Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ MAI PHƢƠNG
KHẢO SÁT LOẠI HÌNH HÁT SOỌNG CÔ
CỦA DÂN TỘC SÁN DÌU Ở THÁI NGUYÊN
VÀ TUYÊN QUANG
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ HUẾ
THÁI NGUYÊN, NĂM 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận
văn là trung thực, khách quan và chưa có ai công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu nào.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều
được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả
Nguyễn Mai Phƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Huế, người đã trực tiếp
hướng dẫn tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu cũng nhưn trong quá
trình viết luận văn. Tôi cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô Khoa
Ngữ văn trong suốt những năm tháng học tập tại đây. Cảm ơn Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch hai tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, các nghệ nhân…
đã tạo mọi điều kiện, thời gian và công sức giúp đỡ tôi trong quá trình thu
thập tài liệu.
Cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp - những
người luôn dành cho tôi sự động viên khích lệ trong suốt quá trình thực hiện
luận văn này.
Ngƣời viết
Nguyễn Thị Mai Phƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
1.1. Về phương diện khoa học 1
1.2. Lý do thực tiễn 2
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4
3.1. Mục đích nghiên cứu 4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
4.1. Đối tượng nghiên cứu 5
4.2. Phạm vi nghiên cứu 5
5. Phương pháp nghiên cứu 5
6. Những đóng góp của Luận văn 6
7. Bố cục của Luận văn 6
NỘI DUNG 7
Chƣơng I: KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI SÁN DÌU Ở THÁI NGUYÊN, TUYÊN
QUANG VÀ LOẠI HÌNH HÁT SOỌNG CÔ 7
1.1. Đặc điểm lịch sử xã hội của người Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang 7
1.1.1. Khái quát về người Sán Dìu ở Việt Nam 7
1.1.2. Quá trình thiên di của người Sán Dìu đến Thái Nguyên, Tuyên Quang 7
1.1.3. Đời sống và quan hệ xã hội, bản làng và gia đình của người Sán
Dìu ở Thái Nguyên, Tuyên Quang 9
1.2. Đặc điểm văn hoá truyền thống của người Sán Dìu ở Thái Nguyên và
Tuyên Quang 10
1.2.1. Chữ viết của người Sán Dìu 10
1.2.2. Tôn giáo, tín ngưỡng của người Sán Dìu ở Thái Nguyên, Tuyên Quang 12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iv
1.3. Một số loại hình văn nghệ dân gian truyền thống của người Sán Dìu ở
Thái Nguyên, Tuyên Quang 12
1.4. Hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang 14
1.4.1. Hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Việt Nam và các truyền thuyết
về Soọng cô 19
1.4.2. Hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang 28
Chƣơng II: KHẢO SÁT VÙNG HÁT VÀ CÁC NGHỆ NHÂN 34
2.1. Khảo sát về hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Thái Nguyên,
Tuyên Quang 34
2.1.1. Khảo sát vùng hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Thái Nguyên . 35
2.1.2. Khảo sát vùng hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Tuyên Quang 36
2.2. Các nghệ nhân 37
2.2.1. Nghệ nhân vùng Thái Nguyên 37
2.2.2. Nghệ nhân vùng Tuyên Quang 43
2.3. Một số nhận xét về vùng hát, nghệ nhân hát Soọng cô ở Thái Nguyên và
Tuyên Quang 51
Chƣơng III: GIÁ TRỊ NỘI DUNG, NGHỆ THUẬT VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN
HÁT SOỌNG CÔ 54
3.1. Giá trị về nội dung 54
3.1.1. Hát Soọng cô phản ánh tình yêu đôi lứa 54
3.1.2. Hát Soọng cô phản ánh niềm kính trọng tổ tiên, ông bà, người già
và nhưng người làng 61
3.1.3. Hát Soọng cô phản ánh tình yêu lao động 65
3.2. Giá trị về nghệ thuật 66
3.2.1. Thể thơ 66
3.2.2. Kết cấu 68
3.2.3. Vần nhịp 71
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
v
3.3. Hiện trạng và bảo tồn hát Soọng cô ở Thái Nguyên và Tuyên Quang 71
3.3.1. Hiện trạng 71
3.3.2. Bảo tồn loại hình dân ca dân tộc Sán Dìu 75
KẾT LUẬN 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
DANH SÁCH NGHỆ NHÂN HÁT SOỌNG CÔ 89
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về phương diện khoa học
Một dân tộc sáng tạo ra văn hoá của mình, và đến lượt nó, chứa đựng
trong nền văn hoá đó là sức sống, tiềm năng, bản lĩnh, sức sáng tạo và bản
sắc của chính mình dân tộc đó. Bằng văn hoá và thông qua văn hoá, dân tộc
đó, qua các thế hệ, xây dựng cho mình những chuẩn mực sống, lao động, đấu
tranh, sáng tạo và quan hệ cộng đồng [11, tr.271]
Văn hóa là nền tảng, là nhân tố phản ánh trình độ phát triển của xã hội.
Kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc thiểu số rất đa dạng và phong phú.
Mỗi dân tộc đều có nét văn hóa, phong tục, tập quán riêng, tạo nên bản sắc
riêng và độc đáo. Trên khắp vùng miền của đất nước có rất nhiều di sản văn
hóa phi vật thể khác nhau, trong đó phải kể đến hát Then, Sli, Lượn cọi của
dân tộc Tày; hát Song Hao của người Nùng; Sình ca của người Cao Lan;
Xắng cọ của người Sán Chỉ; hát Ghẹo, hát Xoan của người Kinh….
