và thanh niên nói riêng. Đạo đức không phải là

cái sẵn có, không hình thành một cách tự phát mà thông qua giáo dục, rèn luyện.
Vì vậy, giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Trì với sự cần thiết và nội
dung cụ thể là thiết thực và phù hợp với thanh niên trong giai đoạn hiện nay.













CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN THÀNH PHỐ
VIỆT TRÌ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Những nhân tố tác động đến việc giáo dục đạo đức cho thanh niên thành
phố Việt trì tỉnh Phú thọ hiện nay
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, mối quan hệ với tồn tại
xã hội, là cái phản ánh tồn tại xã hội. Vì vậy, khi nghiên cứu và giải quyết các
vấn đề đạo đức cũng như việc giáo dục đạo đức xã hội phải gắn với tác động của
điều kiên tự nhiên, điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội.
Việt Trì là thành phố trực thuộc tỉnh Phú Thọ, nằm ở phía đông của tỉnh,
bên tả ngạn sông Hồng, nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội là 70km về phía Tây
Bắc, cách thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc là 25km về phía Tây. Thành phố
Việt Trì có diện tích tự nhiên là 106,36 km

2
và dân số là 270.165 người (năm
2011).
Nằm ở Ngã ba Hạc, nơi có con sông Thao đổ nước phù sa hợp lưu với
dòng sông Lô và sông Đà xanh biếc, đối diện với huyện Ba Vì, Hà Nội. Vì thế,
Việt Trì còn được biết đến với cái tên thân thương: thành phố Ngã ba sông.
Địa giới hành chính của Việt Trì như sau : phía bắc giáp huyện Phù Ninh,
phía Tây và Tây Nam giáp huyện Lâm Thao, phía nam giáp huyện Ba Vì – Hà
Nội, phía Đông giáp các huyện Lập Thạch, Vĩnh Tường (tỉnh Vĩnh Phúc).
Các điểm cực của thành phố Việt Trì gồm:
- Cực Bắc: xóm Dầu – xã Kim Đức (tp. Việt Trì).
- Cực Tây: xóm Vàng – xã Chu Hóa (tp. Việt Trì).
- Cực Nam: Khu Mộ Chu Hạ - phường Bạch Hạc (tp. Việt Trì).
- Cực Đông: xóm Vinh Quang – xã Sông Lô (tp. Việt Trì).
Tọa độ địa lý: 21
o
18’ Bắc
105
o
26’ Đông
Ở vị trí này, thành phố nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có một
mùa đông lạnh sâu sắc với trên ba tháng nhiệt độ dưới 18
o
c, nét đặc trưng của
Miền Bắc Việt Nam. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23
o
c. Lượng mưa trung
bình trong khoảng 1.600 – 1.800 mm, độ ẩm trung bình trong năm tương đối
lớn, khoảng 85 – 87%. Lượng mưa lớn, ánh sáng dồi dào là một trong những
điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông, lâm, ngư nghiệp.

Với vị trí cửa ngõ nối liền các tỉnh vùng núi Tây Bắc với các tỉnh thuộc
đồng bằng Bắc Bộ và các tỉnh miền núi Trung Bộ, Việt Trì là một thành phố
thuận lợi với hệ thống giao thông như quốc lộ 2 nối thủ đô Hà Nội với các tỉnh
thuộc tiểu vùng Tây Bắc, đồng thời còn có tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai
chạy qua nơi này. Ngoài ra còn có quốc lộ 32 chạy qua thành phố, có đường
thủy trên sông Hồng và cảng Việt Trì.
Điều kiện tự nhiên của thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ có nhiều thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Chẳng hạn, với vị trí địa lí của thành
phố Việt Trì việc giao lưu với các tỉnh trong nước trở nên dễ dàng. Chính vì vậy,
con người nơi đây sống thân thiện, cởi mở, chan hòa. Đó là điều kiện để tiếp thu
cái mới, cái hay, cái đẹp trong quá trình giao lưu hội nhập. Đồng thời, nó cũng
chịu tác động của những cái xấu, cái lạ và rất dễ thay đổi do những tác động
khác nhau.
Việt Trì thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có một mùa đông lạnh rõ
rệt, chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa Đông Bắc từ phương Bắc tràn về, do
đó vào mùa đông thời tiết khá khó khăn cho hoạt động sản xuất cũng như cuộc
sống của con người.
Diện tích của thành phố Việt Trì chủ yếu là vùng đồng bằng, chỉ có một số
phường và các xã ven thành phố là có địa hình trung du. Nằm ở trung tâm của
tỉnh cho nên Việt Trì có nhiều điều kiện phát triển về mọi mặt kinh tế, xã hội,
văn hóa… Các xã, phường có địa hình miền núi có điều kiện phát triển kinh tế
lâm nghiệp, trồng rừng như xã Chu Hóa, Thanh Đình, Hy Cương.
Tóm lại, thiên nhiên Việt Trì đa dạng, phong phú, muôn hình, muôn vẻ tạo
cho con người nhiều điều kiện thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn trong
quá trình sử dụng cải tạo và chinh phục tự nhiên để tồn tại và phát triển kinh tế -
xã hội.
Cuộc đấu tranh giữa con người với tự nhiên ở bất kỳ đâu cũng vậy, đều là
cuộc đấu tranh gay gắt và con người ở quê hương đất tổ cũng không nằm ngoài
quy luật đó. Nhưng chính qua cuộc đấu tranh ấy đã góp phần hun đúc nên tinh
thần lao động cần cù, sáng tạo, chịu thương chịu khó, ý chí tự lực, tự cường, tình

