Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời mở đầu
Từ Đại hội Đảng lần thứ III đến nay, Đảng ta luôn luôn xác định CNH là
nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Thực hiện nhiệm vụ đó, những năm qua,
nhất là những năm đổi mới, chúng ta đã thu đợc nhiều thành tựu quan trọng, tạo ra
thế và lực mới cho phép chuyển sang một thời kỳ phát triển cao hơn, đẩy tới một b-
ớc CNH, HĐH nớc nhà. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện CNH những năm trớc
đây, do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân chủ quan nóng vội, chúng ta
đã mắc phải một số sai lầm khuyết điểm.
Muốn tiếp tục phát huy thành tích, khắc phục yếu kém đẩy lùi nguy cơ tụt hậu
về kinh tế, sớm đa đất nớc ra khỏi tình trạng một nớc nghèo để phát triển nhanh trên
con đòng đã lựa chọn. Chúng ta không còn cách nào khác là đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nớc.
Một thời kỳ phát triển mới đang mở ra trên đất nớc ta, mục tiêu từ nay đến
năm 2000, phấn đấu đa nớc ta cơ bản trở thành một nớc công nghiệp, Đại hội VIII
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định.
"Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nớc ta thành một nớc công nghiệp có
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với trình độ của lực lợng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân ở mức cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu nớc mạnh xã hội công
bằn văn minh".
Quá trình CNH, HĐH đất nớc là cả một sự nghiệp to lớn và lâu dài. Trong
khuôn khổ của một đề án, em không thể bao quát đánh giá hết quá trình CNH,
HĐH ở nớc ta và với vốn kiến thức còn hạn chế, bài viết của em khó tránh khỏi
những thiếu sót.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Những vấn đề CNH - HĐH ở nớc ta
A - Lý luận chung
A - Lý luận chung
I-/ Sự cần thiết của CNH - HĐH ở Việt Nam:
Muốn cho dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng văn minh, đất nớc từng bớc
tiến lên CNXH, đi đối với việc củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiên tiến,
chúng ta nhất thiết phải phát triển lực lợng sản xuất với năng suất lao động ngày
càng cao. Mà muốn có lực lợng sản xuất hùng hậu và năng suất lao động xã hội cao
thì không thể chỉ dựa vào nền nông nghiệp lạc hậu, sử dụng lao động thủ công; trái
lại phải phát triển mạnh công nghiệp cùng với đổi mới công nghệ ngày càng hiện
đại tạo nền tảng cho sự phát triển nhanh, hiệu quả cao và bền vững cho toàn bộ nền
KTQD. Nói cách khác chúng ta phải tiến hành CNH theo hớng HĐH. CNH là một
giai đoạn phát triển tất yếu đối với các quốc gia muốn tiến lên từ một nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu. Đây là xu thế chung của lịch sử.
Đối với nớc ta CNH-HĐH nền kinh tế là một đòi hỏi tất yếu của việc phát
triển mô hình kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN. Quan điểm này khẳng định
CNH-HĐH là vấn đề quan trọng đặc biệt, là bớc phát triển tất yếu đối với nớc ta,
nhất là trong điều kiện hiện nay khi nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất nông
nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội kém phát
triển, cơ sở vật chất kỹ thuật cha xây dựng đợc bao nhiêu, kinh tế tuy có phát triển
khá nhng năng suất, chất lợng và hiệu quả còn rất thấp, còn nhiều yếu tố cha vững
chắc, khả năng cạnh tranh còn quá thấp so với nhiều nớc xung quanh. Thực tế này
cho thấy nguy cơ tụt hậu xa hơn vẫn còn rất lớn, cho nên chỉ có CNH-HĐH mới là
con đờng cơ bản khắc phục đợc những yếu kém của nền kinh tế nớc ta, giữ vững ổn
định chính trị, bảo vệ đợc độc lập chủ quyền, sớm thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, đảm
bảo định hớng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác, thực tiễn đổi mới kinh tế ở Việt Nam đã chỉ rõ sự nghiệp đổi mới là
sự nghiệp của quần chúng, CNH-HĐH cũng là sự nghiệp của toàn dân, vì lợi ích
của nhân dân và do dân thực hiện. Quần chúng nhân dân khi nhận thức đầy đủ lợi
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ích của CNH-HĐH họ sẽ phấn đấu vơn lên học tập để nâng cao trình độ văn hóa, kỷ
luật, tay nghề để làm chủ đợc CNH, HĐH, họ sẽ là ngời đóng góp sức lao động, tài
năng, sáng tạo, tiền vốn, tài sản của mình cho sự nghiệp CNH-HĐH.
