Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác bồi thường giải phóng mặt bằng trên địa bàn huyện võ nhai tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (837.19 KB, 123 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


i

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn này là trung
thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã
được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đều đã được chỉ rõ
nguồn gốc./.

Tác giả luận văn


Đồng Thị Thúy

















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ii
LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài ngoài sự lỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo của các thầy cô giáo và sự giúp
đỡ nhiệt tình, những ý kiến đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể để
hoàn thành bản luận văn này.
Nhân dịp này tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS ĐẶNG VĂN MINH,
Trƣởng Khoa Tà i Nguyên và Môi trƣờng - Trƣờng Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt thời gian thực
hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự góp ý chân thành của các thầy , cô giáo
Khoa Tà i Nguyên và Môi trường , Khoa Sau Đại học - Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn UBND huyện Võ Nhai, Phòng Tài
nguyên và Môi trường huyện Võ Nhai, Hội đồng bồi thường hỗ trợ tái định cư
huyện Võ Nhai, UBND xã La Hiên và UBND thị trấn Đình Cả cùng các
trưởng xãm, trưởng phố bà con nhân dân các xã, thị trấn đã giúp đỡ tôi trong
thời gian nghiên cứu thực hiện luận văn tại địa phương.
Tôi xin cảm ơn tới gia đình, những người thân, cán bộ, đồng nghiệp
và bạn bè đã tạo điều kiện về mọi mặt cho tôi trong quá trình thực hiện đề
tài này.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn !


Thái Nguyên, ngày 30 tháng 9 năm 2010
Tác giả luận văn


Đồng Thị Thúy


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT
Các chữ viết tắt
Ký hiệu
1
Bồi thường
BT
2
Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá
CNH-HĐH
3
Giấy chứng nhận
GCN
4
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
GCNQSDĐ
5

Giải phóng mặt bằng
GPMB
6
Hồ sơ địa chính
HSĐC
7
Ngân hàng thế giới
WB
8
Ngân hàng phát triển Châu Á
ADB
9
Tái định cư
TĐC
10
Uỷ ban nhân dân
UBND

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


iv
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Thực trạng thu hồi đất để thực hiện các dự án trên địa bàn 20
tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2004 - 2007 và 5 tháng đầu năm 2008 20
Bảng 1.2: Thực trạng phương án, dự toán bồi thường GPMB UBND tỉnh Thái Nguyên phê
duyệt 21
Bảng 3.1: Thực trạng Cơ cấu kinh tế của huyện Võ Nhai giai đoạn 2006 - 2008 35
Bảng 3.2: Kết quả về điều tra mức thu nhập huyện Võ Nhai năm 2008 36

Bảng 3.3: Hiện trạng dân số và lao động huyện Võ Nhai năm 2008 36
Bảng 3.4: Tình hình lao động khu vực GPMB 37
Bảng 3.5: Trình độ dân trí trên địa bàn huyện Võ Nhai năm 2008 38
Bảng 3.6 : Hiện trạng sử dụng đất huyện Võ Nhai năm 2008 40
Bảng 3.7: Diện tích đất bị thu hồi của huyện Võ Nhai 44
giai đoạn 2006 – 2008 44
Bảng 3.8: Xác định đối tượng được bồi thường và không được bồi thường tại 2 vùng
nghiên cứu 54
Bảng 3.9: Ý kiến của người có đất bị thu hồi trong việc xác định đối tượng và điều kiện
được bồi thường tại 2 vùng nghiên cứu 55
Bảng 3.10: Tổng hợp đơn giá bồi thường về đất tại 2 vùng 57
Bảng 3.11: Tổng hợp diện tích các loại đất bị thu hồi được bồi thường tại 2 vùng nghiên
cứu 59
Bảng 3.12: Ý kiến của người có đất bị thu hồi trong việc xác định giá bồi thường đất và tài
sản trên đất tại 2 vùng 60
Bảng 3.14: Tổng hợp các khoản hỗ trợ tại các dự án thuộc 2 vùng nghiên cứu 65
Bảng 3.15: Ý kiến của người có đất bị thu hồi trong việc thực hiện các chính sách hỗ trợ66
Bảng 3.16: Thu nhập bình quân của người dân tại 2 vùng nghiên cứu 68
Bảng 3.17: Tình hình thu nhập của các hộ sau khi bị thu hồi đất tại 2 vùng nghiên cứu 69
Bảng 3.18: Tình hình an ninh trật tự xã hội của người dân sau khi thu hồi đất 71
Bảng 3.19: Tình hình sử dụng tiền đền bù của người dân bị thu hồi đất 73
tại 2 vùng nghiên cứu 73


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


v
MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài1
1.2. Mục tiêu 3
1.3. Yêu cầu 4
1.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 4
Chƣơng 1: TỔNG QUAN 5
1.1. Cơ sở pháp lý 5
1.2. Cơ sở khoa học 7
1.2.1. Cơ sở lý luận công tác bồi thường GPMB 7
1.2.2. Các văn bản pháp luật có liên quan đến công tác bồi thường
GPMB 7
1.3. Thực trạng về công tác bồi thường GPMB trên thế giới, trong nước và
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 8
1.3.1. Thực trạng về công tác bồi thường GPMB trên thế giới 8
1.3.2. Thực trạng về công tác bồi thường GPMB trong nước 11
1.3.2.1. Trước khi có Luật đất đai năm 1993 11
1.3.2.2. Thời kỳ từ năm 1993 đến năm 2003 14
1.3.2.3. Từ khi có Luật đất đai năm 2003 15
1.3.2.4. Thực trạng bồi thường giải phóng mặt bằng tại Việt Nam 16
1.3.3. Thực trạng về công tác bồi thường GPMB trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên 17
1.4. Các chính sách thực hiện khi bồi thường GPMB 21
1.5. Kết luận chung về vấn đề nghiên cứu. 21
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 23
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 23
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 23
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu 23
2.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 23
2.3. Nội dung nghiên cứu 23


