Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.64 MB, 122 trang )

.
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
.
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU
.
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
Rủi ro là yếu tố gắn liền với mọi hoạt động đầu tư nói chung, trong đó có hoạt
động cho vay của các ngân hàng. Trong nỗ lực nhằm thu được lợi nhuận, các ngân
hàng không thể loại bỏ tuyệt đối rủi ro mà chỉ có thể tìm cách làm cho hoạt động
này trở nên an toàn hơn. Rủi ro tín dụng là một trong những loại rủi ro lâu đời và
quan trọng nhất mà các ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính trung gian khác
phải đối mặt. Tác động của rủi ro tín dụng đối với đối với hoạt động ngân hàng là
hết sức to lớn mà hậu quả là kết quả kinh doanh của ngân hàng bị giảm sút, trong
nhiều trường hợp nếu rủi ro tín dụng quá lớn có thể đưa ngân hàng tới tình trạng
phá sản. Trên quan điểm quản lí toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể
tránh khỏi, là khách quan và là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn
chế, chứ không thể loại trừ. Do vậy, ngày nay việc tìm ra các giải pháp nhằm hạn
chế rủi ro tín dụng luôn trở thành vấn đề mang tính sống còn, là mối quan tâm hàng
đầu của bất kỳ ngân hàng nào.
Ngân hàng phát triển Việt Nam (trước đây là Quỹ hỗ trợ phát triển) là một tổ
chức tín dụng được thành lập để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển
(ĐTPT) và tín dụng xuất khẩu (TDXK) của Nhà nước. Trong những năm qua, Ngân
hàng phát triển Việt Nam (NHPTVN) đã góp phần quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước thông qua việc cho vay để đầu tư vào các công
trình cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, thực hiện các chương trình kinh tế của Nhà
nước, đầu tư vào các dự án trọng điểm, các dự án thuộc vùng khó khăn, đặc biệt khó
khăn… Bên cạnh những kết quả đó, NHPTVN cũng đang gặp phải rất nhiều rủi ro
trong hoạt động cho vay như một số dự án, chương trình kinh tế được đầu tư không
có hiệu quả, chủ đầu tư không hoàn trả hoặc không có khả năng hoàn trả gốc, lãi


đúng hạn mà biểu hiện rõ rệt nhất là tình trạng nợ quá hạn có xu hướng gia tăng….
Những khoản rủi ro này đang đe dọa tới sự phát triển bền vững của Ngân hàng cũng
như sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1
.
Vì vậy, đề tài nghiên cứu: “Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng phát
triển Việt Nam” được lựa chọn là hết sức cần thiết.
Mục đích nghiên cứu:
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về rủi ro và giải pháp hạn chế rủi ro tín
dụng của Ngân hàng phát triển.
- Phân tích, đánh giá thực trạng rủi ro và hạn chế rủi ro tín dụng tại
NHPTVN.
- Đề xuất các giải pháp tăng cường hạn chế rủi ro tín dụng tại NHPTVN.
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là rủi ro và các giải
pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại NHPTVN.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động cho vay của NHPTVN bao gồm: cho vay
trung - dài hạn bằng nguồn vốn trong nước (cho vay đầu tư), cho vay lại vốn ODA,
cho vay vốn ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu; phạm vi của đề tài chỉ tập trung vào rủi ro
và hạn chế rủi ro tín dụng trong trong hoạt động cho vay trung - dài hạn bằng nguồn
vốn trong nước của NHPTVN với số liệu nghiên cứu từ năm 2004 đến năm 2007.
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng, kết hợp sử dụng các phương
pháp khác như phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, tổng hợp để phân tích
thực trạng rủi ro và hạn chế rủi ro tín dụng tại NHPTVN.
Kết cấu của luận văn: Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, luận văn được kết
cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hạn chế rủi ro tín dụng của Ngân
hàng phát triển
Chương 2: Thực trạng hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng phát
triển Việt Nam giai đoạn 2004-2007

Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng phát triển
Việt Nam
2
.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN
1.1 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng phát triển
1.1.1 Khái quát về Ngân hàng phát triển
Quá trình phát triển của các tổ chức tài chính gắn liền với quá trình phát triển
kinh tế. Các ngân hàng như ngân hàng thương mại (NHTM), ngân hàng đầu tư,
công ty tài chính…đóng vai trò ngày càng quan trọng trong thu hút tiết kiệm và tài
trợ cho phát triển, hạn chế rủi ro và tăng khả năng sinh lời. Phần lớn các trung gian
tài chính hoạt động vì mục tiêu tối đa hoá lợi ích tài chính của chủ sở hữu. Song có
một số tổ chức hoạt động với các mục tiêu và đối tượng phục vụ đặc biệt, hướng tới
lợi ích kinh tế - xã hội. Các tổ chức tài chính này được gọi chung là “các công ty tài
chính phát triển”. Ngân hàng phát triển (NHPT) là một tổ chức tài chính như vậy.
NHPT là tổ chức tín dụng mà hoạt động chủ yếu là tài trợ trung và dài hạn
cho các dự án phát triển.
Hoạt động của NHPT là huy động, tài trợ và làm các dịch vụ thanh toán. Mục
tiêu hoạt động của NHPT là tài trợ có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế
do Chính phủ hoạch định. Phương thức hoạt động chủ yếu là đầu tư trung và dài
hạn cho các công trình kinh tế trọng điểm, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển thông
qua đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ.
Hầu hết các quốc gia nhất là các nước đang phát triển đều thành lập NHPT do
các lý do chủ yếu sau đây:
 Nhu cầu vốn trung dài hạn cho phát triển kinh tế.
Nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế, đặc biệt vốn trung và dài hạn là rất lớn như
nhu cầu cải tạo và xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển (đường giao thông, bến
cảng….), nhu cầu của các doanh nghiệp về đầu tư mới, trang bị máy móc, mở rộng

