Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

ĐỀ TÀI HƯỚNG DẪN HỌC SINH THCS PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.65 KB, 19 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
HƯỚNG DẪN HS PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ
A- PHẦN MỞ ĐẦU.
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Trong việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng bộ môn
nói riêng. Việc cải tiến phương pháp dạy học là một nhân tố quan trọng, bên
cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, việc phát huy tính tích cực của học
sinh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vì xét cho cùng công việc giáo dục phải
được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động, việc khơi dậy phát triển ý
thức năng lực tư duy, bồi dưỡng phương pháp tự học là con đường phát triển tối
ưu của giáo dục. Cũng như trong học tập các bộ môn khác, học Vật lí lại càng
cần phát triển năng lực tích cực, năng lực tư duy của học sinh để không phải chỉ
biết mà còn phải hiểu để giải thích hiện tượng Vật lí cũng như áp dụng kiến thức
và kỹ năng vào các hoạt động trong cuộc sống gia đình và cộng đồng.
Trong khuôn khổ nhà trường phổ thông, bài tập Vật lí thường là những
vấn đề không quá phức tạp, có thể giải được bằng những suy luận lô gíc, bằng
tính toán hoặc thực nghiệm dựa trên cơ sở những quy tắc Vật lí, phương pháp
Vật lí đã quy định trong chương trình học. Nhưng bài tập Vật lí lại là một khâu
quan trọng trong quá trình dạy và học Vật lí.
Việc giải bài tập Vật lí giúp củng cố đào sâu, mở rộng những kiến thức cơ
bản của bài giảng, xây dựng củng cố kỹ năng kỹ xảo vận dụng lý thuyết vào
thực tiễn, là biện pháp quý báu để phát triển năng lực tư duy của học sinh, có tác
dụng sâu sắc về mặt giáo dục tư tưởng, đạo đức lớn. Vì thế trong việc giải bài
tập Vật lí mục đích cơ bản cuối cùng không phải chỉ tìm ra đáp số, tuy điều này
cũng quan trọng và cần thiết, mục đích chính của việc giải là ở chỗ người làm
bài tập hiểu được sâu sắc hơn các khái niệm, định luật Vật lí, vận dụng chúng
vào những vấn đề thực tế trong cuộc sống, trong lao động.
Qua thực tế giảng dạy Vật lí ở trường THCS nói chung bộ môn Vật lí 8, 9
nói riêng, tôi nhận thấy học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn lúng túng khi giải

3


các bài tập Vật lí, điều này ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học.
Vừa qua cùng với sự đổi mới phương pháp dạy học chung của ngành giáo
dục, đồng thời bản thân cũng tự kiểm tra, tổng kết tình hình dạy học Vật lí, cùng
với việc tiếp thu các chuyên đề, thấy được tác dụng giáo dưỡng và giáo dục rất
lớn đối với học sinh khi giải bài tập Vật lí. Từ đó vận dụng vào quá trình giảng
dạy, tôi thấy có hiệu quả hơn so với trước đây, chất lượng học sinh được nâng
cao rõ rệt
Xuất phát từ những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài: “ Hướng dẫn
học sinh phương giải bài tập Vật Lý – THCS” nhằm giúp học sinh nắm chắc
được kiến thức cơ bản, mở rộng và hiểu sâu kiến thức. Từ dó nâng cao được
chất lượng bộ môn Vật lí và biết vận dụng vào thực tế.
B- NỘI DUNG ĐỀ TÀI.
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
I. MỤC ĐÍCH HƯỚNG DẪN HỌC SINH PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TẬP VẬT
LÍ.
1. Bài tập Vật lí giúp cho học sinh ôn tập, đào sâu, mở rộng kiến thức.
Trong giai đoạn xây dựng kiến thức học sinh đã nắm được cái chung các
khái quát của các khái niệm, định luật và cũng là các khái niệm trìu tượng.
Trong các bài tập học sinh phải vận dụng những kiến thức khái quát, trìu tượng
đó vào những trường hợp cụ thể rất đa dạng, nhờ thế mà học sinh nắm được
những biểu hiện rất cụ thể của chúng trong thực tế và phạm vi ứng dụng của
chúng. Ngoài những ứng dụng quan trọng trong kỹ thuật bài tập Vật lí giúp cho
học sinh thấy được những ứng dụng muôn hình muôn vẻ trong thực tiễn của các
kiến thức đã học.
Còn khái niệm, định luật Vật lí thì rất đơn giản nhưng biểu hiện của
chúng trong tự nhiên thì rất phức tạp. Do đó bài tập vật lí sẽ giúp luyện tập cho
học sinh phân tích để nhận biết được những trường hợp phức tạp đó.

