Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Luận văn đông phương học những vấn đề gia đình nhật bản hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 116 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG
KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC
[\



BÁO CÁO
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC


ĐỀ TÀI
:
NHỮNG VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH
NHẬT BẢN HIỆN ĐẠI



Sinh viên thực hiện : MAI NGUYỄN THUỲ LINH
: NGUYỄN THỊ HUYỀN
Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS Nguyễn Tiến Lực





BIÊN HÒA, THÁNG 12/2010


LỜI CẢM ƠN



Lời đầu tiên cho phép chúng em được gửi lời cám ơn chân thành đến Ban
Giám Hiệu nhà trường Đại Học Lạc Hồng, cùng ban lãnh đạo khoa Đông Phương
Học đã tạo những điều kiện thuận lợi để chúng em có thể hoàn thành bài tốt bài
luận văn này. Ngoài ra, chúng em cũng xin cám ơn quý thầy cô đã tận tình giảng
dạy và hướng dẫn, động viên chúng em trong suốt quá trình học tập, để chúng em
ngoài việc nâng cao những hiểu biế
t của mình về đất nước, con người, ngôn ngữ
và văn hóa Nhật Bản.
Đặc biệt chúng em xin gửi lời cám ơn chân thành nhất đến giáo viên
hướng dẫn Phó Giáo Sư – Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Lực người đã định hướng và
giúp đỡ chúng em thực hiện luận văn này. Trong suốt quá trình hoàn thành bài
luận văn này, chúng em gặp không ít khó khăn nhưng Thầy luôn nhiệt tình, giúp
chúng em tìm kiếm tư liệu, tận tình chỉ bảo, h
ướng dẫn và sửa chữa để bài luận
văn này có thể hoàn thành đúng thời hạn.
Đồng thời, chúng em xin chân thành cám ơn quý thầy cô phản biện đã cho
chúng em nhiều ý kiến chân thành, quý báu, giúp chúng em hiểu sâu sắc hơn về
bài luận văn của mình, và để bài viết ngày càng được hoàn thiện.
Chúng em xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn giúp đỡ, khích
lệ, tạo mọi điều kiện thuận lợi trong suốt quá trình hoàn thành luận vă
n.
Và chúng tôi cũng xin gởi lời cảm ơn đến những người bạn ở xứ sở hoa
anh đào đã cung cấp cho tôi những nguồn tài liệu vô cùng quý giá để hoàn thành
tốt bài luận của mình.
Do khả năng có hạn, những điều kiện khách quan tác động và nhất là hạn
chế về thời gian, luận văn này không tránh khỏi những hạn chế, sai sót. Vì thế,
chúng em rất mong nhận được sự chỉ b
ảo, đóng góp ý kiến của quý thầy cô, các
bạn sinh viên.

Xin chân thành cám ơn.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài 2
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Những đóng góp của đề tài. 3
6. Cấu trúc của đề tài 4
NỘI DUNG 5
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT GIA ĐÌNH NHẬT BẢN 5
1.1 Khái niệm chung về gia đình. 5
1.1.1 Định nghĩa gia đình 5
1.1.2 Đặc trưng các mối quan hệ cơ bản của gia đình 7
1.2 Các loại hình gia đình Nhật Bản 9
1.2.1 Gia đình hạt nhân 9
1.2.2 Gia đình mở rộng 9
1.3 Gia đình Nhật Bản xưa và nay 10
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA GIA ĐÌNH NHẬT BẢN THỜI HIỆN
ĐẠI 13
2.1 Những vấn đề hôn nhân 14
2.1.1 Thực trạng kết hôn muộn và không kết hôn .14
2.1.1.1 Thực Trạng 14
2.1.1.2 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng kết hôn muộn và độc
thân ở Nhật. 17
2.1.2 Tình trạng ly hôn tăng cao 24
2.2 Những vấn đề trong mối quan hệ gia đình hiện nay 30
2.2.1 Hiện trạng bạo lực trong gia đình 32
2.2.2 Cuộc sống của người già và trẻ nhỏ trong gia đình 34
2.2.2.1 Căn bệnh khép kín 35

2.2.2.2 Người già neo đơn 36


CHƯƠNG III. SO SÁNH GIỮA GIA ĐÌNH VIỆT NAM VÀ GIA ĐÌNH
NHẬT BẢN. 39
3.1 Khái quát gia đình Việt Nam 39
3.2 So sánh giữa gia đình Việt Nam và gia đình Nhật Bản về mặt cấu trúc gia
đình. 43
3.3 Phương hướng khắc phục những mặt hạn chế còn tồn tại trong gia đình
hiện nay 48
KẾT LUẬN 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO 54

1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.
Gia đình là tế bào của xã hội, hay nói cách khác thì xã hội là do nhiều gia
đình hợp thành. Do vậy, gia đình không tồn tại một cách đơn lẻ mà tồn tại trong
những xã hội cụ thể thông qua rất nhiều các mối quan hệ với thế giới bên ngoài.
Gia đình là đầu mối của các quan hệ xã hội. Từ xa xưa vấn đề gia đình vẫn luôn
được xem trọng và được đề cập đến qua các câu ca dao t
ục ngữ “con hơn cha nhà
có phúc” , “con không cha như nhà không nóc”, “con nhà tông không giống lông
cũng giống cánh”.v.v
Cho đến tận ngày nay, vấn đề gia đình vẫn còn là một đề tài lớn cho các
nhà nghiên cứu xã hội học trên thế giới. Bởi vì, gia đình không chỉ là một đơn vị
tái sản xuất tộc người mà đó còn là một tấm gương phản ánh những nét văn hóa,
xã hội đặc trưng của mỗi dân tộc mỗi tộc người.
Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, cùng với tiến trình quốc tế hoá là sự

ảnh hưởng lẫn nhau của các nền văn hoá đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, vấn
đề xác định bản sắc văn hoá dân tộc của mỗi dân tộc là điều hết sức cần thiết.
Nghiên cứu về những vấn đề gia đình Nhật Bản hiện đại cũng là tìm hiểu về gia
đình, những mối quan hệ trong gia đình Nhật Bản hiện nay với những vấn đề mà
xã hội Nhật Bản đang quan tâm.
Từ thập niên 80 nền kinh tế của Nhật Bản đã phát triển vào bậc hàng đầu
trên thế giới đã thu được nhiều thành tựu to lớn, đời sống của người dân ngày
càng được nâng cao. Nhưng mặt khác quá trình đô thị hóa cũng làm nãy sinh
những hiện tượng tiêu cực ảnh h
ưởng tới gia đình như: ly hôn, trẻ em lang thang
bỏ học, phạm pháp tuổi vị thành niên, tự sát v v…đang có chiều hướng gia tăng.
Vì vậy với xu thế phát triển trên việc phát huy những yếu tố tích cực, hạn
chế những mặt tiêu cực của gia đình trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới
hiện nay là vấn đề đang được xã hội chú trọng.
Là một sinh viên nghành Nhật Bản học, chúng tôi cũng mu
ốn nghiên cứu
để biết, để hiểu rõ và cũng để có những hình dung cơ bản về đất nước – con
người Nhật Bản.

