BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ
MÔN: LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 1
ĐỀ BÀI:
“Tài sản và hoàn thiện quy định của pháp luật
về tài sản”
HỌ VÀ TÊN:TÔ THỊ THANH HẰNGLỚP: 3728NHÓM: B2MSSV: 372845
Hà Nội
Tháng 5- 2013
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
MỤC LỤC
MỤC LỤC 3
LỜI NÓI ĐẦU 4
NỘI DUNG 5
I- Khái niệm tài sản: 5
II. Đặc điểm của tài sản 6
III. Phân loại tài sản 7
1. Bất động sản là các tài sản bao gồm: 8
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.” 8
IV- Những bất cập trong quy định về tài sản của Bộ luật dân sự: 9
1. Về cách quy định tài sản: 9
2- Thiếu vắng các quy định về tiền trong Bộ luật dân sự 13
3- Sự quy định về giấy tờ có giá trong Bộ luật dân sự của nhiều lỗ hổng 14
4- Sự chưa phù hợp trong quy định về quyền tài sản 15
5. Cách hiểu không đúng về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi coi nó là một loại tài sản
17
V- Phương hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật về tài sản 18
KẾT LUẬN 23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
LỜI NÓI ĐẦU
Tài sản là một điều kiện vật chất để duy trì các hoạt động trong lĩnh vực
kinh tế và đời sống xã hội. Nó là vấn đề trung tâm, cốt lõi của mối quan hệ xã
hội nói chung và quan hệ pháp luật nói riêng.
Nói tới tài sản thì ai cũng hình dung ra đó là những của cải, vật chất hữu
hình và vô hình của một người nào đó. Nhưng đó chỉ là theo cách nghĩ thông
thường mà không có cơ sở pháp lý nào cả. Thực tế cho thấy khái niệm tài sản đã
được đề cập từ rất lâu trong thực tiễn cũng như trong khoa học pháp lý. Tài sản
trên thực tế tồn tại ở rất nhiều dạng khác nhau vô cùng phong phú và đa dạng,
tuy nhiên, mỗi loại tài sản lại có những đặc tính khác biệt cần thiết phải có quy
chế pháp lý điều chỉnh riêng. Mặc dù vậy nhưng cũng chưa có một văn bản pháp
lý nào nêu rõ ràng và đầy đủ khái niệm, đặc điểm, tính chất của tài sản kể cả Bộ
luật dân sự Việt Nam năm 2005 vẫn đang còn rất nhiều quan điểm được đưa ra
và vẫn chưa đi đến thống nhất.
Vì vậy, trong bài tiểu luận này em xin chọn đề tài: “Tài sản và hoàn
thiện quy định của pháp luật về tài sản”. Qua đó để làm rõ hơn về vấn đề này,
từ đó đưa ra những hướng hoàn thiện chặt chẽ Bộ luật để dễ dàng áp dụng trong
thực tiễn.
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 4
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
NỘI DUNG
I- Khái niệm tài sản:
Tài sản luôn được coi là một điều kiện vật chất để duy trì các hoạt động
trong lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội. Khái niệm về tài sản chắc chắn đã
được hình thành từ rất lâu, gần như song song với lịch sử hình thành loài người.
Tài sản là một công cụ của đời sống xã hội nên khái niệm về tài sản không phải
là một khái niệm thuần túy có tính học thuật mà là một khái niệm có tính mục
đích cao. Khái niệm này phải đáp ứng được các nhu cầu cần thiết của xã hội. Tài
sản không thể được xem xét tách rời các giá trị xã hội. Ta có thể hiểu tài sản là
của cải được con người sử dụng. Theo nghĩa này thì tài sản luôn biến đổi và phát
triển cùng với sự thay đổi của thời gian, của điều kiện xã hội, của sự nhận thức
con người về giá trị vật chất nên phạm vi của tài sản qua mỗi thời kì lại được
nhìn nhận ở một góc độ khác nhau. Có thể nhận thấy tài sản là khách thể của
quyền sở hữu, nó có thể là đối tượng của thế giới vật chất hoặc là kết quả của
các hoạt động sáng tạo tinh thần.
Theo pháp luật hiện hành tại điều 163 BLDS năm 2005 đã quy định một
cách liệt kê về tài sản như sau: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá, và các
quyền tài sản”.
Trong đó vật được hiểu là bộ phận của thế giới khách quan mà con
người có thể cảm nhận được bằng các giác quan của mình. Vật chỉ có ý nghĩa
khi nó trở thành đối tượng trong quan hệ pháp luật nên nếu bộ phận của thế giới
vật chất mà con người không kiểm soát, không chiếm hữu được nó thì cũng
đồng nghĩa với việc con người không tác động được vào nó. Do đó, gió, không
khí, mưa… thuộc về mặt vật chất nhưng không thể được coi là tài sản về mặt
pháp lí. Hơn nữa, là đối tượng của trong quan hệ pháp luật phải đáp ứng được
lợi ích của các bên chủ thể trong quan hệ. Như vậy, muốn trở thành vật trong
dân sự phải thỏa mãn những điều kiện: là bộ phận của thế giới vật chất, con
người chiếm hữu được, mang lại lợi ích cho chủ thể, có thể đang tồn tại hoặc
hình thành trong tương lai. Tiền theo kinh tế - chính trị học là vật ngang giá
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 5
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
chung được sử dụng làm thước đo giá trị của các loại tài sản khác. Một tài sản
được coi là tiền hiện nay khi nó có giá trị lưu hành trên thị trường. Giấy tờ có
giá là loại tài sản rất phổ biến trong giao lưu dân sự hiện nay, đặc biệt là giao
dịch trong các hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng. Nó được hiểu là giấy tờ
có trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự. Giấy tờ có
giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao
lưu dân sự. Giấy tờ có giá hiện nay được tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như
séc, cổ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kì phiếu, công trái…Khác với tiền
chỉ do cơ quan duy nhất là do Ngân hàng nhà nước ban hành thì giấy tờ có giá
có thể do rất nhiều cơ quan ban hành như Chính phủ, ngân hàng, kho bạc, các
công ty cổ phần,…; nếu tiền luôn có mệnh giá nhất định, luôn lưu hành không
có thời hạn, không ghi danh thì giấy tờ có giá có thể có mệnh giá hoặc không có
mệnh giá, có thể có thời hạn sử dụng hoặc không có thời hạn sử dụng, có thể ghi
danh hoặc không ghi danh và việc định đoạt về số phận thực tế đối với giấy tờ
có giá cũng không bị hạn chế như việc định đoạt tiền.
