Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Luận văn đông phương học tìm hiểu về từ ngữ xưng hô trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.22 KB, 29 trang )




1
1. Đặt vấn đề
Từ loại là một phổ niệm của ngôn ngữ học nói chung. Nói đến ngôn
ngữ là nói đến ngữ pháp mà nói đến ngữ pháp không thể không nói đến hệ
thống từ loại của nó. Từ loại là một trong những vấn đề, một trong những
đối tượng mà ngữ pháp học chú ý đến trước tiên đối với bất cứ một ngôn
ngữ nào. Với quan điểm như
vậy, có thể khẳng định: bất kỳ hệ thống ngôn
ngữ của một dân tộc nào, của một cộng đồng người nào đã có vốn từ vựng,
ngữ pháp riêng thì đều có từ loại. Tiếng Việt không phải là một ngoại lệ.
Từ loại của các ngôn ngữ không biến hình trong đó có tiếng Việt chủ
yếu được phân chia theo các đặc trưng ngữ pháp và đặc trưng ngữ ngh
ĩa.
Căn cứ vào một tập hợp các tiêu chuẩn để xác định từ loại tiếng Việt có thể
từng bước xác định được các đối lập trong kho từ vựng tiếng Việt. Các đối
lập này tạo thành các tập hợp lớn rồi đến các tập hợp vừa và cuối cùng là các
tập hợp nhỏ. Tập hợp lớn bao gồm thực từ, hư từ và tình thái từ. Tiế
ng Việt
có 9 tập hợp vừa thuộc thực từ, hư từ và tình thái từ… Qua các bước phân
chia từ tập hợp lớn đến tập hợp nhỏ, chúng ta có 9 kiểu từ loại trong hệ
thống từ loại tiếng Việt, đó là: danh từ, số từ, động từ, tính từ, đại từ, phụ từ,
liên từ, trợ từ và cảm từ. Mỗi từ loại lại có nh
ững tiểu loại khác nhau… tất
cả làm nên sự phong phú, đa dạng của hệ thống từ loại tiếng Việt.
Trong 9 từ loại kể trên của tiếng Việt thì đại từ là một từ loại có vị trí
đặc biệt. Đó là vị trí trung gian giữa thực từ và hư từ và là một từ loại trung
gian giữa các từ loại cơ bản. Đại từ không phải là thực từ
đích thực. Tuy nó


có mối quan hệ mật thiết, gần gũi với các thực từ cơ bản như danh từ, động
từ, tính từ nhưng nó lại không có quan hệ trực tiếp với thực tại như các từ
loại trên. Đại từ chỉ có tính chất thực từ khi nó phản ánh mối quan hệ giữa



2
khái niệm và tư duy với thực tại một cách gián tiếp: chúng mang nội dung
phản ánh vốn có của các thực từ mà nó thay thế. Hơn nữa, đại từ cũng không
thuộc lớp hư từ vì nó không chỉ phản ánh mối quan hệ giữa các khái niệm
trong tư duy như phụ từ, quan hệ từ.
So với các từ loại khác, đại từ chiếm một số lượng từ ít nhưng nó lại
có m
ột tần số sử dụng rất cao và có vai trò vô cùng cần thiết trong ngôn ngữ
và trong giao tiếp. Đại từ thường được định nghĩa là những từ không dùng
để định danh một thực thể, một hành động hay một tính chất nào đó của thực
thể mà được dùng để thay thế cho chúng.
Như đã nói, đại từ là một từ loại trung gian, không thuần nhất nên phân
loại thành các tiểu loại là một việc khó khă
n, phức tạp. Có nhiều cách phân
chia khác nhau. Theo Diệp Quang Ban [2; 111] thì đại từ tiếng Việt được
chia thành hai lớp con: đại từ xưng hô và đại từ chỉ định. Còn Lê Biên
[1; 122] lại chia đại từ thành các tiểu loại: đại từ xưng hô; đại từ chỉ định;
đại từ để hỏi; đại từ chỉ khối lượng, tổng thể; đại từ phiếm chỉ và các đại từ
“thế, vậ
y”.
Nhìn chung, theo cách phân loại nào thì đại từ xưng hô hay theo một
cách gọi khác là từ ngữ xưng hô vẫn được xem là quan trọng nhất. Đây là
một trong những lý do chính để người viết chọn nghiên cứu đề tài “Tìm hiểu
về từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt”. Trên cơ sở trình bày các đặc điểm, đặc

trưng cơ bản của từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt, sự phong phú v
ề số lượng
cũng như sự đa dạng trong cách dùng, bài viết nhằm làm nổi bật vẻ đẹp của
từ ngữ xưng hô nói riêng và vẻ đẹp của tiếng Việt nói chung. Song song với
các phương pháp phân tích, miêu tả, so sánh đối chiếu, qua khảo sát sinh
viên khoa Đông phương, trường Đại học Lạc Hồng, bài viết phần nào phản



