Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
o O o
NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ TÁI SINH
TỰ NHIÊN DƢỚI TÁN RỪNG TRỒNG
TẠI SÓC SƠN - HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
Thái Nguyên - năm 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
o O o
NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ TÁI SINH
TỰ NHIÊN DƢỚI TÁN RỪNG TRỒNG
TẠI SÓC SƠN - HÀ NỘI
Chuyên ngành: Sinh Thái Học
Mã số: 60.42.60
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐỖ HỮU THƯ
Thái Nguyên - năm 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu, để hoàn thành luận văn tôi đã
nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo và động viên của thầy cô, bạn bè
và gia đình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo: TS. Đỗ hữu Thư đã
hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài cũng như trong
quá trình hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Trường Đại học sư phạm, khoa sau
đại học, Ban chủ nhiệm khoa Sinh- KTNN và các thầy cô giáo, cán bộ khoa
Sinh- KTNN đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn
thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn phòng Tài nguyên Môi trường, phòng Thống kê
huyện Sóc Sơn đã tạo điều kiện giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám Hiệu, tổ Hoá-
Sinh Trường THPT Sông Công- Thái Nguyên cùng gia đình, người thân và
bạn bè đã luôn động viên, chia sẻ giúp đỡ tôi vượt qua mọi khó khăn trong
quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hồng Nhung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, chưa được công bố trong bất
kì công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Thị Hồng Nhung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục 5
Danh mục các bảng iv
Danh mục các hình v
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1. Trên thế giới 3
1.1.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng 3
1.1.1.1.Về cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng 3
1.1.1.2.Về mô tả hình thái cấu trúc rừng 4
1.1.1.3.Nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng 6
1.1.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng 7
1.1.3. Nghiên cứu về phục hồi bằng trồng rừng 10
1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam. 12
1.2.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng 12
1.2.1.1.Về phân loại rừng 12
1.2.1.2.Nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng 13
1.2.1.3.Nghiên cứu cấu trúc và xây dựng mô hình cấu trúc mẫu 14
1.2.1.4. Nghiên cứu phân chia tầng thứ trong rừng nhiệt đới 15
1.2.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng 17
1.2.3. Nghiên cứu về phục hồi bằng trồng rừng 18
Chƣơng 2. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ
HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU 21
2.1. Điều kiện tự nhiên 21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.1.1. Vị trí địa lý 21
2.1.2. Địa hình 21
2.1.3. Khí hậu 22
2.1.4. Sông ngòi, thủy văn 23
2.1.5. Địa chất 23
2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 24
Chƣơng 3. MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU 26
3.1. Mục tiêu nghiên cứu 26
3.1.1. Về lí luận 26
3.1.2. Về thực tiễn 26
3.2. Đối tượng nghiên cứu 26
3.3. Nội dung nghiên cứu 26
3.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng trồng. 27
3.3.2. Nghiên cứu thành phần dạng sống của các loài thực vật dưới tán
rừng trồng. 27
3.3.3. Nghiên cứu một số đặc điểm tái sinh tự nhiên dưới tán rừng trồng 27
3.3.4. Đề xuất một số biện pháp nhằm xúc tiến khả năng tái sinh tự nhiên
dưới tán rừng trồng tại Sóc Sơn- Hà Nội 27
3.4. Phương pháp nghiên cứu 27
3.4.1. Thu thập số liệu về điều kiện tự nhiên, dân sinh, kinh tế- xã hội 27
3.4.2. Thu thập số liệu ở địa phương 28
3.4.2.1. Điều tra tâng cây cao 28
3.4.2.2. Điều tra thành phần dạng sống của thực vật 29
3.4.2.3. Điều tra lớp cây tái sinh 29
3.4.3. Phỏng vấn người dân khu vực nghiên cứu. 29
3.4.4. Phương pháp xử lí số liệu 30
3.4.4.1. Đối với tầng cây cao 30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3.4.4.2. Đối với thành phần dạng sống của thực vật 32
3.4.4.3. Đối với lớp cây tái sinh 32
Chƣơng 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ PHÂN TÍCH 34
4.1. Một số đặc điểm tầng cây cao của rừng trồng khu vực nghiên cứu. 34
4.2. Đa dạng thực vật dưới tán rừng trồng khu vực nghiên cứu 38
4.2.1. Thành phần dạng sống dưới tán rừng trồng Keo mỡ 38
4.2.2. Thành phần dạng sống dưới tán rừng trồng Keo lá tràm 39
4.2.3. Thành phần dạng sống dưới tán rừng trồng hỗn giao 39
4.3. Một số đặc điểm tái sinh tự nhiên dưới tán rừng trồng 40
4.3.1. Đặc điểm kết cấu tổ thành loài cây tái sinh 40
4.3.1.1. Tổ thành loài cây tái sinh dưới tán rừng trồng Keo mỡ 40
4.3.1.2. Tổ thành loài cây tái sinh dưới tán rừng trồng Keo lá tràm 42
4.3.1.3. Tổ thành loài cây tái sinh dưới tán rừng trồng hỗn giao 43
4.3.2. Chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh 44
4.3.2.1. Chất lượng cây tái sinh 44
4.3.2.2. Nguồn gốc cây tái sinh 45
4.3.3. Phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao 46
4.3.4. Phân bố cây tái sinh theo cấp đường kính 47
4.4. Đề xuất một số biện pháp kĩ thuật nhằm xúc tiến khả năng tái sinh tự
nhiên dưới tán rừng trồng khu vực Sóc Sơn- Hà Nội 50
4.4.1. Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên kết hợp với trồng bổ sung 50
4.4.2. Trồng rừng mới 51
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO 55
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC BẢNG.