Một trong những hình thức văn nghệ dân gian độc đáo của dân tộc Sán
Dìu là hát Soọng cô (dân ca). Là điệu hát truyền thống của người Sán Dìu
được lưu truyền từ nhiều đời nay. Lời Soọng cô là thể thơ 7 chữ, ví von trang
nhã, tình tứ và thường dựa vào cảnh đẹp quê hương, làng xóm, sinh hoạt hàng
ngày để nói lên nỗi lòng mình. Soọng cô là thể loại dân ca trữ tình với lời hát
đối đáp nam nữ. Mỗi bài ca là một bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ
tuyệt ghi chép bằng chữ Hán cổ và được lưu truyền trong dân gian. Soọng cô
thường được thường được bà con thể hiện trong lễ hội đầu xuân, lễ cưới giữa
làng này với làng kia. Ngày nay, mặc dù có sự giao thoa giữa các dân tộc
thiểu số, người Sán Dìu ở Tuyên Quang và Thái Nguyên cũng du nhập nhiều
nét văn hóa của các dân tộc khác vào đời sống tinh thần, nhưng Soọng cô vẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
được lưu truyền. Có thể nói, dân tộc Sán Dìu một dân tộc có tâm hồn thơ ca,
đồng bào yêu thích ca hát, dùng tiếng hát để ca ngợi quê hương, xứ sở, ca
ngợi lao động, tình yêu lứa đôi và khát vọng về một cuộc sống ấm no. Soọng
cô đã hình thành, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của dân
tộc Sán Dìu. Đó là sản phẩm tinh thần không thể thiếu trong đời sống sinh
hoạt, lao động sản xuất của người Sán Dìu.
Tuy nhiên, từ trước tới nay, hát Soọng cô của người Sán Dìu tuy đã
được sưu tầm và dịch nhưng số lượng vẫn rất hạn chế, chưa có sự quan tâm,
nghiên cứu tìm hiểu một cách khoa học về mặt giá trị nội dung và nghệ thuật.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ tiến hành điền dã và sưu tầm
những bài hát Soọng cô được lưu truyền trong dân gian làm cơ sở nghiên cứu.
1.2. Lý do thực tiễn
Nghiên cứu những nét cơ bản về giá trị nội dung nghệ thuật của hát
Soọng cô trong đời sống văn hóa của người dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên
và Tuyên Quang sẽ góp phần khẳng định, bảo tồn và phát huy nét đẹp truyền
thống vốn có của các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung và dân tộc Sán Dìu
nói riêng.
Xuất phát từ phương diện khoa học nêu trên, chúng tôi tiến hành tìm
hiểu về: “Khảo sát loại hình hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Thái Nguyên
và Tuyên Quang” trong đề tài luận văn nghiên cứu của mình. Hoàn thành
công trình này, chúng tôi mong muốn được khám phá và tôn vinh giá trị văn
hóa phi vật thể của các dân tộc số Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
Văn học dân gian (VHDG) là sáng tác tập thể, truyền miệng của nhân
dân lao động, ra đời từ thời kỳ công xã nguyên thuỷ, trải qua các thời kỳ phát
triển lâu dài trong các chế độ xã hội có giai cấp, tiếp tục tồn tại cho đến ngày
nay[24, tr.7].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Hướng tiếp cận các tác phẩm văn hoá dân gian theo folklore học bao
gồm các phương diện như ngữ văn dân gian, nghệ thuật dân gian, tri thức dân
gian, tín ngưỡng, phong tục và lễ hội. Cách tiếp cận này mang tính tổng thể
của văn hoá học [20]. Đứng ở vị trí nghiên cứu văn học, chúng ta coi tác
phẩm VHDG trước hết là những tác phẩm nghệ thuật. Tính nghệ thuật là một
thuộc tính khách quan của văn học dân gian, cho dù thuộc tính đó có được
nhân dân nhận thức rõ hay không trong khi sáng tác, diễn xướng và tíêp thu
các tác phẩm văn học dân gian. Thuộc về loại hình trữ tình dân gian, ca dao,
dân ca với những đặc điểm thể loại của nó là sự thể hiện cảm xúc của chủ thể
trữ tình trước những vấn đề xã hội và nhân sinh. Ca dao, dân ca từ lâu đã
được Khoa Nghiên cứu văn học dân gian soi sáng, phân tích dưới nhiều góc
độ: Chủ đề, tư tưởng, đề tài, ngôn ngữ… Có những luận văn, đề tài đã nghiên
cứu dân ca nói chung và dân ca các dân tộc thiểu số nói riêng, song đề tài
nghiên cứu về Soọng cô của người Sán Dìu gần như không có. Gần đây, Sở
Văn hóa, Thông tin và Thể thao tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên cũng có Đề
tài Bảo tồn hát Soọng cô của dân tộc Sán Dìu với mục đích: sưu tầm lời kể
của nghệ nhân, chọn người để luyện tập các điệu hát Soọng cô nhằm phát huy
những giá trị văn hóa phi vật thể của người dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên;
đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên nhằm tìm hiểu nội dung và thi pháp
Hát dân ca giao duyên Soọng cô của người dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang….
Như vậy, công tác sưu tầm, nghiên cứu về Soọng cô còn rất khiêm tốn. Trong
các đề tài nghiên cứu chưa khám phá hết giá trị của loại hình dân ca này
nhưng các công trình nghiên cứu trên là những gợi mở, là tiền đề khoa học có
giá trị cho việc nghiên cứu đề tài luận văn của chúng tôi.
Hát Soọng cô là một loại hình sinh hoạt văn hóa tập thể của đồng bào
dân tộc Sán Dìu ở hai tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang nên những điệu hát
được lưu truyền ở nhiều xóm bản đã trở thành nét sinh hoạt văn hóa độc đáo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Dù đã được biết đến nhưng hát Soọng cô vẫn chưa được nhiều người quan
tâm nghiên cứu. Do vậy, việc tìm hiểu về hát Soọng cô là việc làm thiết thực
nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của đồng bào các dân tộc
thiểu số nói chung và dân tộc Sán Dìu nói riêng.
Hát đối đáp nam nữ với những lời thơ trữ tình, giàu tính dân tộc, là
một phần chủ yếu, nếu không nói là quan trọng nhất trong kho tàng thơ ca
dân gian của người Sán Dìu. Soọng cô, một lối hát giao duyên giữa nam nữ
bằng thơ, cũng tương tự Sli, lượn của người Tày, Nùng. Thanh niên nam nữ
từ tuổi 18 đều biết hát khá thành thạo các làn điệu và bài bản soọng cô. Từ
khi đầu còn để chỏm (12-13 tuổi), họ đã theo anh, theo chị tập dượt cho quen.
Một số bài được ghi lại rồi nhân thành nhiều bản trao tay nhau học. Những
bài bản cứ sai khác mãi, vì khi sao chép người ta tuỳ tiện thêm bớt, cho nên
có rất nhiều dị bản. Song cái hấp dẫn, cái sống động lại không phải ở bài bản
được cố định thành văn, mà là ở những lời thơ của người hát tự ứng tác cho
hợp cảnh, hợp người. Cái đó mới là cái vốn vô tận của Soọng cô. [2, tr 136].
