Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ trong truyền kỳ mạn lục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.31 KB, 114 trang )

1
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Lý do khoa học
Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là một trong những đỉnh
cao của văn học trung đại Việt Nam. Ngay từ khi mới xuất hiện, tập truyện đã
được độc giả đương thời đánh giá cao như Lê Quý Đôn ca ngợi “Văn từ thanh
lệ”, Vũ Phương Đề, Phan Huy Chú khẳng định là một “thiên cổ kỳ bút”; “áng
văn hay của bậc đại gia với lời lẽ tốt đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi khen”.
Truyền kỳ mạn lục ra đời là một bước đột khởi trong nền văn xuôi dân tộc,
đánh dấu sự trưởng thành của truyện ngắn Việt Nam trung đại, đánh dấu sự
chuyển biến từ văn học mang tính chức năng sang văn xuôi nghệ thuật.
Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm đề cập đến nhiều vấn đề của xã hội,
trong đó nổi bật là vấn đề người phụ nữ. Trong văn học trung đại Việt Nam,
Nguyễn Dữ là người đầu tiên phản ánh người phụ nữ với đầy đủ diện mạo,
tâm tư, tình cảm, số phận và cả những khát vọng của họ. So với thời đại,
Nguyễn Dữ là người có cái nhìn mới mẻ và táo bạo về người phụ nữ. Không
chỉ đề cập đến số phận của họ mà ơng cịn lên tiếng địi hỏi quyền sống,
quyền hưởng hạnh phúc tự nhiên chính đáng của con người, đặc biệt là hạnh
phúc chăn gối. Mặc dù Nguyễn Dữ là người xuất thân từ Nho giáo nhưng
hình ảnh người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục có lúc trái với quan niệm
của nhà nho. Với tinh thần nhân đạo cao cả, Nguyễn Dữ trong khơng ít trường
hợp, dù là vơ thức hay có ý thức, đã khơng chỉ tái hiện hình tượng người phụ
nữ trinh liệt với cảm hứng ngợi ca mà còn cố gắng chỉ ra bi kịch và sự bất
công của xã hội nam quyền và sự hy sinh đầy xót xa của những người phụ nữ
ấy. Mặt khác, khi miêu tả những người phụ nữ tự do, bng thả trong tình

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên






2
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

yêu, vô thức hay hữu thức, nhà văn lại đưa những dịng ngợi ca cơng khai
quyền sống của người phụ nữ về thân xác. Tuy nhiên khơng dễ gì để thể hiện
những vấn đề về người phụ nữ trong xã hội phong kiến, vả lại bản thân ơng
lại xuất thân từ cửa Khổng sân Trình cho nên một trong những phương thức
để giải thoát số phận bi kịch và khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ trong
tác phẩm đó là Nguyễn Dữ đã sử dụng rất thành công yếu tố kỳ ảo. Sử dụng
yếu tố kỳ ảo là cách để ơng tránh được búa rìu của chế độ hà khắc. Ông sử
dụng yếu tố kỳ ảo khơng thuần t là đưa ra những tình tiết ly kì, hấp dẫn
người đọc mà dưới cái vỏ hình thức kỳ ảo là những vấn đề xã hội có ý nghĩa
to lớn thông qua số phận những người phụ nữ trong truyện. Trong Truyền kỳ
mạn lục, Nguyễn Dữ đã dùng hình thức kỳ ảo làm phương tiện để miêu tả và
phản ánh hiện thực và ngược lại, lấy yếu tố hiện thực làm nền cho sự tưởng
tượng kỳ ảo. Có thể nói rằng, Nguyễn Dữ là người đầu tiên đã đem cho truyện
kỳ ảo màu sắc bi kịch gắn liền với cuộc sống hiện thực. Sự chú ý đến số phận
con người đặc biệt là số phận người phụ nữ đã đánh dấu sự xuất hiện của chủ
nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam mà Nguyễn Dữ là một trong những
người khởi đầu. Dưới cái vỏ hình thức kì ảo là những vấn đề xã hội có ý
nghĩa to lớn thông qua số phận các nhân vật người phụ nữ trong truyện. Trong
Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã dùng hình thức kỳ ảo làm phương tiện để
miêu tả và phản ánh hiện thực và ngược lại, lấy yếu tố hiện thực làm nền cho
sự tưởng tượng kỳ ảo.
Vì vậy viêc nghiên cứu vai trị của yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát

vọng của nguời phụ nữ là một cơng việc cần thiết và có ý nghĩa khẳng định vị
trí vai trị của Nguyễn Dữ trong xây dựng nhân vật. Đồng thời đi sâu tìm hiểu
vào vấn đề này giúp chúng ta có cái nhìn tồn diện hơn về giá trị nội dung
cũng như giá trị nghệ thuật của áng thiên kỳ bút này.

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




3
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

1.2. Lý do thực tiễn
Với tư cách là tác phẩm được xếp vào loại đỉnh cao của văn học tự sự
Việt Nam thời trung đại, Truyền kỳ mạn lục đã được tuyển chọn giảng dạy ở
nhiều cấp học (Chuyện người con gái Nam Xương được học ở lớp 9, Chuyện
Chức phán sự ở đền Tản Viên được học ở lớp 10, tác phẩm được giới thiệu
trọn vẹn ở ngành văn các trường đại học và cao đẳng). Đây là tác phẩm đã tạo
được nhiều hứng thú cho cả người dạy và người học nhưng cũng là một tác
phẩm không dễ dàng chiếm lĩnh và cần phải được khám phá.
Bởi vậy nghiên cứu vấn đề đã nêu là một điều cần thiết và rất hữu ích
cho người viết được hiểu sâu hơn và giảng dạy tốt đạt hiệu quả tốt hơn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu nghệ thuật của Truyền kỳ mạn lục, PGS - TS Vũ Thanh một
nhà nghiên cứu dành rất nhiều tâm huyết để chỉ ra cả giá trị nội dung và nghệ
thuật của Truyền kỳ mạn lục. Với bài viết “Những biến đổi của yếu tố kì và
thực trong truyện ngắn truyền kỳ Việt Nam” [40], tác giả chỉ ra bút pháp đặc
trưng của thể truyền kỳ, sử dụng yếu tố “kỳ” không phải chỉ với chức năng vỏ

bọc che dấu dụng ý của nhà văn mà còn với tư cách là bút pháp nghệ thuật
mang tính đặc trưng của thể loại. Đó là cái cách tác giả phản ánh hiện thực
của cái “kỳ” Cũng liên quan đến vấn đề này trong bài viết “Thể loại truyện kỳ
ảo Việt Nam trung đại - Quá trình nảy sinh và phát triển đến đỉnh điểm”
[44, tr.767], PGS-TS Vũ Thanh đã chỉ ra vai trò của yếu tố kỳ ảo trong
Truyền kỳ mạn lục khi cho rằng bút pháp kỳ ảo cho phép nhà văn khám phá
tâm hồn nhân vật ở một thế giới mà nó lạc vào, với một hồn cảnh và những
thử thách mới. Cũng trong thế giới đó, nhà văn đã thể hiện được lý tưởng của
mình về lẽ cơng bằng xã hội nơi mà cái ác bị trừng phạt, cái thiện cuối cùng
đã chiến thắng - điều mà họ không đạt được trong cuộc sống thực tại. Ngoài
ra chuyển những vấn đề của đời sống hiện thực vào thế giới thần kỳ, Nguyễn