Trang
Bảng 4.1. Một số đặc điểm tầng cây cao ở rừng trồng tại Sóc Sơn- Hà
Nội 36
Bảng 4.2. Kết quả mô phỏng và kiểm tra giả thuyết bằng hàm Meyer về
luật phân bố N/D
1,3
. 37
Bảng 4.3. Tương quan giữa chiều cao vút ngọn và đường kính ngang
ngực( H
VN
/D
1,3
). 40
Bảng 4.4. Thành phần dạng sống trong các trạng thái rừng trồng 41
Bảng 4.5. Đặc điểm kết cấu tổ thành lớp cây tái sinh dưới tán rừng trồng
Keo mỡ 43
Bảng 4.6. Đặc điểm kết cấu tổ thành lớp cây tái sinh dưới tán rừng trồng
Keo lá tràm 44
Bảng 4.7. Đặc điểm kết cấu tổ thành lớp cây tái sinh dưới tán rừng trồng
hỗn giao 45
Bảng 4.8. Chất lượng cây tái sinh dưới tán rừng trồng tại Sóc Sơn- Hà
Nội 46
Bảng 4.9. Nguồn gốc cây tái sinh dưới tán rừng trồng tại Sóc Sơn- Hà
Nội 47
Bảng 4.10. Mật độ cây tái sinh theo cấp chiều cao dưới tán rừng trồng tại
Sóc Sơn- Hà Nội 48
Bảng 4.11. Mật độ cây tái sinh theo cấp đường kính dưới tán rừng trồng
tại Sóc Sơn- Hà Nội 50
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC HÌNH( HÌNH VẼ, ẢNH CHỤP, ĐỒ THỊ…)
Trang
Biểu đồ 4.1. Phân bố N/D
1,3
rừng trồng thuần loài Keo mỡ 38
Biểu đồ 4.2. Phân bố N/D
1,3
rừng trồng thuần loài Keo lá ttràm 38
Biểu đồ 4.3. Phân bố N/D
1,3
rừng trồng hỗn giao 39
Biểu đồ 4.4. Phân bố số cây theo cấp chiều cao dưới tán rừng trồng Keo
mỡ, Keo lá tràm và rừng hỗn giao 49
Biểu đồ 4.5. Phân bố N/D
1,3
của cây tái sinh dưới tán rừng trồng Keo mỡ 51
Biểu đồ 4.6. Phân bố N/D
1,3
của cây tái sinh dưới tán rừng trồng Keo lá
tràm 52
Biểu đồ 4.7. Phân bố N/D
1,3
của cây tái sinh dưới tán rừng trồng hỗn
giao 52
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
Rừng đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống con người.
Rừng không những cung cấp cho chúng ta nguồn lâm sản có giá trị mà còn có
vai trò to lớn trong bảo vệ môi trường, chống xói mòn đất, điều hoà khí hậu,
cải tạo đất, làm giảm nhẹ sức tàn phá của thiên tai, bảo tồn nguồn nước mặt
và nước ngầm, làm giảm ô nhiễm không khí và nước Vì vậy nếu mất rừng
sẽ gây nhiều hậu quả nghiêm trọng.
Trong vài thập kỷ gần đây diện tích rừng của nước ta đang ngày càng bị
thu hẹp. Sự tàn phá của hai cuộc chiến tranh và khai thác quá mức của con
người làm cho rừng bị suy thoái nghiêm trọng. Việt Nam là một trong năm
quốc gia trên thế giới chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu mà một
trong những nguyên nhân sâu xa là do chúng ta chưa bảo vệ được rừng. Năm
1945 ở Việt Nam có 14,3 triệu ha rừng với độ che phủ là 43 %; năm 1975 có
11169000 ha rừng, độ che phủ là 33,8%; năm 1985 có 9892000 ha rừng, độ
che phủ 30,0 %; năm 1995 có 9302000 ha rừng, độ che phủ 28,2 % và đến
năm 2005 chỉ còn 12640000 ha rừng với độ che phủ là 36,3 %. Rừng bị thu
hẹp còn do tập quán sản xuất của các dân tộc ít người như đốt rừng làm
nương rẫy hay những vụ cháy rừng đã thiêu trụi hàng nghìn ha trong một thời
gian rất ngắn. Diện tích rừng giảm nhanh chóng nên nhà nước đã có những
biện pháp để ngăn chặn như đóng cửa rừng, cấm khai thác gỗ, cấm buôn bán
vận chuyển một số lâm sản quý hiếm Thế nhưng rừng hiện nay vẫn không
ngừng suy giảm cả về số lượng và chất lượng.
Mất rừng, chúng ta phải đối mặt với nhiều thảm hoạ thiên nhiên như lũ
lụt, hạn hán, ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng. Hàng năm ở miền Trung
lũ lụt đã làm thiệt hại không nhỏ về người và tài sản. Hay những trận lũ quét
gây sạt lở đất nghiêm trọng ở các tỉnh vùng cao. Chính vì lẽ đó việc bảo vệ và
phục hồi lại rừng là hết sức cần thiết. Để phục hồi lại rừng có thể trồng mới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
hoặc khoanh nuôi cho phục hồi tự nhiên trong đó khoanh nuôi phục hồi rừng
vừa giữ được rừng vừa bảo vệ được sự đa dạng sinh học của rừng.
Sóc Sơn là một huyện của thành phố Hà Nội có Bắc giáp với tỉnh Thái
Nguyên, phía Tây giáp với tỉnh Vĩnh Phúc và phía Đông giáp với tỉnh Bắc
Giang. Sóc Sơn là huyện có diện tích rừng trồng tương đối lớn. Trên thực tế
các quần xã rừng trồng đặc biệt là rừng thuần loại, chúng dễ bị sâu bệnh và
thoái hoá trong một thời gian ngắn. Vì vậy một trong những giải pháp khắc
phục những mặt hạn chế của rừng trồng là kết hợp giữa trồng rừng với xúc
tiến tái sinh tự nhiên dưới tán rừng trồng. Tuy nhiên việc nghiên cứu về vấn
đề này còn nhiều hạn chế và chưa được làm rõ kể cả về thực tiễn lẫn cơ sở lý
luận.