II-/ Thực chất của CNH, HĐH
Trong điều kiện ngày nay, quan niệm về CNH, HĐH dù trên góc độ nào cũng
không đồng nhất quá trình phát triển công nghiệp. Tuy quá trình CNH-HĐH này có
những nét riêng đối với từng nớc, nhng đó chỉ là sự vận dụng một quá trình có tính
chất phổ biến cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nớc mà thôi. CNH là quá
trình rộng lớn và phức tạp, bản chất của quá trình này bao hàm trên các mặt sau
đây:
Công nghiệp hóa là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện
đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trớc hết là các ngành chiếm vị
trí trọng yếu. Thực hiện CNH-HĐH trong điều kiện cách mạng khoa học
- kỹ thuật ngày nay, quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ cho các
ngành phải gắn liền với quá trình HĐH ở cả phần cững và phần mềm của
công nghệ. Quá trình này cũng đồng thời là quá trình xây dựng xã hội
văn minh công nghiệp và cải biến các ngành kinh tế, các hoạt động theo
phong cách của nền công nghiệp lớn hiện đại. Quá trình ấy phải tác động
làm cho nhịp độ tăng trởng kinh tế - xã hội nhanh và ổn định, cải thiện
đời sống xã hội và tinh thần của các tầng lớp dân c, thu hẹp dần chênh
lệch trình độ kinh tế - xã hội của đất nớc với các nớc phát triển.
CNH-HĐH xét trên góc độ kinh tế -kỹ thuật: Là cái đích cần vơn tới
trong quá trình CNH-HĐH. Nhng sự vơn lên về trình độ công nghiệp này
lại bị ràng buộc bởi yêu cầu đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội. Xét toàn
cục, CNH-HĐH chỉ là phơng tiện, điều kiện để đạt tới mục tiêu của quá
trình CNH-HĐH mà thôi. Giải quyết quan hệ này có liên quan trực tiếp
đến bớc đi của quá trình HĐH theo những điều kiện cụ thể của đất nớc. ý
tởng muốn đi vào công nghệ hiện đại ở tất cả các ngành, các lĩnh vực
hoạt động nhằm nhanh chóng xóa bỏ tình trạng nghèo nàn lạc hậu là ý t-
ởng phiêu lu độ quản lý có hạn và thiếu thôn trầm trọng thêm những vấn
đề kinh tế - xã hội của đất nớc.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong điều kiện nhân lực dồi dào, trình độ quản lý có hạn và sự thiếu thốn
trầm trọng về vốn đầu t, cần phải dành u tiên HĐH các ngành, các lĩnh vực "đầu
tàu" mà sự phát triển các ngành khác góp phần cải thiện vị trí đất nớc trong quan hệ
kinh tế quốc tế. Việc kết hợp công nghệ với nhiều trình độ khác nhau trở thành một
tất yếu khách quan.
Quan niệm một cách đơn giản theo kiểu "cũ ngời mới ta", "cái không tiên tiến
của nớc khác này là cái hiện đại của mình" trong lựa chọn công nghiệp nhập sự
thiếu hiểu biết và thiếu thông tin đã dẫn đến các nớc đang phát triển đến lựa chọn
thiết bị lạc hậu hoặc thiết bị lạc hậu hoặc thiết bị cũ đã đợc tân trang lại. Cái giá
phải trả quá đắt, tốc độ HĐH không đợc đẩy nhanh.
Quá trình CNH-HĐH không chỉ phát triển công nghiệp: mà là quá
trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của một nớc. Đó
là lẽ tất yếu vì nền kinh tế của mỗi nớc là một hệ thống thông nhất, các
ngành, các lĩnh vực hoạt động có quan hệ tơng đối với nhau. Sự thay đổi
ở các ngành kinh tế, lĩnh vực hoạt động này sẽ kéo theo hoặc sẽ đòi hỏi
sự thay đổi thích ứng ở các ngành, các lĩnh vực hoạt động khác. Bởi vậy
quá trình CNH-HĐH, cũng gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế quốc dân và cơ cấu các ngành kinh tế. Trong sự chuyển dịch cơ
cấu của quá trình CNH-HĐH vị trí của các ngành sẽ đợc thay đổi và các
ngành có quan hệ ràng buộc với nhau:
Sự chuyển dịch cơ cấu, kinh tế ở các nớc đang phát triển trong quá trình CNH-
HĐH nói chung diễn ra theo xu hớng sau đây:
Nông nghiệp, trong giai đoạn đầu giữ vị trí hàng đầu, là hoạt động kinh tế
cơ bản của dân c, tạo ra những hàng hoá tiêu dùng thiết yếu cho dân c và bảo đảm
một số điều kiện quan trọng cho phát triển công nghiệp. Đến trình độ phát triển
nhất định, khi những nhu cầu cơ bản về lơng thực, thực phẩm đã đợc bảo đảm, nông
nghiệp sẽ chuyển vị trí xuống hàng thứ yếu. Tỷ trong lao động nông nghiệp trong
lao động xã hội và giá trị sản phẩm nông nghiệp trong tổng giá trị sản lợng sẽ giảm
dần. Cũng cần nói thêm rằng, trên thế giới gần nh không có nớc nào làm giàu bằng
nông nghiệp thuần túy.