2
Mặt khác, khoá luận cũng nhằm vào mục đích cung cấp cái nhìn cận cảnh
về gia đình Nhật bản hiện đại bổ xung vào bức tranh Nhật Bản tại Việt Nam, để
hiểu đúng hơn về thực trạng xã hội Nhật Bản hiện nay và những nguyên nhân
nào đã dẫn đến sự thay đổi ấy, góp phần giúp cho mối quan hệ giao lưu Việt –
Nhật ngày càng tốt đẹp hơn.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài.
Nghiên cứu về gia đình Nhật Bản hiện đại là một vấn đề lớn, trong khi đó
ở Việt Nam hiện nay lại chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu về vấn đề này. Những
cuốn sách viết về gia đình – xã hội Nhật Bản hay những trang báo, tạp chí mới
chỉ mang tính chất khái quát giới thiệu một cách tản mạn chứ chưa đi sâu vào

phân tích v
ề những vấn đề gia đình Nhật Bản hiện đại. Điều này đã gây ra những
khó khăn trong việc tiếp cận xã hội Nhật Bản mà cụ thể là trong lĩnh vực gia đình
Nhật Bản.
Dựa trên những cơ sở lý luận về hôn nhân gia đình trong cuốn “gia đình
Nhật Bản” do Trần Mạnh Cát chủ biên, hay cuốn “Dân tộc học đại cương” do
Đặng Nghiêm Vạn chủ
biên và những tác phẩm được dịch sang Tiếng Việt để
làm cơ sở hình thành khóa luận. Ngoài ra, bằng vốn tiếng Nhật khiêm tốn, chúng
tôi cố gắng tham khảo trực tiếp bằng những trang wed cũng như những tạp chí,
báo được viết bằng tiếng Nhật được đề cập trong danh mục những tài liệu tham
khảo.
Nội dung nghiên cứu đề là cập tới vấn đề nổi bật trong đờ
i sống gia đình
và những mối quan hệ gia đình trong gia đình Nhật Bản hiện đại. Sự thay đổi về
kinh tế đã dẫn đến những thay đổi trong gia đình Nhật Bản, đặc biệt là sự ảnh
hưởng từ gia đình – xã hội đến tâm lý và đời sống của thanh thiếu niên Nhật Bản
hiện nay.
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề
về gia đình những mối quan hệ gia
đình trong gia đình Nhật Bản hiện đại, khảo sát tổng hợp về số liệu để thấy được
sự thay đổi của gia đình Nhật Bản từ năm 2000 đến nay. Đồng thời so sánh với
gia đình Việt Nam hiện nay. Tìm hướng giải quyết các vấn đề gia đình – xã hội
trong giai đoạn hiện nay mà cả hai nước đang quan tâm.

3
+ Giới hạn về thời gian: khóa luận nghiên cứu về những sự thay đổi lớn
trong gia đình - xã hội Nhật Bản và sự tác động của xã hội đến gia đình Nhật Bản
trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay.

+ Giới hạn về không gian: khoá luận chỉ nghiên cứu về những vấn đề
trong gia đình Nhật Bản hiện đại chứ không đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề
hôn nhân.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp thống kê - tổng hợp: tổng hợp những tài liệu, thống kê số
liệu mà các nhà nghiên cứu xã hội học, những trang báo, tạp chí viết về những
vấn đề gia đình – xã hội Nhật Bản hiện đại để có cái nhìn tổng quát về gia đình
và những mối quan hệ gia đình Nhật Bản hiện nay.
Phương pháp diễn dịch: dùng trong phần viết về những vấn đề của xã hội
Nhật Bản hiện nay, đưa ra những nhận định, tìm dẫn chứng và phân tích những
dẫn chứng để làm rõ các vấn đề được đưa ra.
Phương pháp so sánh: so sánh về gia đình Nhật Bản hiện đại và gia đình
Việt Nam để tìm ra sự tương đồng cũng như sự khác biệt giữa hai quốc gia.
5. Những đóng góp của đề tài.
Mặc dù nguồn tư
liệu cũng như một số hạn chế trong việc tìm và dịch tài
liệu từ tiếng Nhật nhưng tác giả cũng hy vọng đóng góp phần nào vào con đường
nghiên cứu Nhật Bản hiện nay.
+ Ý nghĩa khoa học: vận dụng những kiến thức có được trong những năm
học đại học, trực tiếp nghiên cứu từ các tài liệu bằng tiếng Nhật khoá luận phần
nào cung cấ
p một cái nhìn mang tính hệ thống, cập nhật đối với những vấn đề về
gia đình Nhật Bản hiện nay. Từ đó giúp chúng ta hiểu nguyên nhân và ảnh hưởng
của những vấn đề về gia đình Nhật Bản trong xã hội Nhật Bản hiện nay. Góp
phần vào quá trình nghiên cứu Nhật Bản tại Việt Nam.
+ Ý nghĩa thực tiễn: Việt Nam và Nhật Bản có nhiều nét văn hóa tương
đồng bên c
ạnh đó Việt Nam cũng đang trên con đường công nghiệp hóa cùng với
đó là quá trình đô thị hóa và những đổi thay về kinh tế văn hóa v v…Những thay
đổi trên có những tác động nhất định đến thể chế gia đình: gia tăng ly hôn, gia

tăng các gia đình đơn thân, những người già neo đơn…

4
Dường như gia đình Việt Nam cũng đang phát triển theo xu hướng như
gia đình Nhật Bản, do đó nghiên cứu của chúng tôi về “Những vấn đề về gia đình
Nhật Bản thời hiện đại” sẽ có ích cho Việt Nam trong việc hoạch định những
chính sách về dân số và gia đình. Mặt khác cũng để tìm ra một hướng đi cho xã
hội Việt Nam trong giai đoan sắp tới, phát triển được kinh tế xã hội nhưng vẫn
gìn giữ được truyền thống. Tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa hai nước Việt
Nam – Nhật Bản trên lĩnh vực văn hóa – xã hội. Đối với chúng tôi đây là cơ hội
để trau dồi vốn tiếng Nhật và thu thập kiến thức văn hóa – xã hội Nhật Bản, hiểu
thêm về con người, đất nước Nhật Bản.
Tuy nhiên, do khả năng về
chuyên môn còn hạn chế và chỉ mới bước đầu
trên con đường nghiên cứu nên khoá luận này chắc chắn không tránh khỏi những
sai sót. Kính mong quý thầy cô tận tình chỉ dẫn để cho tác giả có thêm kinh
nghiệm cho những bài luận sau được tốt hơn.
6. Cấu trúc của đề tài:
Gồm có 3 chương:
- Chương I: Khái quát gia đình Nhật Bản
- Chương II: Thực trạng gia đình Nhật Bản hiện đại.
- Chương III: So sánh giữa gia đình Nhật B
ản và gia đình Việt Nam











5
CHƯƠNG I:
KHÁI QUÁT GIA ĐÌNH NHẬT BẢN

1.1 KHÁI NIỆM CHUNG VỀ GIA ĐÌNH
Từ lúc sinh ra cho đến lúc trưởng thành môi trường mà chúng ta tiếp xúc
đầu tiên đó chính là gia đình. Vì vậy mà gia đình không phải chỉ ảnh hưởng đến
cá nhân mà còn là nền tảng cho cả xã hội nữa.
Thực vậy, nhìn vào cách thức tổ chức, chúng ta sẽ nghiệm ra rằng: nhiều
gia đình họp lại thành thôn ấp, và cứ thế đi lên tới xã, huyện, tỉnh, quốc gia và
cộng đồng quốc tế.
Bởi đó, gia đình đ
ã trở nên một yếu tố căn bản để xây dựng xã hội. Gia đình
tốt làm cho cá nhân tốt đã đành, mà hơn thế nữa gia đình tốt còn làm cho cả xã
hội đều được tốt. Trái lại gia đình xấu thì chắc hẳn xã hội cũng sẽ bị ung thối. Vì
vậy gia đình và những vấn đề gia đình luôn là một đề tài xã hội quan tâm.
1.1.1 Định nghĩa gia đình
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về gia đình của các nhà khoa
học nghiên cứu ở từng góc độ khác nhau, với tư cách một hình thức cộng đồng tổ
chức đời sống xã hội, gia đình được hình thành từ rất sớm và đã trải qua một quá
trình phát triển lâu dài.
Xuất phát nhu cầu bảo tồn và duy trì nòi giống, từ sự cần thiết phải nương
tựa vào nhau để sinh tồn, các hình thức quần tụ giữa nam giới và nữ giới, những
hình thức cộng đồng tổ chức đời sống gia đình đã xuất hiện. Lịch sử nhân loại đã
trải qua nhiều hình thức gia đình: gia đình đơn thân, gia đình một vợ một chồng,
gia đình ba thế hệ… Trên cơ sở của sự phát triển kinh tế - xã hội, các kiểu dạng
tổ chức cộng đồng mang tính tự nhiên ngay từ đầu đã chịu sự quy định của những