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


vi
2.3.1. Đánh giá về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Võ Nhai
23
2.3.2. Thực trạng bồi thường GPMB trên địa bàn huyện Võ Nhai 23
3.3.2.1. Thực trạng bồi thường GPMB vùng đô thị 23
3.3.2.2. Thực trạng bồi thường GPMB vùng khu công nghiệp 23
2.3.3. Đánh giá nội dung chính sách bồi thường GPMB và cách thức tổ
chức thực hiện GPMB của địa phương 24
2.3.4. Đánh giá nội dung giá bồi thường trong công tác GPMB 24
2.3.5. Đánh giá phản ứng của người dân khi bị thu hồi đất 24
2.3.6. Đánh giá những ảnh hưởng của công tác GPMB đến đời sống của
người dân trong khu vực GPMB 25
2.3.7. Đề xuất phương án khả thi cho công tác bồi thường GPMB 25
2.4. Phương pháp nghiên cứu 25
2.4.1. Phương pháp điều tra, thu thập, tài liệu, số liệu thứ cấp. 25
2.4.2. Phương pháp điều tra, thu thập, tài liệu, số liệu sơ cấp. 26
2.4.3. Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp số liệu điều tra (sử
dụng phần mềm Microsoft Excel) 26
2.4.4. Phương pháp chuyên gia 26
2.4.5. Phương pháp so sánh, đối chiếu kết quả điều tra 26
2.4.6.Phương pháp tham khảo, kế thừa các tài liệu liên quan đến đề tài 26
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 27
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Võ Nhai 27
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 27
3.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội 35
3.1.2.1. Điều kiện kinh tế 35
3.1.2.2. Dân số và lao động 36

3.1.2.3. Tình hình dân trí 38
3.1.2.4. Thành phần dân tộc và tập quán sinh hoạt tại khu vực bị giải
tỏa 38
3.2. Tình hình quản lý và sử dụng đất trên địa bàn huyện Võ Nhai 39
3.3. Thực trạng công tác bồi thường GPMB trên địa bàn huyện Võ Nhai . 42
3.3.1. Tình hình chung 42

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


vii
3.3.2. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác bồi thường GPMB
trên địa bàn huyện Võ Nhai 46
3.3.2.1. Thuận lợi 46
3.3.2.2. Khó khăn 47
3.4. Đánh giá việc thực hiện công tác bồi thường giải phóng mặt bằng đối
với một số dự án thuộc 2 vùng: Vùng đô thị và vùng khu công nghiệp 48
3.4.1. Khái quát về các dự án nghiên cứu và các hộ điều tra, phỏng vấn48
3.4.2. Công tác bồi thường GPMB khi Nhà nước thu hồi đất tại các dự án
nghiên cứu 49
3.4.2.1. Tóm tắt Sơ lược về dự án 49
3.4.2.2. Công tác bồi thường, hỗ trợ cụ thể của các Dự án nghiên cứu 51
3.4.2.2.1. Chính sách áp dụng 51
3.4.2.2.2. Trình tự thực hiện 52
3.4.2.2.3. Đối tượng và điều kiện được bồi thường, hỗ trợ 53
3.4.2.2.4. Bồi thường về đất và các tài sản trên đất 56
3.4.2.2.5. Chính sách hỗ trợ 62
3.4.3. Đánh giá chung việc thực hiện các chính sách bồi thường GPMB
tại các dự án thuộc 2 vùng nghiên cứu trên địa bàn huyện Võ Nhai 66
3.4.3.1. Một số thành công 66

3.4.3.2. Một số hạn chế 67
3.5 Đánh giá tác động kinh tế- xã hội của các hộ gia đình sau khi bị thu hồi
đất và các chính sách đền bù, hỗ trợ việc làm cho các hộ nông dân bị mất
đất nông nghiệp 68
3.5.1. Tác động đến kinh tế 68
3.5.2. Tác động đến xã hội và môi trường 71
3.5.3. Tác động của các chính sách hỗ trộ đền bù 73
3.6. Đánh giá kết quả đạt được 74
3.6.1. Những thuận lợi, khó khăn và tồn tại 74
3.6.2. Kinh nghiệm chỉ đạo trong công tác GPMB 77
3.7. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bồi thường
GPMB trên địa bàn huyện Võ Nhai 79
3.7.1. Giải pháp về chính sách ưu đãi 79
3.7.2. Giải pháp về hiệu quả sử dụng đất 80

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


viii
3.7.3. Giải pháp về đào tạo nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập, ổn định
cuộc sống cho người có đất bị thu hồi 81
3.7.4. Về quản lý đất đai 84
3.7.5. Về khung giá bồi thường 84
3.7.6. Về tái định cư85
3.7.7. Các giải pháp về bảo vệ môi trường 85
3.7.8. Môi trường xã hội 86
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 88
4.1. Kết luận 88
4.1.1.Về chính sách bồi thường 88
4.1.2. Tác động của việc thực hiện chính sách bồi thường GPMB đến đời

sống và việc làm của người dân bị thu hồi đất 88
4.2. Đề nghị 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


1
MỞ ĐẦU


1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, khoảng thời gian
gần 20 năm vừa qua(1990 - 2009), nhu cầu sử dụng đất đai cho các mục đích
mở mang phát triển đô thị, xây dựng các khu công nghiệp, khu du lịch - dịch
vụ, khu dân cư, các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các công trình khác
phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như đảm bảo quốc phòng, an
ninh và nâng cao đời sống nhân dân ngày càng tăng. Công tác thu hồi đất
nhằm đáp ứng cho những nhu cầu trên một cách khoa học, tạo điều kiện cho
sự phát triển lâu dài và bền vững là một yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, công tác
thu hồi đất cũng làm ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị - xã hội của người
dân. Tái định cư cho người bị Nhà nước thực hiện thu hồi đất là vấn đề quan
trọng không chỉ để đảm bảo quyền lợi của người dân khi bị thu hồi đất mà
còn là một trong các yếu tố ảnh hưởng lớn đến tiến độ GPMB, bố trí lại dân
cư sau khi thu hồi đất, ổn định chính trị, xã hội, đặc biệt đối với đối tượng có
đất bị thu hồi.
Thực tế hiện nay cho thấy, công tác thu hồi đất của người dân để phục
vụ phát triển các dự án đầu tư trong nước, nước ngoài và việc đền bù cho
những người bị thu hồi đất là vấn đề hết sức nhạy cảm, đòi hỏi phải giải quyết
công bằng, dứt điểm. Giải quyết không tốt, không thoả đáng quyền lợi của