Công nghiệp trong nhận thức luôn đợc coi là ngành quan trọng nhng trong mỗi
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giai đoạn đầu của CNH-HĐH, cả nớc đang phát triển chỉ có lực lợng công nghiệp
nhỏ bé sản xuất hàng tiêu dùng đơn giản và khai thác các sản phẩm thô từ tài
nguyên thiên nhiên. Trong quá trình CNH-HĐH công nghiệp luôn đợc giành u tiên
phát triển. Tuy CNH-HĐH không đồng nhất với phát triển công nghiệp, nhng
không thể CNH-HĐH nếu không phát triển mạnh công nghiệp. Bởi vậy, với vị trí
khiêm tốn ban đầu, công nghiệp dần dần chiếm lĩnh vị trí hàng đầu trong cơ cấu
kinh tế quốc dân của đất nớc.
Các hoạt động dịch vụ sản xuất và dịch vụ đời sống là điều kiện để phát
triển các ngành kinh tế và cải thiện đời sống của dân. Không thể có quá trình công
nghiệp hóa nhanh bằng hệ thống dịch vụ, đặc biệt là hệ thống kết cấu hạ tầng kinh
tế tồi đợc. Ngay giai đoạn đầu của quá trình CNH-HĐH cần chú ý thỏa đáng cho
phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng để phát triển sản xuất và thu hút đầu t nớc ngoài.
Nh vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi nớc trong quá trình CNH-HĐH
sẽ trải qua giai đoạn: từ cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ chuyển sang cơ cấu
công - nông nghiệp - dịch vụ.
Quá trình công nghiệp hóa trong bất kỳ giai đoạn nào cũng đều là
quá trình kinh tế - kỹ thuật vừa là quá trình kinh tế - xã hội. Việc thực
hiện có kết quả quá trình CNH-HĐH sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kỹ
thuật, thấp kém về kinh tế, đa đất nớc thoát khỏi "vòng luẩn quẩn". Đồng
thời, quá trình công nghiệp hóa cũng gắn liền với quá trình thủ tiêu tình
trạng lạc hậu về xã hội văn minh công nghiệp. Quá trình kinh tế - xã hội
có quan hệ ràng buộc nhau. Quá trình kinh tế kỹ thuật tạo điều kiện vật
chất kỹ thuật cho việc thực hiện các nội dung của quá trình kinh tế - xã
hội. Ngợc lại, quá trình kinh tế - xã hội góp phần tạo nên động lực cho
thực hiện quá trình kinh tế - kỹ thuật.
Đối với mỗi nớc, CNH-HĐH là quá trình lịch sử lâu dài. Theo nhà kinh tế học
W.Rostow, s phát triển của mỗi đất nớc trải qua 5 giai đoạn: Xã hội truyền thống.
Chuẩn bị tiền đề cho cất cánh; cất cánh; tiến tới sự trởng thành; Tiêu dùng ở trình độ
cao. Có thể thấy quá trình CNH-HĐH đợc khởi đầu bằng việc "chuẩn bị tiền đề cho cất
cánh", đợc thực hiện mạnh mẽ trong giai đoạn "cất cánh" và kết thúc khi xã hội đã
"tiến tới sự trởng thành". Khoảng thời gian của mỗi giai đoạn và toàn bộ quá trình
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CNH-HĐH dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiều nhân tố chủ quan và khách quan, trong
đó nhân tố xác định đúng mô hình chiến lợc và tổ chức thực hiện tốt chiến lợc CNH-
HĐH đúng vai trò cực kỳ quan trọng. Khi đất nớc đạt tới trình độ nhất định về kinh tế -
xã hội - kỹ thuật - xã hội, quá trình CNH-HĐH sẽ kết thúc.
