1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 3
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 4
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 5
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 5
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5
6. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC 6
7. PHẠM VI VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU 6
8. CẤU TRÚC KHÓA LUẬN 6
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 7
1.1. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 7
1.2. CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN 8
1.2.1. Kỹ năng 8
1.2.2. Hợp tác 9
1.2.3. Kỹ năng hợp tác 9
1.2.4. Trò chơi đóng vai theo chủ đề 9
1.3. MỤC TIÊU VÀ NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC MẦM NON 10
1.3.1. Mục tiêu Giáo dục mầm non 10
1.3.2. Nguyên tắc Giáo dục mầm non 11
1.3.2.1. Nguyên tắc đảm bảo tính giáo dục 11
1.3.2.2. Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức 11
1.3.2.3. Nguyên tắc đảm bảo tính phát triển 12
1.3.2.4. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính liên tục 12
1.3.2.5. Nguyên tắc phát huy tính tích cực, tính tự giác của trẻ 12
1.3.2.6. Nguyên tắc đảm bảo tính trực quan 12
1.3.2.7. Nguyên tắc đối xử cá biệt 13
1.4. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CƠ BẢN CỦA TRẺ MGB 13
1.5. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA TRÒ CHƠI ĐVTCĐ ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ NÓI CHUNG VÀ BỒI DƯỠNG KỸ NĂNG
HỢP TÁC VỚI BẠN NÓI RIÊNG 17
1.5.1. Đặc điểm của trò chơi ĐVTCĐ 17
1.5.2. Vai trò của trò chơi ĐVTCĐ đối với sự phát triển tâm lý của trẻ nói chung
và bồi dưỡng kỹ năng hợp tác với bạn nói riêng 18
1.6. QUY TRÌNH VÀ YÊU CẦU SƯ PHẠM KHI TỔ CHỨC TRÒ CHƠI ĐVTCĐ
CHO TRẺ MG 20
1.6.1. Quy trình tổ chức trò chơi ĐVTCĐ 20
1.6.2. Yêu cầu sư phạm khi tổ chức trò chơi ĐVTCĐ 22
2
Chương 2. THỰC TRẠNG KỸ NĂNG HỢP TÁC VỚI BẠN QUA TRÒ CHƠI
ĐVTCĐ CỦA TRẺ MGB Ở TRƯỜNG MN 2 THÀNH PHỐ HUẾ 23
2.1. TỔNG QUAN VỀ TRƯỜNG MN 2 23
2.2. THỰC TRẠNG KỸ NĂNG HỢP TÁC VỚI BẠN CỦA TRẺ MGB QUA TRÒ CHƠI
ĐVTCĐ TẠI TRƯỜNG MN2 - THÀNH PHỐ HUẾ 26
2.2.1. Giai đoạn hình thành nhóm chơi 26
2.2.2. Giai đoạn sau khi hình thành nhóm chơi 27
2.2.2.1. Thoả thuận trước khi chơi 27
2.2.2.2. Trong quá trình chơi 31
2.2.2.3. Sau khi chơi 35
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG 37
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG KỸ NĂNG HỢP TÁC
VỚI BẠNQUA TRÒ CHƠI ĐVTCĐ CHO TRẺ MGB 39
3.1. CƠ SỞ XÂY DỰNG BIỆN PHÁP 39
3.1.1. Mục tiêu giáo dục mầm non 39
3.1.2. Đặc điểm tâm lý trẻ 39
3.1.3. Vai trò của kỹ năng hợp tác đối với trẻ 39
3.1.4. Thực trạng kỹ năng hợp tác với bạn của trẻ MGB ở trường MN2 40
3.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CỤ THỂ 40
3.2.1. Nhóm các biện pháp khi tổ chức trò chơi cho trẻ 40
3.2.1.1. Lập nhóm trên cơ sở đặc điểm tâm lý cá nhân trẻ 40
3.2.1.2. Xây dựng chủ đề và nội dung chơi phong phú 41
3.2.1.3. Chú trọng khâu hướng dẫn trẻ cách thực hiện vai
và mối quan hệ đúng giữa các vai 42
