Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

phân tích về năng lực cạnh tranh của tổng công ty đầu tư và phát triển nhà hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.6 KB, 126 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
CHƯƠNG 1
LÝ THUYẾT CẠNH TRANH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp
Nền kinh tế thị trường được xem là mô hình kinh tế năng động nhất trong tất
cả các mô hình kinh tế, nền kinh tế thị trường mang lại nhiều thành tựu kinh tế
góp phần đáng kể cho sự phát triển văn minh nhân loại. Kinh tế thị trường vận
động dưới sự tác động tổng hợp của các quy luật kinh tế khách quan, trong đó phải
nói đến quy luật cạnh. Quy luật cạnh tranh đòi hỏi các Doanh nghiệp phải tự thích
nghi với những vận động, biến đổi của nền kinh tế để tồn tại và phát triển. Cạnh
tranh đã, đang và sẽ là vấn đề được nhiều tổ chức, cá nhân quan tâm nghiên cứu cả
trên phương diện lý luận và trong thực tiễn xã hội, nhằm tìm ra và vận dụng ngày
càng hiệu quả quy luật này phục vụ cho sự phát triển của mỗi Doanh nghiệp và
mỗi quốc gia.
1.1.1. Khái niệm và phân loại cạnh tranh.
a. Khái niệm cạnh tranh.
Cạnh tranh là một thuật nghữ đã được xã hội loài người nhắc đến từ rất lâu,
song trong những năm gần đây chúng ta thấy thuật nghữ này đuợc nhắc đến nhiều
hơn, đặc biệt là ở Việt Nam. Bởi trong nèn kinh tế mở như hiện nay, khi xu hướng
tự do hóa thương mại ngày càng phổ biến thì cạnh tranh là phương thức để đứng
vững và phát triển của Doanh nghiệp. nhưng trong thực tế “cạnh tranh là gì?” thì
vẫn đang là một khái niệm chưa được thống nhất, các nhà nghiên cứu kinh tế đã đưa
ra các khái niệm về cạnh tranh khác nhau dưới nhiều góc độ khác nhau.
Ví dụ như:
Theo diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và Phát
triển Kinh tế OECD, thì cạnh tranh là “ Cạnh tranh là khả năng các Doanh nghiệp,
ngành, quốc gia và vùng tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh
tranh quốc tế” Định nghĩa trên đã cố gắng kết hợp cả hoạt động cạnh tranh của
Doanh nghiệp, của ngành của quốc gia và vùng lãnh thổ.


Trong khi đó Ủy ban cạnh tranh Công nghiệp của Tổng thống Mỹ đưa ra khái
niệm cạnh tranh đối với một quôc gia là: “Cạnh tranh đối với một quốc gia thể hiện
1
trình độ sản xuất hàng hóa dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường quốc tế,
đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của nhân dân nước đó trong
những điều kiện thị trường tự do và công bang xã hội” trong khái niệm cạnh tranh
này người ta nhấn mạnh đến vai trò của các điều kiện cạnh tranh là “ Tự do và công
bằng xã hội.”
Như vậy, xét trên góc độ vĩ mô các khái niệm về cạnh tranh đều cho thấy mục
tiêu chung của hoạt động cạnh tranh là thỏa mãn tối đa nhu cầu của thị trường trong
nước và quốc tế , tạo thêm việc làm và và thu nhập cao hơn cho nền kinh tế.
Trong khi đó các nhà kinh tế của trường phái cổ điển cho rằng. “ Cạnh tranh là
một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên
thị trường một dư địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần
xứng đáng so với khả năng của mình” Theo quan niệm này cạnh tranh chủ yếu là cạnh
tranh về giá cả, chính vì vậy lý thuyết giá cả gắn chặt với lý thuyết cạnh tranh.
Khi Các - Mác nghiên cứu về cạnh tranh Tư bản chủ nghĩa, Mác đã đưa khái
niệm về cạnh tranh như sau. “ Cạnh tranh tư bản là sự ganh đua, sự đấu tranh gay
gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và
tiêu thụ hàng hóa nhằm thu lợi siêu ngạch.” Như vậy cạnh trạnh là hoạt động của
các Doanh nghiệp trong nền sản xuất hàng hóa với mục đích ganh đua với nhau để
chiếm lĩnh thị trường nhằm mục đích thu lợi nhuận cao.
Nhằm kế thừa những nghiên cứu mang tính khoa học của các tư tưởng, khái
niệm về cạnh tranh trước đây, bài viết luận văn cho rằng để đưa ra một khái niệm
đầy đủ cần chỉ ra được chủ thể cạnh tranh, tính chất, phương thức và mục đích của
quá trình cạnh tranh. Và từ đó chúng ta có thể khái quát. “ Cạnh tranh là một quá
trình kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ( quốc gia, ngành hoặc Doanh nghiệp)
ganh đua với nhau để chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cùng các điều
kiện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có lợi nhất nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận”
Như vậy chúng ta có thể nói về bản chất, cạnh tranh là mối quan hệ giữa

người với người trong việc giải quyết các lợi ích kinh tế. Bản chất kinh tế của cạnh
tranh thể hiện ở mục đích lợi nhuận và quyền chi phối thị trường. Trong khi đó bản
chất xã hội của cạnh tranh được thể hiện đạo đức kinh doanh, uy tín kinh doanh của
mỗi chủ thể cạnh tranh trong quan hệ với những người lao động trực tiếp tạo ra sức
cạnh tranh cho doanh nghiệp và được thể hiện trong mối quan hệ của người tiêu
dùng và đối thủ cạnh tranh khác.
2
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường, nó chịu nhiều
chi phối của quan hệ sản xuất và nó giữ vị trí thống trị trong xã hội, quy luật lưu thông
tiền tệ, quy luật cung cầu, đây là một đặc trưng gắn với bản chất của cạnh tranh. Quy
luật cạnh tranh chỉ ra cách thức làm cho giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, do đó nó
làm giảm giá cả thị trường, nó tạo ra sức ép làm gia tăng hiệu quả sử dụng các yếu tố
xuất, và từ đó nó chỉ ra ai là người sản xuất kinh doanh thành công nhất.
b. Phân loại cạnh tranh.
+ Căn cứ tính chất cạnh tranh trên thị trường.
- Cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất nhiều
người bán và rất nhiều người mua những sản phẩm tương tự, mỗi người bán chỉ
cung ứng một lượng hang rất nhỏ trong toàn bộ tổng cung của thị trường. Họ luôn
bán hết số hàng mà họ mang ra bán với giá cả thị trường. Bất cứ Doanh nghiệp nào
gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường cũng không gây ảnh hưởng tới giá cả thị
trường. Để tối đa hóa lợi nhuận họ chỉ còn có thể tìm mọi cách giảm tối đa chi phí
sản xuất. Trong thị trường này mọi thông tin đều đầy đủ chính xác và không có hiện
tượng cung cầu giả tạo trên thi trường. Khi chi phí cận biên của Doanh nghiệp giảm
xuống bằng với giá cả thị trường Doanh nghiệp sẽ đạt lợi nhuận tối đa.
- Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà ở đó mỗi Doanh
nghiệp đều có sức mạnh thị trường, họ có quyền quyết định giá bán của mình, và
qua đó nó tác động đến giá cả thị trường.
- Cạnh tranh độc quyền, là trên thị trường có nhiều người bán và cũng có
nhiều người mua, sản phẩm của các Doanh nghiệp có thể thay thế cho nhau ở một
mức độ nào đó. Bằng các các biện pháp công nghệ, Doanh nghiệp có thể thay đổi