Để đánh dấu điểm mốc này cần có những tiêu chuẩn cụ thể nhận định, tiêu
chuẩn này không phải chỉ là sự so sánh trình độ đạt đợc với trình độ của đất nớc
trong quá khứ, mà còn phải so sánh với các nớc khác theo những chuẩn mực chung
(chẳng hạn mức tổng sản phẩm trong nớc tính bình quân đầu ngời, tỷ trọng nông
nghiệp trong tổng sản phẩm trong nớ; mức này lợng tiêu chuẩn tiêu dùng tính theo
đầu ngời; lợng calo tiêu thụ bình quân đầu ngời...)
Quá trình CNH-HĐH cũng đồng thời là quá trình mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế. Trong điều kiện ngày nay, mở rộng phân công lao động
quốc tế và quốc tế đời sống trở thành xu thế phát triển ngày càng mạnh
mẽ. Mỗi nớc trở thành một bộ phận của hệ thống kinh tế thế giới, có tác
động tơng hỗ ở mức độ khác nhau với kinh tế của các nớc, khác nhau và
chịu ảnh hởng của biến động kinh tế - xã hội chung của thế giới. ở mỗi
nớc, việc xác định mục tiêu, phơng thức CNH-HĐH cần phải phân tích,
dự đoán đợc những biến động kinh tế - xã hội chung của thế giới đặc biệt
là của các nớc trong khu vực. Cần phải đặt sự phát triển kinh tế của đất n-
ớc trong việc xây dựng hệ thống kinh tế mở, tăng cờng quan hệ thơng
mại quốc tế tham gia vào quá trình cạnh tranh và liên kết kinh tế quốc
dân.
Về nguyên tắc, việc thực hiện CNH-HĐH phải dựa vào các nguồn lực trong n-
ớc là chủ yếu. Việc xây dựng kinh tế mở, thực hiện phơng châm "tự lực cánh sinh",
phải tiến hành trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của đất nớc để tham gia tích cực
vào quan hệ kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh này, việc tranh thủ sự trợ giúp về tài
chính, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý... từ bên ngoài phải đợc coi là một điều kiện
đặc biệt quan trọng nhất là trong giai đoạn đầu của quá trình CNH-HĐH. Thực tiễn
cho thấy hàng trăm nớc lạc hậu có thể kế thừa những kinh nghiệm đồ sộ và sự trợ
giúp bên ngoài của các nớc phát triển, nhng những thành công lại quá ít ỏi. Bối
cảnh quốc tế và thực trạng trong nớc cụ thể rất khác nhau, sự sao chép máy móc
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kinh nghiệm các nớc khác nhau cha bao giờ đem lại tấm gơng thành công nào cả.
Vả lại, mọi sự giúp đỡ đề có giá theo tinh thần có đi có lại.
Việc khai thác các nguồn lực t nhân, phát huy lợi thế tự nhiên để tham gia vào
quan hệ quốc tế kết hợp với việc bảo tồn và tái tạo các nguồn lực ấy. Mọi sự lạm
dụng "sức mạnh của con ngời trong chinh phục tự nhiên" theo kiểu bóc lột, hủy
hoại tài nguyên sẽ dẫn con ngời đến chỗ tàn phá ngay môi trờng tồn tại của chính
mình.
CNH-HĐH không phải là mục đích tự thân vận động mà là một ph-
ơng thức có tính chất phổ biến để thực hiện mục tiêu của mỗi nớc. Mỗi n-
ớc đề có hệ thống mục tiêu riêng của mình. Tuy vậy, về hình thức vấn có
thể thấy đợc tơng đồng về hệ thống mục tiêu của các nớc. Đó là xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại, khai thác có hiệu quả các
nguồn lực đất nớc, bảo đảm nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh và
ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp dân c...
Mục tiêu của mỗi nớc phụ thuộc vào quan điểm của hệ thống chính trị lãnh
đạo. Phơng hớng qui mô và nhịp điệu CNH-HĐH phụ thuộc vào đặc điểm chính trị
xã hội của từng nớc. Đó chính là một trong những biểu hiện của quan hệ biện chứng
giữa cơ sở kinh tế và kiến trúc thợng tầng. Và không thể thực hiện thành công
CNH-HĐH nếu không có hệ thống chính trị - xã hội ổn định và không đợc đổi mới.
Ngợc lại, cũng không thể giữ đợc ổn định về chính trị - xã hội, chủ quyền của đất n-
ớc không thực hiện có hiệu quả quá trình CNH-HĐH.