người dân có đất bị thu hồi và những người bị ảnh hưởng khi thu hồi đất để
dẫn đến bùng phát khiếu kiện, đặc biệt là những khiếu kiện tập thể đông
người, sẽ trở thành vấn đề xã hội phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình
hình an ninh trật tự, mất ổn định xã hội và phần nào ảnh hưởng đến lòng tin
của người dân đối với các chính sách của nhà nước. Nếu việc thu hồi đất bị
lạm dụng, quỹ đất nông nghiệp bị giảm dần, về lâu dài có thể ảnh hưởng tới
an ninh lương thực quốc gia.
Võ Nhai là một huyện miền núi phía đông bắc tỉnh Thái Nguyên. Võ
Nhai giáp các huyện Chợ Mới và Na Rì (tỉnh Bắc Kạn) về phía bắc; giáp
huyện Đồng Hỷ về phía tây; giáp huyện Yên Thế (tỉnh Bắc Giang) về phía

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


2
nam và giáp tỉnh Lạng Sơn về phía đông (các huyện Bình Gia, Bắc Sơn và
Hữu Lũng). Với diện tích tự nhiên là 845,10km
2
, huyện có 15 đơn vị hành
chính cấp xã/phường gồm 1 thị trấn và 14 xã, dân số là 62.326 người (2005)
mật độ là 73,75 người/km
2
. Trên địa bàn có các dân tộc: Kinh, Tày, Nùng,
Giao, H'mong, Cao Lan, Sán Chí, Hoa sinh sống[20]. Thu hồi đền bù và tái
định cư trong giải phóng mặt bằng không chỉ là mối quan tâm riêng của các
cấp chính quyền và địa phương nào mà đó đang là vấn đề "nóng" trong cả
nước. Hiện nay các vùng đồng bằng và các thành phố đang gặp rất nhiều khó
khăn trong công tác GPMB nhưng với một huyện vùng núi cao với rất nhiều
thành phần dân tộc sinh sống, dân trí còn thấp, tập quán sinh hoạt còn lạc hậu,
là huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất tỉnh (năm 2005 là 52,44%) như Võ

Nhai thì công tác GPMB lại càng khó khăn và nẩy sinh nhiều bất cập. Trong
những năm vừa qua, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái
Nguyên nói chung và quá trình đô thị hoá của các huyện nói riêng, nhu cầu sử
dụng đất cho việc phát triển cơ sở hạ tầng ngày càng trở nên bức xúc. Thực
hiện chủ trương chính sách của tỉnh về hợp tác đầu tư, với lợi thế là một
huyện có hệ thống giao thông phát triển, có tuyến quốc lộ 1B chạy qua địa
bàn, những năm gần đây, huyện Võ Nhai đã chấp nhận một số dự án đầu tư
như: Công trình xây dựng tuyến đường vận tải, bãi thải, khu hành chính mỏ
thuộc dự án Xi măng Thái Nguyên tại xã La Hiên; Công trình khai thác Mỏ
đá sét Long Giàn thuộc dự án Nhà máy Xi măng Thái Nguyên tại xã La Hiên;
Dự án khu khai thác vàng sa khoáng tại Bản Ná xã Thần Sa Trong quá trình
thu hồi đất, địa phương đã ban hành nhiều chính sách cụ thể đối với người
dân bị thu hồi đất về các vấn đề như bồi thường, hỗ trợ giải quyết việc làm,
đào tạo chuyển đổi nghề, hỗ trợ tái định cư…
Tuy nhiên, trên thực tế đã nẩy sinh nhiều bất cập trong công tác GPMB.
Các chính sách đền bù GPMB, các văn bản hướng dẫn thực hiện của Nhà
nước chưa đầy đủ, cụ thể. Luật và các văn bản dưới luật thường xuyên thay
đổi gây khó khăn cho việc xác định và phân loại mức độ đền bù cũng như giá
đền bù. Công tác quy hoạch sử dụng đất chưa thực sự quan tâm đến tính phức
tạp của công tác đền bù GPMB. Một bộ phận nhỏ người dân bị mất đất được
đền bù bằng tiền chưa định hướng ngay được những ngành nghề hợp lý để có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3
thể ổn định cuộc sống; Chưa giải quyết tốt việc làm cho người có đất bị thu
hồi, nhất là đối với nông dân không còn hoặc còn ít đất sản xuất hoặc những
người không còn việc làm như nơi ở cũ, chỉ một phần được đào tạo nghề, còn
đại đa số không có việc làm hay có việc làm nhưng không ổn định. Chưa giải

quyết tốt mối quan hệ về lợi ích giữa nhà đầu tư cần sử dụng đất với người có
đất bị thu hồi. Việc quy định giá đất quá thấp so với giá chuyển nhượng
quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường tuy có tác động tích cực tới việc việc
khuyến khích nhà đầu tư nhưng lại gây ra những phản ánh gay gắt của những
người có đất bị thu hồi. Giá đất bồi thường, hỗ trợ nhìn chung chưa sát giá thị
trường trong điều kiện bình thường, trong nhiều trường hợp quá thấp so với
giá đất cùng loại chuyển nhượng thực tế, đặc biệt là đối với đất nông nghiệp
trong khu vực đô thị và liền kề với khu dân cư. Tại vùng giáp ranh giữa các
tỉnh và vùng giáp ranh giữa đô thị và nông thôn còn chênh lệch quá lớn về giá
đất bồi thường, hỗ trợ. Còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các
ngành; chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, giải thích cho nhân dân
hiểu rõ quy định của pháp luật; hoặc né tránh, thiếu cương quyết, không giải
quyết dứt điểm, làm cho việc GPMB bị dây dưa kéo dài nhiều năm. Do đó,
đòi hỏi phải có các phương án đền bù thật hợp lý, công bằng đảm bảo cho mọi
người dân đều thỏa đáng với chính sách đền bù nhằm đẩy nhanh tiến độ công
tác GPMB.
Xuất phát từ thực tiễn trên, đồng thời được sự nhất trí của Ban giám
hiệu nhà trường - Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên, Khoa sau đại
học, được sự hướng dẫn của thầy giáo PGS.TS Đặng Văn Minh em tiến
hành nghiên cứu đề tài: "Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả của
công tác bồi thường giải phóng mặt bằng trên địa bàn huyện Võ Nhai
tỉnh Thái Nguyên."
1.2. Mục tiêu
- Xác định được thực trạng của công tác đền bù GPMB của huyện Võ Nhai
- Đánh giá những ưu điểm và hạn chế của hệ thống chính sách mà
UBND huyện Võ Nhai áp dụng trong công tác đền bù GPMB trên địa bàn
huyện Võ Nhai.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