Việc tìm hiểu những đặc điểm quá trình tái sinh dưới tán rừng trồng là
cơ sở cung cấp những kiến thức thực tế cũng như cơ sở khoa học cho việc lựa
chọn khoanh nuôi, phục hồi thích hợp cho từng đối tượng, điều kiện địa lý,
chất đất tại khu vực Sóc Sơn - Hà Nội cũng như các khu vực khác. Xuất
phát từ những vấn đề trên tôi đã tiến hành thực hiện đề tài: “ Nghiên cứu đặc
điểm cấu trúc và tái sinh tự nhiên dưới tán rừng trồng ở huyện Sóc Sơn -
Hà Nội”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Chƣơng 1.
TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, đã có nhiều công trình nghiên cứu
về cấu trúc rừng và tái sinh rừng. Đặc biệt trong những năm gần đây vấn đề
này càng được quan tâm nhằm đưa ra cơ sở khoa học cho việc kinh doanh
rừng một cách có hiệu quả. Có thể điểm qua một số công trình có liên quan
đến nội dung nghiên cứu của đề tài như sau.
1.1.Trên thế giới
1.1.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng
Cấu trúc rừng là sự sắp xếp tổ chức nội bộ của các thành phần sinh vật
trong hệ sinh thái rừng trong đó các sinh vật rừng luôn có mối quan hệ qua lại
với nhau và với môi trường thông qua các mối quan hệ sinh thái giúp rừng có
cấu trúc ổn định trong một thời gian nhất định.
1.1.1.1. Về cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng
Quy luật về cấu trúc rừng là cơ sở quan trọng để nghiên cứu sinh thái
học, hệ sinh thái rừng và đặc biệt là để xây dựng những mô hình lâm sinh cho
hiệu quả sản xuất cao. Trong nghiên cứu cấu trúc rừng người ta chia thành ba
dạng cấu trúc là cấu trúc sinh thái, cấu trúc không gian và cấu trúc thời gian.
Cấu trúc của lớp thảm thực vật là kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên, là
sản phẩm của quá trình đấu tranh sinh tồn giữa thực vật với thực vật và giữa
thực vật với hoàn cảnh sống. Trên quan điểm sinh thái thì cấu trúc rừng chính
là hình thức bên ngoài phản ánh nội dung bên trong của hệ sinh thái rừng.
Thực tế cấu trúc rừng nó có tính trật tự và theo quy luật của quần xã.
Các nghiên cứu về cấu trúc sinh thái của rừng mưa nhiệt đới đã được
Richards P.W (1933 - 1934), Baur.G.N (1962), Odum (1971) tiến hành.
Các nghiên cứu này thường nêu lên quan điểm, khái niệm và mô tả định tính
về tổ thành, dạng sống và tầng phiến của rừng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Công trình nghiên cứu của tác giả Catinot (1965) [4], Plaudy.J đã biểu
diễn cấu trúc sinh thái rừng bằng các phẫu đồ rừng, nghiên cứu các nhân tố
cấu trúc sinh thái thông qua việc mô tả phân loại theo các khái niệm dạng
sống, tầng phiến
Theo tác giả Baur G.N (1962) [1] đã nghiên cứu các vấn đề về cơ sở
sinh thái nói chung và về cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng mưa nói
riêng, trong đó đã đi sâu nghiên cứu các nhân tố cấu trúc rừng, các kiểu xử lý
về mặt lâm sinh áp dụng cho rừng mưa tự nhiên. Từ đó tác giả này đã đưa ra
những tổng kết hết sức phong phú về các nguyên lý tác động xử lý lâm sinh
nhằm đem lại hiệu quả cao trong trồng rừng.
Tác giả Odum E.P (1971) [57] đã hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái
trên cơ sở thuật ngữ hệ sinh thái (ecosystem) của Tansley A.P (1935). Khái
niệm hệ sinh thái được làm sáng tỏ là cơ sở để nghiên cứu các nhân tố cấu
trúc trên quan điểm sinh thái học.
1.1.1.2. Về mô tả hình thái cấu trúc rừng
Hiện tượng thành tầng là sự sắp xếp không gian phân bố của các thành
phần sinh vật rừng trên cả mặt bằng và theo chiều đứng. Phương pháp vẽ biểu
đồ mặt cắt đứng của rừng do Davit và P.W. Richardr (1933 - 1934) đề xướng
đến nay vẫn là phương pháp có hiệu quả để nghiên cứu cấu trúc tầng của
rừng. Tuy nhiên phương pháp này có nhược điểm là chỉ minh họa được cách
sắp xếp theo hướng thẳng đứng của các loài cây gỗ trong một diện tích có
hạn. Cusen (1951) đã khắc phục bằng cách vẽ một số dải kề nhau và đưa lại
một hình tượng về không gian ba chiều.
Phương pháp biểu đồ trắc diện do Davit và Richards (1933 - 1934) đề
xuất trong khi phân loại và mô tả rừng nhiệt đới phức tạp về thành phần loài
và cấu trúc thảm thực vật theo chiều nằm ngang và chiều thẳng đứng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Richards P.W (1952) [35] đã phân biệt tổ thành thực vật của rừng mưa
thành hai loại rừng mưa hỗn hợp có tổ thành loài cây phức tạp và rừng mưa
đơn ưu có tổ thành loài cây đơn giản. Trong những lập địa đặc biệt thì rừng
mưa đơn ưu chỉ bao gồm một vài loài cây. Cũng theo tác giả này thì rừng mưa
thường có nhiều tầng (thường có 3 tầng, trừ cây bụi và cây thân cỏ). Trong
rừng mưa nhiệt đới, ngoài cây gỗ lớn, cây bụi và tầng cây thân cỏ còn có
nhiều loài cây leo đủ hình dáng và kích thước, cùng nhiều hệ thống phân loại
trên thân hoặc cành cây.