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




4
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

Dữ đã tạo ra một không gian tự do và sự sáng tạo. Ngòi bút của ông trở nên
mạnh bạo hơn khi tố cáo những mặt đen tối của xã hội - điều mà bút pháp
hiện thực rất khó đụng đến, nhất là trong xã hội phong kiến tập quyền
chuyên chế
Bài viết “Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ” [13], tác giả Nguyễn Phạm Hùng cũng đặt ra vấn đề người phụ
nữ với những khát khao hạnh phúc chân chính nhưng hầu hết họ không đạt
đựợc ở cuộc đời thực:“Niềm khát khao hạnh phúc gia đình là chủ đề chính
của nhiều truyện. Mâu thuẫn khát vọng hạnh phúc đó đối với các thế lực thù

địch tàn bạo chính là hạt nhân nghệ thuật của những truyện này. Người phụ
nữ hoặc vì chiến tranh phong kiến tàn khốc mà phải chịu thiệt thịi, khổ sở
(Chuyện Lệ Nương); hoặc vì kẻ quyền thế mà phải chịu cảnh rẽ thuý chia
uyên (Chuyện nàng Tuý Tiêu) hoặc vì nam quyền phong kiến mà phải chịu
cảnh chia lìa....Nhưng khát khao hạnh phúc chân chính của người phụ nữ
thường dẫn họ đến cái chết và thường là tự vẫn”
PGS-TS Trần Nho Thìn trong bài viết “Thi pháp truyện ngắn trung đại
Việt Nam”[42, tr.177] khi xem xét Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ thi pháp
đã cho rằng: “Xét về thi pháp, phải nghĩ đến vai trò của kỳ ảo như là một biện
pháp đối phó với sự cấm kị” và tác giả cũng cho rằng “Nếu khơng đặt các
nhân vật nữ vào vị trí hồn ma, người của cõi âm, thì vị tất tác giả đã dám kể
lại những ý nghĩ và hành động vốn tự nhiên, phàm tục của các nhân vật, cả
nam lẫn nữ. Rõ ràng việc sử dụng yếu tố ma quái, kì ảo ở đây có ý nghĩa của
bức bình phong che chắn búa rìu dư luận của xã hội Nho giáo vốn được đinh
hướng theo lý tưởng quả dục, tiết dục”.
Tác giả Nguyễn Thuý Quỳnh trong bài viết “Nguyễn Dữ và vấn đề giải
phóng phụ nữ”[33] có nhận xét “Trong Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ bao
chứa sự mâu thuẫn lớn, giữa tinh thần bảo thủ của một nhà nho khi ông phê
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




5
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

phán tất cả những mối tình không phù hợp với lễ giáo, đạo đức phong kiếnvà sự thơng cảm, với hạnh phúc chính đáng của con người, khi ơng miêu tả
một cách say sưa về tình yêu đôi lứa hay mượn nhân vật để bày tỏ quan niệm
nhân sinh của mình. Nhưng cho dù mâu thuẫn, thì thái độ của ơng đối với

người phụ nữ vẫn tràn ngập một niềm thương cảm. Niềm thương cảm ấy xuất
phát từ một trái tim nhân hậu của người biết "thương người như thể thương
thân", đau nỗi đau thời cuộc nên xót xa cho thân phận con người - đó là
phẩm chất của một nhân cách lớn: nhân cách kẻ sĩ. Đó là lý do mà một nửa
số truyện trong Truyền kỳ mạn lục lấy phụ nữ và hạnh phúc của họ làm đề
tài. Và nhờ thế, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, người phụ nữ đã có mặt
đông đủ trong một tác phẩm văn học”.
GS. Bùi Duy Tân [39] có viết “Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục khơng phải
chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà cịn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy
trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Dữ đã có phần bảo lưu
những tư tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian, trong đó có tư
tưởng Phật giáo, Đạo giáo và chủ yếu là tư tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã
viết truyền kỳ để ít nhiều có thể thốt ra khỏi khn khổ của tư tưởng chính
thống đặng thể hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu tố
hoang đường, kỳ lạ. Ông mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, v.v. để lý giải một
cách rộng rãi những vấn đề đặt ra trong cuộc sống với những quan niệm
nhân quả, báo ứng, nghiệp chướng, luân hồi; ông cũng đã chịu ảnh hưởng
của tư tưởng nhân dân khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ, khi thể hiện đạo
đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi bật sự đối kháng giai cấp”.
Ngồi ra khơng thể không kể đến bài viết của học giả Trần Thị Băng
Thanh:“Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ...,
tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, khơng cịn
kỷ cương trật tự, vua chúa hơn ám, bề tơi thốn đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




6
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ

trong truyền kỳ mạn lục

đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách
nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người”.
Luận văn thạc sĩ của Kim Seona (1995) có liên quan đến nhân vật phụ nữ
nhưng mục đích của luận văn là chứng minh sự phát triển của thể loại truyền
kỳ và so sánh hình tượng phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
với những tác phẩm cùng thể loại.
Ngồi các hướng nghiên cứu đã trình bày ở trên một số nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước còn nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục theo hướng so sánh
tác phẩm với những sáng tác truyền kỳ khác trong khu vực các nước đồng
văn. Ở hướng nghiên cứu này, có thể điểm qua một số tác giả tiêu biểu như:
Phạm Tú Châu “Về mối quan hệ giữa Truyền kỳ mạn lục và Tiễn đăng tân
thoại”[5, tr.71]; Trần Ích Ngun có một cơng trình nghiên cứu khá đồ sộ về
“Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại với Truyền kỳ mạn lục” trên nhiều
phương diện từ nguồn gốc ảnh hưởng đến nội dung, nghệ thuật của cả hai tác
phẩm trong đó có đề cập đến yếu tố kỳ ảo trong hai tác phẩm này.(NXB Học
sinh thư cục Đài Loan 1990)
Nhìn chung lại, vấn đề vai trị của yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện số
phận người phụ nữ là một vấn đề đã được các nhà nghiên cứu quan tâm. Phần
lớn các bài viết, các cơng trình nghiên cứu về Truyền kỳ mạn lục đều ít nhiều
đề cập đến vấn đề này. Song vì chưa được coi là đối tượng nghiên cứu độc lập
và chưa được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng nên vấn đề chưa được thể hiện
thành một cơng trình hồn chỉnh, có hệ thống. Bởi vậy, chúng tơi đặt ra nhiệm
vụ cho mình: Nghiên cứu vai trò của yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện số phận
người phụ nữ trong Truyền kì mạn lục thành một cơng trình hồn chỉnh với hi
vọng góp phần bổ sung thêm một cách hiểu về Truyền kỳ mạn lục.