biến đổi trong sản xuất, trong đời sống kinh tế - xã hội. Để quan hệ với thiên
nhiên, tác động vào thiên nhiên, con người cần phải quần tụ thành các nhóm cộng
đồng. Ban đầu, các quan hệ chi phối trong những nhóm cộng đồng ấy còn mang
sắc thái tự nhiên, sinh học. Trước những yêu cầu của sản xuất và sinh hoạt,
những đòi hỏi của đời sống kinh tế, các quan hệ ấy dần trở nên chặt chẽ, giữa các

6
thành viên trong cộng đồng ấy xuất hiện những cơ chế ràng buộc lẫn nhau phù
hợp và thích ứng với những điều kiện sản xuất, sinh hoạt của mỗi một nền sản
xuất.
Gia đình dần trở thành một thiết chế xã hội, một hình ảnh xã hội thu nhỏ.
Như vậy, gia đình được coi là một thiết chế xã hội đặc thù, nhỏ nhất, cơ bản nhất.
Nếu như văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra, nhằm thoả mãn, đáp ứng các nhu cầu của chính mình, thì gia đình không
chỉ là một hình thức tổ chức cộng đồng, một thiết chế xã hội mà điều quan trọng
gia đình còn là một giá trị văn hoá xã hội. Tính chất bản sắc của gia đình lại được
duy trì, bảo tồn, được sáng tạo và phát triển nhằm thoả mãn những nhu cầu của
mỗi thành viên gia đình trong sự tương tác, gắn bó với văn hoá cộng đồng dân
tộc, cộng đồng giai cấp và tầng lớp của mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia, dân
tộc xác định.
Theo tác giả Levy Strauss
1
: Gia đình là một nhóm xã hội học được quy định
bởi 3 đặc điểm thường thấy.
+ Hôn nhân
+ Quan hệ hôn nhân
+ Các ràng buộc và trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình.
Liên Hợp Quốc định nghĩa: gia đình là một nhóm người có quan hệ họ
hàng cùng sống chung và có ngân sách chung.
Tóm lại gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản trong đời

sống cộng đồng của con người, một thiết chế vă
n hoá - xã hội đặc thù, được hình
thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống,
quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành viên. Từ đó chúng ta tìm hiểu
đặc trưng cơ bản của gia đình để xem xét các mối quan hệ của gia đình ở góc độ
là một nhóm xã hội, nhóm tâm lý - tình cảm đặc thù, với các mối quan hệ bên
trong, với sự tác động qua lại trong nội bộ của các thành viên để th
ỏa mãn những
nhu cầu của mỗi người, đặc biệt là mối quan hệ giữa vợ và chồng. “Nguồn:[34]”




1
Người thầy của trường phái nhân học Pháp, ông sinh năm 1908 trong 1 gia đình Pháp gốc Do Thái.

7
1.1.2 Đặc trưng các mối quan hệ cơ bản của gia đình
Hôn nhân và quan hệ hôn nhân là một quan hệ cơ bản của sự hình thành,
tồn tại và phát triển gia đình: hôn nhân là một hình thức quan hệ tính giao giữa
nam và nữ nhằm thoả mãn các nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm và đảm bảo duy trì,
phát triển nòi giống. Cùng với sự phát triển của lịch sử, hôn nhân cũng có những
biến đổi sâu sắc về hình thức, tính chất, sắc thái của nó. Nếu như trong chế độ
cộng sản nguyên thuỷ, hình thức hôn nhân chủ yếu là quần hôn, trong các chế độ
tư hữu hôn nhân được hình thành xây dựng và thực hiện trên cơ sở bảo đảm lợi
ích của những người chủ sở hữu (ví dụ: trong chế độ phong kiến hôn nhân một
vợ một chồng nhưng điều đó chỉ ràng buộc đối với người vợ ). Hôn nhân là hình
thức quan hệ tính giao của con người và chỉ có ở con người, nên ngay từ đầu hôn
nhân đã mang bản chất người, nhân văn và nhân đạo. Sự phù hợp về tâm lý, sức
khoẻ và nhất là trạng thái tình cảm, ngay từ đầu đã là cơ sở trực tiếp của hôn

nhân, mang lại bản sắc đặc thù của quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, như mọi quan
hệ xã hội khác hôn nhân luôn chịu sự chi phối của các quan hệ kinh tế và bản
chất chế độ xã hội mà trên đó nó được hình thành và phát triển. Vì vậy, hôn nhân
trong bất cứ thời đại nào cũng có thể và cần phải được xã hội thừa nhận, ở những
mức độ, trình độ khác nhau. “Nguồn:[3]”
Hiện nay về mặt pháp luật hôn nhân cũng được chấp nhận, bên cạnh sự
thừa nhận của cộng đồng, của các chuẩn mực văn hoá và lối sống của truyền
thống trong cộng đồng. Sự phù hợp về trạng thái tâm lý, tình cảm, lối sống giữa
đôi nam nữ trước khi đi đến hôn nhân và là cơ sở trực tiếp cho hôn nhân được gọi
là tình yêu. Cũng như hôn nhân tình yêu của mỗi thời đại, mỗi giai cấp và tầng
lớp, mỗi dân tộc và cộng đồng thì tâm lý văn hoá cũng có những giá trị và chuẩn
mực riêng, với những biểu hiện riêng, cụ thể và sinh động.
Huyết thống, quan hệ huyết thống là quan hệ cơ bản đặc trưng của
gia đình: Do nhu cầu hết sức tự nhiên cần duy trì và phát triển nòi giống, con
người đã sáng tạo ra gia đình với một thiết chế xã hội. Trong gia đình cùng với
quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống được coi là một quan hệ cơ bản nhất. Tuy
nhiên, ngay cả quan niệm về quan hệ này cũng có những thay đổi theo tiến trình