Hiện nay, nhiều hệ thống phân loại thảm thực vật rừng đã dựa vào các
đặc trưng như cấu trúc và dạng sống, độ ưu thế, kết cấu hệ thực vật hoặc năng
suất thảm thực vật. Ngay từ đầu thế kỷ 19, Humboldt và Grisebach đã sử
dụng dạng sinh trưởng (toàn bộ hình thái hoặc cấu trúc và trạng thái của thực
vật) của các loài cây ưu thế và kiểu môi trường sống của chúng để biểu thị
cho các nhóm thực vật. Phương pháp hình thái của Humboldt và Grisebach
được các nhà sinh thái học Đan Mạch (Warming, 1094; Raunkiaer, 1034) tiếp
tục phát triển. Raunkiaer đã phân chia các loài cây hình thành thảm thực vật
thành các dạng sống và các phổ sinh học (phổ sinh học là tỉ lệ phần trăm các
loài cây trong một quần xã có các dạng sống khác nhau). Tuy nhiên, nhiều
nhà sinh thái học cho rằng phân loại hình thái, các phổ dạng sống của
Raunkiaer kém ý nghĩa hơn các dạng sinh trưởng của Humboldt và
Griesbach. Trong các phương pháp phân loại rừng dựa theo cấu trúc và dạng
sống của thảm thực vật, phương pháp dựa vào hình thái bên ngoài của thảm
thực vật được sử dụng nhiều nhất.
Kraft (1884), lần đầu tiên đưa ra hệ thống phân cấp cây rừng, ông phân
chia cây rừng trong một lâm phần thành 5 cấp dựa vào khả năng sinh trưởng,
kích thước và chất lượng của cây rừng. Phân cấp của Kraft phản ánh được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
tình hình phân hoá cây rừng, tiêu chuẩn phân cấp rõ ràng, đơn giản và dễ áp
dụng nhưng chỉ phù hợp với rừng thuần loài đều tuổi.
Việc phân cấp cây rừng cho rừng hỗn loài nhiệt đới tự nhiên là một
vấn đề phức tạp, cho đến nay vẫn chưa có tác giả nào đưa ra được phương án
phân cấp cây rừng cho rừng nhiệt đới tự nhiên mà được chấp nhận rộng rãi.
Sampion Gripfit (1984), khi nghiên cứu rừng tự nhiên Ấn Độ và rừng ẩm
nhiệt đới Tây Phi có kiến nghị phân cấp cây rừng thành 5 cấp cũng dựa vào
kích thước và chất lượng cây rừng, Richards (1952) [35] phân rừng ở Nigeria
thành 6 tầng dựa vào chiều cao cây rừng.
Như vậy, hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về tầng thứ thường đưa ra
những nhận xét mang tính định tính, việc phân chia tầng thứ theo chiều cao
mang tính cơ giới nên chưa phản ánh được sự phân tầng phức tạp của tự nhiên
nhiệt đới.
1.1.1.3. Nghiên cứu định lƣợng cấu trúc rừng
Việc nghiên cứu cấu trúc rừng đã có từ lâu và được chuyển dần từ mô
tả định tính sang định lượng với sự thống kê của toán học và tin học, trong đó
việc mô hình hoá cấu trúc rừng, xác lập mối quan hệ giữa các nhân tố cấu trúc
rừng đã được nhiều tác giả nghiên cứu có kết quả. Vấn đề về cấu trúc không
gian và thời gian của rừng được các tác giả tập trung nghiên cứu nhiều nhất.
Có thể kể đến một số tác giả tiêu biểu như: Rol let B (1971), Brung (1970),
Loeth et al (1976) Rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu cấu trúc không
gian và thời gian của rừng theo hướng định lượng và dùng các mô hình toán
để mô phỏng các quy luật cấu trúc (dẫn theo Trần Văn Con, 2001)[7]. Rol
let.B( 1971) đã mô tả mối quan hệ giữa chiều cao và đường kính bằng các
hàm hồi quy, phân bố đường kính bằng các dạng phân bố xác suất. Nhiều tác
giả còn sử dụng hàm Weibull để mô hình hoá cấu trúc đường kính loài theo
mô hình của Schumarcher và Coil (Belly, 1973). Bên cạnh đó các hàm Meyer,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Hyperbol, hàm mũ, Pearson, Poisson, cũng được nhiều tác giả sử dụng để
mô hình hoá cấu trúc rừng.
Một vấn đề nữa có liên quan đến nghiên cứu cấu trúc rừng đó là việc
phân loại rừng theo cấu trúc và ngoại mạo hay ngoại mạo sinh thái . Cơ sở
phân loại rừng theo xu hướng này là đặc điểm phân bố, dạng sống ưu thế, cấu
trúc tầng thứ và một số đặc điểm hình thái khác của quần xã thực vật rừng.
Đại diện cho hệ thống phân loại rừng theo hướng này có Humbold (1809),
Schimper (1903), Aubreville (1949), UNECO (1973), Trong nhiều hệ
thống phân loại rừng theo xu hướng này khi nghiên cứu ngoại mạo của quần
xã thực vật đã không tách rời khỏi hoàn cảnh của nó và do vậy hình thành một
hướng phân loại theo ngoại mạo sinh thái.
Khác với xu hướng phân loại rừng theo cấu trúc và ngoại mạo chủ yếu
mô tả rừng ở trạng thái tĩnh. Trên cơ sở nghiên cứu rừng ở trạng thái động,
Melekhov đã nhấn mạnh sự biến đổi của rừng theo thời gian, đặc biệt là sự
biến đổi của tổ thành loài cây trong lâm phần qua các giai đoạn khác nhau
trong quá trình phát sinh và phát triển của rừng.