3.2.1.4. Xây dựng nề nếp vui chơi tích cực, lành mạnh 42
3.2.1.5. Theo dõi việc chơi, kịp thời giải quyết xung đột 43
3.2.1.6. Sử dụng phương pháp khuyến khích và trách phạt theo hướng
cảm nhận niềm vui của sự hợp tác 43
3.2.2. Nhóm các biện pháp ngoài hoạt động chơi 44
3.2.2.1. Tạo môi trường thân thiện ở lớp học 44
3.2.2.2. Phát triển ngôn ngữ và tổ chức tốt hoạt động giao tiếp cho trẻ.45
3.2.2.3. Giáo dục trẻ các hành vi văn hóa khi cùng học, cùng chơi với bạn46
3.2.2.4. Phối hợp với gia đình giáo dục trẻ 46
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 48
1. KẾT LUẬN 48
2. KIẾN NGHỊ SƯ PHẠM 49
2.1. Đối với lãnh đạo Phòng, Sở Giáo dục 49
2.2. Đối với lãnh đạo Bộ môn Giáo dục Mầm non, trường ĐHSP 49
2.3. Đối với sinh viên sư phạm Giáo dục Mầm non 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO 51
3
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong xã hội loài người, hợp tác với người khác được xem là một
nhu cầu tất yếu của cuộc sống. Từ thuở sơ khai, sự tồn tại và phát triển
của loài đã thúc đẩy con người liên kết, hợp tác với nhau: từ săn bắt, hái
lượm cho đến chống lại thú dữ… Cuộc sống ngày càng hiện đại, con
người càng cần đến sự hợp tác và dường như chỉ có sự hợp tác mới mang
lại một kết quả tốt đẹp, từ những điều thuộc về công việc của mỗi cá nhân
cũng như của nhiều người như môi trường, hòa bình,… Có thể nói, hợp
tác là con đường tiêu biểu cho sự phát triển của các quốc gia cũng như của
mỗi cá nhân.
Lý luận tâm lý học - giáo dục học trẻ em cũng cho thấy sự lớn lên
của trẻ gắn liền sự hợp tác với người khác: từ những phản xạ mang tính
định hướng ở những tháng ngày đầu đời cho đến sự gia nhập thực sự vào
“xã hội trẻ em”, xã hội người lớn… Tầm quan trọng của sự hợp tác đã biến
nó từ một nhu cầu đến chỗ đòi hỏi phải học tập, đặc biệt là trong thời đại
ngày nay. Mẫu giáo (MG) là độ tuổi thực sự cần đến kỹ năng hợp tác khi
đây cũng là giai đoạn trẻ bắt đầu tham gia tích cực vào các nhóm lớp do
chính cuộc sống của trẻ tạo ra. Đương nhiên, việc cần và biết cách hợp tác
với bạn là hai vấn đề khác nhau và điều này cũng không dễ hiểu đối với trẻ
lứa tuổi này.
Đời sống của tuổi mẫu giáo nhuốm màu sắc vui chơi, trong đó nổi
hơn cả là trò chơi đóng vai theo chủ đề (ĐVTCĐ). Kết quả nghiên cứu về
tâm lí học cho thấy loại trò chơi này có vai trò vô cùng quan trọng đối với
4
sự phát triển tâm lí của trẻ MG. Qua trò chơi, trẻ bắt đầu hiểu được những
mối quan hệ qua lại với nhau trong xã hội (mẹ - con, bác sĩ - bệnh nhân…),
những tri thức, kinh nghiệm của xã hội loài người. Qua trò chơi, trẻ học
cách chia sẻ, hợp tác với nhau. Có thể nói trò chơi là phương tiện ưu việt
nhất trong quá trình thành Người của trẻ MG. Đương nhiên giáo dục trẻ
bao giờ cũng mang nặng tính nghệ thuật và nghệ thuật, đó chính là việc sử
dụng các hình thức phù hợp với từng lứa tuổi, từng cá nhân để thúc đẩy
phẩm chất, năng lực vốn có cho trẻ. Chúng tôi chọn nghiên cứu kỹ năng
hợp tác với bạn qua trò chơi ĐVTCĐ ở tuổi mẫu giáo bé (MGB) cũng được
xuất phát từ quan điểm đó.