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên





7
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

3. Đối tƣợng, phạm vi và mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm viết bằng chữ Hán, ra đời từ thế kỷ XVI,
đến nay đã nhiều lần tái bản. Khi thực hiện đề tài này chúng tôi dùng bản lần
tái. Thực hiện đề tài này chúng tôi dùng bản Truyền kỳ mạn lục do NXBVH
ấn hành năm 1998, Trần Thị Băng Thanh giới thiệu.
Trong Truyền kỳ mạn lục có 20 truyện thì có tới 11 truyện có nhân vật

phụ nữ với tổng số 23 nhân vật. Tuy nhiên khơng phải bất kỳ tác phẩm nào có
phụ nữ là tác phẩm ấy đều nói về phụ nữ. Chúng tơi chỉ chọn 10 truyện mà
theo chúng tơi có đề cập đến số phận và những khát vọng của người phụ nữ.
Đó là những truyện:
Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa
Chuyện đối tụng ở Long cung
Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu
Chuyện nàng Tuý Tiêu
Chuyện cây gạo
Chuyện nghiệp oan của Đào Thị
Chuyện người con gái Nam Xương
Chuyện Lệ Nương
Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây
Chuyện yêu quái ở Xương Giang
Ngoài ra, chúng tôi sẽ đối sánh thêm một vài tác phẩm truyền kỳ có liên

quan như: Thánh Tơng di thảo của Lê Thánh Tơng, Truyền kỳ tân phả của
Đồn Thị Điểm.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Khẳng định giá trị nhiều mặt của tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, đặc biệt
là thành công của tác phẩm trong nghệ thuật sử dụng yếu tố kỳ ảo để xây

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




8
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

dựng nhân vật người phụ nữ. Đồng thời thấy được tài năng của Nguyễn Dữ
trong việc sử dụng yếu tố kỳ ảo kết hợp yếu tố hiện thực một cách hài hoà tạo
nên vẻ đẹp đặc trưng của thể loại truyền kỳ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài như:
khái niệm kỳ ảo; Người phụ nữ trong văn học viết Việt Nam trước thế kỷ XVI.
- Cách sử dụng và giá trị sử dụng yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát
vọng của người phụ nữ.
- Phân loại, phân tích, cắt nghĩa người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục
từ góc nhìn của yếu tố kỳ ảo.
5. Nội dung nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề bi kịch và khát vọng của người phụ nữ
trong Truyền kỳ mạn lục. Những biểu hiện của yếu tố kỳ ảo và vai trị của nó
trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu là: Phương pháp thống kê, phân loại, phương pháp phân tích tổng hợp,
phương pháp so sánh.
6.1. Phƣơng pháp phân tích
Đây là phương pháp chủ yếu được sử dụng trong luận văn này.
6.2. Phƣơng pháp thống kê, phân loại:
Ở đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê để khảo sát, thống
kê những chuyện về nhân vật nữ và phân loại các yếu tố kỳ ảo mà Nguyễn Dữ
dùng để miêu tả nhân vật. Từ đó nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Ngồi ra, chúng tơi cịn sử dụng phương pháp thống kê để xử lý thông tin
trong các tư liệu lịch sử, tư liệu văn học được sử dụng để chứng minh các luận
điểm đã đưa ra.

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




9
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

6.3 Phƣơng pháp so sánh
Để thấy được các mối liên hệ đa dạng, đa chiều cũng như nét chung, nét
riêng độc đáo của nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục, luận văn sử dụng
phương pháp so sánh. Chúng tôi dự kiến sẽ so sánh người phụ nữ trong
Truyền kỳ mạn lục với người phụ nữ trong một số truyện Nôm và khúc ngâm
tiêu biểu của Văn học Việt Nam trung đại thế kỷ XVIII, người phụ nữ trong
một vài tác phẩm văn học đương đại và trong các tư liệu lịch sử đã chọn làm
đối tượng nghiên cứu.

7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn được triển
khai trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Bi kịch và khát vọng của người phụ nữ.
Chương 3: Vai trò của yếu tố kỳ ảo trong việc giải thoát số phận bi kịch
và khát vọng đi tìm hạnh phúc của người phụ nữ.

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




10
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Nguyễn Dữ và Truyền Kỳ mạn lục
1.1.1. Thân thế và thời đại Nguyễn Dữ
Theo phỏng đoán của nhiều nhà nghiên cứu, Nguyễn Dữ là tác giả văn
học đầu thế kỷ XVI, tên tự, tên hiệu cũng như năm sinh năm mất của ông đều
không rõ. Bài tựa Cựu biên Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm
1547 là tài liệu cổ nhất có ghi về Nguyễn Dữ và tác phẩm của ơng: “Tập lục
này là trứ tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con
trưởng vị tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu. Lúc nhỏ rất chăm lối học
cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp
nhà. Sau khi đậu hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường từng được bổ

làm Tri huyện Thanh Tuyền. Được một năm ông từ quan về ni mẹ cho trịn
đạo hiếu. Mấy năm khơng đặt chân tới chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập
lục này, để ngụ ý…” [16, tr.47].
Một tài liệu khác có chép về Nguyễn Dữ là Kiến văn tiểu lục của Lê Quý
Đôn. Trong cuốn sách này, Lê Quý Đôn giới thiệu về Nguyễn Dữ như sau:
“Nguyễn Dữ người xã Đỗ Tùng, huyện Gia Phúc. Cha là Nguyễn Tường
Phiêu, tiến sĩ khóa Bính Thìn đời Hồng Đức (1496), làm quan đến Thượng
thư Bộ hộ. Nguyễn Dữ từ nhỏ đã nổi tiếng học rộng nhớ nhiều, có thể lấy văn
chương nối nghiệp nhà. Đỗ Hương tiến, nhiều lần thi hội trúng tam trường,
được bổ chức Tri huyện Thanh Tuyền, mới được một năm lấy cớ nơi làm việc
xa xôi, xin về phụng dưỡng cha mẹ. Sau vì ngụy Mạc thốn đạt, thề không đi
làm quan nữa; ở làng dạy học không đặt chân đến chốn thị thành, viết

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




11
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

Truyền kỳ mạn lục bốn quyển văn từ thanh lệ, người đương thời rất khen”
[16, tr.48].
Những ghi chép trên đây cùng nhận định của các nhà nghiên cứu khác
cho phép chúng ta đưa ra một số kết luận về thân thế Nguyễn Dữ: Ông là
người huyện Gia Phúc, thuộc Hồng Châu, cha là tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu,
đậu tiến sĩ đời Hồng Đức năm 1496, làm quan đến chức Thượng thư. Nguyễn
Dữ vốn sinh ra trong dòng dõi khoa hoạn, từ nhỏ đã ham học, nhớ nhiều và có
thể từng là học trị của Nguyễn Bỉnh Khiêm, là bạn của Phùng Khắc Khoan,

đã từng thi đỗ, làm quan. Tư tưởng của Nguyễn Dữ về cơ bản là tư tưởng của
một nhà Nho chính thống. Tư tưởng này đã để lại dấu ấn trong Truyền kỳ
mạn lục và thể hiện khá rõ nét trong nghệ thuật kể, tả người phụ nữ của tập
tác phẩm này.
Nguyễn Dữ sống chủ yếu vào đầu thế kỷ XVI. Đây là thời kỳ chế độ
phong kiến tập quyền sau một thời gian đạt đến cực thịnh ở triều Lê Thánh
Tông bắt đầu bộc lộ những hạn chế nhất định. Hình ảnh quân minh thần lương
của triều đại Lê Thánh Tơng khơng cịn mà thay vào đó là các ơng vua bất tài
ươn hèn, là bọn gian thần đua nhau tranh quyền đoạt vị. Song đây lại là điều
kiện để nhiều tư tưởng dân chủ, tư tưởng đề cao người phụ nữ vốn tiềm tàng
trong dân gian được sống dậy. Ở một chừng mực nhất định, xã hội Việt Nam
thời kỳ này đã có dấu hiệu của xã hội thị dân, tư tưởng tự do phóng khống
trong tình u đã xuất hiện. Viết Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ ít nhiều đã
ảnh hưởng từ hoàn cảnh lịch sử biến động này.
1.1.2. Vài nét về Truyền kỳ mạn lục
Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20
truyện, chia làm bốn quyển, được viết theo thể truyền kỳ. Nhiều cốt truyện
được lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp
xuất phát từ các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