Tóm lại, trên thế giới, các công trình nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc
rừng nói chung và rừng nhiệt đới nói riêng rất phong phú, đa dạng, có nhiều
công trình nghiên cứu công phu và đã đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh
rừng.
1.1.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng
Như chúng ta đã biết tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính
đặc thù của hệ sinh thái rừng, biểu hiện của nó là sự xuất hiện của một thế hệ
cây con của những loài cây gỗ ở những nơi có hoàn cảnh rừng: Dưới tán rừng,
chỗ trống trong rừng, đất rừng sau khai thái, đất rừng sau nương rẫy. Vai trò
của lớp cây con này là thay thế thế hệ cây già cỗi. Vì vậy tái sinh rừng hiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
theo nghĩa hẹp là quá trình phục hồi thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là
tầng cây gỗ.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng được
xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc
điểm phân bố. Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây tái sinh và
tầng cây gỗ lớn đã được nhiều nhà khoa học quan tâm (Mibbre-ad, 1930;
Richards, 1933,1939; Schultz, 1960; Baur G.N, 1964; Rollet, 1969). Do tính
chất phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có một số loài có giá trị nên
trong thực tiễn người ta chỉ khảo sát những loại cây có nghĩa nhất định.
Vấn đề tái sinh rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là hiệu quả
các cách thức xử lý lâm sinh liên quan đến tái sinh của các loài cây mục đích
ở các kiểu rừng. Từ đó các nhà lâm sinh học đã xây dựng thành công nhiều
phương thức chặt tái sinh. Nội dung chi tiết các bước và hiệu quả của từng
phương thức đối với tái sinh đã được Baur (1964) [1] tổng kết trong tác phẩm:
Cơ sở sinh thái học của kinh doanh rừng mưa.
Nghiên cứu tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi, A.Obrevin (1938) nhận
thấy cây con của các loài cây ưu thế trong rừng mưa là rất hiếm. Ông đã khái
quát hoá các hiện tượng tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi để đúc kết nên lí
luận bức khảm tái sinh, nhưng phần lí giải các hiện tượng đó còn hạn chế. Vì
vậy lí luận của ông còn ít sức thuyết phục, chưa giúp ích cho thực tiễn sản
xuất các biện pháp kỹ thuật điều khiển tái sinh rừng theo những mục tiêu kinh
doanh đã đề ra.
Các công trình nghiên cứu về phân bố tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới
đáng chú ý là công trình nghiên cứu của Richards, P.W (1952), Bernard
Rollet(1974), tổng kết các kết quả nghiên cứu về phân bố số cây tái sinh tự
nhiên đã nhận xét: Trong các ô có kích thước nhỏ (1x1m; 1x1,5m) cây tái
sinh tự nhiên có dạng phân bố cụm, một số ít có phân bố Poisson. Ở Châu Phi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
trên cơ sở các số liệu thu thập Taylor (1954), Barnard (1955) xác định số
lượng cây tái sinh trong rừng nhiệt đới thiếu hụt cần thiết phải bổ xung bằng
trồng rừng nhân tạo. Ngược lại, các tác giả nghiên cứu về tái sinh rừng nhiệt
đới Châu Á như Budowski (1956), Bava (1954), Atinot (1965) lại nhận định
dưới tán rừng nhiệt đới nhìn chung có đủ số lượng cây tái sinh có giá trị kinh
tế, do vậy các biện pháp lâm sinh đề ra là cần thiết để bảo vệ và phát triển cây
tái sinh có sẵn dưới tái rừng (Nguyễn Duy Chuyên, 1996) [5].
Đối với rừng nhiệt đới thì các nhân tố sinh thái như nhân tố ánh sáng (
thông qua độ tàn che của rừng), độ ẩm của đất, kết cấu quần thụ, cây bụi,
thảm tươi là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái sinh rừng.
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Baur
G.N (1962) [1] cho rằng, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến phát triển của
cây con, đối với sự nảy mầm và phát triển của cây mầm, ảnh hưởng này
thường không rõ ràng. Thảm cỏ và cây bụi tuy kém phát triển ở những quần
thụ kín tán nhưng chúng vẫn có ảnh hưởng đến cây tái sinh. Nhìn chung ở
rừng nhiệt đới, tổ thành và mật độ cây tái sinh thường khá lớn như số lượng
loài cây có giá trị kinh tế thường không nhiều và được nghiên cứu nhiều hơn,
còn các loài cây có giá trị kinh tế thấp thường ít được nghiên cứu, đặc biệt là
đối với tái sinh ở các trạng thái rừng phục hồi sau nương rẫy.
Độ khép tán của quần thụ ảnh hưởng trực tiếp đến mật độ và sức sống
của cây con. Trong công trình nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa cây con và
quần thụ, V.G.Karpov (1969) đã chỉ ra đặc điểm phức tạp trong quan hệ cạnh
tranh về dinh dưỡng khoáng của đất, ánh sáng, độ ẩm và tính chất không
thuần nhất của quan hệ qua lại giữa các thực vật tuỳ thuộc đặc tính sinh vật
học, tuổi và điều kiện sinh thái của quần thể thực vật (dẫn theo Nguyễn Văn
Thêm, 2002) [40].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Trong nghiên cứu tái sinh rừng người ta nhận thấy rằng tầng cỏ và tầng
cây bụi qua thu nhận ánh sáng, độ ẩm và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng
của tầng đất mặt đã ảnh hưởng xấu đến cây con tái sinh của các loài cây gỗ.