4
Bài tập vật lí là một phương tiện củng cố, ôn tập kiến thức sinh động. Khi

giải bài tập vật lí học sinh phải nhớ lại các kiến thức đã học, có khi phải sử dụng
tổng hợp các kiến thức của nhiều chương nhiều phần của chương trình.
2. Bài tập có thể là điểm khởi đầu để dẫn đến kiến thức mới.
Nhiều khi bài tập được sử dụng khéo léo có thể dẫn học sinh đến những
suy nghĩ về một hiện tượng mới hoặc xây dựng một khái niệm mới để giải thích
hiện tượng mới do bài tập phát hiện ra.
3.Giải bài tập vật lý rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, vận dụng lý thuyết vào
thực tiễn, rèn luyện thói quen vận dụng kiến thức khái quát.
Bài tập vật lý là một trong những phương tiện rất quý báu để rèn luyện kỹ
năng, kỹ xảo vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, rèn luyện thói quen vận dụng
kiến thức khái quát đã thu nhận được để giải quyết các vấn đề của thực tiễn.
4. Giải bài tập là một trong những hình thức làm việc tự lực cao của học
sinh.
Trong khi làm bài tập do phải tự mình phân tích các điều kiện của đầu bài,
tự xây dựng những lập luận, kiểm tra và phê phán những kết luận mà học sinh
rút ra được nên từ duy của học sinh được phát triển năng lực làm việc tự lực
nâng cao, tính kiên trì được phát triển.
5. Giải bài tập góp phần làm phát triển tư duy sáng tạo của học sinh.
Có nhiều bài tập vật lý không chỉ dừng lại trong phạm vi vận dụng những
kiến thức đã học mà còn giúp bồi dưỡng cho học sinh tư duy sáng tạo. Đặc biệt
là những bài tập giải thích hiện tượng, bài tập thí nghiệm.
6. Giải bài tập vật lý là một phương tiện để kiểm tra mức độ nắm vững
kiến thức của học sinh.
Tuỳ theo cách ra bài tập ta có thể phân loại được các mức độ nắm vững
kiến thức của học sinh giúp việc đánh giá chất lượng học sinh được chính xác
II.PHÂN LOẠI BÀI TẬP VẬT LÝ
Sơ đồ phân loại bài tập vật lí
1. Phân loại theo phương tiện giải :

5


2. Phân loại theo mức độ


CHƯƠNG II. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
 KHẢO SÁT THỰC TẾ.
 TỔ CHỨC CHUYÊN ĐỀ.
 HƯỚNG DẪN HỌC SINH HỌC TẬP VẬT LÍ Ở NHÀ .
 KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG.
I. KHẢO SÁT THỰC TẾ.

Bài tập vật lí
Bài tập
đồ thị
Bài tập thí
nghiệm
Bài tập
định lượng
Bài tập
định tính
Bài tập thí
nghiệm
Bài tập dự
đoán hiện
tượng
Bài tập
giải thích
hiện
tượng
6

Bài tập sáng tạoBài tập tổng hợpBài tập tập dượt
Bài tập vật lí
1. Thực trạng trước khi thực hiện đề tài.
Trước khi thực hiện đề tài qua giảng dạy ở trường THCS LONG HÒA,
qua tìm hiểu và trao đổi với đồng nghiệp tôi nhận thấy:
- Đa số học sinh ham mê học bộ môn Vật lí, nhưng khi làm các bài tập vật
lí các em thường lúng túng trong việc định hướng giải, có thể nói hầu như các
em chưa biết cách giải cũng như trình bày lời giải.
Theo tôi, thực trạng nêu trên có thể do một số nguyên nhân sau:
+ Học sinh chưa có phương pháp tổng quát để giải một bài tập Vật lí.
+ Học sinh chưa biết vận dụng các kiến thức, định luật Vật lí
+ Nội dung cấu trúc chương trình sách giáo khoa mới hầu như không
dành thời lượng cho việc hướng dẫn học sinh giải bài tập hay luyện tập ( đặc
biệt là chương trình vật lí ở các lớp: 6, 7, 8), dẫn đến học sinh không có điều
kiện bổ sung, mở rộng và nâng cao kiến thức cũng như rèn kỹ năng giải bài tập
Vật lí.
2. Số liệu điều tra trước khi thực hiện đề tài.
Trước khi thực hiện đề tài tôi đã tiến hành kiểm tra và khảo sát đối với
học sinh ở các lớp: 9A, 8E trường THCS LONG HÒA bằng một số bài tập cơ
bản tương ứng với mức độ nội dung kiến thức ở mỗi khối lớp. Kết quả thu được
như sau:

III.TỔ CHỨC CHUYÊN ĐỀ.

Lớp Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu - Kém
SL % SL % SL % SL %
7
Ngoài việc nắm vững kiến thức, để có kỹ năng tốt trong việc giải bài tập
Vật lí đòi hỏi học sinh phải nắm vững phương pháp giải cũng như cách trình bày
lời giải, phải có kỹ năng phân loại được các dạng bài tập.