Ngoài vật, tiền và giấy tờ có giá thì tài sản còn được xác định là quyền tài
sản tại Điều 181 của BLDS năm 2005: “Quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí
tuệ”. Quyền tài sản được hiểu theo nghĩa rộng là quyền của cá nhân, tổ chức
được pháp luật cho phép thực hiện hành vi xử sự đối với tài sản của mình và yêu
cầu người khác phải thực hiện một nghĩa vụ đem lại lợi ích vật chất cho mình.
II. Đặc điểm của tài sản
Tài sản là vấn đề quan trọng khi xem xét các quan hệ có liên quan đến tài
sản phát sinh từ các giao dịch dân sự, kinh tế. Chính vì vậy, việc xác định đặc
điểm pháp lý của tài sản mang lại ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho hoạt động
pháp lý. Xem xét trong nhiều quan niệm về tài sản, cũng như từ khái niệm về tài
sản từ Điều 163 BLDS năm 2005 của Việt Nam có thể rút ra một số đặc điểm cơ
bản về tài sản:
a. Tài sản có tính giá trị thể hiện ở việc chúng đều trị giá được bằng tiền.
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 6
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
Pháp luật quy định tiền thực hiện ba chức năng chính là: công cụ thanh toán đa
năng, công cụ tích lũy tài sản và công cụ định giá các loại tài sản khác. Và tiền
chính là thước đo giá trị của các loại tài sản khác. Theo Điều 163 BLDS năm
2005 thì những tài sản còn lại như vaath, giấy tờ có giá, quyền tài sản đều có thể
quy đổi ra tiền.
b. Một dấu hiệu luôn nhận thấy từ tài sản đó là việc tài sản luôn phải đáp
ứng một lợi ích nào đó cho chủ thể có quyền. Đó có thể là nhu cầu vật chất hoặc
tinh thần. Đây chính là tính lợi ích của tài sản. Cho dù là một vật, giấy tờ có giá,
hay một quyền tài sản thì chúng đều trực tiếp hay gián tiếp đáp ứng nhu cầu cho
con người.
c. Tài sản là đối tượng trong lưu thông dân sự. Cũng chính vì đặc điểm này
mà khái niệm về tài sản được thay đổi mở rộng hay thu hẹp theo từng thời kỳ để
phù hợp với điều kiện giao lưu dân sự trong xã hội thời đó. Nếu một loại tài sản
không thể lưu thông nghĩa là nó không có giá trị trao đổi. Như vậy về một khía
cạnh nào đó tài sản đó không mang tính giá trị. Thực tiễn cho thấy rằng tài sản
chính là công cụ để phát triển kinh tế, duy trì các hoạt động kinh tế của đất nước.
Một loại tài sản không trao đổi được sẽ không thực hiện được chức năng đó.
d. Khái niệm tài sản trong cuộc sống khác với khái niệm tài sản trong pháp
lý. Pháp luật là công cụ thể thực quyền lực, thái độ của một nhà nước với các
quan hệ xã hội. Bởi vậy nếu như nhà nước không công nhân một loại tài sản thì
nó sẽ không được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật. Sự quy định đâu là tài
sản dựa vào ý chí của nhà nước đưa vào bộ luật dân sự. Tiêu biểu như ở thời kỳ
chiếm hữu nô lệ, chủ nô coi thường người nô lệ là một loại tài sản. Họ bị trao
đổi như bất kỳ một loại hàng hóa nào khác. Nhưng khi xã hội tiến dần đến văn
minh, nhà nước tiến hành xây dựng một xã hội công bằng văn minh thì quan
niệm về tài sản đã khác biệt so với thời chiếm hữu nô lệ.
III. Phân loại tài sản
Tài sản là một chế định quan trọng của luật dân sự mà trong đó việc phân
loại tài sản có một ý nghĩa rất lớn, bởi lẽ tài sản là công cụ của đời sống xã hội.
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 7
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
Nó liên quan tới hàng loạt các vấn đề pháp lý như: thuế, bảo đảm nghĩa vụ dân
sự, thừa kế, hiệu lực của hợp đồng, bán tài sản, công khai các quyền tài sản,
thương mại, tư pháp quốc tế.
Thứ nhất, dựa vào đặc tính vật lí của tài sản theo Điều 174 Bộ luật dân sự
2005 quy định:
1. Bất động sản là các tài sản bao gồm:
a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền
với nhà, công trình xây dựng đó;
c) Các tài sản khác gắn liền với đất đai;
d) Các tài sản khác do pháp luật quy định.
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.”
Cách phân loại này chủ yếu dựa vào đặc tính vật lí của tài sản là có thể di
dời được hay không thể di dời được (một số nước còn dựa vào cả công dụng của
tài sản như luật của Pháp coi cả hạt giống, máy móc nông cụ… là bất động sản).