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát loại hình hát Soọng cô, nghiên cứu về mặt giá trị nội dung
nghệ thuật của loại hình dân ca này.
Qua việc nghiên cứu góp phần gìn giữ, bảo tồn và phát huy nét đặc sắc
văn hóa của đồng bào dân tộc Sán Dìu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên
cứu của Luận văn là: Khái niệm chung nhất về thơ ca dân gian. Từ khái niệm
ấy đối chiếu vào các lời ca trong kho tàng dân ca Sán Dìu tìm hiểu đặc điểm,
giá trị nội dung nghệ thuật của Soọng cô.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Trên cơ sở những phân tích những lời hát Soọng cô mà kết quả khảo sát
mang lại, chỉ ra nét độc đáo về nội dung và nghệ thuật của các làn điệu dân ca
Soọng cô của dân tộc Sán Dìu ở Tuyên Quang và Thái Nguyên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Khảo sát các làng hát dân ca Sán Dìu ở hai tỉnh Thái Nguyên và
Tuyên Quang.
- Tiếp xúc, phỏng vấn sâu một số nghệ nhân tiêu biểu xuất sắc ở cả hai
địa phương Thái Nguyên và Tuyên Quang.
- Tìm hiểu hình thức diễn xướng Soọng cô trong đời sống đồng bào dân
tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu tiến hành xem xét, thống kê, nghiên cứu trên cơ sở các
lời dân ca Sán Dìu được sưu tầm và biên dịch trong cuốn sách: Dân ca Sán
Dìu của Diệp Trung Bình, Nhà Xuất bản Dân tộc; Dân tộc Sán Dìu ở Bắc
Giang, Nhà Xuất bản Văn hoá dân tộc; Đề tài nghiên cứu khoa học Bảo tồn
hát Soọng cô dân tộc Sán Dìu của hai tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang.
Đồng thời trong quá trình triển khai đề tài sẽ bổ sung thêm các lời dân ca được
sưu tầm trong quá trình khảo sát, điền dã ở cả hai địa phương Thái Nguyên và
Tuyên Quang.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Ở đề tài này, chúng tôi kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
khác nhau. Trong đó gồm một số phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp khảo sát thống kê;
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành.
- Phương pháp phân tích tổng hợp so sánh.
- Phương pháp điền dã.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Trong thời gian đi điền dã, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt
tình của một đồng nghiệp là Chu Đức Anh, là người dân tộc Sán Dìu ở xã
Nam Hoà, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên nhiệt tình giúp đỡ, và cũng là
người rất am hiểu phong tục tập quán của người dân bản địa. Nhờ đó mà
chúng tôi hiểu được rõ hơn về ngôn ngữ, văn hoá dân tộc Sán Dìu. Mặc dù
vậy, quá trình nghiên cứu người viết có lúc lúc gặp phải sự thiếu hợp tác của
các nghệ nhân, song với khả năng của mình, người nghiên cứu đã cố gắng tìm
hiểu và tiếp cận với họ một cách có kết quả.
6. Những đóng góp của Luận văn
Hoàn thành đề tài, Luận văn hy vọng sẽ chỉ ra được một cách có hệ
thống giá trị nội dung nghệ thuật, bảo tồn và phát huy dân ca dân tộc Sán Dìu.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn chia thành ba chương viết:
- Chương I: Khái quát về người Sán Dìu ở Thái Nguyên, Tuyên Quang
và loại hình hát Soọng cô.
- Chương II: Khảo sát vùng hát và các nghệ nhân.
- Chương III: Giá trị nội dung, nghệ thuật và bảo tồn, phát huy Soọng
cô của người Sán Dìu ở Tuyên Quang và Thái Nguyên.
Tài liệu tham khảo.
Phần phụ lục của Luận văn có một số hình ảnh các làng hát, nghệ
nhân, bản đồ minh họa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
NỘI DUNG
Chƣơng I
KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI SÁN DÌU Ở THÁI NGUYÊN,
TUYÊN QUANG VÀ LOẠI HÌNH HÁT SOỌNG CÔ
1.1. Đặc điểm lịch sử xã hội của ngƣời Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang
1.1.1. Khái quát về người Sán Dìu ở Việt Nam
Dân tộc Sán Dìu theo âm Hán Việt là Sơn Dao (Sán là Sơn, Dìu là Dao)
còn có một số tên gọi khác là: Trại, Trại Đất, Mán quần cộc, Mán váy xẻ, San
Déo Nhín. Theo các cụ già người Sán Dìu ở Tuyên Quang kể thì Sán Dìu là
tộc người nhỏ, quê tổ xa xưa ở Quảng Đông (Trung Quốc). Cuối thế kỷ XVII
đầu thế kỷ XVIII, do không chịu nổi sự áp bức bóc lột tàn bạo của nhà Minh
và nhà Thanh, người Sán Dìu phải dời quê cha đất tổ, tìm đường sang các
nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam để sinh sống. Đồng bào đã lập làng
cư trú ở nhiêu nơi trên đất nước Việt Nam như Quảng Ninh, Bắc Giang, Thái
Nguyên, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang.
1.1.2. Quá trình thiên di của người Sán Dìu đến Thái Nguyên, Tuyên Quang
Thành phố Thái Nguyên nằm trên Quốc lộ số 3 (Hà Nội - Cao Bằng).
Đường sắt từ đây nối liền với hệ thống đường sắt của cả nước. Thành phố Thái
Nguyên cách trung tâm Hà Nội là 80km. Theo thống kê, Thái Nguyên là tỉnh
có nhiều người Sán Dìu nhất trong cả nước: chiếm 29,59%, đứng thứ 4 (Kinh,
Tày, Nùng, Sán Dìu) trong số 9 dân tộc của tỉnh. Người Sán Dìu phân bố ở các
vùng bán sơn địa, nhiều nhất là ở huyện Đồng Hỷ: 40,8%; Phổ Yên 21,7%;
Phú Lương 12,%, thành phố Thái Nguyên chiếm 9,2%. Xã có đông người Sán
Dìu nhất của huyện Đồng Hỷ là Nam Hoà: 61,6%. Hiện nay, Thái Nguyên là
tỉnh có đông người Sán Dìu nhất ở nước ta (29,59%). Năm 1999 với 37.365
người (3,57%) họ đứng ở vị trí thứ 4 trong các dân tộc của tỉnh và có mặt ở tất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
cả các huyện, thị xã thành phố của Thái Nguyên. Người Sán Dìu phân bố chủ
yếu ở vùng bán sơn địa, đông nhất là huyện Đồng Hỷ (40,8%), tiếp đến là: Phổ
Yên (21,8%) Phú Lương (12,2%), thành phố Thái Nguyên (9,2%) và ít nhất là
huyện Định Hoá (0,09%). Năm 1960 người Sán Dìu có mặt ở 63/162 xã,
phường của tỉnh, trong đó huyện Đại Từ có 22 xã, huyện Đồng Hỷ có 21 xã,
còn hai huyện: Định Hoá và Võ Nhai không có xã nào có người Sán Dìu cư trú.