Vì vậy để giúp học sinh nắm vững phương pháp giải một bài tập vật lí,
trong năm học này tôi đã kết hợp với tổ chuyên môn tổ chức cho học sinh học
chuyên đề “Hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập Vật lí – THCS”.
Trong chuyên đề này tôi chia thành 3 nội dung, hướng dẫn học sinh:
 Trình tự giải một bài tập vật lí.
 Hai phương pháp suy luận để giải các bài tập vật lí.
 Áp dụng phương pháp giải bài tập vật lí vào một số bài tập cơ bản.
1. Trình tự giải một bài tập vật lí.
- Phương pháp giải một bài tập Vật lí phụ thuộc nhiều yếu tố: mục đích
yêu cầu của bài tập, nội dung bài tập, trình độ của các em, v.v Tuy nhiên trong
cách giải phần lớn các bài tập Vật lí cũng có những diểm chung.
- Thông thường khi giải một bài tập vật lí cần thực hiện theo trình tự sau
đây:
1.1.Hiểu kỹ đầu bài.
- Đọc kỹ dầu bài: bài tập nói gì? cái gì là dữ kiện? cái gì phải tìm?
-Tóm tắt đầu bài bằng cách dùng các ký hiệu chữ đã qui ước để viết các
dữ kiện và ẩn số, đổi đơn vị các dữ kiện cho thống nhất(nếu cần thiết ).
- Vẽ hình , nếu bài tập có liên quan đến hìng vẽ hoặc nếu cần phải vẽ hình
để diễn đạt đề bài. Cố gắng vẽ dúng tỉ lệ xích càng tốt. Trên hình vẽ cần ghi rõ
dữ kiện và cái cần tìm.
1.2. Phân tích nội dung bài tập, lập kế hoạch giải.
- Tìm sự liên hệ giữa những cái chưa biết (ẩn) và những cái đẵ biết (dữ
kiện)
- Nếu chưa tìm được trực tiếp các mối liên hệ ấy thì có thể phải xét một số
bài tập phụ để gián tiếp tìm ra mối liên hệ ấy.
- Phải xây dựng được một dự kiến về kế hoạch giải.

8
1.3. Thực hiện kế hoạch giải.
- Tôn trọng trình tự phải theo để thực hiện các chi tiết của dự kiến, nhất là

khi gặp một bài tập phức tạp.
- Thực hiện một cách cẩn thận các phép tính số học, đại số hoặc hình học.
Nên hướng dẫn học sinh làm quen dần với cách giải bằng chữ và chỉ thay giá trị
bằng số của các đại lượng trong biểu thức cuối cùng.
- Khi tính toán bằng số, phải chú ý đảm bảo những trị số của kết quả đều
có ý nghĩa.
1.4. Kiểm tra đánh giá kết quả.
- Kiểm tra lại trị số của kết quả: Có đúng không? Vì sao? Có phù hợp với
thực tế không?
- Kiểm tra lại các phép tính: có thể dùng các phép tính nhẩm và dùng cách
làm tròn số để tính cho nhanh nếu chỉ cần xét độ lớn của kết quả trong phép tính.
- Nếu có điều kiện, nên phân tích, tìm một cách giải khác, đi đến cùng
một kết quả đó. Kiểm tra xem còn con đường nào ngắn hơn không.
2.Hai phương pháp suy luận để giải các bài tập vật lí.
Xét về tính chất thao tác của tư duy, khi giải các bài tập vật lí, người ta
thường dùng phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp.
2.1. Giải bài tập bằng phương pháp phân tích.
- Theo phương pháp này, xuất phát điểm của suy luận đại lượng cần tìm.
Người giải phải tìm xem đại lượng chưa biết này có liên quan với những đại
lượng Vật lí nào khác và một khi biết sự liên hệ này thì biểu diễn nó thành
những công thức tương ứng. Nếu một vế của công thức là đại lượng cần tìm còn
vế kia chỉ gồm những dữ liệu của bài tập thì công thức ấy cho ra đáp số của bài
tập. Nếu trong công thức còn những đại lượng khác chưa biết thì đối với mỗi đại
lượng đó, cần tìm một biểu thức liên hệ với nó với các đại lượng Vật lí khác; cứ
làm như thế cho đến khi nào biểu diễn được hoàn toàn đại lượng cần tìm bằng
những đại lượng đã biết thì bài toán đã được giải xong.