Đây là cách phân loại truyền thống mà khá nhiều nước trên thế giới lựa chọn vì
các quy phạm điều chỉnh hai loại tài sản này là hai hệ thống riêng rẽ độc lập với
nhau khi áp dụng cho việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan. Nhà
làm luật cũng định nghĩa bất động sản theo 4 phương pháp liệt kê căn cứ vào đó
thì hiện nay đất đai và những tài sản gắn liền với đất đai như nhà, công trình xây
dựng, cây cối, tài nguyên… sẽ được coi là bất động sản. Tuy nhiên điều luật đã
quy định về bất động sản một cách mở chứ không liệt kê khép kín như khái
niệm tài sản của Điều 163 vì
Vậy những tài sản khác mà pháp luật quy định vẫn được coi là bất động sản
(như quyền sử dụng đất). Việc phân loại động sản và bất động sản có nhiều ý
nghĩa như:
Xác lập thủ tục đăng kí đới với tài sản (quyền sở hữu với bất động sản
được đăng kí theo quy định của Bộ luật dân sự và pháp luật về đăng kí bất động
sản, quyền sở hữu với động sản thì không đăng kí trừ trường hợp pháp luật quy
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 8
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
định khác);
Xác định thời điểm chuyển giao quyền sử hữu đối với tài sản (khoản 1,
Điều 168 BLDS 2005 quy định việc chuyển giao quyền sở hữu đối với bất động
sản có hiệu lực từ thời điểm đăng kí quyền sở hữu, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác, còn khoản 2, Điều 168 quy định việc chuyển quyền sở hữu đối
với động sản có hiệu lực kể từ thời điểm động sản được chuyển giao trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác);
Xác định được các quyền năng của chủ thể quyền đối với từng loại tài sản
nhất định (pháp luật ghi nhận cho các chủ thể có những quyền năng nhất định
đối cới tài sản của người khác để bất động sản có thể khai thác được công dụng
một cách tốt nhất như quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề);
Xác định địa điểm thực hiện nghĩa vụ đối với các giao dịch có đối tượng
là bất động sản trong trường hợp các bên không có thỏa thuận (theo quy định tại
Điều 284 BLDS 2005 thì trong trường hợp các bên không có thỏa thuận khác thì
địa điểm thực hiện nghĩa vụ là nơi có bất động sản nếu đối tượng của nghĩa vụ là
bất động sản. Nếu đối tượng không phải là bất động sản thì địa điểm thực hiện
nghĩa vụ là nơi cư trú, trụ sở của người có quyền);
Xác định căn cứ xác lập quyền sở hữu (như tại Điều 239 BLDS 2005 quy
định nếu vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu là động sản sẽ
thuộc sở hữu của người phát hiện còn nếu vật là bất động sản thì sẽ thuộc sở hữu
nhà nước…)
IV- Những bất cập trong quy định về tài sản của Bộ luật dân sự:
1. Về cách quy định tài sản:
Tài sản là một khái niệm quen thuộc đối với bất kỳ ai, bởi đơn giản tài sản
là công cụ của đời sống con người. Tuy nhiên, quan niệm pháp lý và quan niệm
đời thường về tài sản lại có đôi chút khác biệt. Về mặt pháp lý, nhận thức đúng
về tài sản và phân loại tài sản có vai trò rất quan trọng trong việc tạo lập các quy
định pháp luật và giải quyết các tranh chấp pháp lý. Nhưng ngay Bộ luật Dân sự
2005 của Việt Nam cũng đã diễn đạt khác nhiều so với quan niệm của thế giới
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 9
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
về khái niệm tài sản và phân loại tài sản. Hệ quả là nhiều quy chế pháp lý liên
quan tới tài sản đã không thỏa đáng về mặt khoa học và thực tiễn, gây ảnh
hưởng không nhỏ tới giao lưu dân sự và phát triển kinh tế, thương mại.
Theo Điều 163 BLDS năm 2005 thì tài sản được quy định như sau: “Tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Có thể thấy đây là cách
đưa ra định nghĩa theo kiểu liệt kê về các loại tài sản mà chưa đưa ra được phạm
vi của nó. Điều này sẽ gây bất cập khi phát sinh tài sản mới trong khi đời sống
kinh tế- xã hội đang phát triển từng ngày tài sản ”. Đây là cách định nghĩa tài
sản mang tính chất liệt kê chứ không mang tính khái quát. Theo quy định này thì
tài sản được liệt kê khép kín chỉ tồn tại ở một trong bốn loại : Vật, tiền, giấy tờ
có giá hoặc quyền tài sản. So với BLDS năm 1995 Điều 172 : “ Tài sản bao gồm
vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản ” thì BLDS
năm 2005 đã kế thừa có phát triển do phát sinh nhiều vấn đề trong việc áp dụng.
Thế nhưng, chưa từng một lần những người “có trách nhiệm” giải thích cho giới
luật học hiểu tính đúng đắn của những giải nghĩa như vậy. Bản thân tài sản là
một khái niệm động, ngày càng có nhiều yếu tố đang được xem xét như là tài
sản: hồ sơ khách hàng, giọng hát của ca sĩ,…. Vì vậy, nếu quy định theo cách
liệu kê thì sẽ tạo sự hạn chế trong giao lưu dân sự khi phát sinh ra một tài sản
mới trong xã hội.
Khái niệm tài sản theo Bộ luật dân sự 2005 đã mở rộng hơn Bộ luật dân sự
1995 về những đối tượng nào được coi là tài sản, theo đó, không chỉ những “vật
có thực” mới được gọi là tài sản mà cả những vật được hình thành trong tương
lai cũng được gọi là tài sản. Nhưng cũng chưa có một văn bản pháp lý nào hay
những “ người có trách nhiệm ” nào giải thích cho giới luật học hiểu tính đúng
đắn và khá quát của những giải nghĩa như vậy. Để xây dựng được một khái
niệm hoàn chỉnh về tài sản thì các nhà làm luật phải đưa ra những quan điểm
chứng minh và dưới đây là một số những quan điểm đó.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: tài sản là đối tượng của quyền sở hữu. Như
vậy, theo quan điểm này muốn hiểu tài sản là gì thì trước tiên chúng ta phải hiểu
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 10
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
Quyền sở hữu là gì. Tuy nhiên, tại Điều 164 Bộ luật dân sự 2005 khái niệm
quyền sở hữu cũng chỉ được dưa ra theo hướng liệt kê, theo đó, ″Quyền sở hữu
bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở
hữu theo quy định của pháp luật″. Do đó, nếu áp dụng khái niệm này thì chúng
ta lại bị rơi vào vòng luẩn quẩn định nghĩa tài sản thông qua một khái niệm
quyền sở hữu trong khi đó bản thân khái niệm quyền sở hữu cũng chưa giải
quyết được một cách triệt để, thậm chí còn là phái sinh từ khái niệm tài sản.