mẫu mã, chất lượng, kiểu dáng, quảng bá, tiếp thị…các`Doanh nghiệp cố gắng khác
biệt hoá sản phẩm của mình để cạnh tranh và thu hút khách hàng về phía mình.
Trong thị trường này, bên cạnh các biện pháp khác biệt hóa sản phẩm, chiến lược
giá cả và chính sách đối với khách hàng là các vấn đề mà mỗi Doanh nghiệp luôn
phải quan tâm để đảm bảo kha năng cạnh tranh của mình.
- Độc quyền tập đoàn là trường hợp mà trên thị trường chỉ có một số hãng lớn
sản xuất và bán các sản phẩm đồng nhất hoặc không đồng nhất. Họ gần như kiểm
soát toàn bộ lượng cung hàng hóa trên thị trường nên họ có sức mạnh lớn trên thị
trường, họ có thể đièu tiết thị trường theo ý muốn. Các hãng trong tập đoàn có tính
phụ thuộc lẫn nhau nên quyết định giá và sản lượng của mỗi hãng đều ảnh hưởng
3
trực tiếp đến hãng khác trong tập đoàn và giá cả thị trường, chính vì vậy mà họ
thường liên kết với nhau nhằm thu được lợi siêu ngạch.
Sự hình thành thị trường cạnh tranh không hoàn hảo nguyên nhân chính là do
quá trình phấn đấu tối đa hóa lợi nhuận của các Doanh nghiệp, cạnh tranh thúc đẩy
quá trình tích tụ và tập trung tư bản diễn ra không đều ở một số ngành, lĩnh vực
kinh tế khác nhau. Mặc dù vậy, cạnh tranh độc quyền lại có tác động tích cực, tạo
động lực cho sản xuất phát triển, nó làm lợi cho xã hội nhiều hơn là gây thiệt hại.
- Cạnh tranh độc quyền là hình thái hoàn toàn đối lập với cạnh tranh hoàn hảo.
Chỉ có một người bán hoặc một người mua duy nhất trên thị trường, hàng hóa được
bán là hàng được bán là hàng hóa độc nhất vô nhị và không có hàng hóa thay thế
nên họ có sức mạnh thị trường rất lớn. Doanh nghiệp độc quyền luôn có quyền
quyết định giá bán và sản lượng sao cho họ thu được lợi nhuận siêu ngạch. Nguyên
nhân của độc quyền là do họ đạt được các lợi thế kinh tế nhờ vào quy mô (độc
quyền tự nhiên), hoặc do cấu kết, thôn tính, kiểm soát được đầu vào. Độc quyền
luôn có tác động xấu đến kinh tế xã hội như sản lượng bán ra trên thị trường luôn
thấp hơn nhu cầu tiêu dùng của xã hội, giá bán luôn ở mức quá cao làm thiệt hại cho
người tiêu dùng và gây bất công xã hội. Ở một số nước phát triển đã áp dụng luật
chống độc quyền nhằm đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng và các lợi ích kinh
tế xã hội.

+ Căn cứ chủ thể tham gia thị trường.
Đây là sự cạnh tranh trong khâu lưu thông hàng hóa nhằm tối đa hóa lợi ích
cho những chủ thể tham gia cạnh tranh.
- Thứ nhất: Cạnh tranh giữa người bán và người mua với những đặc trưng nổi
bật của quan hệ này là người bán luôn muốn bán giá cao và người mua lại luôn
muốn mua giá thấp, do vậy hai lực lượng này hình thành hai phía cung cầu trên thị
trường, và kết quả của sự cạnh tranh đó là hình thành giá cân bằng của thị trường,
đó là giá mà cả bên bán và bên mua đều chấp nhận được.
- Thứ hai: Cạnh tranh giữa những người mua với nhau, đó là sự cạnh tranh do
ảnh hưởng của quy luật cung cầu. Khi trên thị trường một lượng cung hàng hóa thấp
hơn nhiều so với lượng cầu, làm cho những người mua phải cạnh tranh nhau để mua
được hàng hóa mà mình cần, dẫn đến đẩy giá bán tăng cao. Kết quả là người bán
thu được một khoản lợi nhuận rất cao, còn người mua phải bỏ thêm một khoản tiền
lớn. Như vậy sự cạnh tranh này sẽ làm cho người bán thu được lợi, còn người mua
4
thì bị thua thiệt.
- Thứ ba: Cạnh tranh giữa những người bán với nhau, đó là sự cạnh tranh
nhằm tăng sản lượng bán hàng. Khi sản xuất ngày càng phát triển do áp dụng khoa
học công nghệ, thị trường mở cửa, lượng cung hàng hóa trên thị trường tăng nhanh,
trong khi đó lượng cầu hàng hóa đó tăng chậm, dẫn đến những người bán hàng phải
cạnh tranh nhau khốc liệt để giành lấy thị trường và khách hàng, dẫn đến giá bán
không ngừng được giảm xuống. Kết quả là người mua được lợi, còn Doanh nghiệp
nào thắng trong cuộc cạnh tranh này thì mới có thể tồn tại và phát triển.
+ Căn cứ cấp độ cạnh tranh. Đây là sự cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất.
- Cạnh tranh giữa các sản phẩm là sự cạnh tranh về mẫu mã, kiểu dáng, chất
lượng, giá cả, phương thức bán hàng, cách thức tiếp cận, sản phẩm nào phù hợp
nhất với yêu cầu của khách hàng thì sản phẩm đó sẽ đảm bảo được khả năng tiêu
thụ, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm và là điều kiện thu thêm nhiều lợi nhuận cho
Doanh nghiệp.
- Cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp có cùng ngành nghề, là sự cạnh tranh

giữa các Doanh nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hóa mà Doanh nghiệp nào
cũng nhằm đến thu được lợi nhuận siêu ngạch. Trong nền kinh tế thị trường, theo
quy luật, Doanh nghiệp nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao lao
động xã hội cần thiết sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch. Các Doanh nghiệp sẽ áp
dụng các biện pháp như cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng xuất lao
động, giảm tối đa chi phí sản xuất, nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm.
Doanh nghiệp nào có nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh cao sẽ cạnh tranh thắng lợi
trong ngành và sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng cạnh giữa các Doanh nghiệp trong
nội bộ ngành sẽ làm giảm chi phí sản xuất và giá cả hàng hóa, là động lực thúc đẩy
phát triển lực lượng sản xuất và tiến bộ khoa hoc kỹ thuật. Nếu không có cạnh tranh
nội bộ ngành thì ngành đó, lĩnh vực sản xuất đó không thể phát triển và kinh tế sẽ bị
trì trệ lạc hậu.
- Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh mà các Doanh nghiệp sản xuất ở
các ngành khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư thuận lợi nhất để có thể thu được lợi
nhuận siêu ngạch. Giữa các ngành kinh tế, do điều kiện tự nhiên, điều kiện kỹ thuật
và một số điều kiện khách quan khác, như: Văn hóa, tâm lý, thị hiếu, kỳ vọng, mức
độ quan trọng…dẫn đến việc cùng với một lượng vốn nhưng đầu tư vào ngành này
5
sẽ mang lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn ngành khác. Các Doanh nghiệp sản xuất ở các
ngành có tỷ xuất lợi nhuận thấp có xu hướng chuyển dịch các nguồn lực sang ngành
có tỷ suất lợi nhuận cao. Kết quả là trong những ngành sản xuất có tỷ suất lợi nhuận
cao sẽ có thêm nhiều Doanh nghiệp tham gia sản xuất, dẫn đến lượng cung hàng hóa
tăng cao vượt quá lượng cầu,cạnh tranh về giá, giá giảm dẫn đến tỷ suất lợi nhuận của
ngành giảm. ngược lại, với những ngành có nhiều Doanh nghiệp rút lui, sản xuất toàn
ngành giảm, lúc đó trên thị trường sẽ xuất hiện lượng cung hàng hóa nhỏ hơn lượng
cầu, hàng hóa khan hiếm, giá tăng và tỷ suất lợi nhuận của ngành tăng.
Việc di chuyển nguồn lực giữa các ngành kéo theo sự biến động của tỷ suất
lợi nhuận diễn ra cho đến khi với một số vốn nhất định dù đầu tư vào ngành nào
cũng sẽ thu được tỷ suất lợi nhuận như nhau. (Đó là tỷ suất lợi nhuận bình quân).

Như vậy có thể nói cạnh tranh giữa các ngành sẽ tạo ra sự cân bằng cung cầu
sản phẩm trong mỗi ngành và bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, đảm bảo sự bình
đẳng cho việc đầu tư nguồn vốn giữa các ngành, tạo nhân tố tích cực cho sự phát
triển kinh tế.
- Cạnh tranh giữa các quốc gia là các hoạt động nhằm duy trì cải thiện vị trí
của nền kinh tế của mỗi quốc gia trên thị trường thế giới một cách lâu dài để thu
được lợi ích ngày càng cao cho nền kinh tế của quốc gia đó. Tuy nhiên chủ thể trực
tiếp tham gia cạnh tranh là những Doanh nghiệp của quốc gia đó. Do vậy quốc gia
nào có nhiều Doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao thì quốc gia đó có năng lực
cạnh tranh tốt hơn những quốc gia khác.
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế
Trong lịch sử kinh tế thế giới, các nhà nhà kinh tế học đã nghiên cứu và chỉ ra
vai trò quan trọng của cạnh tranh. Từ thế kỷ 18, nhà kinh tế học cổ điển Anh với tác
phẩm “ Của cải của các dân tộc” ông đã chỉ ra vai trò quan trọng của cạnh tranh
trong quá trình phát triển kinh tế, Ông cho rằng với sức ép của cạnh tranh buộc mỗi
cá nhân phải cố gắng làm công việc của mình một cách chính xác và do đó tạo ra sự
cố gắng lớn nhất.
Kết quả của sự cố gắng đó là lòng hăng say lao động, sự phân phối các yếu tố
sản xuất một cách hợp lý và tăng của cải cho xã hội. Hiện nay, cạnh tranh được coi
là phương thức hoạt động để tồn tại và phát triển của mỗi Doanh nghiệp, nếu không
có cạnh tranh thì không có tăng trưỏng và phát triển kinh tế. Vai trò cạnh tranh cũng
6
có hai mặt, tích cực và tiêu cực và được thể hiện như sau.
+ Tích cực.
- Đối với nền kinh tế, Cạnh tranh làm sống động nền kinh tế, thúc đẩy quá
trình lưu thông và các yếu tố sản xuất. Thông qua cạnh tranh, các nguồn tài nguyên
được phân phối một cách hợp lý hơn, dẫn đến sự điều chỉnh kết cấu ngành, cơ cấu
lao động được thực hiện mau chóng và tối ưu.
Cạnh tranh là đòn bẩy mạnh mẽ nhất của quá trình luân chuyển vốn, luân
chuyển các yếu tố sản xuất, phân phối lại tài nguyên, tập chung sản xuất và tích