Chính vì vậy, chúng ta có thể khái quát rằng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền
sản xuất lớn hiện đại có thể là nền đại công nghiệp cơ khí hóa cân đối và hiện đại
dựa trên trình độ khoa học công nghệ ngày càng phát triển cao. Cơ sở vật chất - kỹ
thuật đó phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa sản xuất và lao
động cao. Để có đợc cốt lõi vật chất - kỹ thuật nh vậy, tất cả các nớc phải tiến hành
xây dựng nó. Nói cách khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn
hiện đại và quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nớc trong hệ thống kinh tế
"mở". Đây là một trong những nhiệm vụ to lớn, khó khăn nhất, nhng có tính chất
quyết định đối với sự sống còn của bất cứ xã hội nào, nớc nào. Chỉ khi tạo ra cơ sở
vật chất - kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại nh vậy mới có thể làm thay đổi căn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bản đời sống vật chất và tinh thần của xã hội, đẩy mạnh tốc độ, tăng năng suất lao
động và thỏa mãn ngày càng đa dạng các nhu cầu của nhân dân.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
B - Nội dung
B - Nội dung
I-/ Những khó khăn và thuận lợi khi n ớc ta tiến hành
CNH-HĐH.
Có thể chia quá trình CNH ở nớc ta trong hơn 30 năm qua thành 2 giai đoạn
lớn: 1960 - 1986 và 1986 đến nay:
1. Giai đoạn 1960-1986:
Đặc trng cơ bản của giai đoạn này là thực hiện một chiến lợc nhất quán đợc
xác định từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960) và có điều chỉnh, bổ sung
chút ít trong các Đại hội IV (12/1976); V (1981) và các hội nghị Trung ơng. Đại hội
Đảng lần thứ III chỉ rõ: "Muốn cải tiến tình trạng nông nghiệp lạc hậu hiện nay của
nớc ta, đa nớc ta chế độ sản xuất nhỏ là chủ yếu lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa,
chúng ta không có con đờng nào khác ngoài con đờng công nghiệp hóa XHCN. Vì
vậy CNH XHCN là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở nớc ta"
(
1) và "chủ trơng
của Đảng và công nghiệp hóa XHCN ở miền Bắc là: "Xây dựng một nền kinh tế
XHCN cân đối và hiện đại, kết hợp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm
nền tảng, u tiên phát triển công nghiệp nặng làm nền tảng, u tiên phát triển công
nghiệp năng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ nhằm biến nớc ta từ một nớc nông nghiệp lạc hậu thành một nớc công
nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại"
(2).
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi (1961-1964) CNH ở miền Bắc đã đợc tiến
hành với nhịp điệu khẩn trơng trong điều kiện hòa bình và thu đợc kết quả đáng ghi
nhận. Năm 1965 so với 1955 vốn đầu t xây dựng cơ bản trong công nghiệp tăng 6
lần: Giá trị tổng sản lợng công nghiệp tăng 9,2 lần, trong khi đó đầu t cơ bản cho
nông nghiệp chỉ tăng 1,96 lần và giá trị tổng sản lợng nông nghiệp tăng 1,6 lần.
Trong thời kỳ 1961-1965. Tố độ tăng bình quân giá trị tổng sản lợng công
nghiệp là 13,4%, của nông nghiệp 4,1%. Do vậy tỷ trọng của công nghiệp trong thu
nhập quốc dân tăng từ 16% (1957) lên 18,2% (1960) và 22,2% (1965); Còn tỷ trọng
(
1)
và
(2)
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc Đảng lao động Việt Nam (9-1960)
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nông nghiệp giảm từ 44,3% (1957) xuống 42,3% (1960) và 41,7% (1965). Đến năm
1964 miền Bắc nớc ta về căn bản giải quyết đợc vấn đề lơng thực và đáp ứng đợc
90% nhu cầu hàng tiêu dùng đồng thời bắt đầu tạo nguồn tích lũy từ trong nớc.
Đầu năm 1965, đế quốc Mỹ đã mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân
ra miền Bắc. Trớc tình hình mới đó Đảng và Nhà nớc ta đã chủ trơng chuyển hớng
xây dựng và phát triển kinh tế cho phù hợp với thời chiến, đồng thời vẫn đảm bảo
phơng hớng lâu dài cho sự nghiệp công nghiệp hóa. Đảng ta chủ trơng vừa chú
trọng đúng mức xây dựng kinh tế trung ơng vừa lấy xây dựng kinh tế địa phơng làm
trọng tâm, vừa sản xuất vừa chiến đấu.
Ngay trong những năm có chiến tranh phá hoại do đế quốc Mỹ gây ra, vốn chi
cho phát triển kinh tế vẫn tăng lên. So với thời kỳ 1955-1957 vốn chi cho phát triển
kinh tế trong thời kỳ 1965-1968 tăng 5,7 lần. Mặc dù năm 1972 là năm đế quốc Mỹ
đánh phá ác liệt nhât, vốn chi cho phát triển kinh tế vẫn gấp 2,4 lần so với 1960 và
gấp 1,8 lần so với 1964.