Trường Mầm non 2(MN2) - TP Huế được thành lập từ năm 1976,
được công nhận là trường đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2000 - 2005. Với vị
trí thuộc khu vực trung tâm phía bắc của thành phố Huế, trường MN2 đã
thu hút một lượng lớn nhiều đối tượng con em. Đây cũng là nơi chúng tôi
đến thực hành, thực tập trong suốt khóa học. Với mục tiêu nghiên cứu của
đề tài, chúng tôi nhận thấy đây là nơi hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi. Mặt
khác, cho đến nay vẫn chưa có ai nghiên cứu kỹ năng hợp tác với bạn của
trẻ Mẫu giáo bé (MGB) qua trò chơi ĐVTCĐ. Xuất phát từ những vấn đề
trên, chúng tôi chọn đề tài Thực trạng kỹ năng hợp tác với bạn qua trò
chơi đóng vai theo chủ đề của trẻ MGB ở trường mầm non 2 - Thành
phố Huế để nghiên cứu.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng của kỹ năng hợp tác với
bạn qua trò chơi ĐVTCĐ ở trẻ MGB, trường MN 2 - TP Huế chúng tôi sẽ
đề xuất một số biện pháp bồi dưỡng kỹ năng hợp tác với bạn cho trẻ qua trò
chơi ĐVTCĐ.
5
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Kỹ năng hợp tác với bạn qua trò chơi ĐVTCĐ ở trẻ MGB, trường
MN 2- Thành phố Huế.
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Trẻ MGB
- Trò chơi ĐVTCĐ
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
4.2. Nghiên cứu thực trạng kỹ năng hợp tác với bạn qua trò chơi
ĐVTCĐ ở trẻ MGB, trường MN 2- Thành phố Huế.
4.3. Đề xuất biện pháp nhằm bồi dưỡng kỹ năng hợp tác với bạn qua
trò chơi ĐVTCĐ cho trẻ MGB.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
5.1.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết: dùng để phân
tích lý giải, làm sáng tỏ các khái niệm liên quan, xác lập cơ sở lí luận của
vấn đề nghiên cứu.
5.1.2. Phương pháp phân loại, hệ thống hoá lý thuyết: dùng để
phân loại, hệ thống các vấn đề lí luận của đề tài.
5.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
5.2.1. Phương pháp quan sát: Dùng để quan sát trẻ và giáo viên
trong quá trình chơi nhằm tìm hiểu và đánh giá thực trạng.
5.2.2. Phương pháp đàm thoại: Tiến hành đàm thoại với giáo viên, phụ
huynh và trẻ để thu thập thông tin đánh giá thực trạng, tìm kiếm biện pháp.
6
5.2.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm của hoạt động: phát hiện
những biểu hiện của kỹ năng hợp tác mà trẻ thể hiện trong quá trình chơi.
5.2.4. Phương pháp điều tra: dùng để thu thập thông tin về vấn đề
nghiên cứu.
5.3. Phương pháp thống kê toán học: Dùng để xử lý số liệu điều tra.
6. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Kỹ năng hợp tác với bạn ở tuổi MGB qua trò chơi ĐVTCĐ còn yếu,
mang nặng tính tự phát. Nếu người giáo viên chủ động bồi dưỡng kỹ năng hợp
tác cho trẻ trong quá trình chơi cũng như tổ chức tốt việc phối hợp với phụ
huynh trong đời sống hàng ngày của trẻ thì sẽ thúc đẩy sự phát triển kĩ năng
hợp tác của trẻ với bạn nói riêng và với những người xung quanh nói chung.
7. PHẠM VI VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
7.1. Phạm vi nghiên cứu
- Hoạt động vui chơi ĐVTCĐ tại lớp.
- Trẻ MGB ở trường MN 2.
7.2. Thời gian nghiên cứu
- Năm học 2008 - 2009.
8. CẤU TRÚC KHÓA LUẬN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, khoá
luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng kỹ năng hợp tác với bạn qua trò chơi ĐVTCĐ
cho trẻ MGB tại trường MN 2- Thành phố Huế
Chương 3: Một số biện pháp bồi dưỡng kỹ năng hợp tác với bạn qua
trò chơi ĐVTCĐ cho trẻ MGB
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Tuy chưa thực sự được nghiên cứu và có công trình độc lập về vấn
đề kỹ năng hợp tác với bạn qua trò chơi ĐVTCĐ nhưng có thể nói có rất
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đã nghiên cứu và đề cập đến kĩ
năng hợp tác của trẻ dưới nhiều góc độ khác nhau.