quy mô sản xuất…Các nhu cầu này được đáp ứng chủ yếu bằng tiết kiệm của doanh
nghiệp, dân cư và Ngân sách Nhà nước (NSNN) dành cho đầu tư. Tuy nhiên những
nguồn này rất hạn chế, đặc biệt tại các nước đang phát triển, nguyên nhân do:
3
.
- Thứ nhất, hệ thống NHTM với nguồn vốn ngắn hạn là chủ yếu, chỉ tập trung
cho vay ngắn hạn. Tỷ trọng cho vay trung và dài hạn thấp và kỳ hạn thường chỉ từ
3-7 năm.
- Thứ hai, thị trường vốn trung và dài hạn không có hoặc kém phát triển.
- Thứ ba, chi ngân sách cho phát triển kinh tế bị hạn chế do thu ngân sách còn
eo hẹp, khả năng đầu tư của Chính phủ cho phát triển kinh tế bị hạn chế. Nhiều
khoản chi đầu tư bị giảm hiệu quả rất lớn do tình trạng tham nhũng và trình độ quản
lý yếu kém trong bộ máy của Chính phủ.
Những lý do chủ yếu trên đã tạo ra khoảng cách lớn giữa cung và cầu trên thị
trường tài chính dài hạn. Một trong những chính sách giải quyết là xây dựng một
loại hình tổ chức tài chính có khả năng thu hút và cung cấp các nguồn vốn trung và
dài hạn có hiệu quả cho các dự án phát triển. Đó chính là Ngân hàng phát triển.
 Thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trong tài trợ dài hạn.
Bên cạnh mục tiêu hiệu quả tài chính, phát triển kinh tế đòi hỏi phải thực hiện
đồng bộ các mục tiêu kinh tế - xã hội như thay đổi cơ cấu kinh tế, xoá đói giảm
nghèo, bảo vệ môi trường…nhằm bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền vững. Việc đầu
tư lồng ghép như vậy có thể phải chấp nhận mục tiêu sinh lời trực tiếp thấp hơn so
với các khoản đầu tư khác do:
- Thứ nhất, các dự án phát triển là rất cần thiết nhằm thực hiện mục tiêu phát
triển kinh tế. Các dự án này có khả năng sinh lời thấp, hoặc rủi ro cao, đặc biệt là dự
án trong các ngành công nghiệp mũi nhọn và vùng nông thôn rộng lớn.
- Thứ hai, nhiều NHTM không sẵn sàng đầu tư vào dự án phát triển do phần
lớn các khoản tín dụng của NHTM đòi hỏi phải có tài sản thế chấp và phải đạt được
hiệu quả tài chính theo cơ chế thị trường.
NHPT là một tổ chức tài chính thực hiện chính sách tài trợ ưu tiên có hạn chế

của Chính phủ nhằm thực hiện các công cuộc đầu tư đặc biệt. Các hoạt động nhằm
mục tiêu phi lợi nhuận càng nhiều thì tính hỗ trợ phải càng cao.
 Yêu cầu thực hiện các mục tiêu phát triển có hiệu quả.
Một dự án phát triển thường chứa đựng nhiều mục tiêu (như tăng lợi nhuận và
công ăn việc làm…) mà các mục tiêu này trong nhiều trường hợp lại làm giảm quy
4
.
mô của nhau. Điều này cản trở hoạt động của các thể chế tài chính theo cơ chế thị
trường. Tuy nhiên các dự án này lại không thích hợp hoàn toàn với phương pháp
cấp phát ngân sách do có nguồn thu trực tiếp từ bán sản phẩm của dự án. Chính phủ
sử dụng nguồn vốn tín dụng nhằm làm tăng tính hiệu quả tài chính của dự án phát
triển. Lý do sử dụng nguồn vốn tín dụng trong tài trợ cho các dự án phát triển là:
- Thứ nhất, Ngân sách Nhà nước nghèo nàn và phải sử dụng ưu tiên cho các dự
án không thể hoàn lại vốn. Trong khi đó, nhiều dự án phát triển tạo nguồn thu trực
tiếp (có khả năng sinh lời), có khả năng hoàn trả, có thể và cần thiết phải tiếp cận
với nguồn vốn tín dụng.
- Thứ hai, phương pháp tài trợ bằng cách cho vay có nhiều ưu thế. Trước hết
vốn của Nhà nước thường được cộng thêm vốn đối ứng huy động trên thị trường, tạo
điều kiện mở rộng quy mô tài trợ cho các dự án phát triển. Kết quả của việc hoàn trả
là nguồn vốn của Nhà nước lại được tái tạo, tiếp tục một hoạt động tài trợ mới.
Tài trợ ưu đãi qua chương trình tín dụng của Chính phủ được thực hiện có hiệu
quả thông qua hoạt động của NHPT. Ngoài việc cung cấp các nguồn vốn trung và
dài hạn cho các dự án, NHPT còn cung cấp với một số điều kiện ưu đãi mà các tổ
chức tín dụng (TCTD) hoạt động theo cơ chế thị trường không thể thực hiện được.
Như vậy, NHPT được thành lập nhằm tài trợ các loại hình đầu tư phát triển (ĐTPT)
có hiệu quả tài chính.
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng phát triển
1.1.2.1 Huy động vốn
Huy động vốn đã trở thành hoạt động chủ yếu của ngân hàng hiện nay. Tuy
nhiên đối với NHPT, vấn đề là làm thế nào để huy động được vốn trung và dài hạn

với lãi suất bình quân thấp trong điều kiện cạnh tranh giữa các TCTD gia tăng…
 Yêu cầu đối với nguồn vốn.
Nguồn vốn của ngân hàng phải đảm bảo mối liên hệ giữa kỳ hạn và lãi suất.
Với hoạt động chủ yếu là tài trợ cho các dự án dài hạn có khả năng sinh lời thấp
hoặc rủi ro cao, yêu cầu đặt ra cho NHPT là phải có nguồn vốn hỗn hợp với lãi suất
tương đối thấp, thời gian sử dụng dài và chấp nhận rủi ro.
5
.
 Các hình thức huy động vốn.
NHPT huy động vốn thông qua các hình thức sau:
- Huy động tiền gửi trên thị trường trong đó chủ yếu là tiền gửi trung và dài hạn.
- Phát hành giấy nợ trung và dài hạn.
- Huy động các quỹ của Nhà nước: Nguồn vốn này tuy eo hẹp nhưng lại có vai
trò rất quan trọng, tạo ra nguồn vốn hỗn hợp với chi phí bình quân thấp hơn các
NHTM, tạo điều kiện để NHPT cho vay với lãi suất thấp hơn, hoặc gia tăng khả
năng chấp nhận rủi ro.
- Huy động các khoản tài trợ từ các tổ chức khác.
- Vay nước ngoài (song phương, đa phương hoặc từ các tổ chức tài chính
phát triển).
- Tài trợ từ Ngân hàng Trung ương: thông qua các hình thức như mua lại các
khoản nợ, bảo lãnh, cấp vốn, cho vay lại…trong một số trường hợp.
- Vốn và quỹ của ngân hàng.
 Quản lý nguồn vốn.
Tìm kiếm và thực hiện các biện pháp gia tăng quy mô nguồn vốn với lãi suất
thấp, kỳ hạn dài và ổn định là điều kiện sống còn của NHPT. Chiến lược nguồn vốn
của ngân hàng là khai thác triệt để các nguồn hỗ trợ từ Chính phủ, các tổ chức tài
chính, tiết kiệm trung và dài hạn của dân cư, huy động vốn trung và dài hạn.
 Quản lý kỳ hạn và chi phí của nguồn.
NHPT cho vay trung, dài hạn là chủ yếu. Để đảm bảo mức sinh lời hợp lý,
ngân hàng duy trì tài sản thanh khoản ở mức rất thấp. Hơn nữa do yêu cầu cho vay