9
Như vậy cũng có thể nói theo phương pháp này, ta mới phân tích một bài
tập phức tạp thành những bài tập đơn giản hơn rồi dựa vào những quy tắc tìm lời

giải mà lần lượt giải các bài tập đơn giản này. Từ đó tìm dần ra lời giải của các
bài tập phức tạp nói trên.
 Thí dụ ta hãy dùng phương pháp phân tích để giải bài tập sau:
 Đề bài:
“ Người ta dùng một loại dây hợp kim đồng có tiết diện 10 mm
2
và có điện
trở suất là 0,4.10
-4

m để làm một lò sưởi điện sưởi ấm một gian phòng. Hỏi
cần phải lấy chiều dài của dây dẫn này là bao nhiêu để duy trì nhiệt độ của
phòng luôn luôn không đổi nếu mỗi giờ gian phòng này bị mất một nhiệt
lượng bằng 2 970 000J qua các cửa sổ và các bức tường. Biết nguồn điện
cung cấp cho lò sưởi có điện áp là 220V”.
 Hướng dẫn giải:
- Đại lượng cần tìm ở đây là chiều dài của dây hợp kim. Ta tìm mối liên
hệ giữa chiều dài của dây dẫn với các đại lượng khác trong bài.
- Ta biết rằng muốn nhiệt độ của phòng luôn luôn không đổi thì trong mỗi
giờ nhiệt lượng lò sưởi cung cấp phải bằng nhiệt lượng mà phòng mất đi. Nhiệt
lượng do lò sưởi cung cấp tương đương với điện năng mà lò sưởi tiêu thụ. Điện
năng lại phụ thuộc điện trở của dây hợp kim đồng. Điện trở này lại do chiều dài
của dây qui định.
a. Nếu gọi chiều dài của dây là l, điện trở của dây là R, điện trở suất của
nó là
ρ
và tiết diện của nó là S, thì chiều dài của dây dẫn liên hệ với điện trở
của nó bằng công thức:
R
=

ρ
l
S

Do dó:
.R S
l
ρ
=
(1)
b. Trong biểu thức của chiều dài có một đại lượng mới chưa biết đó là
điện trở R của dây. Điện trở này đo bằng tỉ số của hiệu điện thế U với cường độ
dòng điện I qua dây:
U
R
I
=
(2)

10
c. Đại lượng mới chưa biết là cường độ dòng điện I thì liên hệ với các đại
lượng khác bằng định luật Ôm và bằng công thức biểu diễn năng lượng A do
dòng điện toả ra. Ta đã dùng định luật Ôm trong (2). Vậy mối liên hệ giữa I và
A là:
A = I.U.t
trong đó t là thời gian dòng điện chạy qua dây; từ đó suy ra:
.
A
I
U t

=
(3)
d. Trong công thức trên, điện năng tính ra Jun. Điện năng này tương
đương với nhiệt lượng Q mà dòng điện cung cấp (và với nhiệt lượng mà gian
phòng mất đi) trong thời gian t theo biểu thức:
Q =A (4)
ở vế phải của biểu thức (4), tất cả các đại lượng đều đã biết. Bây giờ cần
thay thế biểu thức sau vào biểu thức trước và cứ thế đi dần từ biểu thức cuối lên
biểu thức đầu:
- Thay (4) vào (3) được:
.
Q
I
U t
=
(3)


- Thay (3)

vào (2) được:
2
.U t
R
Q
=
(2)

- Thay (2)


vào (1) được
2
. .
.
U t S
l
Q
ρ
=
(1)


-Thay các đại lượng trên bằng các trị số của chúng vào (1)

+Với:U = 220 V
t = 1h = 3600s
S = 10 mm
2
= 10.10
-4
m
2
Q = 2 970 000 J
ρ
= 0,4.10
-4


m
+ Ta được:


2 4
4
220 .3600.1,5.10
220( )
2970000.0,4.10
l m


= =

11
- Vậy chiều dài dây hợp kim đồng là 220m.
2.2 Giải bài tập bằng phương pháp tổng hợp.
Theo phương pháp này, suy luận không bắt đầu từ các đại lượng cần tìm
mà bắt đầu từ các đại lượng đã biết có nêu trong bài. Dùng công thức liên hệ các
đại lượng này với các đại lượng chưa biết, ta đi dần đến công thức cuối cùng
trong đó chỉ có một đại lượng chưa biết là đại lượng cần tìm.
Theo phương pháp tổng hợp, bài tập nêu trong ví dụ trên có thể giải như
sau:
a. Muốn nhiệt độ trong phòng luôn luôn không đổi thì nhiệt lượng do
dòng điện qua lò sưởi toả ra trong một thời gian t nào đó (ở đây là 1giờ) phải
bằng nhiệt lượng Q mà gian phòng mất đi trong thời gian đó.
Theo định luật Jun - Len xơ thì.
Q = I
2
.R.t (1)
trong đó R là điện trở của dây dẫn của lò sưởi, I là cường độ dòng điện qua lò
sưởi.
b. Theo định luật Ôm, ta có:

U
I
R
=
(2)
c. Nhưng điện trở của dây dẫn lại phụ thuộc kích thước và bản chất của
dây dẫn theo công thức:
l
R
S
ρ
=
(3)
trong đó
ρ
là điện trở suất,
l
là chiều dài của dây dẫn, S là tiết diện của dây dẫn.
d. Thay các biểu thức (2) và (3) vào biểu thức (1), ta được:
2
.
.
U t
Q
l
S
ρ
=
(4)
- Từ đó rút ra:

2
. .
.
U t S
l
Q
ρ
=
(1)

- Thay các đại lượng trên bằng trị số của chúng, ta được:

2 4
4
220 .3600.1,5.10
220( )
2970000.0,4.10
l m


= =

12
- Vậy chiều dài dây hợp kim đồng là 220m.
Như vậy dùng phương pháp tổng hợp, ta cũng tìm được chiều dài của dây
lò sưởi như khi dùng phương pháp phân tích.
Nhìn chung, khi giải bất kỳ một bài toán vật lí nào ta đều phải dùng cả hai
phương pháp: phân tích và tổng hợp. Phép giải bắt đầu bằng cách phân tích các
điều kiện của bài tập để hiểu được đề bài. Phải có một sự tổng hợp kèm theo
ngay để kiểm tra lại mức độ đúng đắn của sự phân tích các điều kiện ấy. Muốn

lập được kế hoạch giải, phải đi sâu vào phân tích nội dung vật lí của bài tập.
Tổng hợp những dữ kiện đã cho với những quy luật vật lí đã biết, ta mới xây
dựng được lời giải và kết quả cuối cùng.
Như vậy ta có thể nói là trong quá trình giải bài tập vật lí ta đã dùng
phương pháp phân tích - tổng hợp.
IV.ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ VÀO MỘT SỐ BÀI
TẬP CƠ BẢN.
1.BÀI TOÁN1.
2.BÀI TOÁN 2.
Bỏ một quả cầu đồng thau khối lượng 1 kg được nung nóng đến 100
o
C
vào trong thùng sắt có khối lượng 500g đựng 2kg nước ở 20
o
C. Bỏ qua sự trao
đổi nhiệt với môi trường .Tìm nhiệt độ cuối cùng của nước.
Biết nhiệt dung riêng của đồng thau, sắt, nước lần lượt là:
c
1
= 380 J/kg.K; c
2
=460 J/kg.K; c
3
= 4200 J/kg.K.
 Hướng dẫn giải:
* Tìm hiểu các điều kiện đã cho của bài.
- Tóm tắt:
m
1
= 1 kg

- Khối lượng của quả cầu đồng thau, c
1
= 380 J/kg.K
thùng sắt và nước. t
1
= 100
o
C
- Nhiệt độ ban đầu của quả cầu đồng m
2
= 500g = 0,5 kg
thau, thùng sắt và nước. c
2
= 460 J/kg.K

13
- Nhiệt dung riêng của chất cấu tạo t
2
= 20
o
C
nên các vật. m
3
= 2kg
c
3
= 4200 J/kg.K
t
3
= t

2
t ?
* Phân tích bài toán.
- Đây là bài toán trao đổi nhiệt của một hệ vật (gồm 3 vật). Điều quan
trọng phải hiểu rằng bài toán yêu cầu tìm nhiệt độ cuối cùng của nước, nhưng
cũng là nhiệt độ chung của hệ khi kết thúc quá trình trao đổi nhiệt. Để giải bài
toán này cần áp dụng phương trình cân bằng nhiệt:
Q
toả ra
=Q
thu vào
- Do vậy phải xác định được những vật nào là vật toả nhiệt, những vật
nào là vật thu nhiệt, viết được công thức tính nhiệt lượng toả ra vào hay thu vào
của các vật:
Q = mc

t
-Với lưu ý rằng trong bài toán này nhiệt độ ban đầu của hai vật thu nhiệt
( thùng sắt và nước) là bằng nhau( t
2
= t
3
).
- Trên cơ sở phương trình cân bằng nhiệt vừa lập được kết hợp với dữ
kiện đã cho của bài toán để suy ra đại lượng cần tìm (t).
*Bài giải.
- Nhiệt lượng do quả cầu bằng đồng thau toả ra khi hạ nhiệt độ từ 100
o
C
đến t

o
C (nhiệt độ khi có cân bằng nhiệt) là:
Q
1
= m
1
.c
1
(t
1
– t)
- Nhiệt lượng mà thùng sắt (Q
2
) và nước (Q
3
) thu vào để tăng nhiệt độ từ
20
o
C đến t
o
C là: Q
2
= m
2
.c
2
(t – t
2
) (1)
Q