Quan điểm thứ hai cho rằng: tài sản là của cải vật chất tồn tại dưới dạng cụ
thể, được con người sử dụng và được nhận biết bằng giác quan tiếp xúc như
giường, tủ, bàn ghế, xe mô tô, tờ tiền…. Như vậy, theo quan điểm này thì chỉ
những gì thuộc về thế giới vật chất, hiện đang tồn tại và chúng ta có thể cầm,
lắm … được thì mới được coi là tài sản. Do đó, quyền tài sản không được coi là
tài sản.
Quan điểm thứ ba cho rằng: tài sản bao gồm động sản và bất động sản.
Đây thực chất là một cách phân loại tài sản dựa trên tính chất vật lý không di dời
được về mặt cơ học và nó cũng rơi vào vòng luẩn quẩn như quan điểm thứ nhất
khi định nghĩa tài sản thông qua khái niệm bất động sản và động sản trong khi
đó khái niệm bất động sản và động sản cũng chưa được làm sang tỏ và thậm chí
muốn hiểu thế nào là bất động sản và động sản thì phải hiểu thế nào là động sản
trước. Hơn nữa, nếu theo quan điểm này thì quyền tài sản không biết được xếp
vào bất động sản hay động sản?
Quan điểm thứ tư là : “ Tài sản là đối tượng của giao dịch dân sự ”.
Thoạt nghe thì thấy quan điểm này cũng có lý vì bất kỳ giao dịch dân sự nào
cũng liên quan tới tài sản. Nhưng đối với những tài sản cấm giao dịch, tài sản
hạn chế giao dịch thì lại không phải là đối tượng của giao dịch dân sự vì đã là tài
sản cấm rồi thì không thể giao dịch được nữa. Quan điểm này đưa ra cũng chưa
thỏa đáng.
Quan điểm thứ năm cho rằng : “ Tài sản là những gì định giá được
”. Quan điểm trên vẫn còn những điểm chưa hợp lý vì:
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 11
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
- Tài sản là những gì định giá được có thể hiểu là tài sản là những gì trị giá
được bằng tiền và tiền ở đây chỉ được hiểu là nội tệ vì “ ngoại tệ không được coi
là tiền, bởi lẽ ngoại tệ không bao giờ được coi là công cụ thanh toán đa năng –
một tính năng quan trọng nhất của tiền ”. Như vậy, tiền sẽ được định giá bằng
gì? Và nó có được coi là tài sản không?
- Nếu cứ những gì định giá được thì được gọi là tài sản, vậy tài sản nợ -
nghĩa vụ trả nợ cũng sẽ được xem là tài sản vì nó cũng có thể định giá được (cứ
xem giá của nó là 0 đồng thì giá 0 đồng hoàn toàn khác với không định giá
được), trong khi đó, tài sản thì có thể để lại thừa kế được còn nghĩa vụ trả nợ thì
không để lại thừa kế được, trừ nghĩa vụ trả nợ trong phạm vi di sản do người
chết để lại.
Trên đây là năm trong số rất nhiều quan điểm khác nhau về khái
niệm tài sản dưới góc độ pháp lý. Tuy nhiên, các quan điểm trên như đã phân
tích đều bộc lộ những bất cập và chưa đưa ra được tiêu chí để xác định những gì
được gọi là tài sản. Thực tế cho thấy trên thế giới, kể cả đối với các nước phát
triển nhưng cách liệt kê trong khái niệm về tài sản trong bộ luật của họ vẫn được
áp dụng. Tại đây, người ta thể hiện quan niệm tài sản là các mối quan hệ giữa
người với người liên quan tới vật, hơn là nhấn mạnh tới vật có đặc tính vật lý
hay vật chất liệu như BLDS 2005. Tuy nhiên có thể nói đây là cách định nghĩa
khai thác vào bản chất của tài sản, nghiêng hơn về giác độ nghiên cứu, có thể có
những khó khăn nhất định khi đưa vào văn bản quy phạm pháp luật. Cho nên
cách định nghĩa theo kiểu liệt kê các phân loại tài sản cơ bản thích hợp hơn đối
với xây dựng văn bản.
Ngoài ra, các quy định về bên thế chấp có thể nhượng bán tài sản thế chấp
và trách nhiệm của người mua tài sản thế chấp đối với bên nhận thế chấp và việc
bên nhận thế chấp có thể chuyển nhượng thế chấp là những sự thể hiện điển hình
của các chức năng này. Nhưng có thể nói, pháp luật của Việt Nam đã chưa thể
hiện được đặc điểm này trong các quy định về tài sản.
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 12
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
2- Thiếu vắng các quy định về tiền trong Bộ luật dân sự
Tiền được quy định là một loại tài sản, thậm chí nó là tài sản có đặc điểm
pháp lý khá đặc trưng nhưng thực tế cho thấy rằng trong Bộ luật dân sự lại
không có một quy định nào giải thích cụ thể về tiền. Từ đó đã dẫn đến những
cách hiểu không thống nhất về bản chất pháp lý của tiền.
Dưới góc độ kinh tế thì việc sử dụng tiền được hiểu thông qua hành vi đầu
tư tiền vào các hoạt động kinh doanh (mua bán thiết bị, cho vay lãi, góp vốn,
hay tiêu dùng. Nhưng dưới góc độ luật dân sự thì các hành vi đầu tư hay tiêu
dùng. Nhưng dưới góc độ luật dân sự thì các hành vi đầu tư hay tiêu dùng đó lại
phải được hiểu là hành vi thực hiện quyền định đoạt tiền (chuyển giao quyền sở
hữu tiền cho chủ thể khác), chứ không phải là thực hiện quyền sử dụng.