8
lịch sử. Những sự thay đổi ấy được quy định, chịu sự chi phối của các điều kiện
kinh tế, văn hoá, chính trị của xã hội.
Mặt khác, quan hệ huyết thống ấy cũng gia nhập, đan xen vào các quan hệ
kinh tế - xã hội và chính trị xã hội của mỗi thời đại. Trong chế độ công xã
nguyên thuỷ, huyết thống về đằng mẹ được coi như chuẩn mực để tính quan hệ
thân tộc gần xa. Khi ấy, gia đình được xây dựng trên cơ sở huyết thống mẫu hệ.
Gia đình theo huyết thống về đằng cha (gia đình phụ hệ) được coi như một sự
phủ định đối với gia đình mẫu hệ được hình thành và phát triển cùng với sự xuất
hiện chế độ tư hữu. Những biểu hiện của bất bình đẳng trong quan hệ nam nữ dù
ở mức độ thấp (gia đình mẫu hệ) đến mức độ cao hơn và ngày càng gay gắt hơn
(gia đình phụ hệ: gia đình chủ nô, gia đình phong kiến gia trưởng, gia đình tư

sản) chỉ có thể được khắc phục trong điều kiện khi mà chế độ tư hữu bị xoá bỏ,
chế độ sở hữu công cộng (công hữu) đối với các tư liệu sản xuất được xác lập.
“Nguồn:[8]”
Quan hệ quần tụ trong cùng một không gian sinh tồn: Ngay từ đầu,
xuất phát từ yêu cầu được đặt ra trong quan hệ với tự nhiên và giữa con người
với nhau, cộng đồng gia đình đã luôn cư trú, quần tụ trong một không gian sinh
tồn. Lúc đầu là trong một hang đá, hốc cây sau là trong một mái nhà Dù
không gian sinh tồn ấy ngày càng mở rộng và chịu sự chi phối của các quan hệ
kinh tế - xã hội, nhưng nhu cầu quần tụ vẫn luôn được đặt ra. Cho dù ngày nay,
khái niệm không gian sinh tồn của gia đình không còn giữ nguyên nghĩa như một
giới hạn địa lý thuần tuý. Cho dù sự can thiệp, mức độ quan tâm giữa các thành
viên gia đình đã được xã hội thay thế, đảm nhận ở mức độ đáng kể, sự quan tâm,
chăm sóc giữa các thành viên, các thế hệ trong mỗi gia đình không vì thế mà mất
đi. Trái lại nó được củng cố, được thực hiện nhờ những thiết bị, phương tiện và
tiện nghi ngày càng hiện đại, đầy đủ hơn.
Quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên và thế hệ thành viên trong gia
đình: Nuôi dưỡng là một nghĩa vụ, một trách nhiệm, đồng thời còn là một quyền
lợi thiêng liêng của gia đình, của các thành viên gia đình đối với nhau. Nuôi
dưỡng không đơn thuần chỉ là các bậc cha mẹ, ông bà nuôi dưỡng con cháu, mà
còn là hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng của con cháu đối với cha mẹ, ông bà,

9
giữa các thành viên khoẻ mạnh có thuận lợi trong làm ăn sinh sống đối với các
thành viên gặp những khó khăn, những rủi ro về sức khoẻ, về làm ăn sinh sống.
1.2 CÁC LOẠI HÌNH GIA ĐÌNH NHẬT BẢN
Hiện nay với xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế ngày càng phát triển cũng
ảnh hưởng rất nhiều đến việc phân bố các kiểu gia đình Nhật Bản cũng như các
quốc gia khác trên thế giới. Hiện nay có hai loại hình gia đình cơ bản:
1.2.1 Gia đình hạt nhân
Hay còn được gọi là “tiểu gia đình, gia đình cá thể, gia đình một vợ một

chồng, gia đình đơn giản”. Đây là kiểu gia đình thường bao gồm một cặp vợ
chồng và con cái do họ sinh ra. Gia đình hạt nhân rất phát triển trong quá trình
công nghiệp hóa, đô thị hóa. Có thể nói gia đình hạt nhân là thước đo sự phát
tri
ển xã hội của một quốc gia. Loại gia đình này rất thích hợp với xã hội công
nghiệp, vì có nhiều ưu thế về nơi ở cũng như về kinh tế, tự do phát triển nhân
cách của các thành viên. Do đặc tính gọn, nhẹ nên gia đình hạt nhân cơ động linh
hoạt, thích ứng nhanh với các biến đổi xã hội, do sống độc lập nên gia đình hạt
nhân có mối quan hệ gia đình lỏng lẽo, vì vậy sự hổ trợ lẫn nhau về mặt vật chất
cũng như tinh thần không cao như kiểu gia đình mở rộng, khả năng tự bảo vệ của
gia đình hạt nhân trước những tác động của xã hội cũng như khả năng bảo lưu
các giá trị xã hội truyền thống không cao dễ bị phân rã.
1.2.2 Gia đình mở rộng
Hay còn được gọi là “đại gia đ
ình, gia đình phức hợp, gia đình không phân
đôi”. Đây là những gia đình thường có từ ba thế hệ trở lên hoặc tối thiểu là hai
cặp vợ chồng. Hộ gia đình có những người họ hàng chưa kết hôn không được
tính là hộ gia đình mở rộng, ở miền Bắc Việt Nam vẫn thường nghe nói đến gia
đình “tam, tứ đại đồng đường” cùng sống chung dưới một mái nhà có từ ba thế
hệ
trở lên (ông bà, cha mẹ, con cái).
Loại gia đình này đại diện cho kiểu gia đình truyền thống, khá thịnh hành ở
vùng nông thôn cũng như ở thành thị nước ta trước Cách mạng tháng Tám. Đặc
trưng của kiểu gia đình này là tính cố kết cao theo quan hệ huyết thống, gìn giữ
được truyền thống dòng họ, bảo lưu được những tập tục nghi lễ gia phong v.v…,
có điều kiện giúp đỡ lẫn nhau về vật ch
ất cũng như tinh thần, có điều kiện chăm

10
sóc người già cũng như giáo dục trẻ nhỏ, bảo vệ chống lại những tác động của xã

hội. Tuy vậy, kiểu gia đình này cũng chứa những nhược điểm nhất định.
“Nguồn:[3]”
Tính khép kín trong nội bộ thân tộc, trong khi gìn giữ những phong tục tập
quán truyền thống tốt đẹp thì đồng thời cũng bảo lưu luôn cả những tập tục lạc
hậ
u, lỗi thời. Do cùng chung sống với các thế hệ khác nhau nên khó tránh khỏi
những mâu thuẫn, hạn chế những tự do cá nhân. Trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, kiểu gia đình này tỏ ra không thích hợp và ngày càng teo lại,
nhường chỗ cho gia đình hạt nhân.




\






Biểu đồ: 1.1
Biểu đồ số người trong gia đình Nhật Bản hiện nay.

Nguồn: Kazokuninzu no tokei 2008
ja.wikipedia.org/” [34]
1.3 GIA ĐÌNH NHẬT BẢN XƯA VÀ NAY
Ở Nhật Bản, từ xưa gia đình truyền thống là một hình mẫu gia trưởng với
nhiều thế hệ cùng chung sống trong một ngôi nhà và mối quan hệ, giúp đỡ lẫn
nhau giữa những người cùng huyết thống rất mật thiết. Mỗi thành viên trong gia