Tác giả Carrie Lynn trong Nuôi dạy trẻ từ 3- 6 tuổi đã xuất phát từ
tâm sinh lý của trẻ để đưa ra phương pháp nuôi dạy con, như hướng dẫn trẻ
kỹ năng hợp tác, cảm nhận niềm vui của sự hợp tác, xây dựng tinh thần
đoàn kết, người lớn là tấm gương sáng cho trẻ… M.Parten trong Trò chơi
nhóm của trẻ Mẫu giáo đã nghiên cứu về đặc điểm mối quan hệ giữa
người với người diễn ra trong trò chơi của trẻ. Tác giả đã làm nổi bật quan
hệ xã hội của trẻ trong khi chơi.
Ở trong nước, đáng kể có: Liêm Trinh trong Rèn luyện nhân cách
cho trẻ cho rằng cần rèn luyện tính hợp tác cho trẻ qua việc bày tỏ sự quan
tâm, chia sẻ với người khác những gì mình có và tôn trọng ý kiến của
người khác, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tác giả Lê Xuân Hồng với
Những kỹ năng sư phạm mầm non- Tập 2 đã nghiên cứu những cách
thức, biện pháp phát triển những kỹ năng cần thiết cho trẻ mầm non, trong
đó có kỹ năng hợp tác. Theo đó, tác giả cho rằng cần thúc đẩy kỹ năng hợp
tác của trẻ bằng cách giúp trẻ học cách hòa nhập với những trẻ khác.
Nguyễn Ánh Tuyết trong Tâm lý học trẻ em lứa tuổi Mầm non,
Tâm lý học trẻ em - Tập 2 cũng đã đề cập đến vấn đề hình thành kỹ năng
8
hợp tác qua trò chơi ĐVTCĐ. Tác giả nhấn mạnh, đối với trò chơi đóng
vai, trẻ không thể chơi một mình mà phải chơi theo nhóm và có nhiều
thành viên trong nhóm cùng chơi với nhau, tức là chơi với bạn. Đặc điểm
này thúc đẩy sự hợp tác của trẻ.
Ngày nay, cùng với sự phát triển về kinh tế, việc chăm sóc giáo dục
trẻ thu hút sự quan tâm của nhiều người trong xã hội. Các bài viết trên
Website chuyên ngành như Mamnon.com hay không chuyên như
Tuoitre.com… cũng đề cập đến kỹ năng hợp tác cho trẻ. Có thể kể đến các
bài viết Trò chơi đóng vai giúp trẻ nên người (Tuoitre.com), Để trò chơi
đóng vai phát huy tác dụng với trẻ (Mamnon.com), Dạy trẻ cách làm việc
nhóm của Thanh Hoa (Mamnon.com), Huấn luyện kỹ năng hợp tác để
thành công của Hàn Nguyên (Giaovien.net), Kỹ năng chuyển từ xung đột
đến hợp tác trên Hieuhoc.com, Dạy trẻ kỹ năng sống của Lê Thị Thanh
Nga (Thông tin Khoa học giáo dục).
Tất các công trình đều được các nhà nghiên cứu đề cập đến sự cần
thiết phải giáo dục trẻ, trong đó có bồi dưỡng kỹ năng hợp tác với bạn cho
trẻ nhằm góp phần phát triển và hoàn thiện nhân cách của trẻ. Tuy nhiên,
cho đến nay, vấn đề Thực trạng kỹ năng hợp tác với bạn qua trò chơi
ĐVTCĐ cho trẻ MGB - trường MN 2 - Thành phố Huế vẫn chưa có ai
nghiên cứu.
1.2. CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1.2.1. Kỹ năng
Theo Từ điển Tâm lí học, kỹ năng là năng lực vận dụng có kết quả
những tri thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để
thực hiện những nhiệm vụ tương ứng. [131,16]
Khái niệm này cho thấy:
9
1. Kỹ năng là năng lực vận dụng những tri thức về phương thức hành
động, tức kĩ năng luôn gắn liền với hành động và hoạt động cụ thể. Qua
việc cá nhân thực hiện các hành động khi làm một công việc, ta có thể đánh
giá được mức độ thông hiểu công việc cũng như khả năng vận dụng tri thức
của chủ thể.