Dưới góc độ kinh tế, việc gửi tiền vào các tổ chức tín dụng (gửi tiền vào tài
khoản của mình trong Ngân hàng) thường được coi là hành vi cất giữ tiền của
mình. Còn dưới góc độ luật dân sự thì việc gửi tiền vào Ngân hàng hay các tổ
chức tín dụng lại phải luôn được hiểu là hợp đồng cho vay tài sản. Bởi lẽ sau khi
gửi vào Ngân hàng thì chính Ngân hàng sẽ trở thành chủ sở hữu khoản tiền đó
và phải chịu rủi ro đối với nó. Người gửi khi đó chấm dứt quyền sở hữu đối với
số tiền vừa gửi, trở thành bên cho vay, có quyền yêu cầu Ngân hàng thanh toán
khoản tiền khác tương đương theo thời hạn thỏa thuận. Tuỳ theo từng trường
hợp cụ thể mà hợp đồng vay đó có thể có thời hạn hoặc không thời hạn, có thể
có lãi hoặc không có lãi.
Nói cách khác, dưới góc độ kinh tế thì không có sự khác biệt cơ bản về bản
chất giữa tiền mặt với tiền trong tài khoản, nhưng dưới góc độ luật dân sự thì
“tiền trong tài khoản” lại được hiểu là quyền tài sản (quyền yêu cầu) – một loại
tài sản khác chứ không phải là tiền.
Hiện nay cũng có nhiều tranh cãi xung quanh việc ngoại tệ có phải là “tiền”
theo điều 163 hay không? Về bản chất nội tệ và ngoại tệ đều là tiền. Nhưng
trong pháp luật dân sự thì ngoại tệ chỉ được lưu thông hạn chế không đáp ứng
được chức năng là công cụ thanh toán đa năng. Cách phân loại tiền thành nội tệ
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 13
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
và ngoại tệ hoàn toàn phụ thuộc vào góc độ nhìn nhận của từng quốc gia: một
loại tiền được coi là nội tệ của quốc gia phát hành và là ngoại tệ đối với các quốc
gia khác. Trong pháp luật dân sự thì ngoại tệ không được coi là tiền, bởi lẽ ngoại
tệ không bao giờ được coi là công cụ thanh toán đa năng – một tính năng quan
trọng nhất của tiền. Ngoại tệ phải được coi là một loại tài sản đặc biệt, thuộc
nhóm hàng hóa hạn chế lưu thông. Chỉ những chủ thể nhất định (ngân hàng hay
các tổ chức tín dụng khác, các tổ chức có chức năng hoạt động ngoại thương,
…) mới được phép xác lập giao dịch đối với nó.
Vấn đề khó giải quyết nhất là: nếu ngoại tệ không phải là tiền thì liệu ta sẽ
nên xếp ngoại tệ vào loại tài sản nào trong số các loại tài sản được quy định tại
Điều 163 Bộ luật Dân sự (vật, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền, quyền tài
sản)? Ngoại tệ cũng không nên coi là vật, bởi lẽ ta cũng không thể khai thác
công dụng hữu ích từ chính tờ ngoại tệ được. Ngoại tệ cũng không nên coi là
giấy tờ trị giá được bằng tiền hay quyền tài sản, bởi lẽ ta sẽ không xác định được
ai là chủ thể nghĩa vụ trong đó. Đây chính là sự khó khăn xuất phát từ việc quy
định khái niệm tài sản một cách khép kín của điều luật. Phải chăng khó khăn đó
xuất phát từ chính nguyên nhân rằng khái niệm tài sản (theo cách liệt kê khép
kín được quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự) còn quá hạn hẹp. Qua đó ta
cũng nhận thấy nhu cầu bắt đầu phải xây dựng cách hiểu rộng hơn nữa cho khái
niệm tài sản (sao cho trong đó có thể bao quát được cả ngoại tệ và cả một số các
đối tượng phức tạp khác của giao dịch dân sự như nhà máy xí nghiệp, hệ thống
mô hình dịch vụ,…).
3- Sự quy định về giấy tờ có giá trong Bộ luật dân sự của nhiều lỗ hổng.
Giấy tờ có giá là một loại tài sản theo quy định pháp luật dân sự do đó
việc giải quyết tranh chấp phát sinh của giấy tờ có giá sẽ được thực hiện bằng
Tòa án hoặc yêu cầu trọng tài giải quyết theo quy định pháp luật.
Hiện nay có rất nhiều loại giấy tờ có giá nhưng không phải loại nào cũng
được coi là tài sản. Bộ luật dân sự chỉ quy định nó là một loại tài sản nhưng
không đưa ra một giải thích nào. Điều này dẫn đến sự mâu thuẫn trong các văn
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 14
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
bản pháp luật chuyên ngành khi giải thích về khái niệm này. Trong quyết định
số 02/2005/QĐ-NHNN ngày 04/1/2005 về ban hành quy chế phát hành giấy tờ
có giá để huy động vốn trong nước tại Điều 4 quy định: “Giấy tờ có giá là chứng
nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn trong đó xác định nghĩa
vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các
điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua”. Tuy nhiên, tại
Nghị định của Chính phủ số 163/2005/NĐ-CP ngày 29/1/2006 thì giấy tờ có giá
lại được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao trong giao lưu dân
sự (khoản 9 điều 3)
Có thể nói, giữa các luật chuyên ngành về giấy tờ có giá có những cách
hiểu không thống nhất, thiếu tính đồng bộ với nhau. Đây chính là một điều cần
bổ sung trong BLDS để giải quyết sự mâu thuẫn này.
4- Sự chưa phù hợp trong quy định về quyền tài sản
Trước hết phải kể đến sự thiếu sót trong quy định tại Điều 181- BLDS
năm 2005 về quyền tài sản khi nhà làm luật không quy định về các quyền tài sản
không chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Đó là những quyền trị giá được
bằng tiền nhưng do gắn với nhân thân nên không thể chuyển giao được.