luỹ tư bản. Đồng thời cạnh tranh còn là cơ chế điều tiết việc phân phối lợi nhuận
giữa các ngành và trong nền kinh tế, do chịu ảnh hưởng của quy luật bình quân
hóa lợi nhuận.
- Cạnh tranh đối với Doanh nghiệp kinh doanh, do động lực tối đa hóa lợi
nhuận và áp lực bị phá sản nếu dừng lại, cạnh tranh buộc các chủ thể kinh tế phải
không ngừng tăng cường thực lực của mình bằng các biện pháp đầu tư mở rộng sản
xuất, đầu tư cho nghiên cứu khoa học, sáng tạo và thường xuyên cải tiến kỹ thuật,
công nghệ, tăng năng xuất lao động, tăng chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản
xuất. Qua đó cạnh tranh nâng cao trình độ mọi mặt của người lao động, nhất là đội
ngũ quản trị kinh doanh, đồng thời chọn lọc và đào thải những chủ thể kinh tế
không thích nghi được với sự khắc nghiệt của thị trường.
- Cạnh tranh đối với người tiêu dùng, qua cạnh tranh cho thấy trên thị trường,
những hàng hóa nào phù hợp nhất với yêu cầu sử dụng và khả năng thanh toán của
người tiêu dùng, bởi cạnh tranh làm cho giá cả có xu hướng ngày càng giảm, lượng
hàng hóa được bán trên thị trường ngày càng tăng, chất lượng ngày một tốt hơn,
hàng hóa đa dạng phong phú. Chính vì vậy cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích cho
người tiêu dùng. Bên cạnh đó cạnh tranh còn đảm bảo rằng cả người sản xuất và
người tiêu dùng đều không thể dùng sức mạnh áp đặt ý muốn chủ quan cho người
khác. Nói cách khác cạnh tranh còn có vai trò là một lực lượng điều tiết thị trường.
Như vậy, chúng ta thấy cùng với tác động của các quy luật kinh tế khách
quan khác, cạnh tranh đã giúp cho các Doanh nghiệp trả lời được câu hỏi, đó là: Sản
xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Và sản xuất như thế nào? một cách thỏa đáng nhất.
Vận dụng quy luật cạnh tranh Nhà nước và Doanh nghiệp có điều kiện hoạch định
các chiến lược phát triển một cách khoa học mà vẫn đảm bảo được tính thực tiễn,
chủ động hơn trong công tác đối phó với mọi biến động của thị trường.
7
+ Hạn chế.
Bên cạnh những tích cực mà quy luật cạnh tranh mang lại, là những tiêu cực, đó
là do chạy theo lợi nhuận nên cạnh tranh có tác dụng không hoàn hảo, nó vừa lá động
lực tăng trưởng kinh tế vừa bao hàm sức mạnh tàn phá mù quáng. Sự đào thải không

khoan nhượng những Doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả. Tuy rằng sự đào
thải đó là phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, nhưng nó lại gây ra những hậu
quả về kinh tế xã hội to lớn, như nạn thất nghiệp ra tăng, mất ổn định xã hội…
Cạnh tranh là quá trình kinh tế mà các chủ thể sử dụng mọi biện pháp trong đó
có cả những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh để giành chiến thắng trên thương
trưòng như gian lận, quảng cáo lừa gạt khách hàng, tình trạng cá lớn nuốt cá bé,
lũng loạn thị trường. Như vậy lợi ích người tiêu dùng bị xâm hại, và cuối cùng cạnh
tranh có xu hướng dẫn đến độc quyền làm cho nền kinh tế phát triển theo chiều
hướng không tốt.
Với những đóng góp của cạnh tranh trong quá trình tăng trưởng và phát triển
kinh tế, cạnh tranh đã, đang và sẽ luôn là phương thức hoạt động hữu hiệu của nền
kinh tế thị trường, chúng ta cần nhận thức được các vai trò quan trọng của nó cũng
như những mặt tích cực, tiêu cực của cạnh tranh mang lại để chúng ta vận dụng quy
luật này sao cho hiệu quả nhất cho nền kinh tế.
1.1.3. Các công cụ cạnh tranh của Doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế hoạt động cạnh tranh trên thị trường doanh nghiệp có thể sử
dụng các công cụ cạnh tranh khác nhau để chiếm lĩnh thị trường, tăng tốc độ tiêu
thụ sản phẩm, tăng thị phần…Các công cụ thường được các doanh nghiệp sự dụng
là chất lượng sản phẩm, giá cả, hệ thống phân phối, và quảng bá thương hiệu.
a. Chất lượng sản phẩm
Để có thể sử dụng công cụ chất lượng sản phẩm nhằm cạnh tranh có hiệu quả
cần làm rõ thế nào là chất lượng sản phẩm. Cách hiểu và nhận biết về chất lượng
sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý chất lượng sản phẩm, bởi chất lượng sản
phẩm là một phạm trù khá rộng lớn và phức tạp phản ánh tổng hợp các nội dung
kinh tế, kỹ thuật và xã hội.
Đối với khách hàng hoặc người tiêu dùng chất lượng sản phẩm được xem là
sự phù hợp và thỏa mãn nhu cầu hoặc mục đính sử dụng mang lại họ.
Về phía Doanh nghiệp hoặc nhà sản xuất thì chất lượng sản phẩm là sự hoàn
8
hảo, tiện ích và sự phù hợp của sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu

chuẩn, quy phạm, quy cách đã được quy định trước.
Nếu chúng ta chỉ xét từng loại sản phẩm một cách riêng biệt, thì chất lượng
sản phẩm được phản ánh bởi các thuộc tính đặc trưng của sản phẩm đó. Chất lượng
sản phẩm phụ thuộc vào số lượng và chất lượng các thuộc tính được các nhà nghiên
cứu thiết kế đưa vào sản phẩm đó tước khi sản xuất. Những thuộc tính đó phản ánh
công năng hoặc giá trị sư dụng của sản phẩm và được biểu hiện ở những chỉ tiêu
chất lượng cụ thể.
Nếu xét trên góc độ giá trị, chất lượng sản phẩm được hiểu là đại lượng đo
lường giữa tỷ số lợi ích thu được từ tiêu dùng của sản phẩm với chi phí phải bỏ ra
để người sử dụng có được lợi ích đó.
Qua nghiên cứu và dựa trên các định nghĩa về chất lượng, tổ chức quốc tế về
tiêu chuẩn hóa gọi tắt là ISO đã đưa ra định nghĩa cụ thể về chất lượng sản phẩm
trong bộ tiêu chuẩn ISO - 9000 như sau: “ Chất lượng sản phẩm là một tập hợp các
thuộc tính của sản phẩm, tạo cho sản phẩm đó khả năng thỏa mãn yêu cầu đã nêu ra
hoăcc tiềm ẩn.” Định nghĩa trên cho thấy sự thống nhất giữa các thuộc tính của sản
phẩm, các nhu cầu của khách hàng, giữa các yêu cầu của người sản xuất và người
tiêu dùng, giữa nhu cầu hiện tại và những kỳ vọng tương lai của khách hàng về sản
phẩm. Cũng chính vì sự khái quát của định nghĩa này, mà nó được chấp nhận và sử
dụng rộng rãi trong các hoạt động kinh tế hiện nay trên phạm vi toàn cầu.
Chất lượng sản phẩm có vai trò đặc biệt quan trọng trong cạnh tranh của mỗi
Doanh nghiệp, một trong những căn cứ quan trọng khi người tiêu dùng quyết định
lựa chọn và sử dụng sản phẩm của Doanh nghiệp là chất lượng của sản phẩm. Theo
nhà nghiên cứu kinh tế M.Porter thì năng lực cạnh tranh của mỗi Doanh nghiệp
được thể hiện thông qua hai chiến lược cơ bản đó là phân biệt hóa sản phẩm (chất
lượng) và chi phí thấp. Chính vì vậy chất lượng sản phẩm trở thành một trong
những công cụ quan trọng nhất làm gia tăng năng lực cạnh tranh cho Doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm thể hiện khả năng đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu khách
hàng của Doanh nghiệp, tốc độ tiêu thụ sản phẩm sẽ gia tăng cùng với sự gia tăng
mức độ sản phẩm đó thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Đặc biệt là hiện nay khi
trình độ xã hội ngày càng cao, xã hội ngày càng văn minh, thì thị hiếu của người