11
đình, tuỳ theo tuổi tác và giới tính, có một địa vị nhất định, cũng như trách nhiệm
và nghĩa vụ bảo vệ gia đình.
Người con trai trưởng chiếm vị trí đặc biệt để kế vị, đứng đầu hộ gia đình.
Tài sản của gia đình, nhất là bất động sản như nhà cửa, vườn tược, ruộng đất
canh tác thuộc người con trai trưởng, cũng thừa kế luôn cả trách nhiệm chăm sóc
cha mẹ già. Hay nói một cách khác, người con trai trưởng sẽ là người tiếp tục
điều hành công việc sản xuất, kinh doanh truyền thống của gia đình. Còn những
người con trai thứ sẽ rời khỏi gia đình, lấy vợ và lập ra các gia đình nhánh với sự
giúp đỡ của gia đình gốc. Sự giúp đỡ về mặt tài chính cho những người con trai
thứ khi ra riêng cũng được xem tương tự như của hồi môn cho những người con
gái khi về nhà chồng. Theo tập tục kế thừa này (tập tục chônan), tốt nhất hôn
nhân ở đây theo sự dàn xếp của mai mối sẽ được bảo vệ được lợi ích của hai
dòng họ cũng như hai phía gia đình. Còn nếu như người con trai trưởng không đủ
phẩm chất đảm nhận chức vụ người đứng đầu gia đình, chủ yếu là không có chức
năng điều hành sản xuất kinh doanh của gia đình thì vị trí này sẽ được giao cho
người con trai thứ hoặc muko – yooshi người chồng của người con gái thông qua
con đường hôn nhân. Nếu như gia đình không có con người ta có thể nhận con
nuôi, người con này phải đổi họ theo cha mẹ nuôi. Nếu con nuôi là con gái, đến
khi lấy chồng, người chồng sẽ được cha mẹ nuôi của vợ nhận làm con và tất
nhiên cũng phải đổi họ theo cha mẹ nuôi của vợ. Như vậy với tập tục chọn người
kế vị như trên, tài sản của gia đình và dòng họ trong bất kỳ trường hợp nào cũng
tồn tại mãi. Ngoài ra ở Nhật Bản người phụ nữ sau khi lấy chồng thì phải đổi họ
theo họ chồng. Vì vậy trong gia đình nhất định phải sinh con trai nếu không thì
của cải tài sản trong nhà sẽ dần dần trở thành của dòng họ khác. “Nguồn: [3]”
Trước đây trong gia đình, thường cả 3 thế hệ ông bà-con-cháu đều sống
chung dưới một mái nhà. Ngày nay, con cái sau khi lập gia đình thường ra ở
riêng. Ông bà tránh làm phiền con cháu thường sống riêng một mình hoặc vào
viện dưỡng lão. Ngoài ra với nền kinh tế cũng như đời sống khoa học phát triển,
để có một tương lai tốt đẹp mà lớp trẻ hiện nay phải rời xa quê hương tập trung

sinh sống và làm việc và học tập ở các trung tâm đô thị lớn, bỏ lại những người
già ở quê phải sống thui thủi một mình làm tỉ lệ gia đình neo đơn ở Nhật cũng đạt

12
tỉ lệ rất cao trong tổng gia đình, kéo theo sự mất cân bằng lao động giữa nông
thôn và đô thị.
Trong gia đình có sự phân chia trách nhiệm rõ ràng giữa chồng và vợ.
Người chồng có trách nhiệm kiếm tiền nuôi cả gia đình, người vợ lo công việc
nội trợ, chăm sóc và giáo dục con cái. Trong gia đình Nhật ta sẽ rất ít khi bắt gặp
cảnh nguời đàn ông phụ vợ lo chuyện bếp núc hoặc giặt giũ. Chồng đi làm về chỉ
việc đọc báo, xem TV, mọi chuyện quán xuyến gia đình đều có vợ lo. Câu “ăn
cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật” xem ra không còn đúng lắm với thời đại bây
giờ, nhưng ít ra các cô vợ Nhật đương đại trong chừng mực nào đó vẫn còn là
người nội trợ lý tưởng.
Phụ nữ Nhật Bản sau khi lập gia đình thường có khuynh hướng nghỉ việc,
rút lui ra khỏi công việc xã hội để chuyên tâm lo chuyện tề gia nội trợ. Ngày nay,
vị trí của nguời phụ nữ trong xã hội ngày càng được coi trọng hơn, được cất nhắc
lên những vị trí quan trọng, do đó nhiều phụ nữ sau khi lập gia đình vẫn tiếp tục
công việc của mình. Ðó là một trong những nguyên nhân khiến phụ nữ Nhật Bản
ngày nay lập gia đình trễ (trung bình 26.1 tuổi).
Ðiều kiện y tế ngày càng phát triển khiến tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh ngày
càng giảm thế nhưng chi phí nuôi duỡng và giáo dục ngày càng tăng và ngày
càng có nhiều phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội như đã nói ở trên, đó là
những nguyên nhân khiến tỉ lệ sinh ở Nhật ngày càng giảm xuống. Theo thống kê
tỉ lệ sinh của người Nhật đã thấp hơn 1.28 trong năm 2004. “Nguồn: [8]”
Xã hội Nhật Bản tuy chịu nhiều ảnh huởng của xã hội Âu - Mỹ hiện đại
trong nhiều mặt nhưng chuyện ly dị vẫn chưa đuợc xã hội chấp nhận, chưa được
quan niệm rộng rãi như trong xã hội Âu Mỹ. Người phụ nữ đã trải qua một lần ly
dị phải chịu khá nhiều lời ong tiếng ve của những người chung quanh. Tỷ lệ ly dị
chiếm khoảng hơn 20% số vụ kết hôn, hay trong 1000 người Nhật, tỷ lệ ly dị là

1.52 thấp nhất trong các nước tiên tiến (Anh: 2.88, Mỹ: 4.73).
Tóm lại, gia đình Nhật Bản vẫn còn mang dáng dấp gia trưởng, nhưng theo
khuynh hướng phát triển của kinh tế thì gia đình người Nhật cũng có những thay
đổi rõ rệt, các kiểu hình gia đình truyền thống “tam tứ đại đồng đường” đã dần bị
thay thế bởi gia đình cá thể.

13
CHƯƠNGII:
NHỮNG VẤN ĐỀ TRONG GIA ĐÌNH NHẬT BẢN
HIỆN NAY

Từ đầu những năm 1960 đến đầu những năm 1980 kinh tế Nhật Bản phát
triển mạnh nhất, trung bình là hai con số. Cùng với nó là quá trình đô thị hóa kéo
theo những dòng người khổng lồ từ nông thôn ra các khu công nghiệp, đô thị mà
chủ yếu là tầng lớp thanh niên. Thời gian này cũng là thời kỳ hình thành những
khu đô thị - khu công nghiệp lớn ở Nhật Bản. Chỉ tính riêng khu công nghiệp
Tokyo, Osaka và Nagoya khoảng từ những nă
m 1960 đến những năm 1980 đã là
nơi sống tập trung của 1/3 dân số của nước Nhật Bản và hiện nay là 44%. Theo
số liệu thống kê, tính đến ngày 31 tháng 3 năm 2000 Nhật Bản có 672 điểm dân
cư trong đó: 11 thành phố có dân số trên 1 trên triệu người, 10 thành phố có dân
số từ 500 ngàn đến 1 triệu người, 4 thành phố từ 300 ngàn đến 499 ngàn người,
38 thành phố từ 100 ngàn đến 299 ngàn người, 123 thành phố từ 50 ngàn đến
99.9 ngàn người, 222 thành ph
ố từ 30 ngàn đến 49.9 ngàn người, 223 thành phố
dưới 30 vạn dân và 22.556 thị trấn, điểm cư dân với số dân từ 1 ngàn đến 40
ngàn.
Như vậy, hiện nay hầu hết cư dân Nhật Bản sống ở thành phố hoặc các thị
trấn và ranh giới giữa thành thị và nông thôn ngày càng mờ nhạt mặc dần vẫn còn
3.691 hộ với 13 triệu 107 ngàn người sống ở “khu vực nông thôn”, canh tác trên

diện tích 5 triệu 124 ngàn ha, trung bình 1.4 ha mộ
t hộ, chiếm khoảng 10% dân
số.
“Nguồn: Trần Mạnh Cát, 2004, gia đình Nhật Bản, 112” [3]
Cùng với quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá suốt vài thập niên qua
cũng là quá trình gia tăng gia đình hạt nhân và giảm dần quy mô gia đình tức là
giảm số thành viên trung bình trong gia đình. Nếu như năm 1960 quy mô hộ gia
đình là 4.14 người trong một hộ gia đình, thì đến năm 1970 là 3.14, năm 1980 là
3.22; năm 1985 là 3.14; năm 1990 là 2.99; năm 1995 là 2.82 và năm 2000 là 2.67
người trong một hộ.