Bên cạnh đó, khái niệm quyền tài sản của Việt Nam được xây dựng là
một tài sản đối lập với vật. Tức là một loại tài sản vô hình, như vậy, khi ta kết
hợp cách phân loại giữa vật và quyền với cách phân loại bất động sản sẽ không
tạo ra khái niệm quyền tài sản mang tính chất bất động sản. Do vậy, trong
trường hợp này thì quyền tài sản sẽ là động sản. Điều này sẽ trở nên không phù
hợp với quyền sử dụng đất (một loại quyền tài sản). Trong luật Việt Nam hiện
hành, quyền sử dụng đất về phương diện thực quyền tức là một phần đất và tính
chất bất động sản của nó là rất rõ ràng, nhưng luật hiện hành lại không ghi nhận
quyền sử dụng đất là bất động sản.
Phạm vi các quyền về tài sản theo quy định của BLDS bao gồm các quyền
có gắn với một tài sản cụ thể như quyền được hưởng bồi thường thiệt hại về tài
sản, quyền hưởng nhuận bút tác phẩm văn học, quyền hưởng di sản thừa kế,
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 15
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
quyền nhận lương hưu. Loại đối tượng này của tài sản đôi khi bị bỏ qua hoặc
đánh giá chưa đúng mức mức độ nguy hiểm của hành vi để xác định có tội phạm
xảy ra hay không? Nói chung, các quyền dân sự bao giờ cũng gắn liền với một
chủ thể nhất định và vì vậy thường mang tính đích danh. Nhiều người vẫn có
quan niệm rằng việc xâm phạm quyền về tài sản khác với xâm phạm sở hữu về
tài sản vì rằng chủ thể mặc dù có quyền nhưng trên thực tế chưa có trong tay
hoặc chưa được trực tiếp nắm giữ, quản lý tài sản nên không coi đó là xâm phạm
sở hữu tài sản. Tuy nhiên, cần phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mới có
thể đánh giá được một cách chính xác hành vi xâm phạm các quyền về tài sản có
phải là hành vi chiếm đoạt tài sản hay không. Ví dụ như quyền hưởng nhuận bút
từ tác phẩm văn học được tái bản của người đã chết trong trường hợp không có
di chúc thuộc về những người trong cùng một hàng thừa kế, nhưng một người
trong số họ đã chiếm đoạt toàn bộ số tiền đó thì có đủ cơ sở xem xét về hành vi
chiếm đoạt. Nhưng nếu có di chúc từ người chết cho một người được hưởng số
tiền ấy thì còn phải xem xét tính hợp pháp của di chúc, tức là khả năng thừa
hưởng hợp pháp của người được chỉ định. Còn có một số trường hợp khác như
cưỡng ép những người có quyền về tài sản để họ từ bỏ quyền và chiếm đoạt tài
sản như nhận giải thưởng truy tặng người đã chết hoặc giải thưởng cho một công
trình tập thể, giết người cùng một hàng thừa kế để chiếm đoạt toàn bộ di sản từ
người đã chết… Ngoài ra, trong thực tiễn còn phát sinh quyền hưởng hoa lợi từ
tài sản. Về nguyên tắc, trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các
cá nhân thường kèm theo quyền hưởng hoa lợi trên đất, nếu giữa họ không có
thỏa thuận khác, và thời điểm để xác định việc chuyển quyền là thời điểm giao
nhận quyền sử dụng đất theo hợp đồng, kể cả cây trồng ngắn ngày trên đất như
đất nông nghiệp có lúa sắp thu hoạch, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Ngoài ra, trong quan niệm về quyền tài sản của BLDS Việt Nam đã không
có khái niệm về quyền thực hiện trực tiếp trên vật (quyền đối vật). Quyền trong
luật Việt Nam là một mối quan hệ giữa một chủ thể và một hoặc nhiều chủ thể
khác mà trong đó một chủ thể được hưởng một lợi ích. Đối với luật Việt Nam
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 16
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
thừa nhận rằng chủ sở hữu tài sản có quyền thế chấp tài sản theo quy định của
pháp luật để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, luật Việt
Nam lại không thực sự coi các quyền của chủ nợ thế chấp là quyền đối vật. Khi
đã xây dựng được quan niệm về quyền đối với vật, ta sẽ dễ dàng xác định được
rằng người cầm cố hoặc thế chấp tài sản vẫn là chủ sở hữu đối với tài sản liên
quan cả trong thời gian có hiệu lực của biện pháp bảo đảm.
5. Cách hiểu không đúng về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi coi nó
là một loại tài sản
Trong đời sống hàng ngày, thông qua các giao dịch dân sự theo quy định
của pháp luật, chúng ta có được thửa đất để khai thác, sử dụng phục vụ cuộc
sống. Người có quyền sử dụng lô đất đó, được cơ quan Nhà nước làm thủ tục và
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhiều người còn gọi giấy này là bìa đất,
sổ đỏ. Và một khi cần vay tiền ở các ngân hàng, người có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, đến làm thủ tục thế chấp vay tiền. Từ thực tế này, một số
người vì thế mà quan niệm rằng, giấy này là tài sản, vì việc thế chấp nó, được
nhận tài sản khác ở ngân hàng, là tiền mặt Việt Nam đồng. Có một số trường
hợp, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị mất trộm, chủ nhân của nó đến cơ
quan Công an trình báo, là mất tài sản và đề nghị xử lý theo quy định của pháp
luật.
Theo quy định tại Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005, thì tài sản bao gồm
vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Như vậy, giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất là vật, bởi vì, hiểu theo tiêu chí lý học, thì vật là một đối tượng tồn
tại, được xác định bằng các đơn vị đo lường, với hình thức, tính chất lý hóa. Đây
chính là tờ giấy ghi nhận trên bề mặt của nó các ký tự, thông tin về thửa đất và
về người có quyền sử dụng thửa đất đó. Nói cách khác, quyền sử dụng thửa đất,
là quyền về tài sản, nó là tài sản được ghi nhận ở tấm giấy này. Còn giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, không phải là tài sản, nếu tờ giấy này bị mất trộm, thì
không được coi là bị mất tài sản, nên cơ quan điều tra không khởi tố vụ án, với
tội danh trộm cắp tài sản quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Chỉ
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 17
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
có quyền sử dụng đất là quyền tài sản, do vậy, quyền này là tài sản. Và quyền tài
sản này, không thể bị kẻ trộm đánh cắp được. Thực chất, giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, chỉ là một văn bản chứng quyền, cho nên không thể coi nó là tài
sản, và cũng không thể xem nó là loại giấy tờ có giá trong thanh toán, trao
đổi. Đó chỉ là tờ giấy ghi trên bề mặt của nó các ký tự, thông tin về lô đất.