3
ánh rõ những vấn đề liên quan đến từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt và bước
đầu đề cập đến những ảnh hưởng của nó đến quá trình học ngoại ngữ nói
chung và việc học dịch nói riêng của sinh viên ở đây.
2. Khái quát về từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt
Trong bất kỳ một hành vi giao tiếp nào, xưng hô là một hiện tượng
không thể thiếu được. Có thể nói, có giao tiếp là có xư
ng gọi. Chính vì vậy,
trong bất kỳ một ngôn ngữ nào, lớp từ ngữ dùng để xưng hô cũng luôn đóng
vai trò quan trọng và là một trong những yếu tố tạo nên sự phong phú trong
vốn ngôn từ của mỗi dân tộc.
Từ ngữ xưng hô - đại từ xưng hô (pronoun) là những từ dùng để xưng hô
trong giao tiếp. Theo hai tác giả Diệp Quan Ban – Hoàng Văn Thung thì từ
ngữ xưng hô là những từ “dùng thay thế và biểu thị
các đối tượng tham gia
quá trình giao tiếp (được phản ánh trong nội dung ý nghĩa của thực từ hay
tổ hợp thực từ tương ứng)” [2; 111]
Từ ngữ xưng hô trong tiếng tiếng Việt có thể chia làm hai lớp, gồm
các đại từ xưng hô gốc, đích thực và các yếu tố được đại từ hóa dùng để
xưng hô.
Thuộc về lớp thứ nhất – những từ xưng hô gố

c, đích thực không
nhiều: tao, ta, mày, nó, hắn và chỉ xuất hiện ở những sắc thái biểu cảm
không lịch sự (thân mật, suồng sã, thô tục, khinh thường).
Từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt chủ yếu thuộc lớp thứ hai – đó là
những yếu tố được đại từ hóa dùng để xưng hô. Trong lớp này, có những từ
nguyên là danh từ đã trở thành đại từ thực sự
: tôi, tớ, mình, hoặc còn dấu ấn
danh từ khá rõ: chàng, nàng, thiếp, người, ngài, người ta… Bên cạnh đó,



4
chiếm một số lượng lớn trong hệ thống đại từ xưng hô của tiếng Việt còn có
những danh từ chỉ người thuộc quan hệ gia tộc, thân thuộc như: anh, chị,
ông, bà, cha, mẹ, chú, bác, cậu, dì, con, cháu…, các biến thể của chúng theo
phương ngữ, các từ chỉ chức danh, nghề nghiệp: bác sĩ, thủ trưởng, sếp, tổ
trưởng, giám đốc…, các từ chỉ nơi chố
n: ấy, đây, đấy, đằng ấy…, các tên
riêng: Hồng, Hoa, Huệ…, các từ vay mượn gốc Hán (y, thị, chúng, huynh,
đệ, đại ca, tiên sinh…), gốc Pháp (moa, toa)…
Có thể nói, từ ngữ dùng để xưng hô trong tiếng Việt giàu có vô cùng,
nhiều hơn rất nhiều so với số lượng từ ngữ xưng hô của nhiều ngôn ngữ
khác trên thế giới. Có thể thấy rõ điều này qua bảng dưới.

BẢNG TÓM TẮT TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG TIẾNG VIỆT
[1; 125]

Số
Ngôi
Số ít Ngôi gộp

hỗn số
Số nhiều Các biến thể
Ngôi thứ nhất
(người nói)

Tao
Tôi
Tớ
Mình
Ta


Ta
Mình
Chúng ta




Chúng tao
Chúng tôi
Chúng tớ
Chúng mình
Chúng ta

Tau (tao)
Tui (tôi) (1)
…………….
(Tôi) = Choa
Min, Qua (2)




5
Ngôi thứ hai
(người nghe)
Mày
Bay
(mi)
Chúng
mình
Chúng mày
Chúng bay
Mi (mày)
Bây (bay) (1)
(mày) = Bậu (2)
Ngôi thứ ba
(người, vật
được nói đến)

Hắn
Y
Thị
Chúng nó
Họ
Chúng

(Nó) = Va
Nghỉ (2)