12
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

Nam, đền thờ Nhị Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng Gối,

Hà Nội). Truyện được viết bằng văn xuôi chữ Hán và có xen những bài thơ,
ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ truyện Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa)
đều có lời bình của tác giả.
Truyền kỳ mạn lục ra đời vào nửa đầu thế kỷ XVI (khoảng những năm
20-30). Sở dĩ có kết luận như vậy là vì các nhà nghiên cứu dựa vào thời điểm
Hà Thiện Hán viết lời tựa cho Truyền kỳ mạn lục năm 1547 và kết hợp với tư
liệu cuộc đời Nguyễn Dữ. Như vậy, Truyền kỳ mạn lục ra đời vào lúc triều
đại nhà Lê trên đà suy vi với các ông vua nổi tiếng hoang dâm tàn bạo. Những
đau thương của một thời đại ấy cũng đã in đậm dấu ấn trong một số truyện
trong Truyền kỳ mạn lục.
Xét về phương diện nội dung phản ánh của Truyền kỳ mạn lục, chúng ta
dễ dàng thấy rằng, nếu gạt bỏ những yếu tố hoang đường kỳ ảo ta sẽ thấy một
bức tranh xã hội rất rõ ràng. Đó là một xã hội mà giai cấp thống trị thì tranh
giành quyền lực, chém giết lẫn nhau. Tất cả đều giả dối, vô đạo, tham lam,
độc ác và đều có kết cục hoặc bị trừng phạt, hoặc bị phủ nhận, hoặc bị lên án
chê cười. Đó là một xã hội mà các tầng lớp khác đặc biệt là phụ nữ là nạn
nhân đau khổ nhất của thiết chế xã hội, của quan niệm nho giáo, của hiện thực
cuộc sống. Trong số đó có những người được giải oan vì đức độ, vì trung
thực, vì những phẩm chất tốt đẹp của mình. Cũng có người phải ngậm ngùi
khổ đau vì chính những hành động của mình.
Hệ thống nhân vật của Truyền kỳ mạn lục đa dạng phong phú gồm đủ
mọi loại vua, quan như Hạng Vương, Hồ Tông Thống, Nguyễn Trung Ngạn,
Trụ quốc họ Thân...đến cả những con người bình thường như Vũ Thị Thiết,
Thị Nghi...Phần lớn các nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục là những con
người thuộc tầng lớp bình dân: tri thức bình dân hoặc phụ nữ... Thông qua số
phận các nhân vật, Nguyễn Dữ đi tìm giải đáp xã hội: Con người phải sống

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên





13
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

sao để có hạnh phúc? Làm thế nào để nắm bắt hạnh phúc? Hạnh phúc tồn tại
ở thế giới nào? Nguyễn Dữ đưa ra rất nhiều giả thiết nhưng tất cả đều rơi vào
bế tắc [25, tr.213].
Về hình thức nghệ thuật, khi viết Truyền kỳ mạn lục nhà văn Nguyễn
Dữ “đã tuân thủ những nguyên tắc loại hình được chấp nhận bằng văn ngơn,
song chỉ tn thủ bề ngồi. Ơng đã phá vỡ những quy tắc lâu đời về hình thức
thể loại và tạo ra những tác phẩm theo kiểu tự do hơn. Tập hợp từ “mạn lục”
trong nhan đề đã chỉ ra sự độc đáo về loại hình tác phẩm’’ [38, tr.74]. Ý kiến
đánh giá này có vẻ hơi quá, song cũng đã có lý khi khẳng định sự sáng tạo của
Nguyễn Dữ về phương diện nghệ thuật truyền kỳ. Nguyễn Dữ là tác giả đầu
tiên khẳng định vị thế truyền kỳ trong văn xuôi Việt Nam, đưa vào thể loại
này những yếu tố của văn học dân gian tạo ra màu sắc riêng của thể truyền kỳ
Việt Nam. Nói như giáo sư Bùi Văn Nguyên thì “tất cả hai mươi truyện trong
Truyền kỳ mạn lục, nếu được phản ánh tỉ mỉ, bộc lộ ít nhiều yếu tố văn học
dân gian đúng với bút pháp của thể truyền kỳ”[28, tr.54]. Rõ ràng là có một
sự kết hợp hài hoà giữa thể loại truyền kỳ-một thể loại ngoại lai với các yếu tố
của văn học dân tộc trong ngòi bút của Nguyễn Dữ.
Với nội dung phong phú, mang tính hiện thực cao, với thủ pháp nghệ
thuật đặc sắc, Truyền kỳ mạn lục thực sự trở thành một thiên cổ kỳ bút và trở
thành một cái đích khơng dễ gì vượt qua đối với các tác phẩm sau này. Chắc
rằng càng nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục chúng ta sẽ càng phát hiện ra giá trị
muôn mặt của nó và cũng từ đó càng hiểu hơn những điều mà Nguyễn Dữ
muốn gửi gắm với bao thế hệ hậu sinh.
1.2. Khái niệm kỳ ảo và nguồn gốc của yếu tố kỳ ảo trong Truyền kỳ mạn lục

1.2.1. Khái niệm kỳ ảo
Kỳ ảo vốn là một khái niệm xuất phát từ thời cổ đại. Cách hiểu về nó
cũng thay đổi theo thời gian. Theo từ điển ngôn ngữ Pháp, “kỳ ảo” là tính từ,

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




14
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp“Phantastitos”, tiếng La tinh“Phantasticus” để chỉ
những gì được tạo nên bởi trí tưởng tượng chứ khơng tồn tại trong thực tế.
Các từ ngữ Hy Lạp và La Tinh trên đều có liên quan với từ “Phantasia” (tiếng
Pháp: “Fantasie”, tiếng Anh: “Fantasy”) có nghĩa là trí tưởng tượng phóng
túng. Trong tiếng Việt, “kỳ ảo” là từ Hán Việt “kỳ” là “lạ lùng”, “ảo” là
khơng có thật. Cái kỳ ảo là cái lạ lùng, khơng có thật, khơng thể bắt gặp trong
thực tế.
Trên thế giới, người đầu tiên đề cập đến thuật ngữ cái kỳ ảo là một học
giả người Anh tên là Joseph Addison (1672-1719). Theo ông, những sáng tác
kỳ ảo “tạo ra một khoái cảm về nỗi sợ hãi trong tâm trí độc giả và làm thoả
mãn trí tưởng tượng của độc giả bởi những cái lạ lùng và tính chất khác
thường của những con người được miêu tả trong đó. Chúng ni dưỡng trong
trí nhớ của chúng ta những câu chuyện ma mà chúng ta nghe từ thuở ấu thơ
và thích thú với những nỗi khiếp sợ bí mật, những nỗi sợ hãi mà trí óc con
người phải lệ thuộc vào nó một cách tự nhiên” [22, tr.43]. Sau đó có rất nhiều
ý kiến khác nhau về khái niệm kỳ ảo như Roger Caillor, Tz.Todorov,
M.Schemider... Các nhà nghiên cứu văn học phương Tây đề cập tới bản chất

của kỳ ảo là sự do dự, gắn liền với sợ hãi, nó được tạo ra từ những giấc mơ,
sự mê tín, hối hận, từ sự kích thích quá độ của trí não hay tâm linh...
Ở Việt Nam, Khổng Phương Nhậm (1648-1718) khẳng định “phi kì bất
truyền, truyền kỳ là truyền những tình tiết khác lạ, tình tiết khơng li kì thì
khơng gọi là truyền kỳ”. Lê Nguyên Cẩn trong chuyên luận “Cái kỳ ảo trong
tác phẩm Balzac” đã làm rõ nội hàm thuật ngữ kỳ ảo trong văn học: “Cái kỳ
ảo là một phạm trù tư duy nghệ thuật. Nó được tạo ra nhờ trí tưởng tượng và
được biểu hiện bằng các yếu tố siêu nhiên, khác lạ, phi thường, độc đáo. Nó
có mặt trong văn học dân gian và văn học viết qua các thời đại. Nó tồn tại
trên trục thực ảo và tồn tại độc lập, khơng hồ tan vào các dạng thức khác