Có thể nhận thấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một văn bản
chứng quyền, cho nên không thể coi nó là tài sản và cũng không nên xem nó là
loại giấy tờ có giá trong thanh toán trao đổi.
V- Phương hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật về tài sản.
Từ những bất cập của tài sản như trên, điều 163 của BLDS năm 2005 khi
quy định về tài sản cần có những điều khoản theo lối mở rộng hơn bởi phạm vi
tài sản ngày càng được mở rộng hơn, số lượng những yếu tố được coi là tài sản
mới ngày càng nhiều. Do vậy cần phải thiết lập điều luật theo hướng mở về
phạm vi của tài sản để phù hợp với xu thế của đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, đối với mỗi loại tài sản được quy định trong Điều 163
BLDS năm 2005: Vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản thì cần có sự giải
thích cụ thể hơn trong bộ luật về các loại tài sản này để tạo tính đồng nhất giữa
bộ luật dân sự với các văn bản luật chuyên ngành.
Đối với “vật” trong Bộ luật dân sự năm 2005 nhà làm luật nên bổ sung
thêm các quy định về khái niệm vật cũng như đưa ra các giải thích cụ thể hơn để
làm rõ thêm bản chất pháp lý của nó. Cũng như thế, với tiền cần quy định rõ
ràng thêm để tiền trở thành loại tài sản vừa phù hợp dưới góc độ kinh tế vừa phù
hợp với luật định.
Bên cạnh đó, cần xây dựng khái niệm về giấy tờ có giá theo hướng: Giấy
tờ có giá với tư cách là một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự được hiểu
là chứng chỉ xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xét trong mối quan hệ pháp
lý với các chủ thể khác, trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao
lưu dân sự.
Pháp luật cần phải tạo ra cho thị trường nhiều loại giấy tờ có giá có thể
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 18
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
trao đổi, mua bán song bên cạnh đó cần có những chế tài phù hợp để giải quyết
tranh chấp, đồng bộ hóa các thể chế và định chế liên quan. Do vậy, ngoài việc
đưa ra khái niệm về giấy tờ có giá thì pháp luật nên giải thích cụ thể về giấy tờ
có giá theo hướng: Chỉ những giấy tờ có giá vô danh, được tự do chuyển
nhượng trên thị trường mới được coi là tài sản trong giao lưu dân sự (kể cả các
loại vận đơn đường biển xuất trình cũng được coi là giấy tờ có giá)
Còn quyền tài sản cần xây dựng như một đối trọng của quyền nhân thân.
Theo đó, quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể
chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (BLDS
Điều 26). Luật không khẳng định rằng các quyền nhân thân không có giá trị tài
sản. Thế nhưng, các quyền nhân thân cụ thể được liệt kê ngay sau đó đều là các
quyền mà trong luật Latinh được cho là có tính chất phi tài sản. Mặt khác, trong
khung cảnh của luật hiện hành, một quyền chỉ được coi là quyền tài sản, một khi
nó không chỉ định giá được bằng tiền mà còn phải chuyển giao được trong giao
lưu dân sự. Tất cả những điều đó cho phép kết luận rằng quyền tài sản không
phải là quyền nhân thân. Quyền tài sản được hiểu theo một nghĩa rất hẹp, nó
không bao hàm được tất cả các quyền không phải là quyền nhân thân. Vì vậy,
cần có một chế định về quyền tài sản và mở rộng phạm vi khái niệm quyền tài
sản để phù hợp hơn với thực tiễn.
VI- Vấn đề công nhận “tài sản ảo”
Vài năm gần đây, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, vấn đề
tài sản ảo (ví dụ như tên miền internet, địa chỉ hộp thư điện tử, các loại tài khoản
game online…) cũng được quan tâm nhiều hơn. Trong khi Bộ luật Dân sự đang
được xem xét sửa đổi, bổ sung, tài sản “ảo” có nên được công nhận là một loại
tài sản được luật dân sự bảo hộ hay không đang nhận được nhiều quan điểm trái
chiều.
Theo điều 163 Bộ luật dân sự 2005 quy định tài sản bao gồm “vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Như vậy, luật chỉ liệt kê những đối tượng
có thể được coi là tài sản mà không đưa ra khái niệm cụ thể về tài sản, cũng
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 19
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
không đưa ra tiêu chí chung để làm căn cứ xác định đối tượng nào đó có phải là
tài sản hay không? Hiểu theo nghĩa rộng, tài sản ảo là những tài nguyên trên
mạng máy tính được xác định giá trị bằng tiền và có thể chuyển giao trong các
giao dịch dân sự. Do đó, tài sản ảo về bản chất không khác gì với quyền sở hữu
trí tuệ, nên có thể được xếp vào một loại “quyền tài sản”.
Để xác định tài sản ảo là một loại tài sản cần phải xem xét trên nhiều khía
cạnh khác nhau. Cụ thể:
- Về tính pháp lý: Tài sản ảo là một khái niệm rất rộng như tên miền
internet, địa chỉ hộp thư điện tử, các loại tài khoản Game Online,… phổ biến
nhất là tài sản ảo trong trò chơi trực tuyến, tên miền. Tiếp cận theo nghĩa hẹp, tài
sản ảo là các đối tượng ảo trong thế giới ảo, còn theo nghĩa rộng thì tài sản ảo
được hiểu là những tài nguyên trên mạng máy tính được xác định giá trị bằng
tiền và có thể chuyển giao trong các giao dịch dân sự. Khái niệm này được tiếp
cận thông qua tư duy lý luận về quyền tài sản. Quyền tài sản được định nghĩa cụ
thể tại Điều 181 Bộ luật dân sự 2005:“Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”.