Người Sán Dìu đã có mặt ở 154/180 xã phường của Thái Nguyên, dân
số Sán Dìu trong mỗi xã cũng vẫn chiếm tỷ lệ thấp, có 151/154 xã chiếm tỷ
lệ từ 0,01 đến 40%, còn lại 3 xã có tỷ lệ trên 40% là Nam Hoà (61,6%), Tân
Lợi (42,5%) huyện Đồng Hỷ và Bàn Đạt (41,3%) huyện Phú Bình. Ở Thái
Nguyên, bản người Sán Dìu thường được lập dưới chân các đồi núi, gần các
con sông, cánh rừng. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, người Sán Dìu ở
Thái Nguyên đã chắp cánh bên nhau, cùng chống chọi với thiên nhiên khắc
nghiệt, biến những mảnh đất khô cằn thành những cánh đồng màu mỡ và từ
trong cuộc sống vất vả lam lũ, Soọng cô đã trở thành một món ăn tinh thần,
gắn bó máu thịt với họ.[13]
Còn ở Tuyên Quang, khác với các dân tộc Tày, Dao, Cao Lan là những
dân tộc có số đông trong tỉnh, dân tộc Sán Dìu có rất ít. Theo kết quả điều tra
ngày 1/4/2009, tỉnh Tuyên Quang có 727.505 người. Trong đó dân số trong
độ tuổi lao động là 377.314 người, chiếm 55,80% dân số toàn tỉnh. Trên địa
bàn tỉnh có 23 dân tộc cùng sinh sống. Ðông nhất là dân tộc Kinh có 326.033
người, chiếm 48,21%; các dân tộc thiểu số như dân tộc Tày có 172.136 người,
chiếm 25,45%; dân tộc Dao có 77.015 người, chiếm 11,38%; dân tộc Sán
Chay có 54.095 người, chiếm 8,0%; dân tộc Mông có 14.658 người, chiếm
2,16%; dân tộc Nùng có 12.891 người, chiếm 1,90%; dân tộc Sán Dìu có
11.007 người, chiếm 1,62%; các dân tộc khác chiếm 1,28%. Nếu một số dân
tộc cư trú ở nhiều nơi khác trong tỉnh thì đồng bào Sán Dìu chỉ cư trú tập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
trung ở ba xã của huyện Sơn Dưong là Ninh Lai, Thiện Kế và Sơn Nam. Đây
là vùng đất bán sơn địa ở phía Tây chân dãy núi Tam Đảo, có nhiều đồi thấp,
nhiều sỏi đá, ít ruộng. Đồng bào cư trú xen kẽ theo xóm với các dân tộc Tày,
Kinh, Dao, Cao Lan.
Năm 1999, dân tộc Sán Dìu mới chỉ có khoảng 8,4 vạn người. Đến năm
2011 là khoảng 14 vạn người.
1.1.3. Đời sống và quan hệ xã hội, bản làng và gia đình của người Sán Dìu
ở Thái Nguyên, Tuyên Quang
Dân tộc Sán Dìu sinh sống tập trung ở trung du Bắc Bộ, trong vùng từ
tả ngạn sông Hồng đổ về phía đông. Làng xóm của họ tựa như làng người
Kinh, có luỹ tre bao bọc và giữa các nhà thường có tường hay hàng rào. Nghề
sống chính của người Sán Dìu là sản xuất nông nghiệp. Cũng như bao người
nông dân Việt Nam khác, đồng ruộng, làng xóm đối với họ là vô giá. Những
thế hệ trước đã truyền cho thế hệ sau lời khuyên: Buôn đông bán tây không
bằng cày góc ruộng (Mai tông, mai slay mạo cộ số thén coóc).
Bộ y phục truyền thống của phụ nữ gồm khăn đen, áo dài (đơn hoặc
kép), nếu là áo kép thì bao giờ chiếc bên trong cũng màu trắng còn chiếc bên
ngoài màu chàm, dài hơn một chút; yếm màu đỏ; thắt lưng màu trắng, hồng,
hay xanh lơ; váy là hai mảnh rời cùng chung một cạp; xà cạp màu trắng. Đặc
biệt nổi bật ở trang phục phụ nữ Sán Dìu là chiếc khăn thắt eo lưng và xà tích.
Thắt lưng thường có bốn màu: xanh, đỏ, tím, vàng, mỗi cái dài khoảng 1,2-
1,5cm, rộng: từ 20-30cm được làm bằng vải mỏng, 2 đầu làm tua rủ. Xà tích
là một chiếc túi đựng trầu thường buộc quanh thắt lưng để đựng các têm trầu.
Nam giới có trang phục đơn giản hơn, không cầu kỳ như phụ nữ. Áo
chàm có cổ đứng, quần ống chân què, cặp chun. Trang phục thì cả nam nữ
người Sán Dìu đều đi dép cao su hoặc chân đất, chân thường quấn xà cạp cao
khoảng 40cm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Trong hôn nhân, nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu, tuy nhiên
quyết định là do bố mẹ và khi lấy nhau phải xem tuổi có hợp thì mới được.
Gia đình người Sán Dìu là gia đình nhỏ phụ quyền. Trong gia đình, người cha
hoặc người chồng làm trụ cột, có quyền quyết định mọi việc và chỉ có con trai
mới được thừa hưởng gia tài cha để lại. Khi phân chia tài sản, người con trai
cả ở với bố mẹ mới được thừa hưởng ngôi nhà và chiếc chảo nấu cháo. Đàn
ông là người chịu trách nhiệm chính trong việc chăm lo kinh tế gia đình.