yêu con người với con người, con người với tự nhiên…. Chính đây là môi
trường tự nhiên đã góp phần tạo nên ý chí, bản lĩnh nghị lực và nhiều phẩm chất
tốt đẹp cũng như những mặt còn hạn chế của con người và tuổi trẻ Việt Trì.
2.1.2. Truyền thống lịch sử, văn hóa
Khu vực nằm trong địa giới Việt Trì ngày nay được coi là kinh đô đầu tiên
của quốc gia Văn Lang với các triều đại vua Hùng cách đây trên 4000 năm, biểu
hiện qua những di chỉ khảo cổ nổi tiếng tại làng Cả (phường Thọ Sơn) và khu di
tích lịch sử Đền Hùng. Hằng năm cứ đến ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch, hàng
triệu người dân Việt Nam lại hành hương và hướng về đất Tổ với lòng tôn kính.
Hiện nay khu di tích lịch sử đặc biệt Đền Hùng đang được đầu tư và tôn tạo, trở
thành một trung tâm văn hóa, du lịch của thành phố Việt Trì.
Thành phố Việt Trì được thành lập vào ngày 4 tháng 6 năm 1962 bao gồm
diện tích tự nhiên của toàn bộ thị xã Việt Trì cũ và 4 xã Minh Khai, Tân Dân,
Lâu Thượng, Minh Phương (trừ xóm Minh Phú) của huyện Hạc Trì.
Ngày 10 tháng 7 năm 2008, toàn bộ diện tích tự nhiên là 454,08 ha và dân
số 2.701 người của xã Tân Đức, thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây cũ được sáp
nhập vào thành phố Việt Trì, theo nghị quyết của kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa
XII về điều chỉnh địa giới hành chính giữa tỉnh Hà Tây cũ và tỉnh Phú Thọ.
Việt Trì đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử trong tiến trình phát triển của
dân tộc. Những di chỉ khảo cổ văn hóa Sơn Vi, Đồng Đậu, Làng Cả và nhiều
đình chùa, lăng, tẩm còn lại xung quanh vùng núi Nghĩa Lĩnh cho thấy Việt Trì
là một trung tâm văn hóa của dân tộc Việt.
Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, kế thừa truyền thống quê hương anh hùng, nhân dân Việt Trì một lòng
dốc hết sức lực cùng với nhân dân cả nước đấu tranh giành độc lập cho nước
nhà. Những trang sử hào hùng đã ghi lại chiến công của con người nơi đây trong
sự nghiệp bảo vệ đất nước.
Trong giai đoạn hòa bình thống nhất, những con người đất tổ đã không
ngừng đem tài năng và sức lực của mình góp phần làm giàu mạnh quê hương,
đất nước. Với nhiều tấm gương đoàn viên thanh niên hoàn thành tốt nhiệm vụ,