14
“Trần Mạnh Cát, 2004, gia đình Nhật Bản,113”[3].
Quy mô gia đình có xu hướng giảm thì trái lại tỷ lệ số hộ gia đình độc thân
tăng cao do kết quả của nhiều nguyên nhân như: số nam nữ thanh niên không xây
dựng gia đình ngày càng nhiều và họ dành thời gian cho học tập cũng như công
việc ở các cơ quan xí nghiệp, mặt khác tỷ lệ ly hôn cao cũng phần nào ảnh hưởng
đến điều này vì hầu hết nh
ững người phụ nữ sau khi ly hôn lại sống với bố mẹ
mình mà không đi bước nữa. Cuối cùng là tỷ lệ sinh trung bình của người phụ
nữ Nhật Bản ngày càng giảm. Ngày nay, gia đình Nhật Bản ngày càng xảy ra
nhiều vấn đề gây ảnh hưởng không chỉ bản thân gia đình mà còn ảnh hưởng đến
toàn xã hội, khiến xã hội Nhật Bản đang phải đối mặt với những nguy cơ thách
thức mới, những văn hóa truyền thống trong gia đình ngày càng mất đi.
2.1 NHỮNG VẤN ĐỀ HÔN NHÂN
Như chúng ta đã biết quan hệ hôn nhân là một trong những nền tảng của
gia đình. Vì thế những vấn đề về hôn nhân cũng ảnh hưởng trực tiếp đến gia đình
Nhật Bản. Hiện nay trong hôn nhân Nhật Bản xảy ra những thực trạng như sau.
2.1.1 Thực trạng kết hôn mu
ộn và không kết hôn

2.1.1.1 Thực trạng
Dạo gần đây chúng ta thường xuyên nghe nói về những hiện tượng
“mikonka” và “hikonka”. Đây là những từ dùng để chỉ những người sống độc
thân chưa kết hôn. Hiện nay ở Nhật Bản với trào lưu “mikonka” và “hikonka”
ngày càng lan rộng. Trong đó, tỉ lệ những người không kết hôn quyết tôn thờ chủ
nghĩa độc thân ngày một tăng cao.
Trước khi trình bày về vấn đề trên chúng tôi xin nêu lên
điểm khác nhau
của hai từ “mikon” và “hikon” trên đây: Theo như từ điển quốc ngữ “mikon” và
“hikon” được định nghĩa như sau: “mikon” có nghĩa là hiện trạng vẫn chưa kết
hôn mặc dù đã đến độ tuổi kết hôn. Còn “hikon” tức là trạng thái không kết hôn,
những người thuộc trạng thái này họ không hề có ý định kết hôn trong tương lai
và mang tư tưởng tôn thờ chủ nghĩa độc thân. Cả hai từ trên đều là t
ừ ngữ được
sử dụng để chỉ những người đang trong tình trạng độc thân thế nhưng điểm khác
nhau của chúng là: “mikon” là từ chỉ người đang ở trạng thái độc thân chưa từng
kết hôn và họ có khả năng kết hôn trong tương lai. Còn “hikon” cũng chỉ những

15
người đang ở trạng thái độc thân nhưng họ là những người mang ý nghĩ tuyệt đối
sẽ không kết hôn trong hiện tại cũng như tương lai. Chúng ta có thể hiểu những
người thuộc dạng “hikon” tương đương ở Việt Nam là những người ở giá, không
lấy chồng hoặc lấy vợ. Còn những người thuộc dạng “Mikon” họ là những người
độc thân nhưng họ có thể lập gia đình trong tương lai và có thể độ tuổi kết hôn
của họ cao hơn mức bình thường.
Tỉ lệ người độc thân ở Nhật Bản từ năm 1950 đến 1980 ở nam giới
khoảng 50% và nữ giới khoảng 33%, nhưng từ nửa sau những năm 80 có xu
hướng tăng nhanh. Theo thống kê vào năm 2000 tỉ lệ độc thân ở nam giới đã lên
đến 68.2% và nữ là 55.5%, số người không kết hôn có vẻ ngày càng nhi
ều: và tỉ

lệ này tính đến thời điểm hiện nay thì nam giới tăng thêm 16%, còn nữ là 7%, và
những con số này vẫn còn khả năng tăng lên. Vào thập niên 70 độ tuổi kết hôn
bình quân của nam là 27.2 tuổi và nữ là 24.4 tuổi, nhưng hiện tại độ tuổi kết hôn
trung bình của Nhật với nam là 29.8 tuổi và nữ là 28 tuổi. Từ đó chúng ta có thể
biết rằng độ tuổi kết hôn bình quân của người Nhật
đang có khuynh hướng tăng
lên. Theo dự đoán độ tuổi kết hôn trung bình và tỉ lệ không kết hôn của người
Nhật sẽ còn cao hơn nữa.
Theo thống kê độ tuổi kết hôn của người Nhật
Nhật Bản là quốc gia có tỉ lệ kết hôn muộn nhất trong các quốc gia phát
triển. Dưới đây là biểu đồ số người chưa kết hôn vào năm 2000 qua các độ tuổi
khác nhau:







Biểu đồ: 2.1:
Biểu đồ số người chưa kết hôn vào năm 2000 qua các độ tuổi khác
nhau.
N
g
àn n
g
ười

16
“Nguồn: theo cục điều tra văn phòng thủ tướng về dân số toàn quốc năm

2000,
Cũng từ cuộc tổng điều tra dân số của văn phòng thủ tướng chính phủ cho
biết vào năm 2000 cho biết tỉ lệ độc thân của những người ở độ tuổi kết hôn đẹp
nhất là từ 20 đến 34 tuổi lại chiếm tỉ lệ cao. Từ năm 1950 cho đến 1980 tỉ lệ độc
thân tăng không đáng kể và chỉ giao động ở mức ở nam khoảng 50% và nữ
khoảng 33%. Thế nhưng từ sau 1980 tỉ lệ này lại tăng một cách chóng mặt, tỉ lệ
độc thân ở nam giới khoảng 68.2% và nữ tăng lên đến mức 55.5%. Tính đến năm
2010 con số này đã tăng lên đến 85% và 63%. Tỉ lệ độc thân của nam giới tăng
cao hơn so với nữ
giới, từ đó ta có thể nhận ra rằng ở các quốc gia phát triển nơi
mà người phụ nữ càng có chỗ đứng trong xã hội thì cơ hội kết hôn lập gia đình
của nam giới ngày càng trở nên khó khăn. Hơn nữa, hầu hết các quốc gia này,
đặc biệt là các quốc gia ở Châu Á, vì tập quán sinh con trai để thờ cúng tổ tiên
nên tình trạng thừa nam thiếu nữ mất cân bằng về giới tính ngày càng trầm trọng.
Đ
ây cũng là một trong những lý do khiến tỉ lệ độc thân ở nam giới ngày một cao
hơn.
Tại Nhật Bản, người ta còn dự đoán thực trạng kết hôn muộn còn lan rộng,
phát triển hơn nữa. Độ tuổi trung bình khi kết hôn tính đến thời điểm này đã tăng
lên hơn 2 tuổi so với 10 năm trước. Nhưng ngược lại, độ tuổi chênh lệch giữa vợ
và chồ
ng vào năm 1950 là 2.9 tuổi, nhưng bây giờ lại giảm xuống chỉ còn 1.9
tuổi. Trên thực tế, khi đặt câu hỏi về độ tuổi trung bình thích hợp để chọn đối
tượng kết hôn thì nữ giới chọn đối tượng cho mình khoảng 29.5 tuổi, còn nam
giới chọn những cô vợ lý tưởng ở độ tuổi 26.3. Với sự lựa chọn như trên, độ tuổi
kết hôn giữa nam và nữ lại chênh l
ệch đến 3.2 tuổi. Từ khuynh hướng trên cho ta
thấy hầu như các chàng trai đều lựa chọn những cô vợ trẻ.
Hiện nay, ở Nhật Bản tỉ lệ người sống độc thân ngày một gia tăng và đã
trở thành trào lưu của thời đại. Theo như chuỗi dữ liệu của cục thống kê văn