tiêu dùng đòi hỏi những sản phẩm có chất lượng cao về mọi mặt chứ không chỉ đơn
thuần là Tốt - Bền - Đẹp như trước kia nữa. Như vậy có thể nói chất lượng và cạnh
9
tranh là hai phạm trù luôn đi cùng và gắn bó chặt chẽ với nhau, chất lượng sẽ làm
gia tăng năng lực cạnh tranh cho Doanh nghiệp và ngược lại năng lực cạnh tranh
cao sẽ bán được nhiều sản phẩm, tạo lợi nhuận siêu ngạch cho Doanh nghiệp, nâng
cao cơ sở tài chính và vật chất cần thiết để đầu tư nghiên cứu khoa học, đổi mới
công nghệ nhằm ngày càng tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao phục vụ nhu
cầu thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi tham gia các tổ chức thương mại
quốc tế như (AFTA, WTO…) cùng với những cơ hội kinh doanh trên thị trưòng lớn
là việc các nước thành viên đều phải dỡ bỏ rất nhiều những hàng rào thuế quan để
cho hàng của các nước tràn vào cạnh tranh tự do ngay trên sân nhà. Tuy vậy, không
một quốc gia nào lại không tìm cách để bảo hộ nền sản xuất trong nước, để hạn chế
hàng ngoại tràn vào và khi đó một số hàng rào mới lại được dựng lên, đó là những
tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng sản phẩm, như giấy chứng nhận về mức độ phóng
xạ cho phép đói với hàng thực phẩm, chất lượng đóng gói bao bì, nhãn mác, giấy
chứng nhận xuất sứ hàng hóa …Việc các Doanh nghiệp đầu tư nâng cao chất lượng
sản phẩm không những đảm bảo cạnh tranh giành thắng lợi trên sân nhà mà còn xây
dựng chiến lược đem sản phẩm của mình ra nước ngoài để cạnh tranh với thị trường
quốc tế.
Để sử dụng có hiệu quả công cụ chất lượng sản phẩm trong cạnh tranh, các
Doanh nghiệp cần làm tốt công tác quản lý chất lượng sản phẩm. Quản lý chất
lượng là các hoạt động có tổ chức phối hợp nhằm định hướng và kiểm soát một quy
trình chặt chẽ về chất lượng sản phẩm. Nói theo cách khác quản lý chất lượng sản
phẩm bao gồm toàn bộ các hoạt động từ việc xây dựng các quy trình đảm bảo chất
lượng, thiết lập các văn bản xác định trình tự và tương tác các quy trình, đảm bảo
nguồn lực và thông tin cần thiết, theo dõi kiểm tra và phân tích các quá trình, nhằm
đảm bảo mục tiêu chất lượng đề ra, và hệ thống quản lý chất lượng là một hệ thống
để định hướng và kiểm soát một tổ chức về chất lượng đã đề ra, và hệ thống quản lý

chất lượng này là một hệ thống để định hướng và kiểm soát một tổ chức về chất
lượng, đây là một hệ thống không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp để phát huy
được tối đa lợi ích cạnh tranh đích thực từ sản phẩm.
Trên cơ sở nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của chất lượng sản phẩm và quản
lý chất lượng, các Doanh nghiệp cần xây dựng và tổ chức triển khai các hoạt động
đẩy nhanh quá trình cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, tận dụng tốt nhất
10
công cụ này cho nâng cao năng lực cạnh tranh.
b.Giá cả sản phẩm.
Giá cả của hàng hóa là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh, phát triển
cùng với lịch sử ra đời và phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Ngày nay,
giá cả hiện diện trong tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, các ngành,
các khu vực của nền kinh tế, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Giá cả không chỉ là
sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa, nó còn biểu hiện tổng hợp các quan hệ
kinh tế như cung cầu hàmg hóa, tích luỹ tiêu dùng…Vì vậy giá cả hình thành thông
qua quan hệ cung cầu hàng hóa, thông qua sự thỏa thuận giữa người mua và người
bán, khi giá được chấp thuận là giá mà cả người mua và người bán đều thấy có lợi.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì giá bán sản phẩm là một trong
những công cụ quan trọng thường được sử dụng. Bởi giá bán sản phẩm có ảnh
hưởng trực tiếp đến sự hấp dẫn của sản phẩm và sản lượng tiêu thụ trên thị trường.
Ví dụ: hai hàng hóa có cùng công dụng và có chất lượng tương đương nhau, khách
hàng sẽ lựa chọn hàng hóa nào có giá bán thấp hơn. Trong thực tế có nhiều chính
sách giá khác nhau được Doanh nghiệp sử dụng nhằm đáp ứng và phù hợp với sản
phẩm, mục tiêu, tình hình thị trường và khả năng thanh toán của khách hàng. Trong
quá trình hình thành và xây dựng giá bán sản phẩm, Doanh nghiệp có thể tham khảo
một số chính sách xây dựng giá như sau:
+ Chính sách xây dựng giá thấp, là chính sách mà Doanh nghiệp xây dựng giá
bán sản phẩm thấp hơn giá cả thị trường, có hai cách áp dụng chính sách này.
- Doanh nghiệp xây dựng giá thấp hơn giá thị trường đối với sản phẩm cùng
loại, nhưng vẫn cao hơn giá thành sản xuất. Đây là trường hợp Doanh nghiệp áp

dụng khi sản phẩm mới thâm nhập thị trường, Doanh nghiệp cần thu hút khách
hàng, cạnh tranh với sản phẩm cùng loại để chiếm lĩnh thị phần, trong trường hợp
này Doanh nghiệp sẽ nhanh chóng chiếm được thị phần mà lợi nhuận vẫn đạt được
mặc dù không lớn.
- Doanh nghiệp chấp nhận xây dựng giá sản phẩm thấp hơn giá thị trường và
thấp hơn giá thành sản xuất, đây là trường hợp mà doanh nghiệp chấp nhận thua lỗ
tạm thời để phát triển thị trường, chiếm lĩnh thị phần, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ
hàng hóa, tăng nhanh vòng quay của đồng vốn, Tạo tiền đề cho chiến lược xây dựng
giá bán cao cho sản phẩm sau này.
11
+ Chính sách xây dựng giá bán cao.
Đây là chính sách mà Doanh nghiệp định giá bán sản phẩm của mình cao hơn
giá thị trường và cao hơn giá thành sản phẩm. Trong trường hợp này áp dụng cho
những sản phẩm mới lần đầu được tung ra thị trường, chưa có sản phẩm cạnh tranh,
người tiêu dùng chưa biết rõ về sản phẩm và chưa có điều kiện để so sánh về giá cả
và chất lượng. Giai đoạn này Doanh nghiệp tranh thủ chiếm lĩnh thị trường sau đó
sẽ dần giảm giá để tương đương với giá thị trường, nhưng vẫn đảm bảo cao hơn giá
thành sản phẩm Doanh nghiệp vẫn thu được lợi nhuận như mong muốn.
- Chính sách ổn định giá, theo đó Doanh nghiệp sẽ xây dựng và đưa ra một
mức giá phù hợp và sẽ được áp dụng trong một thời gian dài để tạo uy tín và củng
cố niềm tin của khách hàng về sự ổn định của thị trường đối với sản phẩm. Nó giúp
sản phẩm có những nét độc đáo, khác biệt, nhằm phân biệt với những sản phẩm
cùng loại của đối thủ cạnh tranh, từ đó có điều kiện mở rộng thị trường và chiếm
lĩnh thị phần của sản phẩm.
- Chính sách bán phá giá, là chính sách mà doanh nghiệp dùng biện pháp hạ
giá bán ở mức rất thấp, Doanh nghiệp chấp nhận thua lỗ trong một thời gian nhất
định, nhằm làm cho đối thủ cạnh tranh không thể bán sản phẩm cùng loại trong một
thời gian, từ chỗ thua lỗ do không cạnh tranh được về giá đối thủ cạnh tranh buộc
phải rút khỏi thị trường. Khi đó Doanh nghiệp độc chiếm thị trường, độc quyền với
sản phẩm và lúc đó Doanh nghiệp sẽ chủ động nâng giá lên cao và thu lại lợi nhuận.