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




15
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

nhau của tưởng tượng... Yếu tố kỳ ảo trong văn học tạo nên sự đứt gãy trong
chuỗi liên kết vũ trụ, tạo ra sự do dự, phân vân trong lịng độc giả. Nó là
qng lặng, là sự ngắt mạch, là sự xâm lấn của cái siêu nhiên trong cuộc
sống đời thường, là sự xâm lấn của cái phi lôgic trong một thế giới lôgic”
[3, tr.56]. Tác giả Ngơ Tự Lập có ý kiến rằng: “Kỳ ảo, đó chính là mê lộ nghệ
thuật cũng như trong lĩnh vực nghệ thuật khác, nó xuất hiện ở mọi nơi khi trật
tự đã trở nên vừa bó buộc vừa đáng ghét vừa đáng sợ và tính hợp lý của trật
tự ấy bị đặt thành câu hỏi. Tuy nhiên những thiết chế văn minh càng chặt chẽ,
càng ráo riết thì sự xuất hiện của nó càng kịch tính như những gì chúng ta
chứng kiến ở phương Tây” [19, tr.10]. Nhà nghiên cứu Vũ Thanh cũng khẳng

định “ Trong truyền kỳ tác giả sử dụng yếu tố kỳ không phải với chức năng vỏ
bọc che dấu dụng ý sâu xa của nhà văn mà với tư tưởng bút pháp nghệ thuật
mang tính đặc trưng của thể loại, các tác giả phản ánh cái thực qua cái kỳ”.
Vì vậy, sự xuất hiện của yếu tố kỳ ảo trong văn học cũng là một khía cạnh để
phản ánh rõ hơn về hiện thực đời sống con người.
Theo Từ điển Hán Việt “Kỳ” có ba nhóm nghĩa cơ bản sau: 1. Lạ, hiếm
thấy. 2. Lấy làm lạ. 3. Bất ngờ.
Còn theo Từ điển Tiếng Việt [30] giải thích “Kỳ” là lạ đến mức làm cho
người ta phải ngạc nhiên. Vậy cả hai từ điển đều giải thích cơ bản “Kỳ”
chính là sự lạ, sự khác thường.
Nhìn chung, những tài liệu nghiên cứu về văn học kỳ ảo đã dần dần làm
sáng rõ quan niệm:
1. Yếu tố kỳ ảo trong văn học thuộc phạm trù tư duy nghệ thuật, là sản
phẩm trí tưởng tượng của người nghệ sĩ. Nó phản ánh trình độ hư cấu nghệ
thuật ở mức độ cao. Yếu tố kỳ ảo có thể xuất hiện ở nhiều phương diện trong
thế giới nghệ thuật của nhà văn từ chất liệu phản ánh, phương thức phản ánh
đến tầng lớp ý nghĩa, từ đó tạo nên hiệu ứng tiếp nhận ở người đọc.

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




16
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

2. Yếu tố kỳ ảo là phương tiện nghệ thuật để nhà văn bộc lộ quan niệm
về đời sống, về con người.
3. Những biểu hiện chủ yếu của yếu tố kỳ ảo trong văn học là: không

gian, thời gian chứa đựng các yếu tố siêu nhiên; nhân vật kì dị, biến hóa,
giấc mơ...
1.2.2. Nguồn gốc của yếu tố kỳ ảo trong Truyền kỳ mạn lục
1.2.2.1 Ảnh hưởng của văn học dân gian
Sự hình thành của bất kỳ nền văn học viết dân tộc nào cũng được nuôi
dưỡng bởi suối nguồn văn học dân gian của dân tộc ấy. Thể truyền kỳ khơng
nằm ngồi quy luật đó. Nó cũng được ni dưỡng từ nguồn sữa mẹ là văn học
dân gian, một trong những ngọn nguồn sản sinh ra yếu tố kỳ ảo. Đặc biệt
Truyền kỳ mạn lục chứa đựng những yếu tố vốn có trong văn học dân gian.
Tuy nhiên trong Truyền kỳ mạn lục Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng của văn học
dân gian nhưng đó là sự vay mượn có chủ ý, có ý thức. Sự tách rời dần dần
khỏi những ảnh hưởng thụ động của văn học dân gian được tiến hành song
song với quá trình chọn lọc và vay mượn một cách có ý thức chất liệu văn học
dân gian có sẵn. Ví như truyện Người con gái Nam Xương là một câu chuyện
mà Nguyễn Dữ dựa vào truyện dân gian Vợ chàng Trương để sáng tác. Năm
1471, trên đường đi công tác trở về, Lê Thánh Tông ghé thăm miếu Vũ Thị ở
bến Hoàng Giang (thuộc địa phận Nam Sang, nay là Lý Nhân, Hà Nam). Cảm
thương số phận bất hạnh của nàng, vua Lê Thánh Tông đã làm bài thơ “Lại
bài viếng Vũ Thị”, khắc vào bia, đến nay vẫn còn ở đình Vũ Điện, xã Tân Lý,
huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam:
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi cho lụy tới nàng.

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên





17
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng
(Hồng Đức Quốc âm thi tập, NXBVH, H.1982, trang 95)
So sánh hai truyện, Vợ chàng Trương và Người con gái Nam Xương ta
thấy nội dung của hai truyện tuy không khác nhau nhưng Nguyễn Dữ đã thêm
phần "thủy cung" cho tác phẩm có sắc điệu truyền kỳ. Lời thoại, ngơn ngữ
miêu tả trong hai truyện cũng có phần khác nhau, tâm lý nhân vật được miêu
tả qua ngơn ngữ cũng có khác nhau. Trong văn học dân gian truyện Vợ chàng
Trương được miêu tả ngắn gọn hơn, câu văn đôi khi không bóng bẩy mượt
mà như trong Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Ta có thể so sánh
một số câu trong hai truyện:
Vợ chàng Trương

Người con gái Nam Xương

… Về đến nhà Trương Sinh mắng ... Về đến nhà, chàng mắng vợ một
nhiếc vợ tàn tệ:

trận cho hả giận... Nàng khóc mà nói:

- Tao khơng ngờ mày là đồ thất tiết. - Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa
Mẹ chết, chồng đi vắng, tối tối rước tía. Sum họp chưa thoả tình chăn gối,
trai về nhà.


chia phơi vì động việc lửa binh, cách

... Vợ chàng một mực chối cãi.

biệt na năm giữ gìn một tiết. Tơ son

- Cách biệt ba năm, thiếp vẫn một điểm phấn, từng đã nguội lòng, ngõ
lịng, đâu có hư thân mất nết như lời liều tường hoa, chưa hề bén gót. Đâu
chàng nói. Xin càng đừng ngờ oan có sư mất nết hư thân như lời chàng
cho thiếp... [4, tr.2234].

nói ! Dám xin nói rõ để gỡ mối nghi
ngờ. Mong chàng đứng một mực nghi
oan cho thiếp [7, tr.189.]