Trong xã hội truyền thống, do bị ảnh hưỏng lớn của tư tưởng Khổng giáo nên
người Sán Dìu cũng tồn tại tư tưởng trọng nam khinh nữ.
Người Sán Dìu có nhiều họ: Bàng, Đặng, Thăng, Dương, Hoàng, Diệp,
Ninh, Trương, Lê, Ân, Trần… Trong một làng người Sán Dìu phần lớn là anh
em họ hàng với nhau. Tuy có nhiều dòng họ, nhưng ở bất kỳ đâu, khi họ gặp
nhau, nhận ra nhau cùng là người Sán Dìu thì thường nói với nhau: Sán Déo
loỏng si với dụng ý: Người Sán Dìu ít ỏi, cần phải yêu thương, đùm bọc nhau.
Tuy nhiên, trong cuộc sống họ có tinh thần tương thân, tương ái cao không
chỉ trong tộc người mà với cả các dân tộc khác cùng sinh sống.
1.2. Đặc điểm văn hoá truyền thống của ngƣời Sán Dìu ở Thái Nguyên và
Tuyên Quang
1.2.1. Chữ viết của người Sán Dìu
Hiện nay người Sán Dìu ở một số tỉnh thuộc vùng Đông Bắc, Tây Bắc
của nước ta vẫn còn sử dụng chữ viết của dân tộc mình. Chữ viết thường được
lưu truyền ở những gia đình thầy cúng, thầy địa lý. Nơi nào có thầy cúng, thầy
địa lý người Sán Dìu, nơi đó còn chữ viết của người Sán Dìu.
Theo giới nghiên cứu ngôn ngữ học, dân tộc học, ngôn ngữ của người
Sán Dìu thuộc ngữ hệ Hán - Tạng, nhóm Hán ngữ. Như vậy, tiếng nói mang
âm hưởng, ngữ nghĩa Hán và chữ viết cũng xuất phát từ chữ Hán. Họ dựa vào
chữ Hán để tạo ra chữ Hán - Nôm Sán Dìu giống như kiểu tạo ra Hán - Nôm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Tày, Hán - Nôm Cao Lan, Nôm Dao, Nôm Sán Chỉ Các bài cúng của các
dân tộc: Sán Dìu, Cao Lan, Dao, Sán Chỉ, Hoa tương đối giống nhau về ý
nghĩa và phần chữ viết cũng gần giống nhau, chỉ khác ở phần phát âm theo
tiếng riêng của mỗi dân tộc và mỗi thời điểm cúng, nội dung cúng [10].
Chữ Hán - Nôm Sán Dìu trên nguyên tác không khác gì cách ghép âm
và nghĩa theo kiểu Nôm Việt, Nôm Tày, Nôm Cao Lan Thực tế, người Sán
Dìu dùng khoảng 60 - 70% chữ Hán cổ trong một văn bản hoặc sách cúng,
đọc theo cách phát âm tiếng của dân tộc mình. Còn lại những từ thiếu biểu
âm, biểu nghĩa, họ dùng cách ghép phần âm và phần nghĩa thành chữ Nôm
của họ. Ví dụ chữ “sệch” nghĩa là “ăn”. Trong chữ Hán không có chữ “sệch”,
nên được ghép bộ “khẩu” là cái mồm với chữ “đích” biểu âm thành chữ
“sệch”, cũng có khi họ dùng nguyên chữ “thực” của chữ Hán có nghĩa là
“ăn” mà đọc là “sệch”. Hay chữ “sộ” nghĩa là “ngồi”, được ghép từ chữ “thổ”
và chữ “nhân đứng” được đọc là “sộ”. Còn đại đa số họ dùng chữ Hán cổ
nguyên nghĩa nhưng đọc theo âm của tiếng Sán Dìu.
Hệ thống chữ Nôm Sán Dìu đủ khả năng ký âm chuyển tải thông tin
cho hệ thống tiếng nói của họ. Nó thể hiện trong bộ sách cúng, hát đối (Soọng
cô), thậm chí thể hiện trong thư từ gửi cho người thân trao đổi tình hình khi ở
xa cách nhau lâu ngày. Qua đó cho thấy năng lực sử dụng ngôn ngữ với chữ
viết Nôm Sán Dìu của các thầy cúng cùng đồ đệ của họ đạt ở trình độ cao.
Cùng với chữ Nôm, người Sán Dìu đồng thời dùng hệ thống chữ cái La
tinh để phiên âm, ký âm tiếng nói của mình. Người Sán Dìu đã sử dụng hệ
thống chữ cái La tinh để phiên âm và phát triển rộng trong việc lưu truyền các
bài hát đối, truyện kể, truyền thuyết, bài thuốc dân gian
Mặc dù người Sán Dìu không có chữ viết riêng nguyên gốc; chữ viết
của họ được tạo ra từ chữ Hán cổ, thành chữ Hán - Nôm Sán Dìu và được
phiên âm bằng chữ cái La tinh để dễ đọc, song người Sán Dìu từ xưa đến nay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
đều có ý thức giữ gìn, lưu truyền, phổ biến chữ viết dân tộc mình để thế hệ
sau kế tiếp bảo tồn, phát huy di sản văn hóa chữ viết của thế hệ trước.
Trong chuyến đi thực tế vừa qua, được tiếp xúc với người Sán Dìu,
chúng tôi cũng tiếp cận được một số tài liệu chữ Hán như sách Hợp hôn thư,
sách thuốc, sách cúng, sách xem số tử vi… Qua tìm hiểu chúng tôi thấy,
người Sán Dìu cũng sử dụng song ngữ. Ngoài tiếng mẹ đẻ, dân tộc này cũng
sử dụng tiếng Việt để giao tiếp với các dân tộc xung quanh.