3
= m
3
.c
3
(t –t
2
) (2)
- Áp dụng phương trình cân bằng nhiệt ta có:
Q
1
= Q
2
+ Q
3
(3)
từ (1),(2) và (3)

m
1
.c
1
(t
1
– t) = m
2
.c
2
(t –t
2

) + m
3
.c
3
(t –t
2
)

14


t ( m
1
c
1
+ m
2
c
2
+ m
3
c
3
) = m
1
c
1
t
1
+ ( m

2
c
2
+ m
3
c
3
) t
2



t =
1 1 1 2 2 3 3 2
1 1 2 2 3 3
( )m c t m c m c t
m c m c m c
+ +
+ +
- Thay các đạt lượng trên bằng trị số của chúng ta được:
t =
1.380 (0,5.460 2.4200).20
19,2( )
1.380 0,5.460 2.4200
o
C
+ +

+ +
- Vậy nhiệt độ cuối cùng của nước là 19,2

o
C.
3.BÀI TOÁN 3.
Một ấm điện có hai điện trở: R
1
= 4

và R
2
= 6

. Nếu bếp chỉ dùng một
điện trở R
1
thì đun sôi ấm nước trong 10 phút. Tính thời gian cần thiết để đun sôi
ấm nước trên khi:
a. Chỉ dùng R
1
.
b. Dùng R
1
nối tiếp R
2
.
c. Dùng R
1
song song R
2
.
(Biết không có sự mất nhiệt ra môi trường và mạng điện có hiệu điện thế

không đổi).
 Hướng dẫn giải:
* Tìm hiểu các điều kiện đã cho của bài.
- Cho biết giá trị của hai điện trở.
- Thời gian đun sôi nước khi chỉ dùng điện trở R
1
.
- Tóm tắt: R
1
= 4

; R
2
= 6

t
1
= 10 phút
t
2
?
t
3
? khi R
1
nt R
2
.
t
4

? khi R
1
//R
2
.
* Phân tích bài toán.
-Bài toán này xuất phát từ định luật Jun-len xơ với biểu thức:
Q =I
2
.R.t (1)
trong đó nhiệt lượng mà nước thu vào bằng nhiệt lượng do các điện trở toả ra.

15
- Theo điều kiện đầu bài thì nếu sử dụng biểu thức (1) của định luật Jun-
len xơ, thì việc giải bài toán rất phức tạp hoặc không thực hiện được. Vậy ở bài
toán này mối liên hệ giữa các đại lượng để tìm cấu trúc công thức rất quan
trọng, đóng vai trò quyết định đến sự thành công.
- Như ta đã biết từ công thức (1). Ta có thể viết được một số biểu thức
tương đương trên cơ sở mối liên hệ của một số đại lượng trong công thức với
các đại lượng khác, để việc tính toán không làm bài toán phức tạp.
Thật vậy: vì U = I.R nên (1)

Q = U.I.t (2)
mặt khác theo định luật Ôm: I =
U
R
nên (2)

Q =
2

.
U
t
R
(3)
- Từ đây nên chọn công thức nào để giải bài toán, điều này đòi hỏi sự
nhanh nhạy, suy diễn cao.
Nếu chọn (2) thì vẫn còn đại lượng I chưa biết, do đó chọn công thức (3)
- Cần biểu diễn các đại lượng cần tính.
+ Giá trị điện trở của ấm trong 4 trường hợp:
1/ R = R
1
2/ R = R
2
3/ R = R
1
+ R
2
4/
1 2
1 1 1
R R R
= +
hay R =
1 2
1 2
.R R
R R+

-Với chú ý rằng nhiệt lượng mà dây điện trở của ấm toả ra trong 4

trường hợp là như nhau.
- Hiệu điện thế trong các trường hợp là không đổi.
* Bài giải.
- Gọi thời gian đun sôi nước trong 4 trường hợp lần lượt là: t
1
, t
2
, t
3
, t
4
.
- Do không có sự mất nhiệt ra môi trường nên nhiệt lượng cần để đun sôi
nước bằng nhiệt lượng mà dây điện trở của ấm toả ra.
- Áp dụng công thức: Q =
2
.
U
t
R
(Theo công thức (3) )
cho các trường hợp ta có:

16
a. Chỉ dùng dây R
1
: Q
1
=
2

1
1
U
t
R
(1)
Chỉ dùng dây R
2
: Q
2
=
2
2
2
U
t
R
(2)
từ (1) và (2)


2
1
1
U
t
R
=
2
2

2
U
t
R



2
2 1
1
6
.10 15( )
4
R
t t ph
R
= = =
b. Khi dùng R
1
nối tiếp R
2
: Q
3
=
2
3
1 2
U
t
R R+

(3)
từ (1) và (3)

2
1
1
U
t
R
=
2
3
1 2
U
t
R R+


1 2
3 1
1
4 6
.10 25( )
4
R R
t t ph
R
+
+
= = =

b. Khi dùng R
1
song song R
2
:
Q
4
=
2
4
1 2
1 1
U t
R R
 
+
 ÷
 
(4)
từ (1), (2) và (4)