(1). Biến thể ngữ âm
(2). Biến thể từ vựng (phương ngữ)
Trên đây chỉ là bảng thống kê tóm tắt những từ ngữ xưng hô trong
tiếng Việt. Trong thực tế, số lượng từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt (kể cả
những từ ngữ xưng hô gốc, đích thực và những từ được đại từ hóa dùng để
xưng hô) rất nhiều, khó có thể
thống kê chúng thành một con số xác định,
bởi trong khi giao tiếp người Việt luôn có xu hướng tạo ra những từ mới để
xưng hô. Không biết tự bao giờ và bằng cách nào mà trong tiếng Việt đã có
cả một kho, một “mỏ” các từ ngữ xưng hô chuyên dùng. Điều này là không
thể phủ nhận. Theo khảo sát của chúng tôi mới đây, sự phong phú về số
lượng của từ ngữ xưng hô trong tiếng Việ
t một lần nữa được khẳng định.
Khi được hỏi về số lượng của từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt, đại đa
số sinh viên được khảo sát (159/223 sinh viên, chiếm 71.3%) đều cho rằng:
số lượng từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt “rất phong phú”, 53/223 sinh viên
(chiếm 23.8%) đánh giá là “phong phú”, chỉ có 2/223 sinh viên (chiếm



6
0.9%) cho rằng số lượng từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt ít. Điều này được
thể hiện cụ thể qua bảng kết quả dưới đây:

Số lượng từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt
Frequency Percent
Valid
Percent
Cumulative

Percent

Valid

Ít
2 .9 .9 .9


Vừa phải
9 4.0 4.0 4.9


Phong phú
53 23.8 23.8 28.7


Rất phong phú
159 71.3 71.3 100.0


Total
223 100.0 100.0

Đối tượng được khảo sát ở đây là sinh viên thuộc khoa Đông phương
học, trường Đại học Lạc Hồng hiện đang theo học 4 ngoại ngữ chính là tiếng
Anh, tiếng Trung , tiếng Nhật và tiếng Hàn tương ứng với các chuyên ngành
Việt Nam học, Trung Quốc học, Nhật Bản học và Hàn Quốc học. Qua đối
chiếu, sinh viên cũng cho biết, so với ngoại ngữ họ đang học thì tiếng Việ
t
có số lượng từ ngữ xưng hô nhiều hơn, phong phú hơn rất nhiều:





7
Số lượng từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt so với ngoại ngữ đang học
Frequency Percent
Valid
Percent
Cumulative
Percent

Valid

Ít hơn
39 17.5 17.5 17.5


Nhiều hơn
88 39.5 39.5 57.0


Phong phú hơn
rất nhiều
96 43.0 43.0 100.0


Total
223 100.0 100.0


Xin dẫn ra đây một số ví dụ tương đương trong đó có sử dụng các từ
ngữ xưng hô giữa tiếng Việt và tiếng Anh – ngôn ngữ được sử dụng phổ
biến nhất trên thế giới để thấy được sự giàu có của từ ngữ xưng hô trong
tiếng Việt:
TIẾNG VIỆT - TIẾNG ANH
Tôi là giáo viên - I am teacher
Em đang học tiếng Anh - I am learning English
Con yêu mẹ -
I love you, mummy
Chúng tôi là người Việt Nam - We are Vietnameses
Chúng em là sinh viên - We are students



8
Chúng ta là nhà vô địch - We are the champions
Qua các ví dụ vừa dẫn, chỉ với ngôi thứ nhất chúng ta đã có thể thấy
rõ sự chênh lệch về số lượng giữa từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt và từ ngữ
xưng hô trong tiếng Anh (tôi – em – con – chúng tôi – chúng em – chúng
ta…/ I, we).
Xét thêm ở ngôi thứ hai, trong tiếng Anh, “you” được dùng để nói với
một người hoặc nhiều người, trong khi ở tiếng Việt chúng ta phân biệt giữa
nói với một người và nói với nhiều người rất rất rõ ràng thông qua từ xưng
hô ở ngôi thứ hai. Chẳng hạn:
Anh là người bạ tốt nhất của tôi - You are my best friend
Các cậu có thể chạy nhanh hơn tớ - You can run faster than me
Con phải làm bài tập về nhà - You have to do your
homework
……
Sự phong phú về số lượng của từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt một

mặt nói lên
được sự phong phú, vẻ đẹp của tiếng Việt nhưng mặt khác lại
ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tiếng Việt của người nước ngoài và việc
dịch mà ở đó tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ đích. Về mặt này, chúng tôi
sẽ đề cập ở phần sau của bài viết.
3. Đặc điểm của từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt
3.1. “Trong giao tiếp hằng ngày, các danh từ dùng làm đại từ xưng hô
được dùng nhiều hơn, phổ biến hơn là các đại từ xưng hô đích thực”
[1; 126]