các dự án từ 10-20-30 năm trong khi nguồn vốn huy động với kỳ hạn ngắn hơn (5-
10 năm), ngân hàng phải thực hiện một kỹ thuật quan trọng là chuyển hoá các
nguồn tiền từ các kỳ hạn ngắn hơn sang kỳ hạn dài hơn. Do vậy, quản lý nguồn vốn
bao gồm:
- Tính toán chi phí huy động nhằm đảm bảo nguyên tắc kinh doanh có lãi.
- Quản lý thanh khoản.
6
.
1.1.2.2 Sử dụng vốn.
NHPT thực hiện mục tiêu kinh doanh thông qua sử dụng vốn, hình thành các
khoản mục tài sản của NHPT.
 Các loại tài sản:
- Ngân quỹ: bao gồm tiền mặt trong két, tiền gửi tại Ngân hàng trung ương và các
ngân hàng khác. Ngân quỹ của NHPT thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản.
- Tài trợ ngắn hạn: Quy mô tài trợ ngắn hạn nhỏ, chủ yếu trong các dự án phát
triển mà ngân hàng tài trợ trung và dài hạn.
- Tài trợ theo dự án (trung và dài hạn): Là hoạt động quan trọng của NHPT,
phản ánh mục tiêu và nội dung hoạt động chính của ngân hàng. Tài trợ theo dự án
có thể chia theo các tiêu thức khác nhau:
+ Tài trợ theo dự án đã được chỉ định trước của chủ tài trợ.
+ Tài trợ theo dự án được ngân hàng khai thác và tìm kiếm.
+ Tài trợ theo dự án với nguồn vốn ưu đãi.
+ Tài trợ theo dự án với nguồn vốn thị trường.
+ Tài trợ độc lập, hoặc đồng tài trợ, hoặc tài trợ qua ngân hàng đầu mối.
Trong đó, tài trợ các dự án trong kế hoạch của Chính phủ và các dự án tìm
kiếm luôn được ngân hàng quan tâm đặc biệt.
- Các tài sản khác như: đầu tư trực tiếp vào các ngành kinh tế, cho thuê.
 Quản lý tài sản.
- Xác định ngân quỹ của ngân hàng trong mối quan hệ với nhu cầu thanh
khoản trong trung và dài hạn.

- Quản lý rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái.
- Quản lý các khoản cho vay và tính sinh lời của tài sản.
NHPT quan tâm đến khả năng sinh lời của các tài sản, đặc biệt là các khoản
cho vay - loại tài sản mang lại thu nhập nhiều nhất cho ngân hàng. Nội dung quản lý
các khoản cho vay bao gồm:
+ Xác định quy mô và tỷ trọng các khoản cho vay ưu đãi theo chỉ thị của
Chính phủ.
7
.
+ Xác định rủi ro từ các dự án.
+ Tìm kiếm, phân tích thẩm định các dự án phát triển phù hợp với chiến lược
phát triển kinh tế của quốc gia.
1.1.2.3 Các hoạt động khác.
NHPT cung cấp dịch vụ bảo lãnh, tư vấn đầu tư, thanh toán…. Là ngân hàng
chuyên doanh nên các hoạt động khác của ngân hàng ít đa dạng hơn so với các NHTM.
1.2 Hoạt động tín dụng của Ngân hàng phát triển.
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của dự án phát triển.
Các Dự án phát triển kinh tế (Dự án phát triển) là dự án trực tiếp tạo ra sản
phẩm chiến lược, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của ngành, vùng, thúc đẩy quá trình
thay đổi cơ cấu kinh tế hoặc cơ cấu thu nhập của nhiều bộ phận dân cư. Dự án phát
triển thường có các đặc điểm sau đây:
- Dự án phát triển là những dự án lớn có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế của quốc gia.
Các dự án phát triển nằm trong kế hoạch phát triển kinh tế của quốc gia. Dự án
phát triển có quy mô lớn, thời gian vận hành dài. Tại nhiều nước đang phát triển, dự
án phát triển do Chính phủ quyết định và thực hiện, vì vậy nó mang tính chất dự án
công. Một số dự án do các tập đoàn kinh tế của Nhà nước hoặc tư nhân thực hiện có
sự hỗ trợ của Nhà nước.
Dự án phát triển thực hiện thực hiện chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia
như chiến lược công nghiệp hoá, phát triển nông nghiệp và nông thôn, chiến lược xuất

khẩu hoặc thay thế hàng nhập khẩu, chiến lược giảm đói nghèo, bảo vệ môi trường….
- Dự án phát triển nhằm tới hai mục tiêu: Hiệu quả tài chính và hiệu quả xã hội.
Các dự án phát triển phải tạo ra thu nhập bù đắp toàn bộ chi phí và có lãi. Do
đó, các dự án này phải được thiết kế trên cơ sở tính toán được hiệu quả tài chính
trực tiếp. Khác với dự án thương mại, dự án phát triển phải thực hiện các mục tiêu
xã hội như phát triển cơ sở hạ tầng, thay đổi cơ cấu kinh tế…Chủ đầu tư thường là
Nhà nước (hoặc các cơ quan phát triển) nên việc thực hiện đa mục tiêu là tất yếu đối
với dự án phát triển.
8
.
Các mục tiêu trong một số trường hợp lại mâu thuẫn với nhau, hoặc làm giảm
độ lớn của nhau. Chủ đầu tư vì vậy phải xác định nhóm mục tiêu cơ bản, có tính
thống nhất cao.
- Dự án phát triển nhận hỗ trợ trực tiếp từ Nhà nước.
Do tầm quan trọng đặc biệt đối với phát triển kinh tế, dự án phát triển thường
nhận hỗ trợ trực tiếp từ Nhà nước, như được ngân sách cấp vốn, được vay ưu đãi,
vay không cần tài sản đảm bảo, được Chính phủ bảo lãnh (miễn phí) khi vay vốn,
được đảm bảo vị thế độc quyền trong thời gian nhất định.
Thứ nhất, sản phẩm của dự án áp dụng giá độc quyền (có thể cao hoặc thấp
hơn giá thị trường) để đảm bảo dự án có lãi, hoặc để các doanh nghiệp sử dụng sản
phẩm của dự án có chi phí đầu vào thấp.
Thứ hai, được sử dụng nguồn tài nguyên quý hiếm của quốc gia mà nhiều dự
án thông thường khác không được phép sử dụng.
Thứ ba, vay với lãi suất thấp và thời gian dài, có thể ân hạn. Đầu tư theo dự án
phát triển có quy mô lớn, Nhà nước chỉ cấp vốn một phần, còn lại là vay các tổ chức
tài chính phát triển. Lãi suất cho vay thấp thể hiện hỗ trợ của Nhà nước cho các dự
án phát triển.
Thứ tư, áp dụng tỷ giá chính thức khác với tỷ giá phản ánh sự thiếu hụt ngoại tệ.
Thứ năm, được miễn thuế hoặc áp dụng mức thuế thấp. Những trợ cấp trên đã
chuyển giá thị trường thành giá ngầm (bù lỗ, kiểm soát giá, lãi suất và tỷ giá, xác