2. Ở mức độ kỹ năng, thao tác chưa thuần thục và còn phải tập
trung chú ý.
3. Kỹ năng được hình thành qua luyện tập.
1.2.2. Hợp tác
Hợp tác là cùng chung sức giúp đỡ lẫn nhau trong một công việc,
một lĩnh vực nào đó để nhằm một mục đích chung [450,17].
Khái niệm này cho thấy:
1. Hợp tác bao giờ cũng diễn ra giữa hai hay nhiều cá nhân.
2. Hợp tác cần sự góp sức của mọi người để hoàn thành một công
việc, cũng có nghĩa công việc thúc đẩy sự hợp tác luôn vượt qua giới hạn
một người thực hiện được.
3. Phải có mục đích chung trong hợp tác, nếu có nhiều mục đích và
đặc biệt mục đích mâu thuẫn, đối lập nhau thì sẽ có nguy cơ phá vỡ sự hợp
tác.
1.2.3. Kỹ năng hợp tác
Từ những khái niệm Kỹ năng và Hợp tác, chúng tôi hiểu kỹ năng
hợp tác là năng lực vận dụng có kết quả những tri thức về hợp tác để giúp
đỡ nhau nhằm hoàn thành một mục đích chung.
1.2.4. Trò chơi đóng vai theo chủ đề
Trò chơi ĐVTCĐ là loại trò chơi mà khi chơi trẻ mô phỏng một
10
mảng nào đó của cuộc sống người lớn trong xã hội bằng việc nhập vào (hay
gọi là đóng vai) một nhân vật nào đó để thực hiện xã hội của họ bằng
những hành động mang tính tượng trưng [6,15].
Trò chơi ĐVTCĐ có một ý nghĩa đặc biệt trong quá trình lớn lên của trẻ
mẫu giáo. Trong khi chơi, trẻ lĩnh hội các tri thức, kinh nghiệm của xã hội loài
người, khám phá các mối quan hệ giữa những thành viên trong xã hội. Chơi
đóng vai bác sĩ, trẻ sẽ tưởng tượng và thực hiện công việc chăm sóc bệnh nhân.
Chơi đóng vai trong chủ đề gia đình, trẻ sẽ thể hiện suy nghĩ và cảm nhận về
các mối quan hệ giữa ông - bà - bố - mẹ - con… Ngoài những giá trị đó, trẻ còn
học được cách giải quyết các bất hòa xảy ra trong quá trình chơi, tạo điều kiện
cho trẻ được trao đổi và chia sẻ những ý tưởng, kinh nghiệm cho nhau.
1.3. MỤC TIÊU VÀ NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC MẦM NON
1.3.1. Mục tiêu Giáo dục mầm non
Mục tiêu Giáo dục mầm non được quy định ở điều 22 của Luật Giáo
dục Việt Nam:
“Mục tiêu của Giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất,
tình cảm, trí tuệ, thẫm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách,
chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp 1”[30,17].
Mục tiêu Giáo dục mầm non còn được cụ thể hóa trong “Quyết định
55 của Bộ Giáo dục quy định mục tiêu, kế hoạch đào tạo của Nhà trẻ - Mẫu
giáo”đó là:
“Hình thành ở trẻ những cơ sở đầu tiên của nhân cách con người mới
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
- Khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, cơ thể phát triển hài hoà cân đối
- Giàu lòng thương, biết quan tâm, nhường nhịn giúp đở những người
gần gũi (bố mẹ, bạn bè, cô giáo), thật thà, lễ phép, mạnh dạn, hồn nhiên
11
- Thông minh, ham hiểu biết, thích khám phá, tìm tòi, có một số kỹ
năng sơ đẳng (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, suy luận ) cần thiết
để vào trường phổ thông, thích đi học”
Mục tiêu Giáo dục mầm non thể hiện sự đón trước mô hình phát
triển nhân cách mà trẻ em Việt Nam đến 6 tuổi cần đạt được. Thực hiện
mục tiêu Giáo dục mầm non là chuẩn bị tiền đề quan trọng cho trẻ bước
vào trường phổ thông, đảm bảo những điều kiện cần thiết cho việc thực
hiện các mục tiêu sau (trước hết là mục tiêu giáo dục tiểu học).