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




18
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

Qua những đoạn ví dụ trên ta thấy, Nguyễn Dữ viết lại truyện dân gian
nhưng từ lời nói, ngơn ngữ miêu tả đều khác. Một số chi tiết đã được Nguyễn
Dữ thêm vào hoặc cắt bớt đi song cái chính là nó khơng làm thay đổi cốt
truyện. Lời thoại trong truyện Người con gái Nam Xương phong phú hơn, nó
tiêu biểu cho lối nói ước lệ bóng bẩy. Cũng là kể chuyện, cũng là lời thoại
nhưng ngôn ngữ trong văn học dân gian ngắn gọn hơn, nó mang tính chất

thơng báo thơ phác hơn. Nguyễn Dữ đã tạo ra bước ngoặt lớn trong việc xây
dựng nhân vật. Mỗi nhân vật đều có tâm trạng riêng, tâm lý riêng sâu sắc khác
xa với truyện dân gian. Cuộc sống tình cảm vợ chồng trong Người con gái
Nam Xương gần gũi cuộc sống thực hơn. Người chồng trong Vợ chàng
Trương chỉ là một con người cả ghen, ghen đến mức nói những lời thơ lỗ với
vợ. Trong Người con gái Nam Xương thì người chồng là một người sống rất
tình cảm. Chỉ qua một câu nói của chàng với con trai: "Con nín đi, đừng khóc.
Cha về, bà mất, lịng cha buồn khổ lắm rồi". Ta thấy đó là con người sống có
tình nghĩa nhưng chỉ vì tính cả ghen đến mù quáng mà không nhận ra được
nỗi oan ức của người vợ. Còn vợ chàng (Vũ Thị Thiết) là một người con gái
nết na hiền dịu, sống hiếu hạnh nhưng chỉ vì tính cả tin của người chồng mà
phải chịu số phận của hẩm hiu, giữa đường đứt gánh. Nàng chỉ biết khóc mà
kêu than cho số phận của mình. Nguyễn Dữ thật tài tình khi đưa ra các chi
tiết, từ ngữ tưởng chừng như không ăn khớp với nhau nhưng thực chất lại hỗ
trợ nhau, giúp nhau miêu tả tâm lý sắc bén hơn, gợi lòng thương cảm hơn. Vũ
Nương nói đến cuộc sống tình cảm vợ chồng, đến nỗi mong nhớ chồng đằng
đẵng bao năm bằng những câu rất tình nghĩa. Nguyễn Dữ tỏ ra sắc sảo khi lựa
chọn từ ngữ cho truyện, mỗi từ, mỗi câu như thấm vào lòng người, tưởng như
rất cao xa nhưng rất có sức thuyết phục và gần gũi với cuộc sống. Tình cảm
bình thường trong cuộc sống vợ chồng đã được Nguyễn Dữ khai thác triệt để
bằng thứ ngôn ngữ được tạo ra từ cuộc sống thực và làm nổi bật lên tính cả

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




19
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục


ghen của người chồng. Người vợ càng thanh minh bao nhiêu thì người chồng
lại càng ghen bấy nhiêu… Đây là một bước tiến mới của nhà văn tạo ra dòng
truyện ngắn thế sự gần gũi với đời thường. Nguyễn Dữ vay mượn cốt truyện
dân gian để sáng tác, để nhờ ý nghĩa truyện nói hộ lịng mình. Ơng muốn tố
cáo xã hội thối nát thời đó, chính chiến tranh đã gây lên tình cảnh đáng
thương này. Nhưng Nguyễn Dữ vốn là nhà nhân đạo nên ông khơng chỉ dừng
ở đó mà sáng tạo thêm một kết thúc tương đối có hậu. Song có lẽ đó là chủ ý
của tác giả muốn người phụ nữ được giải oan đền đáp. Ơng muốn những nhân
vật mà mình u q phải được hưởng hạnh phúc. Và chính điều đó đã khiến
cho Nguyễn Dữ trăn trở để rồi trong Từ Thức lấy vợ tiên ơng đã để nhân vật
của mình lên cõi tiên tìm hạnh phúc. Đây cũng là câu truyện Nguyễn Dữ vay
mượn từ cốt truyện dân gian song hình như ta khơng cịn thấy ngun vẹn
truyện cổ tích nữa. Ơng đã sử dụng tư liệu dân gian đó một cách có ý thức bởi
Từ Thức trong Nguyễn Dữ cịn mang trong mình tư tưởng của thời đại: Chàng
ý thức được cái xã hội đang thối nát và xuống dốc nên đã phản ứng lại xã hội
thời đó bằng cách cởi trả ấn tín cáo quan mà về. Chàng vốn yêu thiên nhiên
nên muốn đi thăm thú ngao du vùng Tống Sơn rồi lạc vào cõi tiên nhưng cuộc
sống nơi tiên giới cũng không làm cho càng nguôi quên cuộc sống nơi trần
thế. Chàng vẫn không cảm thấy hạnh phúc thực sự khi được sống bên người
vợ tiên đẹp tuyệt vời bởi lòng chàng còn vướng bụi trần. Chàng băn khoăn về
cuộc sống nơi trần thế, chàng mang tâm trạng của chính tác giả. Nguyễn Dữ
cùng trăn trở đi tìm một lối thốt cho cuộc sống ngột ngạt bấy giờ, ơng muốn
tìm kiếm niềm vui hạnh phúc của con người nhưng bất lực trước hiện thực.
Ông đưa cả con người lên cõi tiên mà vẫn chưa tìm được hạnh phúc của mình.
Từ Thức trong Từ Thức lấy vợ tiên đã khác xa với chàng Từ Thức trong Sự
tích động Từ Thức của văn học dân gian. Từ Thức mà Nguyễn Dữ miêu tả là
đại diện cho con người trí thức trong xã hội Nho giáo đang suy vị.

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên





20
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

Có thể nói trong việc tiếp thu và vay mượn truyện dân gian thì Nguyễn
Dữ là người thành công hơn cả. Khác với Thánh Tông, nhân vật mà Nguyễn
Dữ khắc hoạ gần gũi với cuộc sống đời thường hơn. Họ có những tâm tư suy
nghĩ riêng của mình và mang tính triết lý của thời đại. Họ là những con người
của cuộc sống bình thường hàng ngày: là Tuý Tiêu, là người con gái Nam
Xương, là Lệ Nương … ngay cả đến thời gian, không gian mà Nguyễn Dữ
miêu tả cũng đời thường. Nó thường được so sánh ví von ước lệ nhưng lại
mang nét thực của cuộc sống đời thường.
Con người có những mối quan tâm riêng, ngay cả những con người nơi
tiên giới cũng xét nét nhau như những con người trần tục. Bởi vậy mà Nguyễn
Dữ phản ánh được những điều thực cao hơn Thánh Tông. Những vấn đề mà
Thánh Tông miêu tả vẫn cịn xa với cuộc sống hiện thực, nó vẫn còn mang
đậm nét huyền thoại.
Nguyễn Dữ đã vay mượn chất liệu từ văn học dân gian nhưng lại tách
dần khỏi những ảnh hưởng thụ động của chúng để tiến tới chỗ phát huy những
mặt tốt đẹp của truyền thống, biến cải nâng văn học dân gian lên một bước
cao hơn. Trong cuốn Truyện Nôm - nguồn gốc và thể loai - PGS Kiều Thu
Hoạch đã viết: "Truyện Tướng Dạ Xoa chính là được sáng tạo trên cơ sở
Truyền thuyết Văn Dĩ Thành, một nhân vật thời Trần Trung Quang, vốn là
anh hùng địa phương đã có cơng với nước, với dân nên được thờ làm thần
thành hoàng. Hoặc như truyện Đối tụng ở Long cung vốn được xây dựng từ
những huyền thoại về rắn hoặc thuồng luồng mà cốt lõi là mơ típ ơng Dài ơng