định tiền lương, trợ cấp). Điều này làm cho dự án phát triển có lợi thế so sánh với
các dự án khác, cho phép thực hiện hiệu quả xã hội (mà sẽ làm giảm hiệu quả tài
chính), hoặc chống đỡ rủi ro tốt hơn. Tuy nhiên những ưu đãi này đã gây khó khăn
trong việc đánh giá hiệu quả tài chính cũng như xã hội của dự án.
1.2.2 Khái niệm, đặc điểm của tín dụng phát triển.
Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả. Tín dụng xuất
phát từ tiếng latinh có nghĩa là sự tin tưởng (credit). Tín dụng là sự chuyển nhượng
tạm thời một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ từ người sở hữu sang
người sử dụng, sau một thời gian nhất định trả lại với một lượng lớn hơn.
9
.
Tín dụng có 3 đặc điểm cơ bản mà nếu thiếu một trong ba đặc điểm này thì
không còn là phạm trù tín dụng nữa, đó là:
- Có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị từ người này sang
người khác.
- Sự chuyển giao này mang tính chất tạm thời.
- Khi hoàn lại lượng giá trị đã chuyển giao cho người sở hữu phải kèm theo
một lượng giá trị dôi thêm gọi là lợi tức.
Tín dụng ngân hàng là một hình thức phát triển cao của tín dụng, tuy nhiên nó vẫn
giữ nguyên được những bản chất ban đầu của quan hệ tín dụng. Tín dụng ngân hàng
được hiểu là quan hệ vay mượn lẫn nhau theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi theo
một thời gian nhất định, giữa một bên là ngân hàng và một bên là các cá nhân, các tổ
chức kinh tế, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức tín dụng, các ngân hàng khác.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm
đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hoá
trong các quy định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN):
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã
thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo đúng mục đích đã thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng.

Đối với NHPT thì hoạt động chủ yếu của NHPT là tài trợ cho các dự án phát
triển (tín dụng phát triển)- đó là sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các hình thức
tín dụng để tài trợ cho các dự án phát triển thuộc lĩnh vực được Nhà nước
khuyến khích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
Bên cạnh các đặc điểm chung, hoạt động tín dụng phát triển của NHPT có các
đặc điểm thể hiện sự khác biệt rõ nét so với hoạt động tín dụng khác như sau:
- Về đối tượng: Hoạt động tín dụng phát triển chỉ tập trung vào các dự án phát
triển được Nhà nước khuyến khích trong từng thời kỳ trong khi các hoạt động tín
dụng khác có thể đáp ứng cho mọi loại khách hàng, mọi dự án thuộc mọi ngành
nghề, lĩnh vực.
10
.
- Nguyên tắc: không cạnh tranh với các NHTM, chỉ tài trợ cho các dự án có
khả năng thu hồi vốn trực tiếp, phù hợp với quy hoạch và các mục tiêu ưu tiên trong
chiến lược phát triển KT-XH của đất nước trong từng thời kỳ.
- Hoạt động tín dụng phát triển không vì mục đích lợi nhuận, do vậy yêu cầu
về lợi nhuận thấp hơn so với các NHTM nên lãi suất cho vay thường thấp hơn lãi
suất thị trường.
- Chủ thể: khác với các loại tín dụng khác, một chủ thể trong quan hệ tín dụng
này luôn là Nhà nước (NHPT - tổ chức được Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện), còn
trong các hình thức tín dụng khác thì không nhất thiết phải có chủ thể là Nhà nước.
- Tín dụng phát triển là một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước
đặc biệt trong lĩnh vực ĐTPT.
- Do thực hiện chính sách phát triển kinh tế theo mục tiêu của Chính phủ nên
hoạt động tín dụng phát triển được Nhà nước hỗ trợ mạnh mẽ về nguồn vốn thông
qua việc cấp vốn trực tiếp hoặc hỗ trợ trong huy động vốn. Đây là đặc điểm khác
biệt rất quan trọng so với các NHTM. Sự hậu thuẫn này có tác dụng nâng cao vị thế
của NHPT và tạo điều kiện thuận lợi để NHPT huy động được nhiều nguồn vốn với
lãi suất thấp để tài trợ cho các dự án phát triển.
- Về quy mô, thời hạn: Do tập trung vào các dự án phát triển nên hoạt động tín

dụng phát triển thường có quy mô vốn lớn, thời hạn dài, thậm chí có thể dài tới vài
chục năm.
- Các ưu đãi khác: Tín dụng phát triển thường có lãi suất thấp, các điều kiện
đảm bảo tiền vay và các điều kiện tín dụng khác thường thông thoáng hơn.
1.2.3 Các hình thức của tín dụng phát triển.
Tín dụng phát triển bao gồm các hình thức: cho vay các dự án phát triển
và bảo lãnh.
1.2.3.1 Cho vay các dự án phát triển.
Cho vay các dự án phát triển là việc NHPT cho các chủ đầu tư vay vốn để
thực hiện các dự án phát triển.
11
.
 Việc cho vay các dự án phát triển được thực hiện qua các bước sau:
- Thẩm định trước khi tài trợ (thẩm định chủ đầu tư, dự án vay vốn).
- Tìm kiếm nguồn tài trợ thích hợp.
- Xác định phương thức tài trợ.
- Ký kết hợp đồng tín dụng.
- Giải ngân giám sát, thu nợ và điều chỉnh dự án.
 Nguồn vốn để cho vay các dự án phát triển bao gồm:
- Nguồn vốn do NSNN cấp cho NHPT.
- Nguồn vốn huy động: phát hành trái phiếu, huy động tiền gửi, vốn vay của
các tổ chức và nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật.
 Các điều kiện tín dụng:
- Quy mô và cơ cấu và thời hạn: phù hợp với đặc điểm của tín dụng phát triển,
thời hạn cho vay thường dài và số vốn cho vay lớn. Việc trả nợ của dự án thực hiện
trong nhiều kỳ và kéo dài trong nhiều năm. Vốn tín dụng phát triển thường chiếm tỷ
lệ cao trong tổng các nguồn vốn tham gia đầu tư nhưng không phải là đáp ứng toàn
bộ nhu cầu vốn đầu tư, các chủ đầu tư phải huy động thêm từ các nguồn vốn khác
để đầu tư dự án.
- Lãi suất cho vay: lãi suất cho vay được xác định trên cơ sở mức độ rủi ro của