1.2.2. Tôn giáo, tín ngưỡng của người Sán Dìu ở Thái Nguyên, Tuyên Quang
Văn hoá phi vật thể của người Sán Dìu rất phong phú và đa dạng bao
gồm: phong tục tập quán, tín ngưỡng. Người Sán Dìu quan niệm thế giới có
nhiều thần linh và nhiều loại ma (cúi). Có hai loại ma: loại ma lành (hén cúi)
luôn giúp đỡ con ngưòi và loại ma dữ (thôộc cúi) chuyên hại người như ma
sấm sét, ma gà. Trong mỗi xóm, đồng bào đều lập miếu thờ thổ thần, lập đình
thờ Thành hoàng làng. Trước Tết Nguyên đán, đồng bào có các lễ cúng
Thượng điền, Hạ điền, thờ Tổ sư, Thành hoàng, thờ Mụ, cúng Táo quân, cúng
Thổ địa, thần Nông. Đồng bào Sán Dìu còn có Lễ Đại phan, một nghi lễ tôn
giáo để cấp sắc, duy trì việc cúng tế của thầy cúng, đồng thời để trừ tà ma; Lễ
cầu yên để cầu an cho mọi người, mọi nhà và cho thôn làng. Các lễ này được
cả cộng đồng tham gia và tự nguyện đóng góp tiền của, vật chất.
Ngoài ra, đồng bào Sán Dìu còn chịu ảnh hưởng của Tam giáo. Một số
gia đình còn thờ Phật bà Quan âm, Thái Thượng, thờ Thánh.
1.3. Một số loại hình văn nghệ dân gian truyền thống của ngƣời Sán Dìu
ở Thái Nguyên, Tuyên Quang
Vốn VHDG dân tộc Sán Dìu rất đặc sắc và phong phú bao gồm:
Truyện được chép thành sách bằng chữ Hán như Tảo An, Đổng Vinh,
Duyên Tiên, Văn Giáng, Khuyến Thế Văn, Thành Nhữ Khảo, Tăng Quảng,
Vũ Nhi, Vua Cóc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Dạng thứ hai do nhân dân sáng tác và được truyền miệng qua nhiều thế
hệ. Nội dung truyện kể phong phú, phản ánh quan niệm về nguồn gốc vũ trụ,
loài người, quá trình lao động sản xuất, chinh phục thiên nhiên, quan hệ xã hội,
đề cao truyền thống đạo lý, biết ơn tổ tiên, kính trọng hiếu thảo với cha mẹ.
Về truyện kể: Ngoài các loại thơ ca, dân tộc Sán Dìu còn có những
truyện kể mang tính chất huyền thoại. Nội dung các cốt truyện đều phản ánh
cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, cái tốt và cái xấu, giữa người giàu
và người nghèo. Kết cục câu chuyện thường nói lên nguyện vọng của quần
chúng nhân dân. Đó là những người nghèo, cái thiện và cái tốt bao giờ cũng
chiến thắng.
Cũng giống như nhiều truyện côt tích của các dân tộc Kinh, Tày, Nùng,
Dao, trong cộng đồng người Sán Dìu cũng lưu truyền những câu chuyện nhằm
răn dạy con người sống tình nghĩa, tránh xa cái xấu, cái độc ác. Và truyện Vua
Cóc của dân tộc Sán Dìu là một ví dụ. Một câu chuyện có tính chất huyền thoại
đã được người Sán Dìu lưu truyền từ đời này sang đời khác nhằm chê bai sự
dối trá và khuyên răn con người nên ăn ở có đức hạnh, chỉ làm việc thiện,
không làm điều ác thì đời sau con cháu sẽ được hưởng phúc lành.
Truyện kể rằng: Có một người họ Trương làm quan tri huyện, thụ ở Trân
Châu kết hôn với một người có tên là Nàng Ba ở cùng huyện. Vợ chồng lấy
nhau trên 10 năm mà chưa có con nên hằng ngày hai ông bà chú tâm làm việc
thiện và chăm chỉ thắp hương cầu Phật. Sau ba năm ba tháng thì người vợ có
thai và sinh ra một con cóc. Nàng Ba cho là điềm quái gở định đánh chết cóc
nhưng khi nghĩ lại thì thấy không đành tâm. Cóc thường ở sau vườn, khi đói lại
trở về bú mẹ.
Sau một thời gian dài đi làm quan, quan tri huyện trở về thăm vợ và
cũng là để được xem mặt con. Nàng Ba dẫn chồng ra vườn, con cóc nhảy lên
người khiến ông sợ hãi. Hai vợ chồng mang nặng một nỗi sầu…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Khi trong nước loạn lạc, vua treo bảng ở triều đình báo loạn và tìm
người diệt giặc Man Di giữ nền thái bình cho đất nước. Một hôm Cóc cùng cha
ra ngoài phố, thấy bảng vua treo trước cửa triều đình liền nhảy lên ngậm bảng
mang về. Thấy vậy, hai vợ chồng rất hoang mang bèn gọi cóc ra mắng: Không
phải là người sao dám làm việc đó. Nếu không dẹp được loạn sẽ mắc tội với
triều đình. Cóc bày tỏ lòng mình và quyết tâm xin đi đánh giặc. Vua cho thẩm
vấn người lĩnh bảng. Sau ba ngày tướng sĩ trong triều nổi chiêng trống nghênh
đón người lĩnh bảng đến Man Man. Tới triều đình, bị tướng quân mắng, Cóc
liền nhảy đến trước mặt vua xin được đi đánh giặc. Cóc chỉ xin vua cho một
con ngựa lớn, một lá cờ hồng, hai chiếc côn dài và 100 quân. Sau đó Cóc nhảy
lên lưng ngựa phóng đi. Tới đất Man Man, Cóc ở trên lưng ngựa cao giọng
quát quân Man Di. Quân Man Di rất coi thường Cóc sai quân tướng bắt cóc lột
da. Cóc ngồi trên mình ngựa đầu bốc lửa, lá cờ phần phật tung bay phát ra lửa
khói thiêu trụi quân Man Di.
Dẹp xong giặc Man Di, Cóc trở lại đất đế vương trình tấu công trạng với
vua. Vua ban cho ba trăm gánh bạc để Cóc trở nuôi mẹ nhưng Cóc không
nhận. Cóc trình với vua rằng, trước khi đi dẹp giặc Man Di, vua đã nói sẽ gả
công chúa cho ai dẹp được loạn nay phải giữ lời hứa của mình. Vua không
muốn gả con gái cho chàng Cóc liền nghĩ ra một kế để trì hoãn. Nhà vua cho
gọi ba nghìn cô gái ăn mặc giống hệt nhau đến để nhận vợ. Đến canh ba,
chàng Cóc được thần linh báo mộng rằng công chúa là cô gái thứ sáu. Tối
đến, khi hai vợ chồng lên giường ngủ, trong lòng công chúa lo lắng lạ lùng.