Những quần thụ kín tán, đất khô và nghèo dinh dưỡng khoáng thì thảm cỏ và
cây bụi sinh trưởng kém nên ảnh hưởng của nó đến các cây gỗ tái sinh không
đáng kể. Ngược lại, những lâm phần thưa, rừng đã qua khai thác thì thảm cỏ
có điều kiện phát sinh mạnh mẽ. Trong điều kiện này chúng là nhân tố gây trở
ngại rất lớn cho tái sinh rừng (Xannikov, 1967; Vipper, 1973), (Nguyễn Văn
Thêm, 2002) [40].
Như vậy, qua những kết quả nghiên cứu tái sinh tự nhiên của thảm thực
vật rừng trên thế giới chỉ ra cho chúng ta thấy được các phương pháp nghiên
cứu của một số tác giả cũng như những quy luật tái sinh ở một số nơi. Đồng
thời các tác giả đã chỉ ra được một số biện pháp lâm sinh phù hợp tác động
vào đó nhằm thúc đẩy quá trình tái sinh theo chiều hướng có lợi.
1.1.3. Nghiên cứu về phục hồi bằng trồng rừng ( phục hồi nhân tạo)
Phục hồi rừng được hiểu là công việc tái tạo lại rừng trên những diện
tích đã bị mất rừng. Theo quan điểm sinh thái học thì phục hồi rừng là một
quá trình tái tạo lại một hệ sinh thái mà trong đó cây gỗ là yếu tố cấu thành
chủ yếu. Đó là một quá trình sinh địa phức tạp gồm nhiều giai đoạn và kết
thúc bằng sự xuất hiện một thảm thực vật cây gỗ bắt đầu khép tán ( Trần Đình
Lý, 1995) [23].
Để tái tạo lại rừng người ta có thể sử dụng các giải pháp khác nhau tuỳ
theo mức độ tác động của con người là phục hồi nhân tạo (trồng rừng), phục
hồi tự nhiên và phục hồi tự nhiên có tác động của con người (xúc tiến tái
sinh).
Trên thế giới việc trồng rừng đang được các nước quan tâm và phát
triển mạnh mẽ đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Nhưng hiện nay vẫn còn có
những ý kiến khác nhau về trồng rừng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
G.Baur (1976) [1] khẳng định việc trồng rừng là cần thiết để mang lại
hiệu quả cao trong kinh doanh rừng nhưng nếu trồng rừng như của
Wadsworth (1960) thì chỉ là giải pháp trước mắt, còn về lâu dài thì phải dựa
vào những kiến thức đúng đắn về sinh thái học của quần lạc đó.
R.Catinot (1965) [4] cho rằng ở vùng nhiệt đới ẩm Châu Phi sau khi
khai thác có thể thay thế một quần thể rừng tự nhiên bằng rừng trồng mà vẫn
mang lại hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên tác giả cũng lưu ý rằng cần phải nắm
chắc kỹ thuật lâm sinh thì quá trình thực hiện mới có hiệu quả.
A.Miyawki (1991) [56] đã nêu khẩu hiệu cây bản địa trên đất bản địa,
xuất phát từ quan điểm rừng là một hệ sinh thái ông đã thực hiện nhiều dự án
phục hồi hệ sinh thái rừng nhiệt đới bằng biện pháp trồng rừng và việc trồng
rừng được thực hiện bằng phương pháp do ông đề xướng gọi là phương pháp
Miyawaki. Theo phương pháp này thì việc phục hồi lại rừng mưa nhiệt đới ở
Buntulu, Sarawak (Malaysia) chỉ khoảng 40 - 50 năm, trong khi đó để đạt
được trạng thái này theo con đường diễn thế tự nhiên thì phải cần 200 - 250
năm (Miyawaki, 1991) [56].
Tansley (1994) cho rằng, trồng rừng là giải pháp để rút ngắn quá hình
diễn thế thảm thực vật. Nhưng Beard (1947) lại phản đối việc trồng rừng và
cho đó là “bệnh sởi trồng rừng đã mắc phải do thiếu sinh tố sinh thái học”
(dẫn theo G.Baur, 1976) [1].
Wadsworth (1960) khi nói về vai trò của rừng trong kinh doanh, ông đã
khẳng định trồng rừng thâm canh sẽ là nguồn cung cấp gỗ duy nhất có kinh tế
ở các miền nhiệt đới (Baur, 1976) [1].
Hội nghị Lâm nghiệp Thế giới lần thứ 7 (10/1972) tại Buenos-Aires đã
khẳng định cần phải đẩy mạnh việc trồng rừng. Nhưng hội nghị cũng lưu ý là
trồng rừng chỉ cho hiệu quả khi phối hợp chặt chẽ các biện pháp kỹ thuật tạo
điều kiện cho cây rừng sinh trưởng (Vorobiev, 1981) [54].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng
Nhiều công trình khoa học của nhiều tác giả đã tập trung vào các đặc
điểm cấu trúc của các kiểu rừng tự nhiên, rừng trồng nhằm phục vụ việc kinh
doanh rừng lâu dài và ổn định. Những năm 70 trở lại đây lâm sinh học định
lượng phát triển mạnh mẽ, nhiều tác giả đã đi sâu vào mô phỏng các cấu trúc
từ đơn giản đến phức tạp bằng các mô hình.
1.2.1.1. Về phân loại rừng
Theo tác giả Trần Ngũ Phương (1963) [26] đã đề cập tới một hệ thống
phân loại, trong đó rất chú ý tới việc nghiên cứu quy luật diễn thế tái sinh.
Dựa trên quan điểm sinh thái phát sinh quần thể, tác giả Thái Văn
Trừng (1978) [47] đã phân chia thảm thực vật rừng Việt Nam thành 14 kiểu.
Đây là công trình tổng quát đáp ứng được yêu cầu về quy luật sinh thái.
Với tác giả Vũ Biệt Linh (1984) [17] khi bàn về vấn đề rừng theo hệ
thống phân loại kinh doanh đã xác định cần phân chia rừng, đất rừng theo
mục đích, nội dung, phương thức, biện pháp kinh doanh nhằm tổ chức định
hướng tác nghiệp kinh doanh theo các đối tượng khác nhau để đạt được hiệu
quả cần thiết.