4 1 2
1 1 1
t t t
= +





1 2
4
1 2
.
10.15
6( )
10 15
t t
t ph
t t
= = =
+ +
V. HƯỚNG DẪN HỌC SINH HỌC TẬP VẬT LÍ Ở NHÀ.
Qua thực tế giảng dạy Vật lí ở trường THCS, tôi nhận thấy với cấu trúc
của chương trình Vật lí THCS là hầu hết không có hoặc có rất ít các tiết bài tập,
thêm nữa thời lượng của một tiết học trên lớp có hạn, học sinh chủ yếu tiếp thu
kiến thức về lí thuyết một cách cơ bản hoặc giải các bài tập đơn giản và số tiết
học chỉ có 1 tiếtsoo tuần đối với các khối lớp 6, 7, 8 và 2 tiết / tuần đối với lớp 9.
Như vậy không có đủ lượng thời gian để giáo viên mở rộng và nâng cao kiến
thức cũng như rèn luyện kỹ năng giải bài tập cho học sinh. Do đó bên cạnh việc
tổ chức các chuyên đề thì một trong những biện pháp tốt nhất để rèn luyện kỹ
năng giải bài tập cho học sinh để học sinh có thể thường xuyên được luyện giải

17
nhiều dạng bài tập khác nhau, cũng như tiếp xúc với các dạng bài tập có tính
chất mở rộng và nâng cao, để từ đó học sinh có thể vận dụng một cách linh hoạt
các cách giải từng dạng bài tập đó là : “Hướng dẫn học sinh học tập vật lí ở
nhà”.
Việc học sinh tự học ở nhà có một ý nghĩa lớn lao về mặt giáo dục và giáo
dưỡng. Nếu việc học ở nhà của học sinh được tổ chức tốt sẽ giúp các em rèn

luyện thói quen làm việc tự lực, giúp các em nắm vững tri thức, có kỹ năng, kỹ
xảo. Ngược lại nếu việc học tập ở nhà của học sinh không được quan tâm tốt sẽ
làm cho các em quen thói cẩu thả, thái độ tắc trách đối với việc thực hiện nhiệm
vụ của mình dẫn đến nhiều thói quen
xấulàm cản trở đến việc học tập.
Công việc học tập của học sinh ở nhà có những đặc điểm riêng sau:
+ Tiến hành trong một thời gian ngắn, không có sự hướng dẫn trực tiếp của
giáo viên, mặc dù đấy là công việc do chính giáo viên giao cho học sinh phải tự
mình hoàn thành, tự kiểm tra công việc mình làm.
+ Công việc này được thực hiện tuần tự theo hứng thú, nhu cầu và năng lực
của học sinh.
+ Dễ bị chi phối bởi ngoại cảnh khác.
Có thể coi quá trình học tập của học sinh ở nhà bao gồm các giai đoạn :
trước hết phải nhớ lại những điều đã học ở lớp sau đó rèn luyện sáng tạo. Mỗi
giai đoạn có một nội dung công việc cụ thể.
Việc học tập của học sinh ở nhà phụ thuộc phần lớn vào việc dạy học trên
lớp của giáo viên. Vì vậy giáo viên cần phải căn cứ vào tình hình tiếp thu kiến
thức của học sinh mà giao cho các em những công việc có tính chất bổ sung
phục hồi tài liệu đã học như : nghiên cứu sách giáo khoa, vẽ hình ….
Trong khi dạy về vần đề nào đó cần suy nghĩ việc giao cho học sinh các
bài tập ở nhà. Chính việc giao bài làm một cách có hệ thống đảm bảo cho việc
học tập của học sinh có một quy luật chặt chẽ, nhờ đó mà học sinh có thể tự lực
giải quyết các bài tập kể cả những bài tập khó, vì đã có sự chuẩn bị ở các bài tập

18
dễ. Việc học sinh hoàn thành tốt các bài tập ở nhà không những chỉ giúp các em
nắm vững tri thức đã học cũng như rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cần thiết, mà còn
giúp các em chuẩn bị tốt nhất cho việc tiếp thu kiến thức mới. Vì thế bên cạnh
những bài làm phục hồi, luyện tập và sáng tạo trên cơ sở kiến thức đã học cần
phải giao cho học sinh những bài làm mang những yếu tố chuẩn bị cho việc tiếp