Chính sách bán phá giá được coi là rất mạo hiểm, nó là con dao hai lưỡi do vậy ít
Doanh nghiệp sử dụng chính sách này để bán hàng, và hiện nay chính sách bán phá
giá được coi là phương thức cạnh tranh không lành mạnh, và bị cấm ở một số quốc
gia trên thế giới.
Chính sách phân biệt giá, đó là chính sách xây dựng và đưa ra những mức giá
khác nhau đối với cùng một loại sản phẩm khi bán cho các đối tượng khách hàng
khác nhau, cho các khu vực thị trường khác nhau, khách hàng mua với số lượng
hàng hóa khác nhau hoặc trong những thời điểm khác nhau. Với chính sách này
Doanh nghiệp sẽ làm thỏa mãn được nhiều đối tượng khách hàng có nhu cầu khác
nhau, có điều kiện tài chính khác nhau, tạo nên sự linh hoạt về giá nhằm hấp dẫn
khách hàng đồng thời vẫn đảm bảo được lợi ích cho Doanh nghiệp khi sản xuất
những sản phẩm có chất lượng cao hơn, hoặc phải vận chuyển sản phẩm đến nhiều
địa điểm khác nhau.
12
Tóm lại, việc nghiên cứu và vận dụng chính sách để xây dựng giá bán sản
phẩm là một vấn đề hết sức phức tạp, nó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn linh
hoạt và sáng tạo bởi vì giá cả sản phẩm không chỉ vào được quyết định bởi giá trị
hàng hóa mà nó còn phụ thuộc số lượng và khả năng thanh toán của khách hàng và
nhiều yếu tố khác. Do vậy để mỗi Doanh nghiệp có thể vận dụng thắng lợi chiến
lược giá cả trong cạnh tranh chúng ta cần lưu ý một số vấn đề như sau.
+ Việc xây dựng giá bán sản phẩm chỉ là một yếu tố trong chiến lược tổng
hợp nhằm đem lại doanh thu, lợi nhuận và đảm bảo nâng cao sức cạnh tranh cho
Doanh nghiệp nên không nhất thiết phải giảm giá hoặc tăng giá trong những trưòng
hợp thị trường có biến động.
+ Việc xây dựng giá bán sản phẩm phải gắn liền với chính sách chiếm lĩnh thị
trường, chiếm giữ thị phần, mà phải coi việc chiếm giữ thị phần là mục tiêu chiến
lược và nhiệm vụ xây dựng giá bán sản phẩm phải nhằm đạt được mục tiêu này.
+ Việc xây dựng giá bán sản phẩm phải gắn liền với chiến lược cắt giảm chi
phí, mặc dù việc xây dựng giá bán sản phẩm dựa trên nhiều căn cứ khác nhau song
chi phí vẫn là một yếu tố rất quan trọng để xây dựng giá bán sản phẩm cho phù hợp.

+ Việc xây dựng giá bán sản phẩm phải dựa trên chiến lược cạnh tranh, vì vậy
Doanh nghiệp cần quan tâm thích đáng đến sự thay đổi giá và chính sách giá của
các đối thủ cạnh tranh.
+ Chiến lược xây dựng giá bán sản phẩm phải gắn liền với phân khúc thị
trường để có thể áp dụng một cách linh hoạt những chính sách giá khác nhau cho
phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường.
+ Trên thực tế, một số nhóm khách hàng sẵn sàng chấp nhận mua sản phẩm
với giá cao để được sử dụng những sản phẩm có chất lượng cao và nhãn hiệu nổi
tiếng chính vì vậy Doanh nghiệp nên thực hiện chính sách định giá cao đối với
những sản phẩm này để củng cố uy tín cho sản phẩm của mình, không bỏ lỡ cơ hội
tăng lợi nhuận nhưng cần đảm bảo cung cấp cho người tiêu dùng đầy đủ những gì đã hứa
hẹn trong sản phẩm, tạo lòng tin đối với khách hàng.
+ Trong chiến lược cạnh tranh, mỗi Doanh nghiệp cần xây dựng một hệ thống đo
lường để đánh giá kết quả công tác xây dựng giá bán sản phẩm trong từng thời kỳ, từng
giai đoạn. Đây là hoạt động không thể thiếu để đánh giá hiệu quả công tác xây dựng
giá bán sản phẩm của Doanh nghiệp, qua đó để xem xét đánh giá và đưa ra những điều
chỉnh một cách linh hoạt, kịp thời, đáp ứng mọi sự biến động của thị trường.
13
Như vậy, chiến lược giá cả là một công cụ cạnh tranh sắc bén của mỗi Doanh
nghiệp, nó ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp.
chính vì vậy mỗi Doanh nghiệp cần nghiên cứu, xây dựng và hoạch định chiến lược
về giá bán sản phẩm của mình, sao cho phù hợp với những biến động của thị trường và
mục tiêu xây dựng và phát triển của Doanh nghiệp.
c. Hệ thống phân phối
Chúng ta có thể hiểu kênh phân phối là một tập hợp các cá nhân hoặc tổ chức
tham gia vào quá trình làm cho sản phẩm bán ra tới được tay khách hàng, do vậy
nếu Doanh nghiệp lựa chọn kênh phân phối không hợp lý có thể sẽ làm giảm sản
lượng tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến hàng hóa ế ẩm, không tiêu thụ được và Doanh
nghiệp sẽ thất bại trong cạnh tranh. Đặc biệt là hiện nay các kênh phân phối càng thể
hiện được vai trò quan trọng của mình trên thị trường bởi vì.

+ Chi phí vận chuyển thường tăng lên sau mỗi lần biến động giá nhiên liệu,
điều đó đặt ra cho mỗi Doanh nghiệp phải tìm ra cho mình những phương thức vận
chuyển hợp lý nhất, tiết kiệm nhất trong lưu thông cho sản phẩm của mình.
+ Với tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật nhanh như hiện nay những Doanh
nghiệp chỉ dựa vào lợi thế về công nghệ để cạnh tranh thì khó tồn tại lâu, bởi đối
thủ rất rễ bắt trước hoặc họ đầu tư những công nghệ thế hệ sau sẽ hiện đại hơn. Hơn
nữa hiệu quả sản xuất không thể tăng vô hạn, khi đó nó gần như đã đạt điểm tối đa
nên các Doanh nghiệp khó có thể hy vọng vượt trội ở mặt này, do vậy các Doanh
nghiệp cạnh tranh phần lớn đặt nhiều hy vọng vào kênh phân phối của minh
+ Hiện nay các sản phẩm ngày càng đa dạng và phong phú về mẫu mã, chất
lượng, kích cỡ, chính vì vậy các Doanh nghiệp sẽ rất dễ gặp khó khăn trong thời
hạn giao sản phẩm có chất lượng của mình cho khách hàng đúng hẹn, và nhiệm vụ
quan trọng này Doanh nghiệp lại tin tưởng đặt lên vai của những nh phân phối.
+ Trong thời buổi công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, các Doanh
nghiệp sản xuất đã có nhiều thay đổi lớn trong phương pháp quản lý hàng tồn kho.
Nếu để số lượng hàng hóa tồn kho lớn sẽ làm tăng chi phí bảo quản, lưu kho và làm
giảm chất lượng của sản phẩm. Khi đó các Doanh nghiệp có xu hướng giảm hàng
tồn kho xuống mức cần thiết thấp nhất để giảm chi phí giá thành. Điển hình nhất
trong phương pháp quản lý này là phương pháp quản lý “ vừa kịp lúc” của Nhật bản
chính phương pháp quản lý này đã giúp cho các Doanh nghiệp Nhật bản có được lợi
thế cạnh tranh rất lớn trên thương trường và đã thắng được các Doanh nghiệp Mỹ.
14
Để thực hiện hiệu quả phương pháp quản lý này không gì tốt hơn là các Doanh
nghiệp phải lựa chọn được kênh phân phối hợp lý nhất và tốt nhất cho mình.
+ Trên thực tế để xây dựng hoặc thay đổi được một kênh phân phối cần rất
nhiều thời gian và công sức bởi nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan khác
chứ không đơn thuần là mong muốn chủ quan của Doanh nghiệp sản xuất. Để lựa
chọn và tiến hành xây dựng một kênh phân phối vận hành một cách trơn tru có khi
Doanh nghiệp phải mất nhiều năm, chính vì vậy nếu Doanh nghiệp chọn được kênh
phân phối có chất lượng tốt sẽ đảm bảo khả năng tiêu thụ sản phẩm, duy trì và nâng