dự án và mức độ ưu đãi của Nhà nước đối với ngành nghề lĩnh vực mà dự án đầu tư.
Lãi suất cho vay thường thấp hơn lãi suất thị trường và có thể cố định hoặc thả nổi
tuỳ theo đặc điểm của dự án và khả năng quản lý rủi ro (QLRR) của NHPT. thường
thấp hơn so với lãi suất cho vay của NHTM.
- Đảm bảo tiền vay: Điều kiện đảm bảo tiền vay thường đơn giản và “thông
thoáng” hơn so với tín dụng của NHTM, các tài sản đảm bảo tiền vay thường là các
tài sản hình thành từ vốn vay…
1.2.3.2 Bảo lãnh.
Bảo lãnh là việc NHPT (tổ chức bảo lãnh) cam kết với TCTD cho vay vốn về
việc trả nợ đầy đủ, đúng hạn của bên đi vay. Trong trường hợp bên đi vay không trả
hoặc trả nợ không đúng hạn, NHPT sẽ trả nợ thay cho bên đi vay.
12
.
- Thời hạn bảo lãnh, số vốn bảo lãnh và điều kiện bảo lãnh được xác định
tương tự như đối với cho vay các dự án phát triển trên cơ sở thoả thuận của các bên.
Tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro của dự án, bên đi vay có thể phải có tài sản bảo đảm
cho bảo lãnh.
- Chủ đầu tư phải trả phí bảo lãnh cho tổ chức bảo lãnh (NHPT).
- Trường hợp tổ chức bảo lãnh phải trả nợ thay cho bên đi vay thì sau khi trả
nợ thay, tổ chức bảo lãnh được quyền tiếp nhận khoản tín dụng đó và bên đi vay
phải nhận nợ bắt buộc đối với tổ chức bảo lãnh và tổ chức bảo lãnh được quyền
thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ theo thoả thuận đã ký ban đầu và theo các quy
định của pháp luật.
1.3 Hạn chế rủi ro tín dụng của Ngân hàng phát triển.
1.3.1 Khái niệm rủi ro tín dụng của Ngân hàng phát triển.
Cho đến nay có rất nhiều quan niệm về khác nhau về rủi ro, chẳng hạn rủi ro
(risk) là một sự không chắc chắn (uncertainty) hay một tình trạng bất ổn. Tuy nhiên,
không phải sự không chắc chắn nào cũng là rủi ro. Chỉ có những tình trạng không
chắc chắn nào có thể ước đoán được xắc suất xảy ra mới được xem là rủi ro. Để có
thể đo lường được, rủi ro được định nghĩa là sự khác biệt giữa giá trị thực tế và giá

trị kỳ vọng; hoặc rủi ro là khả năng sảy ra tổn thất ngoài dự kiến; hoặc rủi ro là
những biến cố không mong đợi xảy ra làm thiệt hại về tài sản, thu nhập trong quá
trình kinh doanh…Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng mọi quan điểm
đều thống nhất và đưa ra cách hiểu chung là: “Rủi ro là khả năng xảy ra các biến cố
không lường trước làm cho giá trị thực tế khác biệt so với giá trị kỳ vọng”. Rủi ro là
bạn đường trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung trong đó có
các ngân hàng.
Trong hoạt động của các ngân hàng, rủi ro ngân hàng luôn gắn liền với việc
giảm sút thu nhập ngoài dự kiến. Theo các loại tài sản, rủi ro của ngân hàng gồm
có: rủi ro trong quản lý và kinh doanh ngân quỹ, rủi ro tín dụng (RRTD), rủi ro
trong quản lý và kinh doanh chứng khoán, rủi ro trong cho thuê và rủi ro đối với các
tài sản khác của ngân hàng. Phân chia rủi ro theo nguyên nhân và các nhân tố tác
13
.
động - gồm có rủi ro do người vay không trả nợ cho ngân hàng, rủi ro do lãi suất
thay đổi, rủi ro do tỷ giá thay đổi, rủi ro do các nguyên nhân khác như mất trộm,
cháy, giấy tờ giả…
Trong số các loại rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt thì RRTD là loại rủi ro
chiếm tỷ lệ lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề nhất đối với hoạt
động của ngân hàng. Hoạt động tín dụng tạo ra phần lớn nguồn thu cho ngân hàng
song cũng có thể mang lại những hậu quả nặng nề nhất. RRTD là rủi ro phức tạp,
quản lý và phòng ngừa khó khăn nhất. Nó đòi hỏi ngân hàng phải có những giải
pháp đồng bộ, hữu hiệu mới có thể hạn chế, ngăn ngừa bớt rủi ro, giảm tối thiểu
thiệt hại có thể xảy ra.
RRTD đã được nhiều tác giả nghiên cứu và đưa ra nhiều quan niệm về rủi ro
tín dụng:
- RRTD đươc hiểu là những tổn thất do khách hàng không trả được nợ hoặc
giảm sút chất lượng tín dụng của những khoản vay.
- RRTD phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc
và lãi của khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng hạn.

- RRTD là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi hoặc hoàn trả
vốn gốc so với thời gian đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. RRTD tức là việc chi
trả bị trì hoãn hoặc tồi tệ hơn là không hoàn trả được toàn bộ.
- Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc
NHNN thì RRTD trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng là khả năng
xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng đó do khách hàng
không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Như vậy từ các quan điểm trên, có thể hiểu chung nhất về RRTD đó là: “Rủi
ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng do
khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc trả không đầy đủ vốn và lãi”.
Khi thực hiện cho vay một khách hàng cụ thể, ngân hàng không dự kiến là
khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa
rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, tỷ lệ tổn
14
.
thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược
hoạt động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tỷ lệ tổn thất dự kiến, ngân hàng
coi đó là một thành công trong quản lý.
RRTD có thể được phân thành các loại sau đây:
 Rủi ro sai hẹn: đó là RRTD khi người vay sai hẹn trong thực hiện nghĩa vụ
trả nợ theo hợp đồng, bao gồm gốc và/hoặc lãi vay. Sự sai hẹn này là do trễ hạn
(delayed payment).
 Rủi ro mất vốn: đó là RRTD khi người vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ
theo hợp đồng, bao gồm và/hoặc lãi vay (nonpayment).
Là một loại hình tổ chức tín dụng, do vậy RRTD của NHPT về bản chất cũng
giống như RRTD của các NHTM nói chung. Trong các hoạt động tín dụng của
NHPT thì hoạt động cho vay trung, dài hạn đối với các dự án phát triển là hoạt động
chủ yếu, do vậy trong Luận văn khi đề cập đến RRTD được hiểu là RRTD trong
hoạt động cho vay trung - dài hạn đối với các dự án phát triển của NHPT. Do vậy ta
có thể hiểu: Rủi ro tín dụng của NHPT là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài

dự kiến cho NHPT do khách hàng vay vốn tín dụng phát triển không trả đúng
hạn, không trả hoặc trả không đầy đủ vốn và lãi.
Tuy nhiên do đặc điểm hoạt động của NHPT và các dự án phát triển mà
ngân hàng tài trợ nên RRTD của NHPT thường cao hơn so với các NHTM. Cụ
thể như sau:
- Mức độ tập trung vốn của NHPT thường cao: điều này là do bản thân các
dự án phát triển thường là các dự án có quy mô lớn và chỉ thuộc một số ngành
nghề, lĩnh vực, địa bàn nhất định theo quy định của Chính phủ. Do vậy mức độ tập
trung vốn của NHPT khi tài trợ cho các dự án phát triển thường cao, nên RRTD
cũng cao hơn.
- Các dự án phát triển thường là các dự án có mức độ rủi ro cao (do quy mô
vốn lớn, thời gian thực hiện dài…); khả năng sinh lời thấp và thường thực hiện đa
mục tiêu (hiệu quả tài chính và hiệu quả xã hội), do vậy việc tài trợ cho các dự án
phát triển cũng có mức độ rủi ro cao hơn.
15
.
- Nhiều dự án phát triển được thực hiện tại các vùng khó khăn, đặc biệt khó
khăn và đầu tư vào các ngành, sản phẩm mới…nên có mức độ rủi ro rất cao. Do vậy
hoạt động tín dụng phát triển của NHPT khi tài trợ cho các dự án này cũng có
RRTD cao hơn so với hoạt động tín dụng của NHTM.
- Phần lớn các chủ đầu tư các dự án phát triển vay vốn tại NHPT thường không
có tài sản đảm bảo, tài sản đảm bảo gần như chỉ gồm các tài sản hình thành từ vốn
vay, thậm chí nhiều tài sản có tính thanh khoản rất thấp (như đường xá, cầu
cống… ). Do vậy, RRTD của NHPT khi tài trợ các dự án này cũng thường lớn hơn.
1.3.2 Những chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng của Ngân hàng phát triển.
Cũng giống như các chỉ tiêu phản ánh RRTD của NHTM, người ta thường sử
dụng các chỉ tiêu sau đây để phản ánh RRTD của NHPT:
 Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn:
Nợ quá hạn (NQH) là khoản nợ mà khách hàng không trả được một phần hoặc
toàn bộ gốc và/hoặc lãi khi đã đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Khi

một món nợ không trả được vào kỳ hạn nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ
được chuyển thành nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh chỉ số tương đối giữa dư
nợ mà ngân hàng không thu hồi được đúng thời hạn như đã cam kết trong các hợp
đồng tín dụng và tổng dư nợ mà ngân hàng đã cho vay. Tỷ lệ nợ quá hạn được xác
định như sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn = Dư nợ quá hạn * 100%
Tổng dư nợ
Khi chỉ tiêu nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn tăng, RRTD của ngân hàng cũng
gia tăng.
 Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi:
Nợ khó đòi là khoản nợ qúa hạn và kèm theo một số tiêu chí khác như quá một
kỳ gia hạn nợ, hoặc không có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản không bán được, con nợ
thua lỗ triền miên, phá sản…Theo quy định tại Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN
và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN Việt Nam thì dư nợ
cho vay của các TCTD bao gồm các loại sau:
16
.
- Nhóm 1, Nợ đủ tiêu chuẩn, gồm: Khoản nợ trong hạn, được TCTD đánh giá
có khả năng thu hồi đầy đủ gốc, lãi đúng hạn; Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày
và được TCTD đánh giá là có khả năng thu đồi đầy đủ gốc, lãi quá hạn và thu hồi
đầy đủ gốc, lãi đúng thời hạn còn lại; Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 1
theo quy định tại Khoản 2 Điều 6 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN (được sửa đổi
tại Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN).
- Nhóm 2, Nợ cần chú ý, gồm: Khoản nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày; Các
khoản nợ quá điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu; Các khoản nợ được phân loại vào
nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3 Điều 6 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN (được
sửa đổi tại Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN).
- Nhóm 3, Nợ dưới tiêu chuẩn, gồm: Khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày;
Các khoản nợ quá điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ
hạn lần đầu được phân vào nhóm 2; Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do

khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng; Các khoản nợ
được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 Điều 6 Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN (được sửa đổi tại Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN).
- Nhóm 4, Nợ nghi ngờ, gồm: Khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày; Các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả
nợ được cơ cấu; Các khoản nợ cơ cấu thời hạn trả nợ lần thứ hai; Các khoản nợ
được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 Điều 6 Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN (được sửa đổi tại Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN).
- Nhóm 5, Nợ có khả năng mất vốn, gồm: Khoản nợ quá hạn từ trên 360 ngày;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn trên 90 ngày theo thời hạn
trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; Các khoản nợ cơ cấu thời hạn trả nợ lần thứ hai quá
hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần 2; Các khoản nợ được cơ cấu lại lần thứ
ba trở lên, kể cả chưa hoặc đã quá hạn; Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý; Các
khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 Điều 6 Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN (được sửa đổi tại Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN).
Các khoản nợ khó đòi (Nợ xấu) bao gồm các khoản nợ từ Nhóm 3 đến 5.
17
.
Tỷ lệ nợ khó đòi là chỉ số tương đối giữa nợ khó đòi trên tổng dư nợ của ngân
hàng. Tỷ lệ nợ khó đòi được xác định theo công thức:
Dư nợ khó đòi
Tỷ lệ nợ khó đòi = * 100%
Tổng dư nợ
Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh RRTD
mà các ngân hàng đặc biệt quan tâm. Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho ngân hàng
vì hi vọng thu lại tiền vay trở nên mong manh, ngân hàng cần phải có các biện pháp
hữu hiệu để giải quyết.
 Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng:
Dự phòng rủi ro tín dụng
Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng = * 100%