9
3.2. Trong mỗi phát ngôn, các từ ngữ xưng hô phản ánh trực tiếp các mối
quan hệ giữa người nói và người nghe, “phản ánh trình độ nhận thức, thái
độ tình cảm của người nói với người nghe, thậm chí còn có thể bộc lộ nhân
cách con người (người có văn hóa hay không; thái độ chân thật hay giả
tạo…” [1; 126]
3.3. Ngoại trừ từ “tôi” được xem là tương đối trung hòa về thái độ, biểu
cảm, các từ ngữ x
ưng hô trong tiếng Việt đều mang đậm màu sắc biểu cảm.
chỉ cần nghe qua cách xưng hô giữa người nói và người nghe chúng ta có thể
nhận ra thái độ, tình cảm giữa hai người.
3.4. Việc sử dụng các từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt phụ thuộc vào
nhiều nhân tố: nhân vật giao tiếp (người nói – người nghe); mục đích, nội
dung giao tiếp, tình huống giao tiếp và các yếu tố khách quan (tập quán,
truyền thống – vă
n hóa, xã hội, ý thức hệ, tâm lý dân tộc, khu vực địa lý…)
4. Sự đa dạng về cách dùng từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt
Những vấn đề trình bày trên phần nào đã cho thấy được một điểm nổi

bật của từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt đó là sự phong phú về số lượng. Và
chính sự phong phú này là một trong những nguyên nhân chính yếu dẫn đến
điểm nổi bậ
t thứ hai của từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt, đó là sự đa dạng
về cách dùng.
Tùy theo đối tượng giao tiếp mà người Việt sử dụng những từ ngữ
xưng hô khác nhau. Dùng “tôi” với tất cả mọi người; “con” với ông bà, cha
mẹ, với những người bà con ngang vai với cha mẹ, với người già; “chị”,
“anh” với các em, những người nhỏ tuổi hơn mình; “
cô”, “dì”, “cậu”, “mợ”,



10
“bác” với các cháu theo tương quan họ hàng; hoặc “tao”, “ta” khi không
cần giữ lễ hay lúc tức giận
Về cơ bản, có thể chia những từ xưng hô trong tiếng Việt thành hai
lớp có phạm vi sử dụng khác nhau: những từ xưng hô dùng trong gia tộc
thân thuộc và những từ xưng hô dùng ngoài xã hội.


4.1. Cách dùng từ ngữ xưng hô trong gia tộc thân thuộc
Khi xưng hô trong gia tộc, người Việt rất ít dùng đại từ xưng hô gốc
mà chủ yếu sử dụng các danh từ được đại từ hóa để xưng hô. Cách xưng hô
trong gia tộc thân thuộc thể hiện tính tôn ti trật tự (trên ra trên, dưới ra dưới)
và tính thứ bậc rõ rệt. Có thể hình dung qua sơ đồ sau:

Ông

Bác

Chú Anh Bố
(1).Chắt ↔ cụ (2).Cháu Cô (3).Em (4).Con
Dì Chị Mẹ
Cậu
Mợ
Thím



11
4.2. Cách dùng từ ngữ xưng hô ngoài xã hội
“Việc sử dụng hệ thống từ xưng hô ngoài xã hội, thể hiện thái độ ứng
xử giữa những người không có quan hệ huyết thống, thân thuộc gia tộc là
rất phức tạp và đa dạng” [1; 128]. Ở phạm vi này, cả hai lớp từ ngữ xưng hô
trong tiếng Việt là các từ xưng hô gốc và các từ lâm thời làm đại từ xư
ng hô
đều được sử dụng.
Cách xưng hô ngoài xã hội tồn tại hai hình thức: xưng hô tương ứng,
chính xác và xưng hô tương ứng không chính xác. Có thể thấy rõ điều này
qua sơ đồ sau [1; 130]:
Ngôi 2
Ngôi 1
Con Cháu Em
Anh
(chị)

(cậu)
Bác
(chú)
Ông

(bà)
Con + +
Cháu x x
Em x + +
Anh (chị) x +
Cô (cậu) + x + +
Bác (chú) + x +
Ông (bà) + x +
Tôi + + + + +
x: Tương ứng chính xác
+: Tương ứng không chính xác