4
- Xác định và đề xuất hoàn thiện những chính sách đó trên cơ sở phù hợp
Hiến pháp và các quy định khác của pháp luật hiện hành. Từ đó đưa ra giải
pháp để nâng cao hiệu quả của công tác bồi thường GPMB của huyện Võ
Nhai, phương hướng chủ yếu nhằm thực hiện tốt công tác đền bù GPMB hiện
nay và trong thời gian tới.
- Xác đình được những ảnh hưởng của công tác GPMB đến đời sống của
người dân trong khu vực GPMB
1.3. Yêu cầu
- Số liệu, tài liệu chính xác, khách quan
- Nắm chắc luật đất đai, các thông tư, nghị định, các văn bản dưới luật,
các quy định có liên quan đến công tác đền bù thiệt hại và GPMB
- Đề xuất các giải pháp giải quyết trên cơ sở các Nghị định, Quy định và
phù hợp với thực tế địa phương.
1.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Đề tài nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về hệ thống các
chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất trên địa bàn huyện Võ Nhai và đề xuất hướng hoàn thiện chính sách kèm
theo các giải pháp thực hiện.
- Góp phần hoàn thiện chính sách, phương thức đền bù thiệt hại của
UBND huyện khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện.
- Góp phần hạn chế, giải tỏa những bức xúc về khiếu kiện của người dân
bị thiệt hại do phải giải tỏa mặt bằng, bàn giao đất để triển khai các Dự án
trên địa bàn.
- Làm tài liệu cơ sở cho công tác quản lý ở địa phương.









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


5
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN

1.1. Cơ sở pháp lý
Công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư luôn được Đảng và Nhà nước
quan tâm thể hiện bằng hệ thống các chính sách trong từng thời kỳ của đất
nước. Có thể liệt kê một số chính sách theo từng giai đoạn như sau:
- Nghị định 151/TTg ngày 14/4/1959 quy định thể lệ tạm thời về trưng
dụng ruộng đất;
- Thông tư 1792/TTg ngày 11/1/1970 về bồi thường nhà cửa, đất đai cây
cối lưu niên, các hoa mầu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế, mở
rộng thành phố;
- Quyết định số 186/HĐBT ngày 31/5/1980 về đền bù thiệt hại đất nông
nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục đích khác.
- Nghị định số 90/CP ngày 17/8/1984 về việc đền bù thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng;
- Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 12/03/2004 của Chính phủ về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
- Thông tư 116/2004/TT-BTC ngày 12/07/2004 của Bộ Tài chính về
hướng dẫn Nghị định 197/2004/NĐ-CP
- Nghị định 198/2004/NĐ-CP ngày 12/03/2004 của Chính phủ về thu

tiền sử dụng đất
- Thông tư 117/2004/TT-BTC ngày 12/07/2004 của Chính phủ về hướng
dẫn Nghị định 198/2004/NĐ-CP
- Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 về sửa đổi, bổ sung một số
điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành luật đất đai và Nghị định
187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty Cổ phần
- Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ quy định Bổ
sung về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


6
- Thông tư 06/2007/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên môi trường về
hướng dẫn một số điều của Nghị định 84/2007/ND-CP.
- Quyết định 10/2007/QĐ-BCVT ngày 14/04/2007 của Bộ Bưu chính viễn
thông ban hành bảng giá ca máy và thiết bị thi công XD công trình BCVT.
- Công văn số 11031/BTC-QLCS của Bộ Tài chính về việc giải đáp
vướng mắc trong thực hiện chính sách bồi thường và tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất
- Công văn số 3869/BTC-QLCS của Bộ Tài chính về việc giải đáp
vướng mắc trong thực hiện chính sách bồi thường hỗ trợ và tái định cư.
-Thông tư 107/2007/TT-BTC ngày 07 tháng 9 năm 2007 Hướng dẫn về
quản lý thanh toán, quyết toán vốn đầu tư dự án giải phóng mặt bằng, tái định
cư sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
- Thông tư liên tịch của Bộ Tài chính - Bộ Tài nguyên Môi trường số
14/2008/TTLT- BTC-BTNMT ngày 31 tháng 01 năm 2008 hướng dẫn thực
hiện một số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm
2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về
đất đai.
- Nghị định số 44/2008/NĐ-CP ngày 09/4/2008 Về sửa đổi, bổ sung một
số điều cảu Nghị định 198/2004/NĐ-CP ngày/12/2004 của CP về thu tiền sử
dụng đất.
Kèm theo các quyết định, nghị định, thông tư, văn bản hướng dẫn thực
hiện của các Bộ ngành chức năng là các Biểu giá đất của địa phương; Biểu giá
bồi thường hoa màu,tài sản, vật kiến trúc khi thu hồi đất của địa phương; các
văn bản về bồi thường, GPMD, di dân , tái định cư của địa phương (nếu có).
Có thể nói hệ thống chính sách của Nhà nước đã thay đổi để phù hợp với
từng thời kỳ phát triển, phục vụ tốt công tác Quản lý nhà nước về đất đai nói
chung và công tác bồi thường GPMB nói riêng để đi đến một mục tiêu cuối
cùng là phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


7
1.2. Cơ sở khoa học
1.2.1. Cơ sở lý luận công tác bồi thường GPMB
Giải phóng mặt bằng là quá trình đa dạng và phức tạp. Nó thể hiện khác
nhau đối với mỗi một dự án, nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của các bên
tham gia và lợi ích của toàn xã hội.
- Tính đa dạng thể hiện: mỗi dự án được tiến hành trên một vùng đất
khác nhau với điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội và trình độ dân trí nhất định.
Đối với khu vực nội thành, khu vực ven đô, khu vực ngoại thành, mật độ
dân cư khác nhau, ngành nghề đa dạng và đều hoạt động sản xuất theo một
đặc trưng riêng của vùng đó. Do đó, giải phóng mặt bằng cũng được tiến hành
với những đặc điểm riêng biệt.