1.3.2. Nguyên tắc Giáo dục mầm non
1.3.2.1. Nguyên tắc đảm bảo tính giáo dục
Nhiệm vụ của dạy học không chỉ cung cấp hệ thống tri thức mà
thông qua đó hình thành thái độ đúng đắn cho người học đối với cuộc sống,
đối với lao động và đối với thực tiễn xung quanh. Nó là phương tiện để
hình thành nhân cách con người mới. Dạy học và giáo dục là hai quá trình
thống nhất. Dạy học ở mầm non phải thực hiện tốt mục tiêu giáo dục của
bậc học mầm non.
Nguyên tắc này đòi hỏi khi xác định nội dung học tập, giáo viên phải
vạch ra những nhiệm vụ giáo dục cần giải quyết.
1.3.2.2. Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức
Nguyên tắc này yêu cầu mọi hoạt động tổ chức cho trẻ phải đảm
bảo vừa sức, dễ hiểu đối với trẻ. Theo I.A.Cômenxki, đảm bảo tính vừa
sức có nghĩa đi từ gần đến xa, từ đơn giản đến phức tạp, từ cái đã biết
đến cái chưa biết [94, 10]. Tính vừa sức phải được thể hiện trong nội
dung và phương pháp dạy học. Khi cho trẻ lĩnh hội tri thức mới phải
dựa trên cơ sở những cái trẻ được quan sát, đã biết, đã có trong kinh
nghiệm của chúng.
12
1.3.2.3. Nguyên tắc đảm bảo tính phát triển
Giáo dục là để phát triển các phẩm chất và năng lực vốn có của trẻ.
Tư tưởng dạy học mang tính phát triển do nhà tâm lý học L.X.Vưgôtxki đề
ra, trong đó yêu cầu việc dạy học luôn đi trước một bước, luôn đòi hỏi ở trẻ
sự nổ lực, cố gắng khi nắm tri thức mới.
Theo nguyên tắc này, khi dạy học không chỉ đưa ra cho trẻ những
nhiệm vụ dễ dàng, quen thuộc mà phải đưa ra cho trẻ những nhiệm vụ đòi
hỏi sự nổ lực hoạt động trí tuệ.
1.3.2.4. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính liên tục
Nguyên tắc này đòi hỏi việc sắp xếp nội dung chương trình học và
hoạt động học tập trong thực tiễn phải đảm bảo một trình tự lôgic, liên tục.
Tài liệu mới phải dựa trên cái đã học, các giờ học theo mức độ khó dần, các
tài liệu sau có mối liên hẹ với các tài liệu trước, tri thức được hệ thống hoá
trên cơ sở các mối liên hệ cơ bản giữa các sự vật hiện tượng.
1.3.2.5. Nguyên tắc phát huy tính tích cực, tính tự giác của trẻ
Nguyên tắc này đòi hỏi trong việc dạy học phải làm sao cho trẻ hứng
thú, ham thích, hăng say học tập, làm cho trẻ tự mình ra sức hoàn thành các
nhiệm vụ học tập, tự mình khắc phục khó khăn để nắm tri thức, kỹ năng, kỹ
xão. Tri thức dạy học phải thúc đẩy hoạt động trí tuệ của trẻ.