thu chi thức mới. Có như vậy mới đảm bảo được việc tiếp thu một cách tích cực,
tự lực đối với những tri thức mới.
Ta có thể giao bài tập về nhà cho học sinh bằng nhiều hình thức :
+ Giao bài tập trong thời gian truy bài đầu giờ.
+ Giao bài tập sau tiết học.
+ Giao bài tập theo hệ thống bài tập SGK, SBT, sách tham khảo …
+ Giao bài tập theo dạng, theo chuyên đề .
Một biện pháp quan trọng nữa để đảm bảo công tác hướng dẫn học ở nhà
có kết quả là cần có những biện pháp kiểm tra, động viên, khích lệ kịp thời và
phù hợp :
+ Kiểm tra vở ghi, vở bài tập.
+ Cho điểm khuyến khích những học sinh có nhiều cố gắng hoặc
chuyển biến trong học tập,
VI. KẾT QUẢ THỰC HIỆN.
Từ việc hướng dẫn học sinh phương pháp giải một bài tập vật lý nêu trên,
trong năm học tôi thấy đa số học sinh đã vận dụng một các linh hoạt vào việc
giải bài tập, học sinh có khả năng tư duy tốt hơn, có kỹ năng vận dụng kiến thức
vào giải bài tập tốt hơn, linh hoạt hơn.
Cụ thể thông qua khảo sát chất lượng học sinh sau khi “Hướng dẫn học
sinh phương pháp giải bài toán Vật lý – THCS” tôi thu được kết quả như
sau:
 Kết quả so sánh đối chứng.
* Kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài.

19
Lớp Sĩ số
Giỏi Khá TB Yếu - Kém
SL % SL % SL % SL %
* Kết quả khảo sát sau khi thực hiện đề tài.
Lớp Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu

SL % SL % SL % SL %
C- KẾT LUẬN.
I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
Trong quá trình giảng dạy bộ môn Vật lí ở trường THCS việc hình thành
cho học sinh phương pháp, kỹ năng giải bài tập Vật lí là hết sức cần thiết, để từ
đó giúp các em đào sâu, mở rộng những kiến thức cơ bản của bài giảng, vận
dụng tốt kiến thức vào thực tế, phát triển năng lực tư duy cho các em, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục, cụ thể là :
+ Giúp học sinh có thói quen phân tích đầu bài, hình dung được các hiện
tượng Vật lí xảy ra trong bài toán sau khi tìm hướng giải.
+ Trong một bài tập giáo viên cần hướng cho học sinh nhiều cách giải
(nếu có thể ). Để kích thích sự hứng thú, say mê học tập cho học sinh rèn thói
quen tìm tòi lời giải hay cho một bài toán Vật lí.
+ Khắc sâu cho học sinh nắm chắc các kiến thức bổ trợ khác. Có như vậy
việc giải bài tập Vật lí của học sinh mới thuận lợi và hiệu quả.
Để làm được điều này:
- Giáo viên cần tự bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, thường
xuyên trao đổi, rút kinh nghiệm với đồng nghiệp.
- Nắm vững chương trình bộ môn toàn cấp học.
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nghiên cứu kỹ các kiến thức cần nhớ
để ôn tập, nhớ lại kiến thức cơ bản, kiến thức mở rộng, lần lượt nghiên cứu kỹ
các phương pháp giải bài tập sau đó giải các bài tập theo hệ thống từ dễ đến khó,

20
so sánh các dạng bài tập để khắc sâu nội dung kiến thức và cách giải. Trên cơ sở
đó học sinh tự hình thành cho mình kỹ năng giải bài tập.
Trên dây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã rút ra được từ thực tế
qua quá trình giảng dạy bộ môn Vật lí ở trường THCS nói chung, cũng là kinh
nghiệm rút ra được sau khi thực hiện đề tài này nói riêng.
II. KẾT LUẬN CHUNG.

Dạy học nhằm góp phần quan trọng để hình thành nhân cách con người
lao động mới, sáng tạo, thích nghi với xã hội ngày càng phát triển. Do vậy
phương pháp dạy học bộ môn phải thực hiện được các chức năng nhận thức,
phát triển và giáo dục, tức là lựa chọn phương pháp dạy học bộ môn sao cho học
sinh nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và vận dụng tri thức vào thực tiễn.
Đặc biệt Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm đòi hỏi phát huy cao độ
tính tích cực, độc lập sáng tạo của học sinh trong quá trình lĩnh hội tri thức.
Chính vì vậy lựa chọn phương pháp dạy học bộ môn vật lí, người giáo viên cần
căn cứ vào phương pháp đặc thù của khoa học lấy hoạt động nhận thức của học
sinh làm cơ sở xuất phát.
Sau thời gian nghiên cứu tìm hiểu, được sự quan tâm giúp đỡ của ban
giám hiệu nhà trường cũng như tổ chuyên môn tôi đã thực hiện thành công việc:
“ Hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập vật lí Cấp THCS” với
mong muốn: phát triển năng lực duy rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh
trong việc học tập bộ môn Vật lí. Nhằm nâng cao chất lượng bộ môn nói riêng,
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nói chung.

21

×