- Tính phức tạp thể hiện: Đất đai là tài sản có giá trị cao, có vai trò quan
trọng trong đời sống kinh tế - xã hội đối với mọi người dân. Ở khu vực nông
thôn, dân cư chủ yếu sống nhờ vào hoạt động sản xuất nông nghiệp mà đất đai
lại là tư liệu sản xuất quan trọng trong khi trình độ sản xuất của nông dân
thấp, khả năng chuyển đổi nghề nghiệp khó khăn do đó tâm lý dân cư vùng
này là giữ được đất để sản xuất, thậm chí họ cho thuê đất còn được lợi nhuận
cao hơn là sản xuất nhưng họ vẫn không cho thuê. Trước tình hình đó đã dẫn
đến công tác tuyên truyền, vận động dân cư tham gia di chuyển là rất khó
khăn và việc hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp là điều cần thiết để đảm bảo đời
sống dân cư sau này .
1.2.2. Các văn bản pháp luật có liên quan đến công tác bồi thường GPMB
- Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính
phủ V/v bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; Thông tư
số 116/2004/ TT – BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài chính V/v hướng dẫn
thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ – CP.
- Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ quy định
Bổ sung về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về
đất đai.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


8
- Quyết định số 2958/2006/QĐ-UBND ngày 27/12/2006 của UBND
tỉnh Thái Nguyên V/v Quy định giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
năm 2007
- Quyết định số 2044/2005/QĐ – UBND ngày 30/9/2005 của UBND
tỉnh Thái Nguyên V/v ban hành quy định thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Nghị định 197/2004/NĐ – CP ngày

03/12/2004 của Chính Phủ.
- Quyết định 2550/2007/QĐ-UBND ngày 14/11/2007 của UBND tỉnh
Thái Nguyên V/v sửa đổi điều 21 quy định kèm theo Quyết định
2044/2005/QĐ-UBND về thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất do UBND Tỉnh Thái Nguyên ban hành
1.3. Thực trạng về công tác bồi thƣờng GPMB trên thế giới, trong nƣớc
và trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
1.3.1. Thực trạng về công tác bồi thường GPMB trên thế giới
- Trung Quốc [33]
Ở Trung Quốc, đất đai thuộc chế độ công hữu, gồm sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể. Đất đai ở khu vực thành thị và đất xây dựng thuộc sở hữu nhà
nước. Đất ở khu vực nông thôn và đất nông nghiệp thuộc sở hữu tập thể, nông
dân lao động. Theo quy định của Luật đất đai Trung Quốc năm 1998, đất đai
thuộc sở hữu nhà nước được giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng theo các
hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất (cấp đất), giao đất có thu tiền sử
dụng đất và cho thuê đất.
Đất thuộc diện được cấp bao gồm đất sử dụng cho cơ quan nhà nước,
phục vụ mục đích công cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng và phục vụ cho mục
đích quốc phòng, an ninh. Đất sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh thì
được Nhà nước giao đất theo hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc
là cho thuê đất.
Trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng để sử
dụng vào mục đích công cộng, lợi ích quốc gia thì Nhà nước có chính sách

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9
bồi thường và tổ chức TĐC cho người bị thu hồi đất.
Vấn đề bồi thường cho người có đất bị thu hồi được pháp luật đất đai

Trung Quốc quy định như sau:
Về thẩm quyền thu hồi đất: Chỉ có Chính phủ (Quốc vụ viện) và chính
quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mới có quyền thu hồi đất. Quốc vụ
viện có thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp từ 35 ha trở lên và 70 ha trở lên đối
với các loại đất khác. Dưới hạn mức này thì do chính quyền tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương ra quyết định thu hồi đất. Đất nông nghiệp sau khi thu hồi sẽ
chuyển từ đất thuộc sở hữu tập thể thành đất thuộc sở hữu nhà nước.
Về trách nhiệm bồi thường: Pháp luật đất đai Trung Quốc quy định,
người nào sử dụng đất thì người đó có trách nhiệm bồi thường. Phần lớn tiền
bồi thường do người sử dụng đất trả. Tiền bồi thường bao gồm các khoản như
lệ phí sử dụng đất phải nộp cho Nhà nước và các khoản tiền trả cho người có
đất bị thu hồi. Ngoài ra, pháp luật đất đai Trung Quốc còn quy định mức nộp
lệ phí trợ cấp đời sống cho người bị thu hồi đất là nông dân cao tuổi không
thể chuyển đổi sang ngành nghề mới khi bị mất đất nông nghiệp, khoảng từ
442.000-2.175.000 nhân dân tệ/ha.
Các khoản phải trả cho người bị thu hồi đất gồm tiền bồi thường đất đai,
tiền trợ cấp TĐC, tiền bồi thường hoa màu và tài sản trên đất. Cách tính tiền
bồi thường đất đai và tiền trợ cấp TĐC căn cứ theo giá trị tổng sản lượng của
đất đai những năm trước đây rồi nhân với một hệ số do Nhà nước quy định.
Còn đối với tiền bồi thường hoa màu và tài sản trên đất thì xác định theo giá
thị trường tại thời điểm thu hồi đất.
Về nguyên tắc bồi thường: các khoản tiền bồi thường phải đảm bảo cho
người dân bị thu hồi đất có chỗ ở bằng hoặc cao hơn so với nơi ở cũ. Ở Bắc
Kinh, phần lớn các gia đình dùng số tiền bồi thường đó cộng với khoản tiền
tiết kiệm của họ có thể mua được căn hộ mới. Còn đối với người dân ở khu
vực nông thôn có thể dùng khoản tiền bồi thường mua được hai căn hộ ở cùng
một nơi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