Vốn đầu t vào công nghiệp luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu t
cho khu vực sản xuất vật chất nói riêng và cho nền kinh tế quốc dân nói chung:
37,4% (1958-1960); 44% (1961-1965); 32,4% (1966-1971); 32,9% (1972-1975).
Trong đó phần đầu t của Nhà nớc cho công nghiệp địa phơng quản lý tăng nhanh về
tốc độ và nâng lên về tỷ trọng.
Dù trong hoàn cảnh phải đánh trả hai lần chiến tranh phá hoại ác liệt, phải tập
trung sức ngời, sức của cho giải phóng miền Nam, thống nhất đất nớc, miền Bắc
vẫn tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội tiếp tục công nghiệp hóa và đã đạt đợc thành
tựu: "Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội đợc xây dựng một bớc. Đã có
những cơ sở đầu tiên của công nghiệp nặng. Năng lực các ngành công nghiệp, giao
thông, xây dựng đều tăng so với trớc chiến tranh".
Nếu trong thời kỳ 1961-1965 tốc độ tăng bình quân hàng năm của tài sản cố
định là 15,5% thì trong suốt thời kỳ chiến tranh phá hoại (1966-1970) tốc độ vẫn là
12,2%. Tài sản cố địnhh 1975 so với năm 1960: trong công nghiệp tăng 4,5 lần,
trong nông nghiệp tăng 6,0 lần.
Đến năm 1975 cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch quan trọng, tỷ trọng công
nghiệp trong thu nhập quốc dân đợc nâng lên 16% (1957); 18,2% (1960); 22,2%
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
(1965); 26,6% (1971); 24% (1974); 28,7% (1975).
Cơ cấu công nghiệp đã có sự phát triển và chuyển dịch. Những cơ sở đầu tiên
của các ngành công nghiệp nặng quan trọng đã đợc xây dựng và phát triển nh: điện,
than, cơ khí, luyện kim, hóa chất, vật liệu xây dựng... tốc độ phát triển của các
ngành thuộc công nghiệp nhóm A nhanh hơn tốc độ phát triển chung của toàn
ngành công nghiệp. Năm 1975 so với năm 1955 giá trị sản lợng ngành điện lực 22,3
lần, của ngành cơ khí gấp 59,8 lần và ngành hóa chất gấp 79,1 lần. Trên miền Bắc
đã hình thành nhiều khu công nghiệp tập trung: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh,
Hà Bắc, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định, Thanh Hóa, Vinh...
Đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và công nhân kỹ thuật tăng khá nhanh, là
vốn quý, là yếu tố quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa ở thời kỳ này và các
thời kỳ sau. Năm 1975 so với năm 1955, số cán bộ có trình độ đại học và trên đại
học tăng hơn 120 lần, cán bộ có trình độ trung học chuyên nghiệp gấp hơn 84 lần:
công nhân kỹ thuật năm 1975 tăng gấp 6 lần năm 1960. Tỷ lệ cán bộ khoa học, kỹ
thuật, nghiệp vụ trong tổng số công nhân viên chức đã tăng từ 2% (1955) đến 3,5%
(1960) và 19,5% (1975). Tỷ lệ công nhân kỹ thuật đã tăng từ 17% năm 1960 lên
53,4% (1975). Riêng trong công ngheiẹpnăm 1975 đã có trên 8.000 cán bộ đại học.
20.000 cán bộ trung học chuyên nghiệp và khoảng 210.000 công nhân kỹ thuật.
Năm 1975 đất nớc thống nhất. Sự hợp nhất hai miền có cơ sở kinh tế rất khác
nhau về nguyên lý, mục tiêu cơ cấu kinh tế, hoàn cảnh, điều kiện trong nớc và quốc
tế có nhiều thay đổi so với đầu nhng năm 60 cho phép và đòi hỏi phải có chiến lợc
công nghiệp hóa thích hợp hơn. Nhng trên thực tế đờng lối công nghiệp hóa mà Đại
hội Đảng lần thứ III đã đợc xác định vẫn giữ nguyên và thực hiện trên phạm vi cả n-
ớc. Đại hội Đảng lần thứ IV (12/1976) chỉ rõ: Điều đó có ý nghĩa quyết định là phải
thực hiện CNH XHCN, tạo ra một cơ cấu kinh tế công nông nghiệp hiện đại. Con đ-
ờng cơ bản để tạo ra cơ cấu ấy là u tiên phát triển công nghiệp năng một cách hợp
lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm,
phát huy năng lực sẵn có và xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp năng,
đặc biệt là cơ khí".