cao năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp.
Trên thực tế có rất nhiều hình thức tiêu thụ sản phẩm, như bán hàng trực tiếp,
bán hàng thông qua các công ty bán buôn của mình, hoặc các hãng bán buôn độc
lập, sử dụng mạng lưới bán lẻ của hãng, bán qua các cửa hàng, các hãng bán lẻ độc
lập hoặc bán hàng qua điện thoại, bán hàng qua mạng Internet. nhưng tùy vào từng
loại sản phẩm hàng hóa, như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng…
mà Doanh nghiệp có thể lựa chọn cho Doanh nghiệp mình một hình thức sao cho
phù hợp nhất, việc lựa chọn và xây dựng kênh phân phối phải dựa trên các kết quả
nghiên cứu kỹ lưỡng các đặc điểm của thị trường bao gồm, đặc điểm của nhóm
khách hàng ( Cá nhân, tổ chức, khách hàng mục tiêu, khách hàng tiềm năng, ) đặc
tính của sản phẩm như ( tính dễ hư hỏng, tính thời vụ, đặc điểm kỹ thuật của sản
phẩm, ) đặc điểm môi trường như (điều kiện kinh tế, khả năng quản lý, các dàng
buộc pháp lý, hoặc điều kiện địa lý).
Trong những năm gần đây khi công nghệ thông tin phát triển mạnh ở mọi nơi,
hệ thống giao thông được cải thiện đáng kể thì các Doanh nghiệp đã có nhiều thay
đổi trong vịêc lựa chọn kênh phân phối sản phẩm, trong đó các Doanh nghiệp có
đều xu hướng chọn kênh phân phối trực tiếp. Sự lựa chon hình thức này cho phép
Doanh nghiệp phát triển các quan hệ hợp đồng và hệ thống các đơn hàng cá biệt.
Với hình thức này việc thực hiện lịch giao hàng theo quy định sẽ tạo điều kiện cho
khách hàng giảm được lượng hàng dự trữ tồn kho. Điều đó cũng là tiền đề để phát
triển sản xuất kinh doanh có tính đến yêu cầu cụ thể của khách hàng. (với điều này
Doanh nghiệp đã trả lời được câu hỏi, sản xuất cho ai?)
1.1.4. Khái niệm và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của
Doanh nghiệp.
a. Khái niệm năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp.
15
Như chúng ta đã nghiên cứu ở phần trên các định nghĩa về cạnh tranh, để có
thể cạnh tranh thắng lợi trước các đối thủ mỗi Doanh nghiệp phải có năng lực cạnh
tranh nhất định. Vậy năng lực cạnh tranh là gì? với câu hỏi này thật khó trả lời một
cách chính xác, hiện nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa đưa ra một định nghĩa chính

xác cho vấn đề này.
Trên thương trưòng khi các chủ thể cạnh tranh với nhau để giành thắng lợi về
phía mình, các chủ thể đó phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhằm duy trì và
phát triển vị thế của Doanh nghiệp mình trên thương trường đó. Các biện pháp mà
Doanh nghiệp áp dụng thể hiện một sức mạnh nào đó, một khả năng nào đó hoặc
một năng lực nào đó của chủ thể, và nó được gọi là năng lực canh tranh của chủ thể
đó. Khi muốn chỉ một sức mạnh, một khả năng duy trì được vị trí của một hàng hóa
nào đó trên thị trường người ta cũng dùng thuật ngữ năng lực cạnh tranh của hàng
hóa, thuật ngữ đó cũng là để chỉ mức độ hấp dẫn của hàng hóa đó đối với khách
hàng. Một tác giả sau khi đã nghiên cứu phân tích bản chất năng lực cạnh tranh của
Doanh nghiệp cho rằng “ Năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp thể hiện thực lực
và lợi thế so sánh của nó so với đối thủ khác trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi
hỏi của khách hàng để thu lợi ích ngày càng cao cho Doanh nghiệp mình.”
Một số quan điểm cho rằng khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp là khả
năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với việc thu lợi nhuận nhất định.
Tất cả các nghiên cứu mặc dù xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng đều
cho thấy năng lực cạnh tranh đều liên quan đến hai khía cạnh đó làchiếm lĩnh thị
trường và lợi nhuận mang lại. Như vậy có thể nói năng lực cạnh tranh của Doanh
nghiệp là “ Khả năng tồn tại, duy trì hoặc gia tăng lợi nhuận, chiếm lĩnh thị phần
trên thị trường của các sản phẩm và dịch vụ của Doanh nghiệp”.
Với những nghiên cứu ở trên chúng ta cần phân biệt năng lực cạnh tranh của
hàng hóa, dịch vụ, năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh
của quốc gia.
Trong đó năng lực cạnh tranh hàng hóa dịch vụ có thể hiểu khái quát là tổng
thể các yếu tố gắn liền với hàng hóa, dịch vụ đó cùng với các điều kiện, công cụ và
biện pháp cấu thành khả năng cạnh tranh được chủ thể dùng để ganh đua với nhau
nhằm chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng và đem lại nhiều lợi ích hơn cho
chủ thể tham gia cạnh tranh.
Đối với năng lực cạnh tranh quốc gia, Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) cho
16

rằng “ Khả năng cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì được mức
tăng trưởng trên cơ sở các chính sách thể chế vững bền tương đối và các đặc trưng
kinh tế khác”.
Năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ khác nhau ở chỗ Doanh nghiệp là một tổ chức chặt chẽ, có thể
đồng thời sản sản nhiều mặt hàng với năng lực cạnh tranh khác nhau. Năng lực cạnh
tranh của sản phẩm được thể hiện năng lực của sản phẩm đó có thể thay thế một sản
phẩm khác đồng nhất hoặc khác biệt, có thể do đặc tính chất lượng sản phẩm hoặc
giá cả sản phẩm. Do vậy năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa dịch vụ là một
trong những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh chung cho Doanh nghiệp.
Trong khi đó cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp có thể diễn ra khi họ cung ứng
trên cùng một thị trường những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ hoàn toàn giống nhau hoặc
khác nhau, nhưng có thể thay thế cho nhau. Trong cùng một thời gian nếu Doanh nghiệp
nào bán được nhiều sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của mình hơn và ngày càng chiếm được
thị phần nhiều hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác thì Doanh nghiệp đó được đánh
giá là có năng lực cạnh tranh cao hơn.
Còn năng lực cạnh tranh quốc gia là tổng hợp năng lực cạnh tranh của các
Doanh nghiệp trong quốc gia đó. Chính vì vậy nâng cao năng lực cạnh tranh cho
Doanh nghiệp là một vấn đề đặc biệt quan trọng của mỗi quốc gia. Trong giai đoạn
hiện nay, trong xu thế chúng ta đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ngày một
sâu rộng, để tồn tại và phát triển bền vững mỗi Doanh nghiệp nói riêng và quốc gia
nói chung cần quan tâm chú trọng đầu tư toàn diện để nâng cao năng lực cạnh tranh,
chủ động giành phần thắng lợi về mình trước những đối thủ cạnh tranh khác.
b. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh cho Doanh nghiệp.
Trong giai đoạn hiện nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang thúc đẩy
mạnh mẽ, sâu sắc quá trình chuyên môn hóa và hợp tác quốc tế, lực lượng sản xuất
lớn mạnh đang được dần quốc tế hóa. Cuộc cách mạng công nghệ thông tin đang
làm cho nền kinh tế thế giới gắn bó, ràng buộc lẫn nhau dẫn tới không một quốc gia
nào, một nền kinh tế, một dân tộc nào muốn phát triển mà có thể tách rời khỏi hệ
thống kinh tế thế giới, không hòa nhập vào sự vận động chung của cả nền kinh tế