10
Tuy nhiên, ở thành thị, cá biệt cũng có một số gia đình sau khi được bồi
thường cũng không mua nổi một căn hộ để ở. Những đối tượng trong diện
giải toả mặt bằng thường được hưởng chính sách mua nhà ưu đãi của Nhà
nước, song trên thực tế họ thường mua nhà bên ngoài thị trường.
Về tổ chức thực hiện và quản lý giải toả mặt bằng: Cục quản lý tài
nguyên đất đai ở các địa phương thực hiện việc quản lý giải toả mặt bằng.
Người nhận khu đất thu hồi sẽ thuê một đơn vị xây dựng giải toả mặt bằng
khu đất đó, thường là các đơn vị chịu trách nhiệm thi công công trình trên khu
đất giải toả.
Nhìn chung hệ thống pháp luật về bồi thường và TĐC của Trung Quốc đều
nhằm bảo vệ những người mà mức sống có thể bị giảm do việc thu hồi đất để
thực hiện các dự án. Theo một nghiên cứu gần đây của WB thì các luật về
TĐC của Trung Quốc đối với các dự án phát triển đô thị, công nghiệp và giao
thông "đã đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của WB trong tài liệu hướng dẫn thực
hiện TĐC".[12]
- Australia
Luật đất đai của Australia quy định đất đai của quốc gia thuộc sở hữu Nhà nước
và sở hữu tư nhân. Luật đất đai bảo hộ tuyệt đối quyền lợi và nghĩa vụ của chủ
sở hữu đất đai. Chủ sở hữu có quyền cho thuê, chuyển nhượng, thế chấp, thừa kế
theo di chúc mà không có sự cản trở nào, kể cả việc tích luỹ đất đai.
Theo luật của Australia 1989 có hai loại thu đất, đó là thu đất bắt buộc và thu
đất tự nguyện.
Thu hồi đất tự nguyện được tiến hành khi chủ đất cần được thu hồi đất.
Trong thu hồi đất tự nguyên không có quy định đặc biệt nào được áp dụng mà
việc thoả thuận đó là nguyên tắc cơ bản nhất. Chủ có đất cần được thu hồi và
người thu hồi đất sẽ thoả thuận giá bồi thường đất trên tinh thần đồng thuận
và căn cứ vào thị trường. Không có bên nào có quyền hơn bên nào trong thoả
thuận và cũng không bên nào được áp đặt đối với bên kia.

Thu hồi đất bắt buộc được Nhà nước Australia tiến hành khi Nhà nước

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


11
có nhu cầu sử dụng đất cho các mục đích công cộng và các mục đích khác.
Thông thường, nhà nước có được đất đai thông qua đàm phán.
Trình tự thu hồi đất bắt buộc được thực hiện như sau: Nhà nước gửi
cho các chủ đất một văn bản trong đó nêu rõ mục tiêu thu hồi đất vì các mục
đích công cộng. Văn bản này gồm các nội dung chính như cơ quan muốn thu
hồi đất, miêu tả chi tiết mảnh đất, mục đích sử dụng đất sau khi thu hồi và các
giải thích vì sao mảnh đất đó phù hợp với mục tiêu công cộng đó. Chủ sở hữu
mảnh đất có thể yêu cầu Bộ trưởng Bộ Tài Chính và quản lý xem xét lại vấn
đề thu hồi đất. Nếu chủ sở hữu vẫn chưa hài lòng thì có thể tiếp tục yêu cầu
trọng tài phúc thẩm hành chính phán xử. Trọng tài phúc thẩm hành chính
không thể xem xét tính đúng đắn về quyết định của Chỉnh phủ nhưng có thể
xem xét các vấn đề liên quan khác. Nhà nước thông báo rộng rãi quyết định
thu hồi đất và chủ sở hữu đất phải thông báo cho bất kỳ ai muốn mua mảnh
đất đó về quyết định thu hồi đất của Chính phủ. Sau đó, Nhà nước sẽ ban
hành quyết định thu hồi đất và thông báo trên báo chí. Chủ sở hữu đất nhận
được thông báo khuyên tiến hành các thủ tục yêu cầu bồi thường. Chủ sở hữu
đất thông thường có quyền tiếp tục ở trên đất ít nhất là 6 tháng sau khi đã có
quyết định thu hồi đất. Ngay sau khi có quyết định thu hồi đất, chủ đất có thể
yêu cầu nhà nước bồi thường. Nguyên tắc của bồi thường là công bằng và
theo giá thị trường. Thông thường, các yếu tố sẽ được tính toán trong quá
trình bồi thường đó là giá thị trường, giá đặc biệt đối với chủ sở hữu, các chi
phí liên quan như chi phí di chuyển, chi phí TĐC.[13]
1.3.2. Thực trạng về công tác bồi thường GPMB trong nước
1.3.2.1. Trƣớc khi có Luật đất đai năm 1993

Trong mỗi kiểu Nhà nước tuỳ theo tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và
những đặc điểm truyền thống, huyết thống, tập tục mà các hình thức sở hữu
đất đai luôn được giai cấp thống trị chú trọng. Ngay từ thời kỳ phát triển Nhà
nước trung ương tập quyền đến thời Nguyễn, chính sách bồi thường cho
người bị thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đã được xác lập và chủ yếu tập

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


12
trung vào bồi thường cho ruộng đất canh tác, đất ở không được quan tâm
nhiều so với các loại đất khác. Hình thức bồi thường chủ yếu bằng tiền, mức
bồi thường được quy định chặt chẽ, tương ứng với những thiệt hại của người
bị thu hồi đất
Sau cách mạng tháng 8/1945, với mục tiêu người cày có ruộng, ngày 04
tháng 12 năm 1953, Luật cải cách ruộng đất ra đời nhằm thủ tiêu quyền chiếm
hữu ruộng đất của thực dân Pháp và tay sai bán nước ở Việt Nam, xoá bỏ chế
độ phong kiến về chiếm hữu ruộng đất, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của
nông dân, đồng thời tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng.
Khi trưng thu ruộng đất, Nhà nước xác định, cách bồi thường tốt nhất là
vận động nông dân điều chỉnh hoặc nhượng ruộng đất cho người bị trưng
dụng để họ tiếp tục sản xuất. Trường hợp không làm được như vậy, về đất sẽ
được bồi thường bằng tiền từ 1- 4 năm sản lượng thường niên của ruộng đất
bị trưng dụng. Mức bồi thường căn cứ vào thực tế ở mỗi nơi, đời sống của
nhân dân cao hay thấp, ruộng đất ít hay nhiều, tốt hay xấu mà định. Có thể
nói, Nghị định số 151/TTg ra đời phần nào đáp ứng nhu cầu trưng dụng ruộng
đất trong những năm 1960. Tuy nhiên, Nghị định này chưa có quy định cụ thể
về mức bồi thường mà chủ yếu dựa vào sự thoả thuận giữa các bên.
Ngày 11 tháng 01 năm 1970, Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư
1792/TTg quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây

cối, các hoa màu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế, mở rộng
thành phố. Về thể thức bồi thường, trước hết là các ngành, các cơ quan xây
dựng phải đến liên hệ với chính quyền các cấp để tiến hành thương lượng với
nhân dân, căn cứ vào tài sản hiện có hoặc hoa màu, công sức bỏ ra khai phá
và phân loại đất đai của địa phương mà định giá bồi thường cho phù hợp.
Mặc dù chính sách bồi thường về đất chưa được quy định trong luật về thể
chế thành một chính sách đầy đủ, song quy định về bồi thường khi nhà nước
trưng dụng đất tại Thông tư 172/TTg đã có sự thay đổi so với Nghị định
151/TTg, từ "chiếu cố đúng mức quyền lợi và đời sống của những người có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


13
ruộng đất bị trưng dụng" trước đây sang "đảm bảo thoả đáng quyền lợi kinh tế
của Hợp tác xã và của nhân dân" động thời những quy định tại Nghị định số
151/TTg trước đây chỉ có tính nguyên tắc thì đến Thông tư 1792-TTg đã được
quy định cụ thể mức bồi thường nhà ở, đất đai, cây lâu năm, hoa màu trên đất.
Luật đất đai năm 1988 ra đời dựa trên quy định đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý, khi Nhà nước thu hồi đất để phục
vụ cho các mục đích công cộng, người sử dụng đất không được Nhà nước bồi
thường bằng đất, chỉ được bồi thường bằng tiền, tài sản hoa màu có trên diện
tích đất bị thu hồi. [7]
Ngày 31 tháng 5 năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số
186/HĐBT về bồi thường thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển
sang sử dụng vào mục đích khác. Theo quy định của Nghị định số 186/HĐBt
thì mọi tổ chức, cá nhân được giao đất nông nghiệp, đất có rừng để sử dụng
vào mục đích khác phải bồi thường thiệt hại về đất nông nghiệp, đất có rừng
cho Nhà nước. Khoản tiền bồi thường thiệt hại về đất nông nghiệp, đất có
rừng mà người được Nhà nước giao đất phải nộp được điều tiết về ngân sách

Trung ương 30%, còn lại 70% thuộc ngân sách địa phương để sử dụng việc
khai hoang, phục hoá, cải tạo đất nông nghiệp và định canh, định cư cho nhân
dân vùng bị lấy đất. Người có đất bị thu hồi chỉ được bồi thường thiệt hại tài
sản trên đất, trong lòng đất. Nếu Nhà nước thu hồi đất vào đất làm nhà ở, việc
bồi thường thiệt hại về đất không được đặt ra và người bị thu hồi đất làm nhà
ở sẽ phải tự lo liệu.
Có thể nhận thấy thời kỳ này đất đai chưa được thừa nhận là có giá cho nên
các chính sách bồi thường GPMB còn có nhiều hạn chế, thể hiện trong cách
tính giá trị bồi thường, phương thức thực hiện. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách
công bằng thì những chính sách này cũng đã đóng vai trò tích cực trong việc
GPMB để dành đất cho việc xây dựng các công trình quan trọng trong hệ
thống cơ sở hạ tầng ban đầu của đất nước.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


14
1.3.2.2. Thời kỳ từ năm 1993 đến năm 2003
Hiến pháp 1992 đặt nền móng cho việc xây dựng chính sách bồi thường
GPMB qua những điều 17, 18, 23.
Trên cơ sở Hiến pháp 1992, Luật đất đai 1993 được Quốc hội thông
qua và có hiệu lực từ ngày 15 tháng 10 năm 1993. Với quy định "đất có giá"
và người sử dụng đất có các quyền và nghĩa vụ, đây là sự đổi mới có ý nghĩa
rất quan trọng đối với công tác bồi thường GPMB của Luật đất đai năm 1993.
Những quy định về bồi thường GPMB của Luật đất đai năm 1993 đã
thu được những thành tựu quan trọng trong giai đoạn đầu thực hiện, nhưng
càng về sau, do sự chuyển biến mau lẹ của tình hình kinh tế xã hội, nó đã dần
mất đi vai trò làm động lực thúc đẩy phát triển. Để tạo điều kiện đẩy nhanh
tốc độ GPMB đẩy nhanh tiến độ thi công công trình, đồng thời bảo đảm
quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

của Luật đất đai đã được thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2001.
Để cụ thể hoá các quy định của Luật đất đai năm 1993 và Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 2001, nhiều văn bản quy định về
chính sách bồi thường GPMB đã được ban hành, bao gồm:
- Nghị định số 90/CP ngày 17 tháng 9 năm 1994 của Chính phủ quy
định về việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào
mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Xét về tính
chất và nội dung, Nghị định 90/CP đã đáp ứng được một số yêu cầu nhất
định, so với các văn bản trước, Nghị định này là văn bản pháp lý mang tính
toàn diện cao và cụ thể hoá việc thực hiện chính sách bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất, việc đền bù bằng đất cùng mục đích sử dụng, cùng hạng
đất.v.v.
- Nghị định 87/CP ngày 17/8/1994 ban hành khung giá các loại đất;
- Thông tư Liên bộ số 94/TTLB ngày 14/11/1994 của Liên bộ Tài chính
–Xây dựng- Tổng cục Địa chính – Ban vật giá Chính phủ hướng dẫn thi hành
Nghị định 87/CP;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