Tổng dư nợ
Tỷ lệ này phản ánh số dư quỹ dự phòng rủi ro (DPRR) mà ngân hàng trích lập
so với tổng dư nợ của ngân hàng. Chỉ tiêu này phản ánh sự chuẩn bị của ngân hàng
cho các khoản tổn thất tín dụng thông qua việc lập quỹ dự phòng RRTD hàng năm.
Việc trích lập DPRR dựa trên kết quả phân loại dư nợ của ngân hàng thành các
nhóm nợ khác nhau. Do vậy, khi chỉ tiêu này cao cũng thể hiện danh mục tín dụng
của ngân hàng có nhiều khoản cho vay cần chú ý.
 Tỷ lệ nợ xoá trong năm:
Nợ xoá trong năm
Tỷ lệ nợ xóa trong năm = * 100%
Tổng dư nợ
Các khoản cho vay được xoá nợ là những khoản cho vay được ngân hàng
tuyên bố là không còn giá trị và được xoá khỏi sổ sách. Tỷ lệ này phản ánh tổn thất
thực tế của ngân hàng vì đây là những khoản nợ mà ngân hàng sẽ bị mất vốn vì
không còn khả năng thu hồi. Do vậy, nếu chỉ tiêu này tăng thì RRTD của ngân hàng
là rất lớn.
18
.
 Điểm của khách hàng:
Thông qua phân tích tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh, hiệu quả
dự án, mối quan hệ và uy tín của khách hàng….ngân hàng lập hồ sơ về khách hàng,
xếp loại và cho điểm. Khách hàng loại A hoặc điểm cao, RRTD thấp, khách hàng loại
C hoặc điểm thấp, RRTD cao. Chỉ tiêu này được xây dựng dựa trên các dấu hiệu rủi
ro mà ngân hàng xây dựng. Điểm của khách hàng cho thấy rủi ro “tiềm ẩn”.
 Các khoản cho vay có vấn đề:
Mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ quá hạn, song trong quá trình
theo dõi, nhân viên ngân hàng nhận thấy nhiều khoản tài trợ đang có dấu hiệu kém
lành mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá hạn. Khoản cho vay có vấn đề được xây
dựng trên qui định của ngân hàng.
 Tính kém đa dạng của tín dụng:

Đa dạng hoá là biện pháp hạn chế rủi ro. Những thay đổi trong chu kỳ của
người vay là khó tránh khỏi. Nếu ngân hàng tập trung tài trợ cho một nhóm khách
hàng, của một ngành, hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn so với đa dạng hoá.
1.3.3 Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng của Ngân hàng phát triển.
RRTD trong hoạt động tín dụng phát triển của NHPT có thể do nhiều nguyên
nhân tạo ra, nhưng nhìn chung bao gồm các nhóm nguyên nhân sau:
1.3.3.1 Nguyên nhân thuộc về dự án phát triển và cơ chế chính sách về tín dụng
phát triển .
Nhóm nguyên nhân chính dẫn đến RRTD của NHPT là do đặc điểm của bản
thân các dự án phát triển mà ngân hàng tài trợ và cơ chế chính sách về tín dụng phát
triển của Nhà nước. Có thể khái quát một số nguyên nhân sau:
- Thời hạn cho vay của NHPT đối với các dự án phát triển thường rất dài,
trung bình là 10 năm, có dự án lên tới 20 – 30 năm. Điều này làm cho hoạt động tín
dụng phát triển trở nên rủi ro do NHPT không thể lường trước được hết những yếu
tố biến động xẩy ra trong quá trình đầu tư và vận hành của dự án.
- Các dự án phát triển thường là các dự án có quy mô lớn và chỉ thuộc một số
ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn cần ưu đãi theo quy định của Chính phủ, do vậy việc
19
.
tài trợ cho các dự án phát triển của NHPT thường có mức độ tập trung vốn cao, nên
mức độ rủi ro cũng cao hơn.
- Các dự án phát triển thường gắn liền với chính sách khuyến khích phát triển
kinh tế của quốc gia, trong đó nhiều dự án phát triển tập trung vào những đối tượng
như: khuyến khích đầu tư vào các vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn; khuyến khích
sản xuất các mặt hàng mới, xâm nhập vào thị trường mới…. do vậy các dự án này
có mức độ rủi ro rất cao. Điều đó dẫn đến hoạt động tín dụng phát triển cũng chứa
đựng những rủi ro cao hơn.
- Do thực hiện mục tiêu khuyến khích phát triển, nên lãi suất cho vay vốn tín
dụng phát triển thường thấp hơn so với lãi suất thị trường. Do vậy xuất hiện tâm lý
chiếm dụng nguồn vốn “rẻ” của chủ đầu tư, từ đó dẫn đến RRTD cho NHPT. Bên

cạnh đó cũng xuất hiện tâm lý trông chờ, ỷ lại vào nguồn vốn tín dụng phát triển mà
ít quan tâm đến hiệu quả của dự án dẫn đến một số dự án được đầu tư kém hiệu quả,
khả năng thu hồi vốn vay thấp. Điều này càng nghiêm trọng hơn đối với các dự án
do các DNNN và Chính quyền địa phương làm chủ đầu tư.
- Các chủ đầu tư vay vốn tín dụng phát triển tại NHPT thường không có tài sản
đảm bảo tiền vay, ngoại trừ các tài sản hình thành từ vốn vay. Tuy nhiên, các tài sản
này lại có tính thanh khoản rất thấp, do vậy nguy cơ RRTD của NHPT là rất cao.
- Là tổ chức tín dụng chính sách, mạng lưới của NHPT được tổ chức theo cấp
chính quyền, và tại địa phương ảnh hưởng của chính quyền đối với quyết định đầu
tư của NHPT là rất cao. Về mặt nguyên lý, dự án phát triển có ảnh hưởng lớn đến
sự phát triển kinh tế của quốc gia và địa phương (hoặc ngành) nơi có dự án thường
được hưởng lợi trực tiếp (như tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập…). Vì vậy, trên
thực tế, nhiều địa phương, ngành rất muốn có dự án phát triển. Do có quyền, nên
nhiều địa phương hoặc Bộ chủ quản đã quyết định đầu tư cho dự án phát triển và
tạo sức ép đối với NHPT coi nhẹ hiệu quả tài chính của dự án.
- Ngoài ra do danh mục các ngành nghề được ưu đãi thay đổi theo từng thời
kỳ, các sản phẩm của ngân hàng kém đa dạng nên NHPT khó duy trì được mối quan
hệ lâu dài với khách hàng…cũng là một nguyên nhân dẫn đến RRTD cho NHPT.
20
.
1.3.3.2 Nguyên nhân từ phía Ngân hàng phát triển.
Đây là nhóm nguyên nhân quan trọng dẫn tới RRTD. Rất nhiều các khoản
RRTD có thể phòng tránh nếu bản thân NHPT chủ động hạn chế tốt các nguyên
nhân chủ quan. Điều này được phản ánh qua thực tế hoạt động của nhiều NHPT
trên thế giới với tỷ trọng nợ xấu chiếm ở mức rất thấp trong tổng dư nợ khi họ chú
trọng các biện pháp ngăn chặn RRTD do chủ quan, bao gồm:
- Sự thiếu chặt chẽ, hợp lý trong quy chế hoạt động hoặc quy trình nghiệp vụ
cho vay của NHPT.
Đây là một trong số các tiền đề để khách hàng lợi dụng lừa đảo, chiếm đoạt
vốn của ngân hàng. Hoạt động tín dụng phát triển gắn liền với các chiến lược, chính