Cho tới canh năm, khi mở mắt ra, công chúa thấy tấm da cóc bị trút bỏ, bên
mình là một bậc quan lang. Trời vừa sáng, công chúa vội trở về báo với vua
cha rằng chàng Cóc thực là đấng trai tài, bậc quân nhân và trình lên vua cha
tấm da cóc vàng. Vua thấy tấm da cóc vàng đẹp đẽ liền mặc vào song không
thể nào cởi ra được. Các quan trong triều thấy quái tinh liền đem đao kiếm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
giết chết cóc và chàng Cóc được lên làm vua. Nhân dân trăm họ từ đây được
hưởng thái bình.
Cũng còn có một dị bản khác nói về vua Cóc, dị bản này gắn liền với
tộc người Sán Dìu. Có một số chi tiết khác đó là: bố mẹ chàng Cóc là nông
dân, họ lấy nhau hai mươi năm rồi chưa có con. Sau sinh ra một con cóc. Diễn
biến tiếp theo như câu chuyện trên song kết thúc có sự khác biệt: Tên vua
tham tàn nhìn thấy tấm da cóc đẹp tựa cẩm bào liền khoác thử tấm da đó vào
người. Trong nháy mắt vua đã biến thành con cóc xấu xí. Thấy vua cóc như
vậy, nhiều người định chém chết nhưng công chúa thương cha đã đem cóc
quẳng vào gậm giường. Thoát chết nhưng từ đó mỗi khi trái nắng trở trời, vua
cóc phải nghiến răng kèn kẹt để báo cho thiên hạ biết rằng sắp có mưa, có gió
[53, tr. 15 - 19].
Ngoài ra, truyện kể của dân tộc Sán Dìu có một quyển truyện thơ
nguyên bản chữ Hán có tên là Vũ Nhi thư cộng đồng thiềm thừ vương (chuyện
kể về Vũ Nhi). Đây là truyện thơ nguyên bản chữ Hán dài hơn 800 câu, mỗi
câu có 7 chữ. Truyện Vũ Nhi nói về cảnh dì ghẻ, con chồng, sự độc ác dã man
của người dì ghẻ. Tuy nhiên, truyện thơ này cũng cho biết thêm về sự hình
thành một gia đình, một dòng tộc. Cốt truyện đã nhiều lần nhắc tới các địa
danh như Tân Châu, Lịch Sơn, hà Nam đêu là những địa danh Trung quốc
ngày nay. Mở đầu tập truyện thơ có đoạn nói rằng:
Từ ngày Bàn Cổ chia rời đất
Triều đinh phân chia việc vua tôi
Gia đình trú ở huyện Tân Châu
Họ Vũ sống ở ngõ Đại Bình
Lấy vợ làm dâu nhà họ Trương
Chèo thuyền đi tới đất Hà Nam
Đi tới Tân Châu nơi đất tổ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
[Ngô Xuân Trụ, Nguyễn Xuân Cần, 53, tr. 14]
Nội dung truyện thơ Vũ Nhi thư cộng đồng thiềm thù vương như sau:
Có một gia đình họ Vũ ở huyện Tân Châu lấy một người họ Trương được
mười lăm tháng thì sinh ra một cháu bé đặt tên là Vũ Nhi. Khi Vũ Nhi lên 9
tuổi thì mẹ bị bệnh nặng và qua đời. Cha Vũ Nhi lấy người vợ kế họ Dương
để lo việc nhà. Người mẹ kế này lòng đầy ác tâm, đã đánh đập Vũ Nhi thật cơ
cực. Vũ Nhi không được ăn no mặc ấm lại phải trông một lũ em. Một hôm
cha Vũ Nhi có việc phải đi xa, mẹ ghẻ liền nghĩ kế đày Vũ Nhi. Dì ghẻ sai Vũ
Nhi trèo lên cây lấy quất. Lấy được quả rồi, dì ghẻ cho người gánh quả đi và
lấy dây quấn quanh gốc cây. Khi Vũ Nhi xuống được thì bị gai cào chảy máu
đầy người. Hàng xóm nhìn thấy đều lấy làm kinh sợ vì sự ác tâm của người dì
ghẻ và thay nhau thuốc thang cho Vũ Nhi. Lần thứ hai dì ghẻ lại sai Vũ Nhi
xuống nhà kho lấy thóc rồi châm lửa đốt nhà kho nhằm thiêu cháy Vũ Nhi.
Vũ Nhi bèn vái lạy trời đất. Bỗng nhiên mưa gió đổ về dập tắt ngay ngọn lửa
hung tàn. Lần thứ ba dì ghẻ sát hại Vũ Nhi rồi đem chôn ở cách đó năm dặm.
Ngọc Hoàng liền sai tôn y tiên nhân xuống cứu Vũ Nhi. Một lần khác, dì ghẻ
lại sai Vũ Nhi đi gánh nước ở một giếng cổ sau vườn về tắm. Khi đi gánh
nước, dì ghẻ nói rằng có 35 quan tiền ở dưới giếng và sai Vũ Nhi xuống đó
vót lên. vừa xuống dưới giếng, dì ghẻ liền vần đá lấp giếng.Vũ Nhi lại vái lạy
trời đất à được thổ địa sai năm con rồng xuống cứu Vũ Nhi thoát chết.
Thấy dã tâm độc ác của dì ghẻ, đêm hôm đó Vũ Nhi đi lang thang xin
ăn rồi được nhận vào làm người ở cho nhà phú ông. Hằng ngày, Vũ Nhi đi
chăn trâu và eo lần đã lên tới tận Hồ Nam. Thấy nơi đây đất đai phì nhiêu
nhưng lại bị bỏ hoang không có người cày cấy liền về xin với phú ông ở hết
ba năm rồi bái biệt để về Lịch Sơn làm ruộng. Hằng ngày, Vũ Nhi làm việc
chăm chỉ và lại được sơn thần, thổ địa đến giúp sức nên thóc lúa đầy kho.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Một hôm, nghĩ đến người cha cao tuổi không biết sống chết ra sao Vũ
Nhi bèn quyết định về quê cha đất tổ. Thấy Tân Châu gặp hạn không có lúa
gạo, Vũ Nhi lại trở về Lịch Sơn xay lúa gạo rồi thuê thuyền mang về Tân
Châu bán để dò la tin tức gia đình. Mụ dì ghẻ cũng tới mua gạo liền được Vũ
Nhi cấp cho mà không lấy tiền. Về nhà, dì nói lại với cha Vũ Nhi chuyện đó.