phòng thủ tướng chính phủ vào năm 2005 thì nữ giới ở tuổi 20 có tỉ l
ệ độc thân là
73.9%, và tỉ lệ này vào 15 năm trước năm 1990 chỉ là 62.6%. Chỉ trong vòng 15
năm mà tăng đến 11.3%, thì chúng ta có thể nói rằng xu thế độc thân của nữ giới

17
ngày một tăng cao, đặc biệt là ở độ tuổi 20. Hầu như tỉ lệ độc thân của những
người phụ nữ hện đại và thành đạt lại chiếm tỉ lệ cao trong thực tế. Họ không
thích bị ràng buộc bởi gia đình mà chỉ hết lòng dốc sức vào việc khẳng định vai
trò của mình trong xã hội. Những thời gian rảnh rỗi của họ dành cho những cuộc
vui chơi, mua sắm, làm đẹp… Hiện nay quan niệm về hôn nhân của người phụ
nữ đã thay đổi. Chuyện “ở vậy” đối với họ không phải là một điều đáng xấu hổ
mà ngược lại còn trở thành một điều tận hưởng cuộc sống.
56.00%
58.00%
60.00%
62.00%
64.00%
66.00%
68.00%
70.00%
72.00%
74.00%
1990 1995 2000 2005
20 - 29 tuoi

Biểu đồ: 2.2
Biểu đồ về tỉ lệ nam nữ độc thân qua các năm
“Nguồn cuộc điều tra tỉ lệ nam nữ độc thân ở lứa tuổi 20 của văn phòng thủ
tướng chính phủ năm 2005 />81.html”[29]


2.1.1.2 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng kết hôn muộn và độc thân ở
Nhật
Nếu nói đến nguyên nhân dẫn đến tình trạng không kết hôn hay kết hôn
muộn của Nhật Bản thì có vô số nguyên nhân, và sau đây là một vài nguyên nhân
chủ yếu:
• Phụ nữ lo xây dựng vị trí của mình trong xã hội
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến xu hướng kết hôn muộn ở
Nhật Bản đó chính là việc người phụ nữ tham gia vào những hoạt động xã hội
ngày càng nhiều.

18
Hiện nay tỉ lệ phụ nữ làm việc ngoài xã hội chiếm đến 41.9%, và tỉ lệ
người theo đuổi học vấn là 38.5% trong tổng số phụ nữ Nhật, cả hai con số trên
vẫn có xu hướng tăng lên. Trong số người theo đuổi con đường học vấn thì tỉ lệ
người theo chế độ đại học ngày một nhiều hơn. Hơn nữa, so với 20 năm trước
đây thì tỉ lệ phụ nữ làm việc ngoài xã hội đã tăng lên gấp đôi, tỉ lệ phụ nữ có
thâm niên làm việc trên 15 năm cũng từng bước tăng cao. Từ đó, có thể xác định
rằng người phụ nữ ngày càng có vị thế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vai
trò của họ rất quan trọng không ai có thể phủ nhận được.
“Nguồn:www.jumonji-u.ac.jp/sscs/k-adachi/semi/2007-4.pdf [33]”
Tuy nhiên, với một quốc gia mang nặng tư tưởng văn hóa Phương Đông,
cũng không ít người phụ nữ sau khi tốt nghiệp cấp ba họ có ý định lập gia đình
và trung thành với công việc chăm sóc gia đình. Thế nhưng, với một xã hội hiện
đại và những con người luôn theo kịp thời đại, trào lưu dẹp chuyện “chung thân
đại sự” qua một bên dốc sức xây dựng cho tương lai, cống hiến sứ
c mình cho xã
hội của những người phụ nữ ngày một phát triển mạnh mẽ. Hiện nay, người phụ
nữ bằng sự nỗ lực và cố gắng của mình, ngày càng có chỗ đứng hơn trong xã hội,
và nhiều trường hợp tiền lương còn cao hơn cả nam giới cũng không còn là điều

đáng ngạc nhiên.
Từ đó, chúng ta có thể nói rằng phụ nữ Nhật ngày nay họ ngày càng xem
trọng trách nhiệm công việc ngoài xã hội bao nhiêu thì họ lại sợ trách nhiệm làm
vợ, làm mẹ, chăm sóc gia đình bấy nhiêu. Nguyên nhân chủ yếu là họ sợ trách
nhiệm làm mẹ, làm vợ ảnh hưởng đến công việc. Ví dụ như: họ phải nghỉ làm khi
sinh con, phải trì hoãn công việc bởi nghĩa vụ chăm sóc con cái, phải bó buộc
cuộc đời mình trong nhà bếp… Với những nỗi lo như thế, họ lựa chọn giải pháp
không kết hôn, hoặc kết hôn khi tìm được đối tượng thích hợp như có tiềm lực về
kinh tế, có khả năng đảm bảo cuộc sống của gia đình. Chính vì thế mà xu hướng
kết hôn muộn ở Nhật ngày càng lan rộng.
Những người phụ nữ của xã hội hiện đại như xã hội Nhật Bản đang rất cần
những người đàn ông biết quan tâm biết chia sẻ với họ bằng cách chung tay vào
việc chăm sóc và giáo dục con cái. Thế nhưng, hầu như những người đàn ông
chưa mấy đáp ứng được nhu cầu bức thiết này. Họ chỉ biết lao đầu vào kiếm tiền

19
đem về nhà và xem như là hết trách nhiệm làm chồng làm bố của mình. Họ chỉ
coi gia nhà mình là nơi nghỉ ngơi khi hết giờ làm việc mà không nhận ra vai trò
và trách nhiệm trong công việc gia đình như chăm sóc con cái, bếp núc…Tuy
rằng cũng có những người phần nào nhận thấy trách nhiệm của mình, họ cùng vợ
làm những công việc nội trợ và giúp đỡ vợ trong công việc dạy dỗ con cái, thế
nhưng thời gian của họ dành cho công việc này quá ít, hầu như chỉ vào những
ngày nghỉ mà thôi. Nếu chỉ với thời gian ít ỏi ấy so với nhu cầu của người phụ nữ
thì chưa thấm vào đâu, chỉ đáp ứng khoảng 1% nhu cầu công việc và vai trò
người phụ nữ trong gia đình. Trách nhiệm công việc ngoài xã hội đã mệt mỏi, lại
chồng chất lên đôi vai người phụ nữ trách nhiệm chăm sóc gia đình quả thật là
quá sức của một người phụ nữ.
Người ta cho rằng nếu như có được một môi trường làm việc mà người
phụ nữ cũng như người đàn ông đều có thể chung tay chăm sóc gia đình, con cái
mà vẫn có thể tiếp tục công việc của mình thì chắc hẳn tình trạng kết hôn muộn