thế giới. Sự hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của nước mình vào
với nền kinh tế khu vực và thế giới, là tham gia vào sự phân công lao động quốc tế,
chúng ta gia nhập các tổ chức kinh tế song phương và đa phương, là chúng ta chấp
17
nhận và tuân thủ những quy định chung được hình thành trong quá trình hợp tác và
đấu tranh giữa các thành viên của tổ chức.Trong quá trình hội nhập, các nước tham
gia đều phải tuân thủ những quy ước chung, những luật chơi chung khá phức tạp
được thể hiện trong nhiều điều ước quốc tế.
Một là: Khái niệm thương mại đã được mở rộng, không chỉ gồm thương mại
các hàng hóa và dịch vụ thông thường mà còn bao gồm cả các lĩnh vực đầu tư bản
quyền, tư vấn, sở hữu trí tuệ…Hoặc nói cách khác các sản phẩm hàng hóa được mua
bán hiện nay không chỉ bao gồm phần cứng mà còn có cả phần mềm, và hiện nay hàng
hóa phần mềm ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn.
Hai là: Khi gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế, các quốc gia đều phải giảm
thiểu và dần tiến tới gỡ bỏ toàn bộ hàng dào thuế quan. chẳng hạn như trong khuôn
khổ AFTA, các nước thành viên cam kết phải cắt giảm thuế quan xuống mức từ 0%
đến 5% theo một lộ trình nhất định. Hoặc trong khuôn khổ tổ chức thương mại thế
giới (WTO) quy định, các nước công nghiệp phát triển cắt giảm thuế xuất nhập
khẩu hàng công nghiệp xuống mức 3% đến 4%, đối với hàng nông sản mức thuế là
6%, còn các nước đang phát triển được duy trì mức thuế xuất cao hơn, khoảng từ
10% đến 12%.
Ba là: Thống nhất giảm dần tiến tới xóa bỏ hàng dào thuế quan, khi đó các nước
thành viên chỉ được áp dụng một số biện pháp hạn chế nhằm để bảo vệ môi trường, vệ
sinh, bản sắc văn hóa, an ninh quốc phòng. Hiện nay với sự bùng nổ của khoa học công
nghệ, chất xám chiếm tỷ trọng ngày càng trong các sản phẩm, vì vậy việc bảo hộ bản
quyền sở hữu trí tuệ, nhãn mác sản phẩm được quy định rất chặt chẽ.
Bốn là: Trong sản xuất nhà nước không được bao cấp cho Doanh nghiệp, chỉ
đối với sản xuất hàng nông sản nhà nước được phép hỗ trợ ở một số khâu nhất định.
Năm là: Các nước thành viên phải mở cửa thị trường cho tất cả các Doanh
nghiệp nước ngoài vào đầu tư kinh doanh, tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả các

Doanh nghiệp trong và ngoài nước. Tất cả các hệ thống luật pháp về kinh tế -
thương mại phải rõ ràng, công khai minh bạch.
Sáu là: Các thành viên là các nước đang phát triển hoặc các nền kinh tế đang
chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường được hưởng một
số ưu dãi nhất định trong cam kết và thời gian, lộ trình thực hiện.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của
18
Doanh nghiệp và sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp có sự quan hệ mật tiết
nó tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau.
+ Nâng cao năng lực cạnh tranh giúp cho Doanh nghiệp phát triển và hội
nhập. Nó thúc đẩy tiến trình phát triển của Doanh nghiệp bởi năng lực cạnh tranh
của Doanh nghiệp tỷ lệ thuận với tốc độ phát triển của Doanh nghiệp. Nó giúp cho
Doanh nghiệp chủ động hội nhập kinh tế quốc tế một cách sâu, rộng.
+ Khi cạnh tranh thắng lợi, Doanh nghiệp sẽ đứng vững và phát triển không
ngừng, đó là tiền đề tác động ngược trở lại cho Doanh nghiệp nâng cao hơn nữa
năng lực cạnh tranh của mình. Những thành tựu của sự phát triển sẽ tạo đà giúp cho
Doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội kinh doanh mới. Khi Doanh nghiệp có đủ khả
năng nguồn lực về vốn, con người Doanh nghiệp sẽ dễ dàng tiếp cận với công nghệ
mới, phương thức quản lý tiên tiến, hiện đại, từ đây những sản phẩm mới có chất
lượng cao được ra đời góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp.
Tóm lại, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay vấn đề có tính
chất quyết định là mỗi Doanh nghiệp phải nhận thức được và luôn cố gắng nâng cao
năng lực của mình, sẵn sàng nắm lấy cơ hội để vươn lên, chuẩn bị đủ mọi điều kiện
để đủ khả năng đối mặt với những thách thức trong quá trình hội nhập để Doanh
nghiệp có thể tồn tại và phát triển bền vững.
1.2. Phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp.
Để lựa chọn các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
Doanh nghiệp chúng ta cần có các tiêu chí định lượng và định tính để đo lường và
đánh giá năng lực cạnh tranh. Có rất nhiều tiêu chí có thể sử dụng để đánh giá,
trong đó tiêu chí được sử dụng phổ biến nhất và có thể phản ánh tương đối đầy đủ

và sát thực về năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp đó là: Thương hiệu, thị phần,
chi phí sản xuất, tỷ xuất lợi nhuận.
1.2.1. Thương hiệu và thị phần của Doanh nghiệp.
Trong lịch sử của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, quá trình sản xuất và lưu
thông, các nhà sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ đã mặc định hàng hóa của mình
bằng cách sử dụng những dấu hiệu dưới hình thức nào đó để thể hiện. Những dấu
hiệu đó được gọi là thương hiệu, được nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp dịch vụ sử
dụng trong thương mại nhằm ám chỉ sự liên quan giữa hàng hóa và dịch vụ với
19
người có quyền sử dụng dấu hiệu đó với tư cách là người chủ sở hữu hoặc đăng ký
thương hiệu.
Có rất nhiều quan điểm về thương hiệu nhưng theo Hiệp hội Maketting Hoa
kỳ “ Thương hiệu là một cái tên, một từ ngữ, một dấu hiệu, một biểu tượng, một
hình vẽ hoặc tổng hợp tất cả các yếu tố trên nhằm xác định một sản phẩm hoặc dịch
vụ của một ( hoặc một nhóm người ) và phân biệt sản phẩm dịch vụ đó với các đối
thủ cạnh tranh”. Có thể nói thương hiệu là hình thức thể hiện bên ngoài tạo ra ấn
tượng, thể hiện cái bên trong cho sản phẩm hoặc Doanh nghiệp. Thương hiệu tạo ra
nhận thức và niềm tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ
mà Doanh nghiệp cung ứng. Giá trị của một thương hiệu là triển vọng lợi nhuận mà
thương hiệu đó có thể đem lại cho nhà sản xuất trong tương lai. Hoặc nói cách khác
thương hiệu là tài sản vô hình của Doanh nghiệp. Chẳng hạn khi nói đến nước giải
khát người ta sẽ nói ngay là Coca-Cola, hoặc nói đến xe máy người ta sẽ nói ngay là
Hoda, hay khi nói đến Ôtô người ta sẽ nói ngay đến Toyota…Tên của hàng hóa gắn
liền với thương hiệu và trở thành một cụm từ dễ nhớ và làm cho khách hàng nhớ
đến Doanh nghiệp.
Việc xây dựng được một thương hiệu là vấn đề đòi hỏi thời gian, khả năng tài
chính và ý chí không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Một Doanh
nghiệp có năng lực cạnh cao cũng có nghĩa là Doanh nghiệp đó đã xây dựng được
một thương hiệu mạnh, thương hiệu đó luôn được khách hàng nhớ đến và nhận biết
một cách dễ dàng những sản phẩm mà Doanh nghiệp cung ứng. Một thương hiệu