15
- Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 1998 của Chính
phủ về việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; thay thế Nghị
định số 90/CP nói trên;
- Thông tư 145/1998/TT-BTC ngày 04/11/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn
thi hành Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 1998 của Chính phủ.
- Chính sách bồi thường GPMB cụ thể theo quy định của Nghị định số
22/1998/NĐ-CP và Thông tư số 145/1998/TT-BTC:
Nghị định số 22/1998/NĐ-CP và Thông tư số 145/1998/TT-BTC đã

quy định rõ phạm vi áp dụng bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, đối
tượng phải bồi thường , đối tượng được bồi thường, phạm vi bồi thường
thiệt hại và các chính sách cụ thể về bồi thường về đất, tài sản gắn liền với
đất, việc lập khu TĐC cũng như việc tổ chức thực hiện.
1.3.2.3. Từ khi có Luật đất đai năm 2003
Luật đất đai năm 2003 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực ngày 01
tháng 7 năm 2004. Để hướng dẫn việc bồi thường GPMB theo quy định của
Luật đất đai năm 2003, một số văn bản sau đã được ban hành:
- Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về
phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất;
- Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính
phủ về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất;
- Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 2006 của Chính
phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành
Luật đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty Nhà
nước thành công ty cổ phần;
- Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07 tháng 12 năm 2004 của Bộ
Tài Chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng
12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
- Thông tư số 69/2006/TT-BTC ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Bộ Tài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


16
chính sửa đổi, bổ sung Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07 tháng 12 năm
2004 của Bộ Tài Chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP
ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất.
Về cơ bản, chính sách bồi thường GPMB theo Luật đất đai 2003 đã kế thừa

những ưu điểm của chính sách trong thời kỳ trước, đồng thời có những đổi mới
nhằm góp phần tháo gỡ các vướng mắc trong việc bồi thường GPMB hiện nay.
Tuy nhiên để tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong công tác bồi
thường GPMB ngày 25-5-2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định
84/2007/NĐ-CP quy định bổ sung về việc cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất, thực
hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai; Thông tư 06 Hướng dẫn
thực hiện một số điều của Nghị định 84/2007/NĐ-CP, Thông tư 145/2007/TT-
BTC Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 188/204/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của
Chính phủ về phương pháp xác định giá đất; Thông tư liên tịch số
14/2008/TTLT/BTC-BTNMT ngày 31 tháng 01 năm 2008 Hướng dẫn thực
hiện một số điều của Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính
phủ quy định bổ sung về việc cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất, thực hiện quyền sử
dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.
Về Nghị định 84/2007/NĐ/CP tập trung vào việc làm rõ, bổ sung Nghị
định 197/2004/NĐ-CP và Nghị định số 17/2006/NĐ-CP về một số những vấn
đề cơ bản chính sách bồi thường, trình tự thủ tục cấp GCNQSDĐ, trình tự thủ
tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
1.3.2.4. Thực trạng bồi thƣờng giải phóng mặt bằng tại Việt Nam [5],[33]
Vai trò của đất đai đối với quá trình phát triển xã hội ngày càng được
nhìn nhận đầy đủ, toàn diện và khoa học, đặc biệt là trong thời kỳ CNH-HĐH
đất nước. Với những đổi mới tích cực như đã nghiên cứu ở trên, trong những
năm qua, việc thực hiện chính sách bồi thường GPMB ở Việt Nam đã và đang
đạt được những hiệu quả nhất định. Việc thu hồi đất để thực hiện các dự án đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


17

góp phần rất quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội nhưng đây cũng là một
trong những vấn đề nổi cộm nhất trong công tác quản lý đất đai hiện nay.
Tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (BNNPTNT) kết
hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức hội thảo đánh giá tình hình
thu hồi đất của nông dân để thực hiện CNH-HĐH.
* Về diện tích đất nông nghiệp, đẩt ở bị thu hồi để phát triển các
khu công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng
Trong 5 năm, từ năm 2001-2005, tổng diện tích đất nông nghiệp đã thu
hồi là 366,44 nghìn ha (chiếm gần 4 % tổng diện tích đất nông nghiệp của cả
nước). Trong đó diện tích đất nông nghiệp đã thu hồi để xây dựng các khu
công nghiệp và cụm công nghiệp là 39,56 nghìn ha, xây dựng đô thị là 70,32
nghìn ha và xây dựng kết cấu hạ tầng là 136,17 nghìn ha.
Các vùng kinh tế trọng điểm và khu vực có diện tích đất nông nghiệp
thu hồi lớn nhất, chiếm khoảng 50% diện tích đất thu hồi trên toàn quốc.
Những địa phương có diện tích đất thu hồi lớn là Tiền Giang (20.308 ha),
Đồng Nai (19.752 ha), Bình Dương (16.627 ha), Quảng Nam (11.812 ha), Cà
Mau (13.242 ha ), Hà Nội (7.776 ha), Hà Tĩnh (6.391 ha), Vĩnh phúc (5.573
ha). Theo số liệu điều tra của BNNPTNT tại 16 tỉnh trọng điểm về thu hồi đất,
diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi chiếm khoảng 89% và diện tích đất thổ cư
chiếm 11%. Đồng bằng sông Hồng là vùng có diện tích đất bị thu hồi lớn
nhất, chiếm 4,4% tổng diện tích đất nông nghiệp của cả nước, tỷ lệ này ở
Đông Nam Bộ là 2,1%, ở nhiều vùng khác là dưới 0,5%.
Mặc dù diện tích đất nông nghiệp, đất ở bị thu hồi tại mỗi tỉnh chiếm tỷ
lệ nhỏ trong tổng số diện tích đất tự nhiên của địa phương nhưng lại tập trung
vào một số huyện, xã có mật độ dân số cao. Diện tích bình quân đầu người
thấp, có xã diện tích đất bị thu hồi chiếm tới 70%-80% diện tích đất canh tác
1.3.3. Thực trạng về công tác bồi thường GPMB trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên [30]
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi, tỉnh Thái Nguyên có 9 đơn vị
hành chính gồm 1 thành phố Thái Nguyên, 1 thị xã Sông Công và 7 huyện:

Võ Nhai, Phú Lương, Đồng Hỷ, Phú Bình, Định Hóa, Đại Từ, Phổ Yên.
Trong 5 năm gần đây Thái Nguyên luôn giữ tốc độ phát triển kinh tế (GDP)

×