1.3.2.6. Nguyên tắc đảm bảo tính trực quan
Nguyên tắc này đòi hỏi quá trình dạy học trẻ MG phải xuất phát từ
tri giác, sự vật hiện tượng cụ thể cảm tính (thông qua trực quan hay hành
động trực tiếp với đối tượng) hay từ những biểu tượng đã có về sự vật
hiện tượng để nhận thức cái trừu tượng, khái quát. Nguyên tắc này đặc
biệt quan trọng trong dạy học ở mầm non vì tư duy của trẻ mang tính trực
quan hình tượng. Để nhận thức sự vật hiện tượng, trẻ cần chính mắt mình
13
nhìn, chính tai mình nghe, chính mũi mình ngửi, chính lưỡi mình nếm,
chính tay mình sờ…
1.3.2.7. Nguyên tắc đối xử cá biệt
Tuy mô hình nhóm lớp là hình thức dạy học đặc trưng ở bậc học
mầm non nhưng trong quá trình tổ chức hoạt động giáo dục người giáo
viên phải tính đến đặc điểm cá nhân của mỗi trẻ. Trong quá trình nhận
thức, trẻ em bộc lộ sự khác biệt về nhiều mặt như mức độ linh hoạt của tư
duy, tốc độ tiếp thu tri thức… Có trẻ hiểu và nhớ nhanh, có trẻ lại phải mất
nhiều thời gian ôn tập để lĩnh hội tài liệu mới. Vì vậy, giáo viên phải có
biện pháp đối xử cá biệt linh hoạt để duy trì hứng thú và thúc đẩy tính tích
cực của mỗi trẻ.
1.4. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CƠ BẢN CỦA TRẺ MGB
Do sự tăng trưởng đáng kể về mặt thể chất, sự phong phú về đời
sống xã hội cũng như hoạt động, trẻ MGB đã phát triển về nhiều mặt của
các chức năng tâm lý so với lứa tuổi trước. Cụ thể:
* Ngôn ngữ
Ở giai đoạn này, trẻ đã biết sử dụng khá thành thạo tiếng mẹ đẻ. Vốn
từ của trẻ phát triển nhanh, trẻ đã biết nói từng câu ngắn, ít thành phần.
Kiểu loại ngôn ngữ tình huống đặc trưng ở giai đoạn này. Nhiều trẻ đã biết
diễn đạt ý muốn của bản thân khá rõ ràng.
Ngôn ngữ giúp trao đổi tư tưởng tình cảm, xác lập các mối quan hệ
giữa các thành viên trong nhóm chơi. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ giao
tiếp, chia sẻ và đi đến hiểu biết lẫn nhau.
* Nhận thức
Ở độ tuổi này, trẻ đã làm chủ được tri giác của mình dưới sự hướng
dẫn của người lớn. Trẻ rất tò mò, ham hiểu biết môi trường xung quanh.
14
Trẻ phân biệt được các màu sắc, kích thước, tính khối lượng…theo
hướng ngày càng gần với chuẩn nhận cảm của xã hội. Tuy nhiên, khi nhận
xét đồ vật, con người trẻ vẫn phụ thuộc vào dấu hiệu chủ quan bên ngoài.
Như vậy, tri giác của trẻ phát triển ở mức độ cao hơn so với lứa
tuổi trước.
Tư duy ở độ tuổi này được phát triển mạnh mẽ, từ loại trực quan
hành động chuyển đến trực quan hình tượng. Đặc trưng về tư duy của trẻ
MGB được các nhà khoa học xác nhận là:
+ Trực giác toàn bộ.
+ Gắn liền với xúc cảm và ý muốn chủ quan, chịu sự chi phối mạnh
của tình cảm.
+ Còn lẫn lộn dấu hiệu bản chất và không bản chất của sự vật
hiện tượng.
* Chú ý
Trẻ đã có khả năng duy trì sự chú ý vào đồ vật, đối tượng mới lạ, hấp
dẫn khoảng 15-20 phút. Trẻ có thể chú ý 2 - 3 đối tượng cùng một lúc. Tuy
nhiên, sự phân tán chú ý của trẻ trong giai đoạn này vẫn còn thể hiện mạnh
mẽ, nhiều khi trẻ không tự chủ được. Phần lớn trẻ dễ bị thay đổi do tác động
của môi trường xung quanh. Trẻ còn nhỏ, khả năng kiểm soát kém, tính ổn
định thấp, vì thế mà những gì lưu lại trong trẻ sẽ mờ nhạt. Do đó, việc thay
đổi đồ chơi, trò chơi cũng như cần luyện tập các phẩm chất chú ý cho trẻ
trong khi chơi cần sự quan tâm đặc biệt của người giáo viên mầm non.