12
Điểm đáng lưu ý đầu tiên trong cách dùng từ xưng hô trong giao tiếp
ngoài xã hội đó là: các từ xưng hô trong gia tộc thân thuộc (ông, bà, bác,
chú, cô, anh, chị) cũng được dùng để xưng hô ngoài xã hội. Ở đây, văn hóa
trọng gia đình (hơn là trọng cá nhân – cái tôi như nhiều nước phương Tây) là
nguyên nhân khiến người Việt mang từ xưng hô trong gia tộc thân thuộc ra
để xưng hô ngoài xã hội.
Điểm đáng lưu ý thứ hai, người Vi
ệt giao tiếp theo quy tắc “xưng là
phải khiêm, hô là phải tôn” – đề cao người được gọi. Điều này lý giải vì sao
khi hai người ngang hàng nhau (kể cả về tuổi tác và cương vị xã hội) khi
giao tiếp người nói bao giờ cũng hạ mình xuống một bậc đồng thời nâng
người nghe lên vị thế cao hơn mình.
Như vậy, yếu tố văn hóa ảnh hưởng rất nhiều đến cách xưng hô trong
giao tiế
p của người Việt. Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, hầu hết sinh

viên nhận thấy điều này. Trong số 223 sinh viên được khảo sát thì có đến
172 sinh viên (chiếm 77.1%) cho rằng yếu tố văn hóa “rất ảnh hưởng” đến
cách xưng hô của người Việt, cũng có 43 sinh viên (19.3%) cho rằng văn
hóa có ảnh hưởng ít đến cách xưng hô và chỉ có 8 sinh viên (3.6%) cho rằng
văn hóa không ảnh hưởng đến cách xưng hô của người Việ
t. Đây là một dấu
hiệu đáng mừng khi chúng ta đang trong giai đoạn giữ gìn và phát huy sự
trong sáng của tiếng Việt. Kết quả khảo sát được thể hiện rõ qua bảng sau:




13
Văn hóa ảnh hưởng đến cách xưng hô của người Việt
Frequency Percent
Valid
Percent
Cumulative
Percent
Valid
Hoàn toàn
không ảnh
hưởng
8 3.6 3.6 3.6

Không ảnh
hưởng lắm
43 19.3 19.3 22.9
Rất ảnh hưởng 172 77.1 77.1 100.0
Total 223 100.0 100.0


Ở bài viết này chúng tôi không nhằm mục đích tách bạch rõ ràng đâu
là xưng hô trong gia tộc thân thuộc, đâu là xưng hô ngoài xã hội mà cái mà
chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là dù ở phạm vi nào thì cách dùng các từ
ngữ xưng hô trong tiếng Việt cũng rất đa dạng.
4.3. Trong những mối tương quan khác nhau, khi xưng hô người Việt sử
dụng các từ ngữ xưng hô khác nhau tạo nên vẻ đẹp đa dạng, phong phú của
ngôn từ ti
ếng Việt. Xin dẫn ra đây một số ví dụ về cách sử dụng từ ngữ
xưng hô trong tương quan “vợ chồng”. Vợ chồng mới cưới, bình thường thì
có thể gọi nhau là “anh ơi”, “em ơi”, “mình ơi”, “nhà ơi”, “chồng ơi”, “vợ
ơi”; thân mật hơn một chút thì “ông xã (bà xã) của em (anh) ơi”, hoặc khi
đùa vui hay muốn thể hiện tình cả
m, người Việt cũng gọi chồng, gọi vợ của



14
mình là “Cục cưng của anh (em) ơi”, “Con heo đáng yêu của anh (em)
ơi”… Bước sang giai đoạn thứ hai – khi đã có con, vợ chồng lại có thể gọi
nhau “bố thằng Nam ơi/ mẹ thằng Nam ơi”. Khi về già thì “ông ơi”, “bà
ơi” Thậm chí, trong cách xưng hô của người Việt giữa những người thân
thiết với nhau còn thể hiện những dấu ấn rất riêng, có khi còn là mộ
t bí mật.
Một cặp vợ chồng nọ chuyển đến một nơi ở mới, hàng xóm cứ nghe người
chồng gọi vợ mình là Vy nên lầm tưởng người vợ đó tên Vy. Nhưng sự thật
lại không phải như vậy, “Vy” thực ra chỉ là cách mà người chồng gọi vợ
mình theo một cách rất riêng bằng cách ghép hai chữ cái đầu tiên trong từ
“vợ yêu” mà thành.
4.4. Trong tiếng Việt, cùng một từ ng