thực hiện tốt cuộc vận động “Tuổi trẻ Đất tổ học tập và làm theo lời Bác”, tạo sự
chuyển biến rõ ràng trong nhận thức và việc làm của mỗi thanh niên, tiêu biểu
như: Đặng Thanh Hà, Trần Ngọc Tâm, Nguyễn Quốc Toàn…
Việt Trì nói riêng và Phú Thọ nói chung có kho tàng văn hóa dân gian quý
báu với lễ hội Đền Hùng (mùng 10 tháng 3 âm lịch), hát Xoan hát Ghẹo – được
công nhận là di sản văn hóa phi vật thể vào tháng 11 năm 2011, lễ hội rước ông
Khiu bà Khiu (xã Thanh Đình), hội Chu Hóa (xã Chu Hóa),… Trên địa bàn
thành phố còn có một số làng nghề như: làng làm bún Hùng Lô (xã Hùng Lô) đã
được ủy ban nhân dân tỉnh công nhận là làng nghề truyền thống. Về ẩm thực,
nơi đây cũng có rất nhiều sản vật quý hiếm không chỉ được biết đến trong những
câu chuyện truyền thuyết như Sơn Tinh Thủy Tinh hay bánh trưng bánh dày.
Ngày nay vẫn có những sản vật được coi là quý hiếm như: cá anh vũ – loài cá
chỉ có trên sông Thao, hồng hạc – loại hồng không hạt quả to mọng xưa được
coi là sản vật quý hiếm đứng đầu trong hàng ngũ quả dâng lên vua… Tất cả
những truyền thống tốt đẹp, những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể mà ông
cha chúng ta đã dày công xây dựng, gìn giữ cho tới ngày nay vẫn được nhân dân
Việt Trì nói riêng và nhân dân đất tổ nói chung phát huy tới cao độ, tạo nên sức
mạnh và điểm tựa vững chắc, là động lực khích lệ tuổi trẻ Việt Trì trong hòa
bình bằng tài năng, sức lực của mình vững vàng chiếm lĩnh những đỉnh cao về
khoa học, công nghệ, văn hóa, đạo đức, cùng nhau thắng nghèo nàn, lạc hậu xây
dựng quê hương giàu mạnh.
2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
Tổng dân số của Việt Trì là 270,165 nghìn người (6/2011) với thành phần
dân tộc chủ yếu là người Kinh. Mật độ dân số trung bình: 2538,5 người/km
2

(năm 2011). Về tổ chức hành chính gồm 13 phường, 10 xã. Ngoài ra, thành phố
còn là nơi có quy mô diện tích tương đối so với các huyện và thị xã trong tỉnh,
có địa hình tương đối bằng phẳng thuận lợi cho phát triển kinh tế.
Việt Trì là một trong những thành phố công nghiệp đầu tiên của miền Bắc

Việt Nam. Thành phố có nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp, nông nghiệp,
thương nghiệp và dịch vụ. Các nghành công nghiệp phát triển gồm có: hóa chất,
giấy, may mặc….
Trên địa bàn thành phố hiện nay tập trung nhiều nhà máy, xí nghiệp, công
ty có quy mô sản xuất lớn, hằng năm đóng góp một lượng lớn nguồn ngân sách
của tỉnh và giải quyết việc làm cho nhiều lao động. Một số nhà máy, công ty tiêu
biểu như: nhà máy giấy Việt Trì, nhà máy thép Sông Hồng, nhà máy hóa chất
Việt Trì, nhà máy gạch ốp lát CMC, nhà máy đóng tàu Sông Lô, công ty cổ phần
bia Hà Nội – Hồng Hà, công ty cổ phần nhôm Sông Hồng, công ty cổ phần
Miwon Việt Nam, công ty cổ phần giày da Vĩnh Phúc, … và ngoài ra, vẫn còn
rất nhiều nhà máy, xí nghiệp, công ty tập trung tại các khu công nghiệp. Trên địa
bàn thành phố gồm có 3 khu công nghiệp lớn đó là: khu công nghiệp Thụy Vân,
khu công nghiệp Bạch Hạc và khu công nghiệp Nam Việt Trì.
Với tiềm năng đa dạng và phong phú về tài nguyên như con người, đất đai,
khí hậu… những yếu tố đó là điều kiện thuận lợi để Việt Trì phát triển du lịch,
dịch vụ và một nền sản xuất hàng hóa đa dạng với những ngành mũi nhọn đặc
thù, phát triển mạnh kinh tế, mở rộng giao lưu trong nước và quốc tế.
Cùng với sự phát triển của đất nước, mặc dù phải vượt qua những yếu kém
của nền kinh tế, những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực
và mặt trái của nền kinh tế thị trường. Tuy được thành lập chưa lâu nhưng từ
năm 1990 đến nay không chỉ riêng tỉnh Phú Thọ mà thành phố Việt Trì cũng có
những sự thay đổi không ngừng trong lĩnh vực phát triển kinh tế góp phần nâng
cao đời sống của nhân dân. Năm 2011, giá trị sản xuất công nghiệp – xây dựng
trên địa bàn thành phố đạt trên 7.800 tỷ đồng, bằng 92,2% so với kế hoạch, tăng
7,5% so với cùng kỳ năm trước.
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
thành phố, chúng ta cũng không thể phủ nhận những mặt khó khăn và thử thách
mà nhân dân nói chung và thanh niên thành phố Việt Trì phải đối mặt. Trong
quá trình xây dựng cuộc sống mới, con người mới. Tuy là thành phố công
nghiệp, nhưng Việt Trì chỉ mới phát triển vào những năm gần đây, tốc độ tăng