Với tác giả Vũ Đình Phương (1985 - 1988) [33]. Đã đưa ra phương
pháp phân chia rừng phục vụ công tác điều chế với đơn vị phân chia là lô và
dựa vào 5 nhân tố: Nhóm sinh thái tự nhiên, các giai đoạn phát triển và suy
thoái của rừng, khả năng tái tạo rừng bằng con đường tái sinh tự nhiên, đặc
điểm về địa hình, thổ nhưỡng với một bảng mã hiệu dùng để tra trong quá
trình phân chia. Phương pháp phân chia này đã được đưa ra áp dụng trong khi
xây dựng phương án điều chế cho một số lâm trường ở Tây Nguyên và Quảng
Ninh đã tỏ ra có nhiều ưu điểm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Như vậy, có rất nhiều tác giả trong nước cũng như của nước ngoài đều
cho rằng việc phân chia loại hình rừng tự nhiên ở Việt Nam là tối cần thiết đối
với nghiên cứu cũng như trong sản xuất. Nhưng tuỳ từng mục tiêu đề ra mà
xây dựng các phương pháp phân chia khác nhau nhưng đều nhằm mục đích
làm rõ thêm các đặc điểm của đối tượng cần quan tâm. Công trình của Thái
Văn Trừng đã đặt nền móng cho việc phân chia rừng tự nhiên của nước ta một
cách tổng quát. Phương pháp của Vũ Đình Phương tỉ mỉ hơn và cho ta những
thông số cơ bản về tình trạng rừng hiện tại không chỉ ở góc độ về trữ lượng,
vì vậy người quản lí dễ phác hoạ được các biện pháp xử lí lâm sinh tác động
vào rừng. Phương pháp này tỏ ra hữu hiệu khi áp dụng ở nơi có trình độ kinh
doanh tương đối cao và ổn định.
1.2.1.2. Nghiên cứu định lƣợng cấu trúc rừng
Trong những năm gần đây, việc đi vào chiều sâu nghiên cứu cấu trúc
rừng cũng đã được nhiều tác giả quan tâm như những công trình nghiên cứu
mô hình hoá cấu trúc đường kính D
1.3
và biểu diễn chúng theo các dạng hàm
phân bố xác suất khác nhau, nổi bật là công trình nghiên cứu của Đồng Sỹ
Hiền (1974) [13] dùng hàm Meyer và hệ đường cong Poisson để nắn phân bố
thực nghiệm số cây theo cỡ đường kính cho rừng tự nhiên làm cơ sở cho việc
lập biểu độ thon cây đứng ở Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Hải Tuất (1982 - 1986) [50, 51] đã sử dụng hàm phân
bố giảm, phân bố khoảng cách để biểu diễn cấu trúc của rừng thứ sinh, đồng
thời cũng áp dụng quá trình Poisson vào nghiên cứu cấu trúc quần thể rừng.
Tác giả Trần Văn Con (1991) [7] đã áp dụng hàm Weibull để mô
phỏng cấu trúc đường kính cho rừng khộp ở ĐăkLắk.
Tác giả Lê Minh Trung (1991) [46] đã sử dụng hàm Poisson mô phỏng
cấu trúc tán lá cây, hàm Weibull mô phỏng cấu trúc chiều cao và đường kính.
Đồng thời cũng tiến hành khảo nghiệm hàm Hyperbol và Meyer cho các cấu
trúc này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Nhìn chung các nghiên cứu định lượng cấu trúc đã được nhiều nhà lâm
sinh học trong nước quan tâm ở các mức độ khác nhau nhưng đều nhằm một
mục đích là xây dựng các cơ sở khoa học cho các giải pháp lâm sinh hợp lí.
Các nghiên cứu không dừng lại ở mức độ mô tả chung chung mà đã đi sâu
vào phân tích các quy luật kết cấu và theo xu hướng chung của thế giới. Đó là
khái quát hoá, mô phỏng các quy luật bằng toán học, đồng thời các giải pháp
lâm sinh được xây dựng trên cơ sở các chỉ tiêu định lượng.
1.2.1.3. Nghiên cứu cấu trúc và xây dựng mô hình cấu trúc mẫu
Nghiên cứu cấu trúc rừng định lượng các nhân tố cấu trúc và xây dựng
các mô hình mẫu chuẩn phục vụ khai thác, nuôi dưỡng rừng là mục tiêu quan
trọng nhằm vạch ra phương hướng và phương pháp điều chế rừng. Nguyễn
Văn Trương (1973 - 1986) [48, 49] đã nghiên cứu về phương pháp thống kê
cây đứng, cấu trúc 3 chiều rừng gỗ hỗn loại và đề xuất các mô hình cấu trúc
mẫu định lượng bằng toán học phục vụ công tác khai thác, nuôi dưỡng. Theo
tác giả đây là những mô hình hoàn thiện nhất đã có trong thiên nhiên và trên
cơ sở khắc phục những tồn tại lớn mà sự ngẫu nhiên của thiên nhiên mang lại.
Để xây dựng mô hình cấu trúc cho các loài, kiểu rừng với từng điều
kiện hoàn cảnh, Nguyễn Hồng Quân ( 1975, 1981, 1982) [31, 32, 33, 34] đã
sử dụng hàm mũ theo dạng Meyer để phân cấp các lâm phần chặt chọn trên
cơ sở thay đổi hệ số góc của phương trình khi điều kiện, hoàn cảnh thay đổi.
Lê Minh Trung (1991)[46] đã vận dụng phương pháp này để xây dựng cấu
trúc mẫu trên 3 cấp năng suất cho rừng tự nhiên hỗn loài ở Đăk Nông. Từ đó
làm cơ sở đề xuất hướng khai thác và nuôi dưỡng rừng.