ữ xưng hô có thể dùng được ở nhiều
ngôi, cụ thể là ở cả ba ngôi: thứ nhất, thứ hai và thứ ba.
Ví dụ
:
(1) Hoa, lại đây anh
cho bánh này.
Ngôi thứ nhất
(2) Anh
cho em cái bánh này nhé?
Ngôi thứ hai
(3) Anh
của em có nhà không?
Ngôi thứ ba
4.5. Dùng các từ chỉ chức danh, nghề nghiệp: Hiệu trưởng, giáo sư, tiến
sĩ, bác sĩ, thủ trưởng, sếp, tổ trưởng, giám đốc… để xưng hô. Chúng ta dễ
dàng nghe thấy những phát ngôn như thế này:
(1) Thưa bác sĩ, con tôi có sao không ạ?



15
(2) Sếp ơi, chiều nay cho em xin phép về sớm nhé!
4.6. Người Việt chúng ta rất thường dùng tên riêng để xưng hô, cả khi tự
xưng và khi gọi người khác. Chẳng hạn:
(1) Hoa có thể đợi Hồng được không?
Ngôi thứ hai Ngôi thứ nhất
Hay (2) Nam ơi, cậu đã về chưa?
4.7. Trong tình huống thân mật, người Việt có thể xưng hô với nhau bằng
biệt danh. Những cách x
ưng hô như thế này thường được giới hạn trong một

phạm vi nhất định.
4.8. Một trong những cách sử dụng từ xưng hô rất đặc biệt của người
Việt là dùng các từ chỉ nơi chốn: ấy, đây, đấy, đằng ấy, đằng này… để xưng
hô trong quá trình giao tiếp.
Ví dụ
:
(1) Đằng này nói cho đằng ấy biết nhé…
(2) Đây là đây không sợ đâu nhé!
4.9. Với cùng một đối tượng giao tiếp cũng có nhiều cách xưng hô khác
nhau tùy vào hoàn cảnh nói. Khi vui vẻ bình thường thì tôi – bạn, khi không
cần giữ lễ hay lúc tức giận thì tao, ta – mày…
4.10. Dùng các cặp từ xưng hô không tương đương về vai. Mới nghe qua
thì có vẻ nghịch logic nhưng lại hoàn toàn bình thường trong cách xưng hô
của người Vi
ệt, đặc biệt đối với người miền Bắc. Chẳng hạn như trường hợp
sau:



16
Khi nghe một phát ngôn tiếng Anh “Can you open the door, please!”
nếu không được chứng kiến cuộc nói chuyện giữa hai người trong phát ngôn
hoặc câu nói không được đặt trong một ngữ cảnh nhất định thì chúng ta khó
biết được người nghe ở đây là ai. Nhưng với một phát ngôn tiếng Việt như
thế này: “Anh ra mở cho mẹ cái cửa” thì người Việt nào cũng dễ dàng biết
được đối tượng “anh” ở đây là ai (con trai c
ủa người nói) mặc dù mẹ - anh
là một cặp từ ngữ xưng hô không tương ứng đối với vai mẹ - con.
5. Cuối cùng, trên cơ sở mặt tích cực của từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt
(sự phong phú về số lượng, sự đa dạng về cách dùng), bài viết muốn đề cập

đến mặt hạn chế của nó khi ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình h
ọc tiếng Việt
của người nước ngoài và những khó khăn khi dịch từ ngữ xưng hô từ các
ngôn ngữ khác sang tiếng Việt.
5.1. Với một kho, một “mỏ” từ ngữ xưng hô phong phú như vậy thì đây
là một khó khăn lớn cho người nước ngoài học tiếng Việt. Để nhớ được
tương đối đầy đủ các từ ngữ dùng để xưng hô trong tiếng Việt
đối với những
người nước ngoài học tiếng Việt đã là một khó khăn. Càng khó khăn hơn
cho người nước ngoài học tiếng Việt khi họ phải làm sao biết cách dùng các
từ xưng hô này đúng lúc, đúng chỗ.
5.2. Từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt luôn thể hiện rõ những mối tương
quan trong giao tiếp, phức tạp hơn nhiều so với nhiều thứ tiếng khác trên thế
giới. Chính vì v
ậy, trong quá trình dịch thuật chắc chắn không ít người gặp
phải những khó khăn loại này. Tác giả Nguyễn Văn Chiến [3] cho rằng:
“Nếu coi tiếng Việt là ngôn ngữ phiên dịch (ngôn ngữ đích) để chuyển dịch
các ngôn ngữ khác qua nó thì lớp từ xưng hô trong tiếng Việt là một hiện
tượng gây ra nhiều chuyện rắc rối ”.