Cộc hết sức phổ biến ở khắp vùng ven sông suối của miền Bắc" [15, tr.95]. Và
miếu vợ chồng Trương hay động Từ Thức vẫn cịn đó những danh thắng lịch
sử từng làm bâng khng xúc động biết bao tao nhân mặc khách … Tất cả
những truyện trên được Nguyễn Dữ tiếp thu một cách có ý thức, ơng vay
mượn nhằm phục vụ chủ ý sáng tác của mình. Tác phẩm văn học dân gian

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




21
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

dưới ngòi bút sáng tạo của Nguyễn Dữ đã mất dần tính chức năng hành chính,
giáo huấn một cách lộ liễu và mang nặng chức năng văn học, mang tính chân
thực của lịch sử. Nguyễn Dữ sáng tạo dựa trên cốt truyện và mơ típ dân gian
đã góp phần nâng cao chính văn học dân gian. Điều mà trước đây Lý Tế
Xuyên và Trần Thế Pháp chưa thể làm được. Có thể thấy, Nguyễn Dữ chịu
ảnh hưởng của văn học dân gian nhưng tư tưởng sáng tác của ơng đã dần dần
thốt khỏi những ảnh hưởng thụ động đó. Các cốt truyện văn học dân gian đã
được Nguyễn Dữ cải biên và hư cấu thêm rất nhiều và điều đó đã làm nên một
“thiên cổ kỳ bút”.
1.2.2.2 Ảnh hưởng của văn học nước ngoài
Ngoài văn học dân gian, Truyền kỳ mạn lục còn chịu ảnh hưởng của văn
học nước ngoài đặc biệt là văn học Trung Quốc. Ngay từ thế kỷ XVIII trong
phần "Nghệ văn chí" sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn đã chép rằng
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là "mô phỏng theo Tiễn đăng tân thoại
của Cù Hựu đời Đường".

Xem xét trên những điều kiện xã hội - lịch sử của thời đại mà thể loại
truyền kỳ xuất hiện thì việc ảnh hưởng giữa văn học các nước là không thể
tránh khỏi. Nếu như ở đời Đường (Trung Quốc) nền kinh tế thành thị phát
triển cùng với những nhu cầu văn hoá và lối sống thị dân là cơ sở ra đời của
thể loại truyền kỳ thì ở Việt Nam, vào khoảng thế kỷ XV - XVII, cũng có đầy
đủ những tiền đề xã hội - lịch sử tương tự. Bởi vậy, Truyền kỳ mạn lục cũng
có những nhân vật tiêu biểu cho tầng lớp thị dân như kỹ nữ, thư sinh đi thi,
thương nhân, cũng có những chủ đề như: tự do hơn nhân, tình u trai gái
phóng túng …như trong các tác phẩm đời Đường.
Tất nhiên đó chỉ là sự giống nhau có tính chất loại hình, cịn nhân vật cốt
truyện, thời gian, khơng gian…là hồn tồn Việt Nam. Cụ thể như địa danh ở
Việt Nam như Kiến Hưng (Nam Định), Nam Sang (Hà Nam), Tiên Du (Bắc

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




22
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

Ninh), Phong Châu (Phú Thọ), Cẩm Giàng (Hải Dương)... Nhiều cốt truyện
được lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp
xuất phát từ các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà
Nam, đền thờ Nhị Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng Gối,
Hà Nội).
Thể loại truyện kỳ trong nền văn học Trung Quốc đã được các nhà văn
Việt Nam tiếp nhận (thế kỷ XV - XVI) như là một thể loại mới mẻ, đầy hấp
dẫn, làm phong phú thêm kho tàng văn học tự sự của dân tộc. Trong bài viết

về mối quan hệ giữa Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục PGS Phạm
Tú Châu đã rút ra một số ý kiến xác đáng về Truyền kỳ mạn lục trong cuốn
sáng của Tiến sĩ văn học người Nga K.I Gonnưghia có tên Truyện ngắn Trung
Quốc thời trung cổ chương Cù Hựu và truyền kỳ Việt Nam rằng: "Truyền kỳ
mạn lục của Nguyễn Dữ đã đánh dấu sự xuất hiện loại truyện ngắn nghệ
thuật ở Việt Nam. Trong điều kiện có một ngơn ngữ văn học chung cho cả
vùng Viễn Đông việc hướng tới nền văn học của các nước láng giềng là một
quy luật hoàn toàn tự nhiên. Về nội dung, những câu chuyện của Cù Hựu là
"tư liệu" đặc biệt để Nguyễn Dữ sáng tạo ra thế giới quỷ thần của mình… Dù
vậy khơng nên nghĩ rằng hai mươi truyện của Nguyễn Dữ đều là biến thể của
số truyện tương đồng của Cù Hựu. Trái lại trong số đó có truyện hồn tồn
độc lập về mặt chủ đề (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu) hoặc vay
mượn để không đáng kể (Chuyện nghiệp oan của Đào Thị). Các truyện
Chuyện đối tụng ở Long cung, Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên là những truyện có
mượn tình tiết phonklore dân tộc hoặc mơtíp phonklore thế giới …"[5, tr.75]
Vậy sự ảnh hưởng trực tiếp nền văn học cổ Trung Quốc đối với nền văn học
cổ Việt Nam là hoàn toàn khơng thể khơng có. Nhưng sự ảnh hưởng do tác
động đến từng nhà văn như thế nào mới là điều đáng quan tâm. Việc Truyền
kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng thể loại truyền kỳ Trung Quốc là