Con người không thể thông qua các giác quan của mình để tiếp cận được với
quyền tài sản nên quyền tài sản không tạo cho mọi người khả năng tiếp cận
mang tính vật thể mà cần phải xác định loại tài sản này thông qua giá trị thể hiện
bằng tiền. Nhờ thông qua giá trị bằng tiền của quyền tài sản mà chúng ta có thể
tiếp cận và tạo nên khả năng cảm nhận đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu
đối với tài sản ảo, đó là quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Điều đó cho
thấy, tài sản ảo có bản chất “rất gần” với quyền tài sản và do đó việc thừa nhận
nó như một loại tài sản cũng là hợp lý.
- Về bản chất: Tài sản ảo (cung, kiếm, áo giáp ảo, tiền ảo …) chỉ là hình
ảnh thể hiện ra bên ngoài, mà bên trong chính là thông tin tồn tại dưới dạng các
đoạn mã máy tính. Các đoạn mã khác nhau tạo nên những loại tài sản ảo khác
nhau. Chính vì vậy, tài sản ảo cũng có sự thống nhất của tính chất nội tại và hình
ảnh bên ngoài như bất kỳ tài sản thông thường nào khác. Tuy nhiên, do các đoạn
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 20
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
mã máy tính không tồn tại độc lập hoàn toàn nên không thể thực hiện quyền
chiếm hữu như tài sản thông thường mà chỉ có thể thực hiện được quyền này
thông qua giá trị bằng tiền của tài sản ảo đó. Điều này về bản chất không khác
với quyền sở hữu trí tuệ (có tính vô hình) đã được thừa nhận là một loại quyền
tài sản. Tương tự như vậy, việc thừa nhận tài sản ảo là các đoạn mã ghi nhận
quyền của người chơi sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo hộ và khai thác
các lợi ích của tài sản ảo, đồng thời giải quyết được nhiều vấn đề về tài nguyên
mạng đã gây tranh chấp hiện nay.
- Về giá trị: Tài sản ảo có giá trị kinh tế và giá trị sử dụng vì nó đáp ứng
những nhu cầu của con người. Game online đáp ứng nhu cầu về giải trí; tên
miền cung cấp một hình thức đại diện cho doanh nghiệp, cơ quan, thương hiệu,
…
- Trong thực tế, các giao dịch liên quan đến “tài sản ảo” được thực hiện khá
phổ biến, mặc dù pháp luật không chính thức thừa nhận và bảo hộ loại tài sản
này là đối tượng của giao dịch dân sự nhưng giá trị của các loại tài sản ảo này là
rất lớn có thể trị giá hàng chục, hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỷ đồng.
Việc thừa nhận tài sản ảo là tài sản trong Bộ luật dân sự sẽ giải quyết được
các vấn đề còn vướng mắc trên thực tế như sau:
+ Tạo cơ sở pháp lý vững chắc để xác định các giao dịch liên quan đến tài
sản ảo với tư cách là tài sản trong giao dịch dân sự để có thể xác lập quyền sở
hữu.
+ Tạo cơ sở để giải quyết các hành vi phạm tội đối với tài sản ảo khi các vụ
án hình sự đối với hành vi trộm cắp, lừa đảo tài sản ảo ngày càng gia tăng.
Thực tế cho thấy, dù pháp luật chưa công nhận, nhưng các giao dịch liên
quan đến tài sản ảo vẫn diễn ra và ngày càng nhiều. Việc thừa nhận tài sản ảo là
cần thiết và phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới, và cần được nghiên
cứu kỹ lưỡng, bởi không phải “chốc chốc lại mang luật ra sửa” được. Khi được
Bộ luật Dân sự thừa nhận, đây sẽ là cơ sở pháp lý vững chắc để xác định các
giao dịch liên quan đến tài sản ảo với tư cách là tài sản trong giao dịch dân sự để
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 21
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
có thể xác lập quyền sở hữu, cũng như tạo cơ sở để giải quyết các hành vi phạm
tội đối với tài sản ảo xảy ra.
Từ việc vấn đề của tài sản ảo chúng ta sẽ thấy sự bất cập của pháp luật
Việt Nam trong việc quy định một điều luật khép kín. Sự phát triển của xã hội
ngày càng mạnh mẽ cho nên sự phát sinh một tài sản mới là điều dễ dàng xảy ra.
Những hiện tượng như tài sản ảo hay như trường hợp khác: hồ sơ khách hàng,
giọng ca ca sĩ,… đang là gây tranh cãi có phải là tài sản không?
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 22
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
KẾT LUẬN
Hoàn toàn có thể thấy được thành tựu lập pháp của nước ta trong các quy
định về tài sản nói riêng và Bộ luật dân sự nói chung. Tuy nhiên, từ cơ sở pháp
lý đến thực tế luôn là một vấn đề rất lớn, nhất là khi nước ta đang phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, cần hoàn thiện hơn nữa
về các quy định của pháp luật về tài sản cũng như các quy định về Bộ luật dân
sự.
Do kiến thức và hiểu biết còn hạn chế nên bài làm còn nhiều thiếu sót,
mong thầy cô góp ý cho bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 23
Bài tập lớn môn Luật dân sự Việt Nam MODULE 1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “Luật dân sự Việt Nam”- Trường Đại học Luật Hà Nội- Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009.
2. “Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của Bộ luật Dân sự,” NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997
3. Luận văn “Giấy tờ có giá - một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân
sự”- Luận văn thạc sĩ Luật học / Nguyễn Thị Anh Thơ
4. Bùi Đăng Hiếu “Tiền – Một loại tài sản trong QHPL dân sự”, Tạp chí
luật học số 1/2005.
5. Nguyễn Ngọc Điện, “ ᄉ
Cần xây dựng lại khái niệm "quyền tài sản"
trong luật dân sự Việt Nam”,ᄉ Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 4/2005
6. Các website:
- Updatebook.vn
- Luanvan.co.vn
- Thongtinphapluatdansu.edu.vn
- Web123.vn
- 123doc.vn
- Tailieu.vn
Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thanh Hằng – 372845 Trang 24