Do có chủ trơng nôn nóng, chủ quan duy ý chí nh trên, cộng với sai lầm trong
tổ chức chỉ đạo, trong cơ chế và chính sách nên trong thời kỳ 1976-1980 nền kinh tế
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lâm vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng, cơ cấu kinh tế ngày càng trở nên bất hợp
lý và mất cân đối nghiêm trọng, nông nghiệp yếu kém không đáp ứng yêu cầu trong
nớc, công nghiệp nặng đầu t lớn nhng không phát huy đợc tác dụng. Thời kỳ 1976-
1980, tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng bình quân 1,4%, thu nhập quốc dân chỉ tăng
0,4% trong khi đó dân số tăng 2,24% một năm, sản xuất công nghiệp bình quân
hàng năm chỉ tăng 0,6%, trong đó công nghiệp quốc doanh giảm 2,6%; sản xuất
nông nghiệp tăng bình quân 1,9% một năm. Trớc tình hình đó và từ hội nghị trung -
ơng 6 (khóa IV) năm 1979 và tiếp đó là đại hội V, Đảng ta đã nhận thấy cần phải
nhận thức đúng hơn vị trí của nông nghiệp và phải bố trí lại cơ cấu sản xuất và điều
chỉnh cơ cấu đầu t Đại hội Đảng lần thứ V (1981) đã xác định: "Nội dung chính của
CNH XHCN trong 5 năm (1981-1985) và những 80 là tập trung sự phát triển mạnh
nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đa nông nghiệp lên sản xuất lớn
XHCN, ra sức đẩy mạnh hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp
nặng quan trọng"
(
1). Sự điều chỉnh, thay đổi bớc đầu trong nhận thức và chủ trơng
đã có tác động nhất định đến phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa. Bình
quân hàng năm thời kỳ 1981-1985 sản xuất công nghiệp tăng 9,5%; sản xuất nông
nghiệp tăng 5,3%; cơ cấu công nghiệp trong thu nhập quốc dân sản xuất vẫn đợc
tăng từ 20,2% (1980) lên 30% (1985).
2. Giai đoạn từ 1986 đến nay:
Đây là giai đoạn có sự đổi mới toàn diện và đồng bộ cả về nhận thức, quan
điểm và về tổ chức chỉ đạo thực hiện. Đại hội lần thứ VI đã xác định rõ những quan
điểm, chủ trơng, phơng hớng đổi mới kinh tế - xã hội ở nớc ta trong chặng đờng đầu
tiên của thời kỳ quá độ lên CNCH. Đại hội chỉ rõ: "Tiếp tục xây dựng những tiền đề
cần thiết cho đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặng đờng tiếp theo"
(
1) và
"trớc mắt là trong kế hoạch 5 năm 1986-1990 phải thật sự tập trung sức ngời, sức
của vào thực hiện cho đợc ba chơng trình mục tiêu về lơng thực - thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu..."
(2)
. Thực hiện 3 chơng trình mục tiêu thực chất đó
cũng là chuyển hớng chiến lợc công nghiệp hóa từ u tiên phát triển công nghiệp
năng sang lấy nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm
trọng tâm.
(1) Văn kiện Đại hội V của Đảng
(
1)
(2)
Văn kiện Đại hội VI của Đảng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Từ những quan điểm và chủ trơng đổi mới trên, Đảng và Nhà nớc đã cụ thể
hóa bằng cơ chế và thành các chính sách, biện pháp thực hiện, đáng kể nhất đó là:
Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, chính sách kinh tế đối ngoại và thu
hút vốn đầu t nớc ngoài, chính sách tài chính - tiền tệ kiềm chế lạm phát, chuyển cơ
chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trờng có sự quản lý
của Nhà nớc.
Nhờ vậy mặc dù có "cú sốc" lớn là Liên Xô và các nớc Đông Âu tan rã làm
mất đi khoản viện trợ khoảng 1 tỷ đô la năm, bằng gần 7% GNP và mất đi thị trờng
không chuyển đổi, mặc dù Mỹ còn gây khó khăn do tiếp tục chính sách cấm vận,
nhng nền kinh tế đã vợt qua trạng thái suy giảm, giảm lạm phát đáng kể, điều chỉnh
cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, tiếp tục công nghệp hóa. Lạm phát từ mức 3 con số:
1986: 587,2%; 1987: 416,77%; 1988: 410,9% giảm xuống còn 2 con số: 1989:
30%; 1990: 52,8%. Trong thời kỳ 1986-1990 tốc độ tăng bình quân hàng năm của
tổng sản phẩm xã hội: 4,8%: thu nhập quốc dân: 3,9%, giá trị tổng sản lợng công
nghiệp: 5,2%, giá trị tổng sản lợng nông nghiệp: 3,5%; giá trị xuất khẩu: 28%; cơ
cấu công nghiệp, nông nghiệp trong thu nhập quốc dân sản xuất đã có sự điều
chỉnh: Công nghiệp: 30% (1985); 23% (1990); còn nông nghiệp 47,3% (1985);
46,6% (1990).