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




23
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

việc khó tránh khỏi, nói Nguyễn Dữ mơ phỏng truyện của Cù Hựu là khơng

chính xác. Theo như K.I Connưgjina thì trong một vài truyện của mình,
Nguyễn Dữ đã vay mượn một vài chi tiết, ý tưởng trong Tiễn đăng tân thoại
của Cù Hựu để sáng tạo lại bằng tài năng của mình như thay đổi địa danh,
phong tục theo tên gọi và tập tục Việt Nam song có những truyện như Chuyện
người tiều phu núi Na là do ơng hồn tồn sáng tác ra. Chuyện cây gạo của
Nguyễn Dữ có thể coi là truyện duy nhất dựa nhiều vào Mẫu đơn đăng ký của
Cù Hựu: Một chàng trai trẻ ham mê sắc dục phồn hoa quyến rũ. Hồn ma là cô
gái chết trẻ không được chôn cốt tử tế, không người cúng bái. Chàng trai và
hồn ma sống quấn quýt hoan lạc, chàng trai không biết sự nguy hiểm cho tính
mạng đang đến gần. Sau đó tình cờ chàng biết được chân tướng cơ gái nhưng
anh ta khơng chạy thốt nổi. Chàng trai chết cùng cô gái thành một đôi ma
quấy nhiễu dân làng. Nhờ pháp luật của đạo sỹ ma mới bị diệt trừ. Dân làng tạ
ơn nhưng đạo sỹ không nhận, lánh vào núi sâu.
Để tạo khơng khí kỳ ảo, rờn rợn, Nguyễn Dữ đã giữ lại một số tình tiết ở
Mẫu đơn đăng ký: Chiếc quan tài quàn xác người con gái chết trẻ đặt trong
một căn phòng nhỏ tối ăm; người hầu và vật dụng (đèn mẫu đơn hay bàn hồ
cầm) mang theo đều là đồ thờ nặn bằng đất hoặc giấy, chàng trai khám phá ra
tung tích cơ gái là nhờ tìm đến căn phịng qn xác, thấy rõ quang cảnh nơi ở,
đồ vật của người đã hiện hình hơm trước. Cuối cùng chàng trai chết, cái chết
liên quan đến chiếc quan tài, sau đó cảnh ma nơ giỡn trong những ngày âm u,
những đêm tối trời. Diễn biến của truyện được tác giả xây dựng theo thời gian
tuyến tính, nhìn qua thì tưởng như ở Mộc miên thụ truyền (Chuyện cây gạo)
Nguyễn Dữ chỉ thay đổi quốc tịch cho nhân vật, thay đổi không gian và thời
gian truyện mà thơi, khơng có gì đóng góp mới cả. Tuy nhiên, nếu ta đi sâu
vào nội dung chi tiết và nghệ thuật cụ thể sẽ thấy Nguyễn Dữ đã rất công phu
trong câu chuyện ma cây gạo này. Ông chú ý khắc hoạ tâm lý nhân vật Nhị

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên





24
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

Khanh là một nhân vật có tâm trạng, có khao khát hạnh phúc lứa đơi, bởi vì
cơ chết cịn q trẻ, u hồn của cơ khơng có người hương khói, an ủi, ln
mang tâm trạng u uất cô đơn, vừa luyến tiếc cuộc sống trần thế, vừa thù hận
người đời vơ tình, do vậy cơ tìm kiếm hoan lạc và "Chàng đã từ xa lại đây,
quyết khơng có lý nào cịn trở về nữa… Nằm vị võ một mình như vậy, lẽ đâu
nay thiếp để cho chàng về" [7, tr.42].
Trình Trung Ngộ cũng là một nhân vật có tính cách. Dù chỉ là "anh lái
bn ít chữ" hiếu sắc nhưng Trung Ngộ đắm say và chung tình. Lúc đầu cuộc
tình giữa chàng và Nhị Khanh chỉ là chuyện giữa đường nhưng rồi mỗi ngày
một sâu nặng đến nỗi khi phát hiện ra Nhị Khanh là ma chàng cũng khơng thể
dứt tình. Cái chết của chàng có một phần tự nguyện và là kết quả của sự quá
si mê. Nguyễn Dữ đã tỏ ra tinh tế khi thiết kế các tình huống như Trình Trung
Ngộ gặp Nhị Khanh nhưng chàng khơng xấu hổ đi theo mà nhìn ngắm "sỗ
sàng" mà chỉ "nhìn trộm" tìm cách để làm quen. Cịn Nhị Khanh cũng khơng
tỏ ra q dễ dãi. Cuộc hội ngộ đầu tiên của họ như là một sự gặp gỡ bất ngờ,
mặc dù cả hai đều cố ý. Nguyễn Dữ cũng tạo cho họ một không gian thật mơ
mộng, có trăng gió bát ngát, có sơng, có cầu, có điện đàn hồi niệm và con
người cơ đơn đang khao khát tri âm. Đó là khung cảnh của tình u và họ đến
với nhau cũng khơng vội vàng, có trị truyện tâm tình gạn hỏi lai lịch… rồi
mới đến chuyện bướm ong. Tình tiết chàng trai nhìn thấy cỗ quan tài ở Mộc
miên thụ truyện cũng được đặt vào khung cảnh ban đêm rùng rợn nhiều kịch
tính…Ta xét thấy những tình tiết này Nguyễn Dữ cơng phu hơn Cù Hựu.
Ngồi ra, Nguyễn Dữ cịn tỏ ra rất kỹ lưỡng và công phu trong việc dùng chữ
nghĩa. Chỉ một câu nói của Nhị Khanh tưởng như hết sức bình thường nhưng

lại là một lời mách bảo cho Trình Trung Ngộ nên gặp nàng ở đâu. "Ta lâu nay
rượu xuân quá chén, mê mệt nằm dài, hầu nửa năm giời khơng nên chơi cầu

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




25
Nguyen Thị Hải Yến – Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát vọng của người phụ nữ
trong truyền kỳ mạn lục

Liễu Khê lần nào cả. Chẳng biết giờ phong cảnh ra sao. Đêm nay nên qua
thăm cảnh cũ, để được khuây giải chút tình ấp ủ trong lịng” [7, tr.35].
Nhìn chung Mộc miên thụ truyện chịu ảnh hưởng của Cù Hựu nhưng vẫn
là một cơng trình nghệ thuật được Nguyễn Dữ dụng tâm trau chuốt khiến cho
câu chuyện mang nặng chất chữ tình và giàu sắc thái Việt Nam.
Trong nửa đầu chuyện Chức phán sự đền Tản Viên (Truyền kỳ mạn lục)
Nguyễn Dữ vấn viết theo đúng như truyện Lệnh Hồ Sinh nằm mơ xuống âm
phủ trong tập truyện Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu nhưng có thêm yếu tố
mà bản gốc khơng có như hồn ma viên tướng nhà Minh (Trung Quốc) thế kỷ
XV bị giết khi sang xâm lược Việt Nam [35]. Điều này Nguyễn Dữ viết là để
hợp tư tưởng người Việt Nam và ơng muốn chuyển tồn bộ thế giới văn học
Tiễn đăng tân thoại thành thế giới văn học Việt Nam.
Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu đã tạo nên một sự kích thích một lực
thúc đẩy khêu gợi khiến Nguyễn Dữ tìm đến với một thể loại chưa được định
hình ở Việt Nam. Nguyễn Dữ tuy có vay mượn của Cù Hựu một số tình tiết,
mơ típ và đơi khi cả những phiếm đoạn, nhóm từ nhưng hồn tồn độc lập về
mặt chủ đề hoặc có vay mượn một số ý không đáng kể ở nhiều chuyện
(Chuyện đối tụng ở Long cung; Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên). Trần Ích

Nguyên từng khẳng định: “Trong cách hành văn của mình Nguyễn Dữ đã
nhiều lần sử dụng chính xác điển cố trong truyền kì đời Đường” và “ảnh
hưởng lớn nhất đối với Truyền kỳ mạn lục chính là Tiễn đăng tân thoại của
Cù Hựu đời Minh”. Song mặt khác ông cũng khẳng định sự sáng tạo của
Nguyễn Dữ là: “Thoát khỏi bóng dâm của Tiễn đăng tân thoại”[30, tr.67].
Những mơ típ tình tiết trùng hợp với Cù Hựu cịn là những tình tiết mơ típ
phonklore trong khu vực hoặc thế giới. Từ Thức lấy vợ tiên là truyện có mơtíp

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên




×