và tình trạng không kết hôn sẽ giảm đi. Nhưng để xây dựng được một môi trường
như thế trong một thời đại nhộn nhịp, mọi người đều chạy theo công việc như
hiện nay thì tưởng chừng như không thể.
• Nguyên nhân về mặt kinh tế
Nhật Bản được biết đến là đất nước có vật giá đắt đỏ hàng đầu thế giới. Vì
thế mà khi người phụ nữ dành trọn thời gian và công sức cho những công việc
gia đình, thì trong khoảng thời gian ấy chi phí nuôi con, tiền sinh hoạt của cả gia
đình lại dồn cả lên đôi vai của người chồng. Trong thời buổi kinh tế khó khăn
này, cuộc sống của gia đình chỉ trông chờ vào một người lao động thì rất khó
khăn, bắt buộc người phụ nữ cũng phải lao thân vào công việc kinh tế để đảm
bảo kinh tế cho gia đình. Chính vì thế, những người phụ nữ lo xa họ chỉ kết hôn
khi có điều kiện kinh tế ổn định. Đây chính là nguyên nhân khiến phụ nữ ngày
nay chưa vội kết hôn.
Ở Nhật Bản chi phí nuôi dạy con cái vẫn ở mức trung bình, chưa cao so
với một số nước phát triển trên thế giới. Vì vậy, cũng có nhiều trường hợp muốn
sinh con nhưng lại không có khả năng sinh sản. Vào năm 2006, tỉ lệ sinh của

20
Nhật rớt xuống chỉ còn 1.32. Nếu như tỉ lệ sinh giảm xuống thấp hơn 2.07 thì
đồng nghĩa với việc kéo theo tình trạng dân số giảm, tỉ lệ người cao tuổi tăng,
dẫn đến khó khăn về nhiều mặt trong tương lai, đặc biệt là kinh tế. Nếu như tình
trạng dân số giảm xuống, tất nhiên cũng kéo theo tình trạng thiếu nguồn lao
động, ngược lại, tỉ lệ người cao tuổi lại tăng so với tổng dân số. Vì vậy, giới trẻ
hiện nay đang gánh vác những trách nhiệm vô cùng nặng nề. Ngoài trách nhiệm
trong công việc trong nền kinh tế quốc gia còn phải gánh trách nhiệm chăm sóc
nuôi dưỡng ông bà cha mẹ và cả gia đình nhỏ của mình. Vì thế, mặc dù có rất
nhiều người thật sự muốn lập gia đình, lại bị những mối lo về kinh tế trên dập tắt.
Hiện nay nền kinh tế thị trường thay đổi theo từng ngày, không chỉ ở Nhật
Bản mà diễn ra trên tất cả các quốc gia khắp thế giới. Vật giá leo thang kéo theo
chi phí nuôi dạy con cái ngày càng tăng, trang thiết bị cũng như dịch vụ chăm sóc

trẻ em cũng tăng lên. Bên cạnh đó, nhu cầu của con người ngày càng cao, nhưng
nguồn tài chính chi cấp cho việc nuôi dạy trẻ nhỏ bị cắt. Nhà trẻ, trường mẫu
giáo lại không đủ, bác sĩ khoa phụ sản thì thiếu. Vấn đề trên cũng ảnh hưởng
phần nào đến tình trạng không muốn kết hôn hay sinh con của giới trẻ. Việc trở
thành một quốc gia mà người người có thể yên tâm nuôi dưỡng trẻ nhỏ đang là
một vấn đề hết sức quan trọng, được chú trọng không chỉ ở Nhật mà còn trên
khắp thế giới.
Hơn nữa, hiện nay trường hợp người đàn ông không có điều kiện kinh tế
tốt rất nhiều. Nếu như kết hôn cả hai bên chung tay để xây dựng kinh tế gia đình
thì ở đây kết hôn được xem là sự lựa chọn tốt nhất. Thế nhưng, hầu hết các chàng
trai nghèo Nhật Bản lại không chọn cách giải quyết này. Ngược lại, chính vì lo
lắng vì không có khả năng về kinh tế mà họ lại lựa chọn cách sống độc thân hay
tạm gác lại chuyện hôn nhân để lo xây dựng kinh tế. Có một số người do mình
mải mê làm kinh tế bản thân, họ không có ý định “ở vậy”, nhưng đến một khi nào
đó họ nhận ra bản thân đã quá trễ cho việc lập gia đình, nói cách khác là lỡ thì rồi
họ đã quyết ở vậy. Ngoài ra, theo như chúng ta đã biết chi phí cho việc kết hôn ở
Nhật rất cao so với các nước trên thế giới, vì vậy mà có rất nhiều bạn trẻ không
có đủ điều kiện để kết hôn.

21
Bên cạnh đó, nhìn từ khía cạnh người phụ nữ thì cũng có rất nhiều người
có suy nghĩ rằng nếu như họ có điều kiện kinh tế độc lập, có khả năng sống tự lập
thì việc kết hôn không còn quan trọng nữa. Không phải họ không cảm thấy cô
đơn buồn tẻ khi phải sống cảnh “thui thủi một mình”, nhưng hiện nay người phụ
nữ hiện đại luôn bận rộn với công việc, những thời gian rảnh họ lại đi chơi, mua
sắm, chăm sóc sắc đẹp, trò chuyện với bạn bè… Có rất nhiều loại dịch vụ và trò
tiêu khiển khiến cho người phụ nữ không còn cảm giác cô đơn khi phải sống độc
thân, ngược lại còn làm cho họ vui và thích cuộc sống này.
• Thay đổi cách suy nghĩ về vấn đề hôn nhân và tình dục của giới trẻ
hiện nay

Trước kia với một quốc gia mang nặng tư tưởng phong kiến tiêu biểu của
Phương Đông ở một mức độ nào đó việc sống độc thân không kết hôn được xem
là một điều đáng xấu hổ. Vì họ sẽ bị mọi người xung quanh chế giễu xem thường
rằng “ngay cả việc kết hôn mà cũng không thể…”. Từ đó mà cái suy nghĩ
“không thể không kết hôn” của con người ngày càng thúc dục đến nhu cầu kết
hôn của mỗi người. Cũng có trường không kết hôn có thể làm thay đổi sức ảnh
hưởng của bản thân trong xã hội, ở Nhật Bản cũng không ít những trường hợp
thăng tiến trong công việc hay được hưởng chế độ làm việc suốt đời tại một công
ty sau việc kết hôn và sinh con.
Thế nhưng dạo gần đây, lại có xu hướng cho rằng “độc thân không phải là
một điều đáng xấu hổ”, trong xã hội cũng không ít những điều kiện tuyển dụng
cho những đối tượng chưa kết hôn hay không có ràng buộc hôn nhân. Cuộc sống
độc thân ngày càng được lớp trẻ hưởng ứng, đến độ xuất hiện những câu nói rằng
“dokushinkisoku” tức là người độc thân có thể sống một cuộc sống tự do tự tại
theo ý thích của bản thân, có thể sống cho lý tưởng của bản thân mình. Ngày nay
người có ý nghĩ này ngày một nhiều, thể hiện ở một cuộc trả lời thăm dò ý kiến
với câu hỏi về “những lợi thế của cuộc sống độc thân” thì tỉ lệ chọn câu trả lời
“có thể sống một cách tự do thoải mái không ràng buộc” chiếm đến 70%. Để có
thể thay đổi cải cách tình trạng này thì những chính sách như trợ cấp chi phí nuôi
dạy con cái cho hộ gia đình, giảm bớt áp lực về mặt kinh tế gia đình khi sinh con,

×