17
Trong tiếng Anh, những chữ như “brother”, “sister”, “uncle”, “aunt”
có nghĩa không xác định tương quan. Nhưng trong tiếng Việt, những tương
quan ấy lại được phân biệt rất rõ, chẳng hạn sự phân biệt trong cách xưng hô
của người miền Bắc: lớn hơn thì phải gọi là “anh”, là “chị”; nhỏ hơn thì gọi
là “em”; anh của cha thì gọi là “bác”; em trai của cha thì gọi là “chú”; em
gái của cha thì gọi là “cô”; em gái của mẹ gọi là “dì”; chồng của cô, dì thì
gọi là “chú”; vợ

của chú thì gọi là “thím”; vợ của cậu thì gọi là “mợ” Đó là
chưa kể mỗi địa phương, vùng miền lại có những tương quan trong xưng hô
khác nhau…
Vấn đề đặt ra ở đây, nếu người dịch không biết tương quan cụ thể, gặp
những trường hợp đó phải dịch thế nào cho thỏa đáng, dịch như thế nào để
bảo đảm “sự hiể
u được” ở nền văn hóa người tiếp nhận? Trong tiếng Anh,
chỉ cần viết “brother”, “sister”, “uncle”, “aunt” là đã được độc giả chấp
nhận, nhưng khi dịch sang tiếng Việt đòi hỏi người dịch phải viết rõ hơn,
phải hiểu rõ mối tương quan gia đình kia cụ thể như thế nào thì mới có thể
dịch đúng được. Không thể cứ thấy “his aunt” mà dịch ngay là “cô của anh
ta” đượ
c, bởi rất có thể người được đề cập đến là “dì” hoặc “thím” hay “mợ”
của anh ta
Trong quá trình dịch thuật, người dịch cũng cần quan tâm nhiều đến
tương quan trong phạm trù lịch sự. Không phải khi nào “you” cũng chỉ là
“anh”, “chị” Đôi khi trong những ngữ cảnh cần thiết nó phải được dịch là
“mày”
Có thể nói có những khó khăn nhất định khi dịch từ xưng hô từ các
ngôn ngữ khác sang tiế
ng Việt. Đây không phải chỉ là những khó khăn trên
lý thuyết, qua khảo sát thực tế điều này một lần nữa được khẳng định:



18
Sinh viên gặp khó khăn khi dịch từ xưng hô
Frequency Percent
Valid
Percent

Cumulativ
e Percent
Valid Có 189 84.8 84.8 84.8
Không 34 15.2 15.2 100.0
Total 223 100.0 100.0

Có tới 189/223 sinh viên học ngoại ngữ được khảo sát gặp khó khăn
khi dịch từ xưng hô từ ngôn ngữ họ đang học sang tiếng Việt (chiếm
84.8%). Cụ thể việc gặp khó khăn đó đối với từng ngoại ngữ là khác nhau:
Tỉ lệ sinh viên có gặp khó khăn khi dịch từ xưng hô theo từng ngoại ngữ

Gặp khó khăn khi dịch từ xưng hô

Có Không

Count Row % Col % Count Row % Col %
Tiếng Anh 44 77.2% 23.3% 13 22.8% 38.2%
Tiếng Nhật 63 88.7% 33.3% 8 11.3% 23.5%
Tiếng Trung 34 85.0% 18.0% 6 15.0% 17.6%
Ngoại
ngữ
đang
học


Tiếng Hàn 48 87.3% 25.4% 7 12.7% 20.6%





19
Theo khảo sát, sinh viên học tiếng Nhật gặp khó khăn nhiều nhất
trong khi dịch từ xưng hô từ tiếng Nhật sang tiếng Việt. Chính vì vậy, các
thầy cô cần lưu ý hơn nữa trong quá trình dạy, nhất là khi dạy dịch cho sinh
viên.
6. Kết luận
Từ những phân tích nêu trên chúng ta có thể rút ra những kết luận
sau. Việc sử dụng từ ngữ xưng hô trong bất kỳ ngôn ngữ nào cũng là mộ
t
vấn đề quan trọng. So sánh với nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới, có thể nói
từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt phong phú hơn nhiều cả về số lượng cũng
như đa dạng hơn về cách dùng. Tùy vào hoàn cảnh giao tiếp, tâm trạng giao
tiếp và đối tượng giao tiếp mà người ta sử dụng những từ xưng hô khác
nhau. Tuy nhiên, chính sự phong phú và đa dạng này lại là một nguyên nhân
gây khó khăn cho người dịch t
ừ xưng hô từ các ngoại ngữ khác sang tiếng
Việt nói chung và sinh viên khoa Đông phương học trường Đại học Lạc
Hồng nói riêng. Để làm tốt công việc này đòi hỏi người dịch phải hiểu được
những đặc điểm trong cách sử dụng từ ngữ xưng hô ở cả hai ngôn ngữ, nét
đương đồng cũng như những điểm khác biệt trong tương quan so sánh giữa
chúng để lự
a chọn phương án tốt nhất cho mình trong quá trình dịch thuật.