Nguyễn Ngọc Lung (1985) [18] đã cho rằng: Trong thực tiễn sản xuất,
sau khi phân chia rừng ra các loại, mỗi loại thuần nhất về mặt nào đó như tổ
thành, tầng thứ, phân bố số cây theo kích cỡ thì ta có thể chọn được một loại
trong các lô tốt nhất, có trữ lượng cao, sinh trưởng tốt, tổ thành cấu trúc hợp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
lý nhất, có đủ thế hệ cây gỗ, cũng cho phép sản lượng ổn định. Ta coi đây là
mẫu chuẩn tự nhiên và đây cũng chính là cái mà con người cần hướng tới
trong quá trình kinh doanh rừng.
Phùng Ngọc Lan (1986) [14, 16] cũng đã nêu lên: Mô hình cấu trúc
mẫu là mô hình có khả năng tận dụng tối đa tiềm năng của điều kiện lập địa,
có sự phối hợp hài hoà giữa các nhân tố cấu trúc để tạo ra một quần thể rừng
có sản lượng, tính ổn định và chức năng phòng hộ cao nhất, nhằm đáp ứng
mục tiêu kinh doanh nhất định.
Vũ Đình Phương (1987) [28] cũng đồng quan điểm trong việc xây
dựng mô hình cấu trúc rừng và vốn rừng cho rằng, cần phải tìm trong tự nhiên
những cấu trúc mẫu có năng suất cao đáp ứng mục tiêu kinh tế trong từng khu
vực. Để nghiên cứu cấu trúc sinh trưởng rừng hỗn loại, ông đã đề xuất quan
điểm: Tổng thể hỗn loài hay còn gọi là rừng cây là do các phần tử thuần loài
hợp thành.
Trong lĩnh vực này, các tác giả đều xây dựng các cấu trúc mẫu từ
nghiên cứu cơ sở cơ bản các quy luật kết cấu, từ đó đề xuất các hướng tác
động vào rừng. Các mẫu này đều được xây dựng trên cơ sở các mẫu tự nhiên
đã chọn lọc thông qua tài liệu quan sát và được coi là ổn định, có năng suất
cao nhất. Tính ổn định của các cấu trúc này thường được quan tâm nhiều nhất
là cấu trúc N-D
1.3
, nó cũng là cơ sở cho việc khai thác và nuôi dưỡng thông
qua việc điều chỉnh cấu trúc này.
1.2.1.4. Nghiên cứu phân chia tầng thứ trong rừng nhiệt đới
Việc nghiên cứu này ở Việt Nam còn quá ít ỏi, nhất là ở xu hướng định
lượng hoá. Có thể điểm qua một số công trình của các tác giả sau đây:
Thái Văn Trừng (1978) [47] đã đưa ra mô hình cấu trúc tầng như: Tầng
vượt tán (A
1
), tầng ưu thế sinh thái (A
2
), tầng dưới tán (A
3
), tầng cây bụi (B)
và tầng cỏ quyết (C). Ông đã vận dụng và cải tiến bổ xung phương pháp biểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
đồ mặt cắt đứng của Davit-Richards để nghiên cứu cấu trúc rừng Việt Nam,
trong đó tầng cây bụi và thảm tươi được vẽ phóng đại với tỉ lệ nhỏ hơn và và
ký hiệu thành phần loài cây của quần thể đối với những đặc trưng sinh thái và
vật hậu cùng biểu đồ khí hậu, vị trí địa lý, địa hình. Tuy nhiên, việc chỉ ra độ
cao giới hạn cho các tầng vẫn mang tính chất định tính.
Nguyễn Văn Trương (1973, 1983, 1984) khi nghiên cứu cấu trúc hỗn
loài cũng đã nghiên cứu sự phân tầng theo hướng định lượng, nhưng ở đây tác
giả đã sử dụng phương pháp phân tầng theo chiều cao một cách cơ giới mà
điều này không thể chỉ rõ kiểu phân tầng ở rừng nhiệt đới Việt Nam .
Vũ Đình Phương (1988) [29] xuất phát từ các kết quả của các tác giả đi
trước đã nhận định rằng: Việc xác định tầng thứ sinh thái của rừng lá rộng
thường xanh là hoàn toàn hợp lý và cần thiết, do đó bằng phương pháp định
lượng để xác định giới hạn của các tầng thứ là có thể làm được. Nhưng chỉ có
thể có sự phân tầng 'rõ rệt' khi rừng ở một giai đoạn phát triển nào đó của quá
trình sinh trưởng và phát triển, mà theo tác giả đó là giai đoạn thành thục khi
sự sinh trưởng và phát triển của rừng diễn ra ở mức độ chậm chạp. Còn trong
giai đoạn rừng đang có sự thay đổi mạnh sau thành thục với một số lượng cây
lớn, già cỗi bị đào thải, rừng bắt đầu một giai đoạn mới thì ranh giới các tầng
khó phát hiện được. Cũng theo quan điểm của tác giả, cần phân biệt rõ tầng
tán với các lớp chiều cao cây rừng. Tầng tán là một khoảng không gian chứa
đựng một số lượng nhất định tán cây trọn vẹn từ đỉnh đến đáy tán, còn lớp
chiều cao mà một số tác giả viết là tầng tán thì không chính xác, vì thực chất
đây chỉ là một khoảng không gian chứa đựng một số lượng nào đó của đỉnh
tán cây trong rừng cây hoặc lâm phần. Xuất phát từ luận điểm này, bằng số
liệu quan sát và hơn 10 phẫu diện đồ theo mặt cắt đứng, tác giả đã dùng
phương pháp toán học để phân tầng sinh thái ở miền Bắc Việt Nam. Đây là
một nghiên cứu hoàn toàn mới mẻ nhưng bước đầu đã giúp các nhà nghiên