sách phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, địa phương trong từng thời kỳ và có
quan hệ mật thiết với các quy định của Nhà nước về đầu tư, xây dựng, đấu
thầu… và những quy định này thường xuyên được sửa đổi bổ sung, nên yêu cầu
về cải tiến, bổ sung và chỉnh lý quy định, quy trình hoạt động là nhu cầu cấp
thiết. Ngân hàng thiếu một chính sách cho vay rõ ràng, phù hợp với các chính
sách phát triển kinh tế - xã hội và các quy định khác có liên quan của Nhà có thể
dẫn tới hậu quả nghiêm trọng về RRTD. Một chính sách cho vay không đồng bộ,
thống nhất, đầy đủ dẫn tới việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tiềm ẩn nguy
cơ rủi ro cho NHPT.
Để thu hút khách hàng, tăng thu nhập, NHPT có thể bỏ qua các quy trình tín
dụng, hạ thấp tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, lẩn tránh hàng rào kiểm soát, thông
tin sai lệch…nên gặp phải rủi ro.
- Trình độ quản lý của ngân hàng không đảm bảo.
Trình độ quản lý yếu thể hiện ở việc buông lỏng trong quản lý, khoán trắng
hoặc phó mặc cho cán bộ tín dụng trong quá trình xét duyệt các khoản vay, kiểm
soát cán bộ chưa sâu sát, xử lý cán bộ làm sai chưa nghiêm, đặc biệt là sai phạm
trong quy trình nghiệp vụ tín dụng. Trong khi các dự án phát triển thường là các dự
án lớn, phức tạp và có mức độ rủi ro cao, nhưng một số NHPT còn để tình trạng
một cán bộ phải quản lý quá nhiều khách hàng với nhiều ngành nghề, nhiều vùng
khác nhau nên không thể tìm hiểu và theo dõi chi tiết từng khách hàng.
21
.
- Chất lượng của đội ngũ cán bộ bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp
không đảm bảo.
Nguồn nhân lực với trình độ và kinh nghiệm non kém khiến NHPT có thể đưa
ra quyết định cho vay sai lầm, bởi vì sự an toàn của các khoản vay không chỉ phụ
thuộc vào các quy định cho vay mà còn phụ thuộc vào bản thân hoạt động của
khách hàng, của dự án phát triển. Việc đánh giá khách hàng không chỉ đơn thuần
dựa trên các con số báo cáo mà còn cần dựa trên kinh nghiệm thực tiễn, phân tích
và phán đoán về khả năng, cơ hội thành công của khách hàng. Việc đánh giá hiệu

quả của dự án phát triển thường rất phức tạp do tính chất đa mục tiêu của dự án phát
triển. Do vậy việc đánh giá không đúng về hiệu quả, đặc biệt là hiệu quả tài chính
của dự án phát triển, và do sự “nhập nhèm” giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả xã
hội trong quá trình tài trợ cho dự án phát triển là một nguy cơ dẫn đến RRTD.
Nguồn nhân lực có trình độ cao là một yếu tố quyết định sự phát triển của
NHPT. Các NHPT lớn trên thế giới đều rất quan tâm đến việc tuyển chọn cán bộ có
trình độ cao, đồng thời thường xuyên đào tạo lại cán bộ để bắt kịp tình hình thực tế.
Vì vậy, họ luôn đáp ứng được nhu cầu phát triển của thị trường, đủ sức thẩm định
các dự án phát triển, tránh được rủi ro.
Mặt khác, có những nhân viên tín dụng chưa hiểu hết tầm quan trọng của
nghiệp vụ tín dụng nên làm bừa, làm ẩu, thiếu tinh thần trách nhiệm dẫn tới việc
cho vay mà không thu hồi được nợ. Do các dự án phát triển thường được tài trợ ưu
đãi nhất là về lãi suất nên nhiều chủ đầu tư dự án đã mua chuộc, lôi kéo các cán bộ
NHPT để được sử dụng nguồn vốn tín dụng phát triển của Nhà nước.
1.3.3.3 Nguyên nhân thuộc về người vay.
Nguyên nhân từ phía người đi vay cũng là một trong những nguyên nhân
quan trọng gây ra RRTD cho NHPT. Đây là rủi ro khi người vay không thực hiện
đúng hợp đồng tín dụng nguyên nhân là do trình độ yếu kém của người vay trong
dự đoán các vấn đề kinh tế xã hội, yếu kém trong quản lý vận hành các dự án phát
triển, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng.
22
.
Do các dự án phát triển thường là các dự án lớn, phức tạp, và thường đầu tư
vào các ngành nghề, lĩnh vực mới, các vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn; thời gian
đầu tư thường dài….nên chủ đầu tư rất khó dự đoán được những biến động về kinh tế
xã hội ảnh hưởng tới dự án, việc đánh giá hiệu quả của dự án phát triển thường gặp
nhiều khó khăn. Do trình độ yếu kém của chủ đầu tư trong việc dự đoán tình hình
kinh tế- xã hội, trong thực hiện và vận hành các dự án phát triển dẫn đến nhiều dự án
không có hiệu quả và không trả được nợ hoặc trả không đầy đủ, đúng hạn cho NHPT.
Do tính chất ưu đãi trong tài trợ cho các dự án phát triển đặc biệt là về lãi suất

nên nhiều chủ đầu tư nhất là các DNNN và chính quyền địa phương thường có tâm
lý ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước; cố tình chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc sử
dụng vốn vay càng lâu càng tốt, hoặc sử dụng vốn sai mục đích….
Tài trợ cho các dự án phát triển là sự tài trợ ưu đãi, có hạn chế về đối tượng sử
dụng. Nên để được sử dụng nguồn vốn này, nhiều chủ đầu tư cố tình cung cấp
thông tin sai sự thật về dự án phát triển, năng lực của chủ đầu tư…., thậm chí lôi
kéo, mua chuộc cán bộ ngân hàng.
Bên cạnh đó, việc thiếu cam kết của người hưởng lợi hoặc sự ủng hộ của chính
quyền địa phương cũng là nhân tố dẫn đến RRTD cho NHPT. Đầu tư phát triển tạo
nên các công trình lớn, khó hoặc không thể di dời. Các nhân tố chính trị xã hội địa
phương, vì vậy ảnh hưởng lớn, lâu dài đến hiệu quả đầu tư. Người nông dân, vì lý
do nào đó không cung cấp nguyên liệu cho nhà máy, chính quyền không ủng hộ nhà
máy trong việc đảm bảo an ninh….đều làm giảm hiệu quả của công cuộc đầu tư,
gây ra RRTD cho NHPT.
1.3.3.4 Nguyên nhân khách quan khác.
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm cho họ mất khả
năng thanh toán cho NHPT. Ví dụ như, thiên tai, chiến tranh hoặc những thay đổi
tầm vĩ mô (thay đổi chính sách kinh tế, thay đổi về môi trường pháp lý, môi trường
kinh tế, lạm phát, ….) vượt quá tầm kiểm soát của người vay và NHPT.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người vay, tạo
thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người vay, với bản lĩnh của mình có
23

×