20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Biên (1999), Từ loại tiếng Việt hiện đại, Nhà xuất bản Giáo Dục.
2. Diệp Quang Ban (chủ biên) – Hoàng Văn Thung (2002), Ngữ pháp
tiếng Việt (tập 1), Nhà xuất bản Giáo Dục.

3. Nguyễn Văn Chiến (1993), Từ xưng hô trong tiếng Việt (Nghiên cứu
ngữ dụng học và dân tộc học giao tiếp), Tạp chí những vấn đề ngôn
ngữ và vă
n hóa, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Trường ĐHSP Ngoại
ngữ Hà Nội.
4. Đinh Trọng Lạc (chủ biên) – Nguyễn Thái Hòa (2002), Phong cách
học tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo Dục.
5.
6.
7.
8.




21
PHỤ LỤC
KẾT QUẢ KHẢO SÁT SAU KHI SỬ DỤNG BẰNG PHẦN MỀM
XỬ LÝ SỐ LIỆU


1. Số lượng từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt
Frequency Percent
Valid
Percent
Cumulative
Percent
Valid Ít 2 .9 .9 .9
Vừa phải 9 4.0 4.0 4.9
Phong phú 53 23.8 23.8 28.7

Rất phong phú 159 71.3 71.3 100.0
Total 223 100.0 100.0




22

2. Số lượng từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt so với ngoại ngữ đang học
Frequency Percent
Valid
Percent
Cumulative
Percent
Valid Ít hơn 39 17.5 17.5 17.5
Nhiều hơn 88 39.5 39.5 57.0

Phong phú hơn
rất nhiều
96 43.0 43.0 100.0
Total 223 100.0 100.0

3. Có hay không một từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt được dùng ở
nhiều ngôi

Frequency Percent
Valid
Percent
Cumulative
Percent

Valid Có 170 76.2 76.2 76.2
Không 53 23.8 23.8 100.0
Total 223 100.0 100.0




23
4. Văn hóa ảnh hưởng đến cách xưng hô của người Việt
Frequency Percent
Valid
Percent
Cumulative
Percent
Valid
Hoàn toàn
không ảnh
hưởng
8 3.6 3.6 3.6

Không ảnh
hưởng lắm
43 19.3 19.3 22.9
Rất ảnh hưởng 172 77.1 77.1 100.0
Total 223 100.0 100.0


5. Sinh viên có gặp khó khăn khi dịch từ xưng hô hay không
Frequency Percent
Valid

Percent
Cumulative
Percent
Valid Có 189 84.8 84.8 84.8
Không 34 15.2 15.2 100.0
Total 223 100.0 100.0




24

6.
Tỉ lệ sinh viên có gặp khó khăn khi dịch từ xưng hô theo từng ngoại
ngữ


Gặp khó khăn khi dịch từ xưng hô

Có Không

Count Row % Col % Count Row % Col %
Tiếng Anh 44 77.2% 23.3% 13 22.8% 38.2%
Tiếng Nhật 63 88.7% 33.3% 8 11.3% 23.5%
Tiếng Trung 34 85.0% 18.0% 6 15.0% 17.6%
Ngoại
ngữ
đang
học




Tiếng Hàn 48 87.3% 25.4% 7 12.7% 20.6%






25
7. Nguyên nhân của khó khăn khi dịch từ xưng hô


Frequency Percent
Valid
Percent
Cumulativ
e Percent
Valid
Số lượng từ ngữ xưng
hô trong tiếng Việt
quá nhiều
17 7.6 7.6 7.6

Phải phụ thuộc vào
ngữ cảnh để dịch
33 14.8 14.8 22.4

Số lượng nhiều, phải
phụ thuộc vào ngữ

cảnh để dịch
163 73.1 73.1 95.5
Không biết 10 4.5 4.5 100.0

Total 223 100.0 100.0

×