mạnh là một thương hiệu có thể tạo được sự thích thú cho khách hàng mục tiêu, làm
cho họ tiêu dùng và sẽ tin tưởng để tiếp tục tiêu dùng nó. Trên thực tế nếu khách
hàng đã đam mê thích thú một thương hiệu, họ sẽ trung thành với thương hiệu đó và
như vậy Doanh nghiệp đã đạt được mục tiêu cạnh tranh của mình.
Qua quá trình xây dựng thành công một thương hiệu người ta có thể đánh giá
về năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp đó vì.
+ Thương hiệu đó làm cho khách hàng tin tưởng vào hình thức và chất lượng,
yên tâm tin dùng và tự hào khi sử dụng thương hiệu đó.
+ Thương hiệu mạnh giúp cho việc tạo dựng hình ảnh tốt cho Doanh nghiệp,
thu hút được nhiều khách hàng mới, thu hút nhân tài, và thu hút được nhiều nguồn
vốn đầu tư.
+ Một thương hiệu mạnh sẽ giúp các kênh phân phối sản phẩm dễ dàng hơn, và
20
thuận lợi trong việc mở rộng thị trường, hoặc dễ dàng thâm nhập vào thị trường mới.
+ Thương hiệu mạnh giúp nâng cao uy tín Doanh nghiệp tạo dựng lòng tin,
lòng trung thành của khách hàng đối với sản phẩm, đem lại lợi thế cạnh tranh cho
Doanh nghiệp, giúp cho việc triển khuếch trương sản phẩm dễ dàng hơn, đồng thời
làm giảm chi phí quảng cáo tiếp thị, giúp cho Doanh nghiệp có điều kiện phòng thủ,
chống lại các tác động của thị trường và sự cạnh tranh quyết liệt về giá.
+ Một thương hiệu của người bán khi đã đăng ký là bao hàm sự bảo hộ của
pháp luật đối với những tính chất độc đáo của sản phẩm, trước những sản phẩm bị
đối thủ cạnh tranh bắt trước hoặc làm nhái.
Để sở hữu một thương hiệu mạnh Doanh nghiệp phải xây dựng một chiến
lược về thương hiệu nằm trong chiến lược Maketting tổng thể, dựa trên các kết quả
về nghiên cứu thị trường, đồng thời phải đăng ký bản quyền thương hiệu trong và
ngoài nước. Như vậy thương hiệu mới trở thành một tài sản thực sự có giá trị của
Doanh nghiệp.
Bên cạnh thương hiệu, thị phần cũng là một chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh
tranh của Doanh nghiệp. Thì phần của Doanh nghiệp được tính dựa trên tỷ trọng
giữa số sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ của Doanh nghiệp được cung ứng trên thị

trường so với tổng số sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ được cung ứng trên thị
trường trong cùng một khoảng thời gian nhất định. Hoặc là tỷ trọng được tính giữa
doanh thu của Doanh nghiệp về một loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nào đó so
với tổng doanh thu của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đó trên toàn thị trường. Nếu
nói thị phần tương đối là tỷ lệ so sánh giữa doanh thu của một doanh nghiệp với
đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Nó đánh giá và cho biết vị thế, chỗ đứng của Doanh
nghiệp trên thị trường. Doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao sẽ chiếm được
thị phần tương ứng với năng lực cạnh tranh đó và có nhiều khả năng thị phần sẽ
được tăng lên.
Thị phần là một loại tài sản vô hình của Doanh nghiệp, nếu muốn giành và giữ
vững được thị phần của mình trên thị trường, Doanh nghiệp phải phấn đấu và nỗ lực
không ngừng trong việc nghiên cứu và sản xuất đủ số lượng sản phẩm đáp ứng yêu
cầu của thị trường, làm tốt công tác quảng bá maketting, đặc biệt phải duy trì đảm
bảo chất lượng chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ như đã cam kết.
Ví dụ điển hình như công ty P/S: Năm 1997, kem đánh răng P/S đã có mặt ở
Việt Nam và chiếm khoảng 80% đến 90% thị phần kem đánh răng ở nước ta, khi
21
P/S tham gia liên doanh góp vốn với 8 triệu USD, trong đó tài sản cố định hữu hình
là đất và nhà xưởng cùng máy móc trang thiết bị được định giá là 3,5 triệu USD,
còn tài sản vô hình là thương hiệu và thị phần trên thị trường Việt Nam được định
giá là 4,5 triệu USD. Điều đó cho thấy, P/S có năng lực cạnh tranh cao và năng lực
cạnh tranh đó giúp P/S chiếm được thị phần đáng kể, nó thực sự trở thành tài sản và là
thế mạnh cạnh tranh của P/S trên thị trường Việt Nam.
1.2.2. Chi phí sản xuất.
Doanh nghiệp cạnh tranh thắng lợi trên thị trường, hoặc nói cách khác là có
năng lực cạnh tranh cao được thể hiện ở kết quả tuyệt đối là tăng lợi nhuóngiêu
ngạch cho Doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, giá cả sản phẩm hàng hóa, dịch
vụ có xu hướng điều chỉnh linh hoạt theo thị trường, để tăng lợi nhuận Doanh
nghiệp phải tìm mọi cách giảm chi phí tối ưu trong sản xuất. Chi phí sản xuất cho
một đơn vị sản phẩm là toàn bộ các chi phí về nguyên vật liệu, lao động, máy móc

thiết bị và các chi phí khác doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm. Một loại sản phẩm có chất lượng tương đương có thể thay thế cho nhau, nếu
doanh nghiệp nào sản xuất với chi phí thấp hơn có thể bán với giá thấp hơn mà vẫn
đảm bảo được mục tiêu lợi nhuận thì Doanh nghiệp đó sẽ thắng lợi. Trong trường
hợp phải cạnh tranh gay gắt về giá thì Doanh nghiệp nào có chi phí sản xuất thấp sẽ
có lợi thế, đặc biệt là đối với những sản phẩm nhạy cảm về giá.
Giảm chi phí sản xuất là quá trình Doanh nghiệp tìm mọi biện pháp về kỹ
thuật, công nghệ, quản lý, tổ chức để làm cho hao phí cá biệt của doanh nghiệp nhỏ
hơn hao phí xã hội. Đặc biệt là hoạt động đầu tư cho máy móc thiết bị và công
nghệ, trong quá trình đầu tư nếu lựa chọn đúng và thực hiện tốt một dây chuyền sản
xuất sẽ có tác dụng giảm chi phí sản xuất một cách hiệu quả và lâu dài, ngược lại,
nếu quyết định đầu tư thiếu tính toán, sai lầm sẽ tăng thêm gánh nặng chi phí cho
Doanh nghiệp và sẽ rất khó khắc phục, nhiều trường hợp dẫn đến phá sản. Do vậy,
quá trình này đòi hỏi phải có những nỗ lực thực sự bởi để thực hiện cắt giảm chi phí
nhằm mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh, Doanh nghiệp phải xem xét nghiên
cứu kỹ và cắt giảm chi phí đúng lúc, đúng chỗ. Những chi phí nào là tạo ra giá trị
gia tăng cho Doanh nghiệp thì không thể cắt giảm, những chi phí nào là bất hợp lý
không tạo ra giá trị gia tăng cho Doanh nghiệp thì phải cắt giảm triệt để. Điều này
đòi hỏi Doanh nghiệp phải quản lý rất tốt tổng chi phí và kết cấu chi phí trong
Doanh nghiệp.
22
Vậy để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh một cách bền vững Doanh
nghiệp phải đảm bảo các mối quan hệ trong sản xuất đó là duy trì tốc độ tăng năng
lực sản xuất luôn luôn lớn hơn tốc độ tăng chi phí đầu tư hoặc đảm bảo duy trì được
mối tương quan mức biến động doanh thu phải luôn lớn hơn mức biến động chi phí.
1.2.3. Tỷ suất lợi nhuận
Trong các phương pháp tính toán để lượng hóa được hiệu quả sản xuất kinh
doanh người ta thường sử dụng các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận.
- Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận / Vốn kinh doanh = Lợi nhuận trước (hoặc sau
thuế)/ Vốn kinh doanh cho biết mức sinh lời của một đồng vốn bỏ ra từ đó đánh giá

hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Tỷ suất lợi nhuận cần bù đắp được chi phí cơ hội
của việc sử dụng vốn. Thông thường một đồng vốn được coi là sử dụng có hiệu quả
nếu tỷ lệ nói trên cao hơn mức sinh lời khi đầu tư vào các cơ hội khác, hoặc ít nhất
phải cao lãi suất ngân hàng.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận / Vốn lưu động = Lợi nhuận trước (hoặc sau thuế)
/ Vốn lưu động cho thấy mức sinh lời của vốn lưu động.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận / Vốn cố định = Lợi nhuận trước (hoặc sau thuế) /
Vốn cố định cho thấy mức sinh lời của vốn cố định.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận/ Doanh thu = Lợi nhuận trước (hoặc sau thuế)
/Doanh thu giúp Doanh nghiệp biết được trong một đồng doanh thu của Doanh
nghiệp được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận / Vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận sau thuế / Vốn chủ
sở hữu cho thấy hiệu quả sử dụng những đồng vốn chủ sở hữu.
Tùy thuộc yêu cầu phân tích có thể lựa chọn sử dụng các chỉ tiêu thích hợp để
đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp.
Đồng thời có thể so sánh tỷ suất lợi nhuận giữa các năm để thấy được sự gia
tăng lợi nhuận một cách tổng quát. Nếu tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp tương
đương hoặc cao hơn tỷ suất lợi nhuận của ngành thì doanh nghiệp đó được coi là có
năng lực cạnh tranh cao.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh mà Doanh nghiệp có được coi là do sự phấn đấu bền bỉ
và lâu dài của Doanh nghiệp. Nó là kết quả của rất nhiều hoạt động thực tiễn được
23

×