Cơ cấu công nghiệp bớc đầu có sự chuyển dịch theo hớng thích hợp và có hiệu
quả hơn. Năm 1976 trong cơ cấu giá trị tổng sản lợng công nghiệp ngành điện lực
chỉ chiếm 3,665; cơ khí (bao gồm cả điện tử) 9,65%; hóa chất phân bón, cao su:
8,26% thì năm 1990 tỷ trọng tơng ứng của các ngành đó là 5,1%:15,9%:9,4%. Nếu
so sánh giá trị tổng sản lợng công nghiệp của năm 1990 với năm 1976 thì chỉ số
phát triển công nghiệp của cả nớc là 2,13 lần, trong đó: Điện lực 2,96 lần; cơ khí
3,52 lần; hóa chất, phân bón, cao su: 2,13 lần.
Giữa các ngành công nghiệp nhóm A và công nghiệp nhóm B đã bớc đầu có sự
điều chỉnh trong sự phát triển theo hớng chú trọng thích đáng hơn đến phát triển các
ngành công nghiệp nhóm B để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nớc và
để sử dụng tốt hơn các nguồn lực: vốn, kỹ thuật truyền thống, lao động, công
nghiệp nhóm A chiếm 33,8% (thời kỳ 1976 - 1980): 33,5% (thời kỳ 1981-1985) và
32,9% (1990). Tơng ứng với các thời kỳ đó, công nghiệp nhóm B chiếm tỷ trọng:
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
66,5% và 67,1%.
Công nghiệp ngoài quốc doanh phát triển khá, lực lợng sản xuất bớc đầu đợc
giải phóng. Khu vực công nghiệp quốc doanh sau thời gian phải đơng đầu với các
thử thách quyết liệt khi chuyển sang cơ chế mới tởng chứng không vợt qua nổi (năm
1989 giảm 2,5% so với 1988) nhng đến năm 1990 công nghiệp quốc doanh đã thích
nghi dần với cơ chế mới một số ngành, một số cơ sở chủ yếu là quốc doanh trung -
ơng đã khôi phục đọc sản xuất và tiếp tục phát triển. Nếu năm 1976 công nghiệp
quốc doanh chiếm 58,6%; giá trị tổng sản lợng công nghiệp cả nớc thì năm 1989
chiếm 57,0%, còn công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 31,4% (1976); 43%
(1989).
Tiếp tục những quan điểm, chủ trơng, chính sách đổi mới, đại hội Đảng lần
thứ VII (6/1991) đã xác định rõ mục tiêu, phơng hớng nội dung của phát triển kinh
tế - xã hội và của công nghiệp hóa. Đại hội đã chỉ rõ: "Để thực hiện mục tiêu dân
giàu nớc mạnh theo con đờng XHCN, điều quan trọng nhất là phải cải tiến căn bản
tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển... phát triển lực lợng sản xuất, công nghiệp
hóa đất nớc theo hớng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn
diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bớc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
CNXH. Không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống
nhân dân"
(
1) "Mục tiêu tổng quát của chiến lợc đến năm 2000 là: ra khỏi khủng
hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vợt qua tình trạng nớc nghèo và
kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo
điều kiện cho đất nớc phát triển nhanh vào đầu thế kỷ 21"
(
2)
Đại hội VII cũng xác định mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm (1991-1995)
là: "Đẩy lùi và kiểm soát đợc lạm phát, ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả nền
sản xuất xã hội, ổn định và từng bớc cải thiện đời sống nhân dân và bắt đầu có tích
lũy từ nội bộ nền kinh tế"
(
3)
Quá trình đổi mới đã tạo nên những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, thành
tựu CNH trong các năm 1991,1992,1993 cao hơn, có chất lợng hơn, đi vào thực chất
so với nhiều năm trớc đây. Lạm phát tiếp tục đợc kiềm chế: chỉ số giá bán lẻ tăng
(1) Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
(2) Chiến lợc ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
Website: Email : Tel : 0918.775.368