trưởng kinh tế còn rất chậm, dẫn đến đời sống của nhân dân vẫn gặp khó khăn.
Điều kiện tự nhiên, văn hóa, lịch sử, kinh tế - xã hội đã góp phần tạo nên
nét tính cách riêng của con người đất tổ nói chung và thanh niên Việt Trì nói
riêng. Đồng thời cũng tác động không nhỏ tới việc giáo dục đạo đức cho thanh
niên ở thành phố Việt Trì trong giai đoạn hiện nay.
2.1.4. Đặc điểm của thanh niên thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ
Thanh niên là nguồn lực quan trọng của đất nước. Tổ chức đoàn là đội hậu
bị tin cậy của Đảng, năng động, dồi dào về sinh lực và nhiệt huyết. Thanh niên
là nguồn lực quan trọng nhất trong nguồn lực con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà” [12; 185].
Vị trí, vai trò của thanh niên trong sự nghiệp phát triển xã hội không chỉ thể
hiện ở chỗ, số lượng thanh niên chiếm tỉ lệ cao trong dân số và trong lực lượng
lao động xã hội mà còn vì nhiều lý do như: vì đây là một thế hệ ở độ tuổi phát
triển rực rỡ nhất về mọi mặt. Bác Hồ cũng khẳng định: “Nước nhà thịnh hay
suy, yếu hay mạnh một phần là do các thanh niên”.
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” Bác Hồ đã đặt vấn đề cấp bách là phải
tổ chức thanh niên cộng sản Đoàn ở Đông Dương. Án nghị quyết tháng 10 năm
1930 của Đảng nêu rõ: “Cộng sản thanh niên Đoàn” là đại biểu độc nhất của
Đoàn thanh niên công nông của tất cả Đoàn thanh niên thành phố và nhà quê.
Sau này, Bác coi tổ chức Đoàn là cánh tay phải đắc lực của Đảng để thực hiện
những chủ trương và chính sách cách mạng. Thời kỳ này những tấm gương
thanh niên anh hùng như Lý Tự Trọng, Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê
Hồng Phong . . . tiêu biểu cho một thế hệ thanh niên mới đóng góp vai trò là
cánh tay phải đắc lực của Đảng.
Là lực lượng lao động trẻ, thanh niên thường tập trung ở các ngành lao
động nặng nhọc, những nơi khó khăn gian khổ ở các công trình trọng điểm của
nhà nước. Trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay,
thanh niên đã và đang chứng tỏ mình ngày càng xứng đáng với sự tin yêu của
Đảng, nhà nước và nhân dân. Biết bao công trình thanh niên đã hoàn thành thể
hiện sức mạnh và niềm say mê lí tưởng của thế hệ trẻ. Những công trình trọng

điểm của quốc gia nhiều năm trở lại đây đều có sự đóng góp nhiệt tình và hăng
say của thế hệ trẻ: đường dây 500KV Bắc Nam, thủy điện Sơn La, thủy điện Na
Hang, lọc dầu Dung Quất, đường hầm xuyên đèo Hải Vân… Hàng trăm khu
công nghiệp lớn và các vùng kinh tế quan trọng đều do lực lượng lao động trẻ
xây dựng, sản xuất năng suất lao động ngày càng cao trình độ sản xuất ngày
càng cao như khai thác dầu khí khai thác than thuộc tập đoàn than khoáng sản
Việt Nam… Những công nghệ mới chuyển giao từ các chuyên gia nước ngoài
đã được thanh niên Việt Nam nhanh chóng tiếp thu và ứng dụng có hiệu quả
ngay trong công việc.
Trong cơ cấu thanh niên, thanh niên nông thôn chiếm 79,2% thanh niên cả
nước, chiếm 67,7% lực lượng lao động nông nghiệp và là lực lượng quan trọng
trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp và nông thôn mới. Thanh niên trí thức
chiếm 25% trong lực lượng trí thức cả nước [15; 112]. Trong điều kiện hiện nay,
trí thức trí nói chung, thanh niên trí thức nói riêng vốn quý của đất nước, là lực
lượng lao động trí tuệ hùng hậu của đảng, nhà nước và dân tộc ta. Không có trí
thức, không có những người tài giỏi thì không thể tiến hành công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thành công
được.
Thanh niên công nhân, đô thị là hạt nhân tích cực và luôn đi đầu trong việc
tiếp thu cái mới, ứng dụng khoa học kĩ thuật và công nghệ mới vào các hoạt
động vào lao động sản xuất, luôn năng động và dám nghĩ và dám làm. Công
cuộc đổi mới và việc chuyển sang nền kinh tế thị trường đã tạo môi trường tốt
để thanh niên phát huy được khả năng và sức sáng tạo của mình. Trong thời gian
vừa qua đã có nhiều nhà doanh nghiệp trẻ nổi lên và làm ăn phát đạt, được
Trung ương đoàn bình chọn trao giải thưởng Sao Đỏ - giải cho các doanh nghiệp
trẻ xuất sắc và nhiều giải thưởng khác. Ở nông thôn cũng xuất hiện ngày càng

×