Người cha sinh nghi bèn bảo em dắt đến nơi có người bán gạo để xem sự tình.
Đến nơi, cha con gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Thấy cha bị đau mắt,
Vũ Nhi mua thuốc về chữa khỏi cho cha. Vũ Nhi lại đưa cha và em trở lại
Lịch Sơn Dì ghẻ khóc lóc xin được đi cùng nhưng Vũ Nhi không cho đi theo
mà chỉ cấp cho lương thực để ăn.
Khi ấy vua Vĩnh Hoàng có bệnh nặng liền treo bảng ở Ngũ triều môn
tìm ngự y trị bệnh. Bảng treo đã nhiều ngày mà không có người đến chữa trị.
Vua mất đi mà không có người thay để trị vì thiên hạ. Lúc đó một quẻ bói cho
hay rằng, trong đất Lịch Sơn có một ông vua "thân cao chín tấc, vai năm
thước,, liền cho chúng thần mang xe ngựa, trống dong cờ mở đến đón vua về.
Khi đoàn tới đất Lịch Sơn, Vũ Nhi nhìn thấy đâm lo sợ tưởng rằng số người
này đến chiếm đất của mình. Lúc đó quan quân trình bày sự việc rằng nếu
không có người lên làm chủ nước thì loạn lạc khắp nơi rồi bái lạy và mời Vũ
Nhi lên trị vì thiên hạ. Sau khi lên làm vua, di ghẻ được Vũ Nhi mời vào chơi
trong cung điện. Không từ bỏ dã tâm độc ác của mình, dì ghẻ lại bày ra kế độc
hòng sát hại Vũ Nhi Trong tiết Thanh Minh, dì ghẻ bảo Vũ Nhi về đắp lại mộ
đường với mưu đó sát hại nhà vua. Nhưng trời không dung túng cho kẻ ác đã
sai thần Sấm xuống trần gian và Ngũ Lôi đã đánh chết người dì ghẻ độc ác.
[53, tr. 151- l54]. Qua câu chuyện này có thể thấy rằng, nội dung của truyện
nhằm răn dạy đạo đức cho các thành viên trong cộng đồng. Cái thiện bao giờ
cũng chiến thắng, và tội ác phải bị trừng phạt. Ngoài ra, trong loại hình văn
hoá của người Sán Dìu còn có một thể loại nữa là đố chữ. Đây cũng chính là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
một nội dung khá độc đáo, mang tính chất văn hoá đặc sắc trong sinh hoạt văn
hoá dân gian của người Sán Dìu. Chẳng hạn đố chữ Hương:
Thiên tự vô thành thiên
Bát tự bài lưỡng biên
Nhật hữu tại hoà hạ
Quái tại phật diên tiền
Dịch:
Chữ Thiên không phải thiên
Chữ bát bày hai bên
Nhật có ở dưới thóc
Quẻ ở trước mặt phật
Hoặc đố câu: Phúc như đông hải
Nhất nhân nhất khẩu tại điền điện
Nhị nhân điền biên nhất thành ngân
Đại mật đả đòng điền trung quá
Nữ mẫu trú tại giang thủy tiên
Dịch:
Một người một miệng trên mặt ruộng
Hai người bên đồng chẳng thành dải
Cây to đem đánh qua trong ruộng
Mẹ con ở lại bên sông nước
[ 53, tr.155 và l57]
Ngoài đố chữ /trong cộng đồng người Sán Dìu còn lưu truyền những
câu tục ngữ. Tục ngữ của người Sán Dìu cũng phản ánh mọi mặt của đời sống
xã hội và khái quát cô đọng bản chất của các sự vật, hiện tượng. Nói về nội
dung và hình thức: Đẹp vỏ không bằng đẹp ruột; sự nôn nóng: Chưa có cánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
đã muốn bay; nói về ước muốn hạnh phúc: Trẻ muốn đẹp, già muốn no; sự
thông cảm: Gánh nặng mới biết trâu khó nhọc; về ơn đức sinh thành: Sinh
con mới biết cha mẹ khú/ Nuôi on mới biết cụng ơn của bố mẹ; nói về sự đổi
thay: Lòng người như dòng nước chảy; nói về sự ngẫm nghĩ, nhận xét: Sự
việc ở đời như lá cây trên rừng”.
1.4. Hát Soọng cô của ngƣời Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên
Quang
1.4.1. Hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Việt Nam và các truyền thuyết về
Soọng cô
1.4.1.1. Các truyền thuyết về hát Soọng cô
Ở đời thượng cổ, tổ tiên ta không có chữ, không thấy có di tích gì
truyền lại. Đến thời Bắc thuộc, ta bắt đầu học chữ Hán, nhưng trình độ học
tập đương còn thấp kém cho nên bây giờ cũng chưa có tác phẩm gì truyền lại
cho đời sau. Song những câu tục ngữ ca dao là văn chương truyền khẩu lưu
hành ở chốn dân gian thì xuất hiện từ lâu lắm, ta có thể nói rằng ngay từ khi
có tiếng nói thì người ta đã đặt ra những lời có tiết điệu, có vận luật để bày tỏ
tính tình và ghi nhớ kinh nghiệm [1, tr. 272]
Kho tàng văn học dân gian của Việt Nam rất phong phú và đa dạng, để
giữ gìn những truyền thống quý báu của dân tộc, để bảo tồn những kinh
nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất của các thế hệ người Việt Nam một hình
thức văn học dân gian truyền miệng đã ra đời và được truyền lại từ thế hệ này
sang thế hệ khác tại Việt Nam. Văn học dân gian thường ca ngợi tài năng và
lòng dũng cảm của con người trước thiên nhiên khắc nghiệt, trước kẻ thù độc
ác, ca ngợi lòng nhân hậu, độ lượng giúp đỡ nhau, ca ngợi tình yêu trai gái,
tình chung thuỷ vợ chồng, yêu con người, yêu thiên nhiên, yêu làng xóm, quê
hương. Không những thế văn học dân gian Việt Nam còn là vũ khí đấu tranh
chống lại những thói hư tật xấu của con người, chống lại những bất công thối