* Trí nhớ
Ở trẻ MG, năng lực ghi nhớ và nhớ lại phát triển rất mạnh. Trí nhớ
của trẻ MGB mang tính trực quan hình tượng, tính không chủ định. Trẻ
thường ghi nhớ điều gì mà trẻ thích thú hoặc gây ấn tượng mạnh mẽ, đặc
15
biệt là những sự vật và hiện tượng mang tính trực quan hình tượng rõ nét
và tác động mạnh đến đời sống tình cảm của trẻ.
Trí nhớ có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của trẻ, vì nhờ đó trẻ
có thể ghi nhớ lại một cách nhẹ nhàng nhiều ấn tượng đẹp đẽ của cuộc sống
xung quanh. Bên cạnh đó, trí nhớ còn góp phần không nhỏ vào việc hình
thành kỹ năng hợp tác cho trẻ. Nếu đứa trẻ ghi nhớ được thì khi tham gia
chơi, trẻ dễ dàng được bạn cùng chơi chấp nhận, dễ dàng hòa nhập vào
nhóm chơi.
* Tưởng tượng
Trí tưởng tượng của trẻ MGB phần lớn là không chủ định, không nhằm
vào mục đích đề ra từ trước, còn hòa trộn với tính tự kỷ trung tâm. Do vốn tri
thức và kinh nghiệm sống của trẻ còn ít nên trí tưởng tượng của trẻ còn nghèo
nàn, quá trình tưởng tượng gắn liền với tình huống chơi trước mắt.
Trí tưởng tượng có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống của trẻ MG, nó
giúp nhận thức và tìm hiểu thế giới xung quanh vượt ra khỏi giới hạn kinh
nghiệm cá nhân chật hẹp. Tưởng tượng giúp trẻ biết xây dựng tình huống
chơi, giúp trẻ thể hiện ước mơ của mình bởi những gì trong cuộc đời thực
không thực hiện được, trẻ thường tìm cách thực hiện trong trò chơi.
* Xúc cảm, tình cảm
Trẻ MGB có đời sống xúc cảm rất phong phú, đa dạng theo các mối
quan hệ với những người xung quanh như tình cảm mẹ con, ông bà, anh chị
em, cô giáo, bạn bè… Đối với trẻ nhỏ, người lớn cần tỏ những cử chỉ gắn
bó, quan tâm chăm sóc. Điều này sẽ chạm ngay đến sợi dây tình cảm vốn
rất nhạy cảm của trẻ, làm cho trẻ tin yêu người lớn và dễ nghe theo, nghĩa
là bằng tình cảm và bằng tấm lòng thương yêu, chúng ta có thể giáo dục trẻ
làm theo những điều hay lẽ phải để trở thành người tốt. Đáp lại tình cảm
16
đó, trẻ đã biết làm việc giúp đỡ người lớn như: giữ em, lấy nước cho ông
bà… Những việc đó tuy nhỏ nhặt, kết quả không là bao nhưng lại có ý
nghĩa giáo dục rất lớn: giúp trẻ biết quan tâm đến người khác bằng những
hành vi tuy đơn giản nhưng mang đậm tình người.
Các loại xúc cảm, tình cảm khác như tình cảm đạo đức, tình cảm
thẩm mĩ, tình cảm trí tuệ… cũng bắt đầu hình thành. Qua giao tiếp ứng xử
với cô giáo, bạn bè và nếp sống gia đình… trẻ đã biết quan tâm đến mọi
người xung quanh như bố mẹ, ông bà, cô giáo, bạn bè. Ví dụ: trẻ biết quạt
cho bà khi bà ốm, biết lấy nước cho mẹ khi mẹ khát,… Qua hoạt động vui
chơi, hoạt động âm nhạc, tìm hiểu môi trường xung quanh, nghệ thuật tạo
hình, qua giao tiếp sinh hoạt với bạn bè, nhiều cảm xúc thẩm mỹ được hình
thành. Trẻ nhận biết cái đẹp trong tự nhiên, trong âm thanh nhịp điệu, trong
lời nói của cô giáo…
Những tình cảm bậc cao xuất hiện góp phần làm rõ nét dần những
đặc trưng “nhân cách gốc của trẻ” và có tác động không nhỏ đến sự hình
thành kỹ năng hợp tác cho trẻ. Chính những xúc cảm, tình cảm đã giúp
cho trẻ có cơ hội thu nhận thêm bao điều mới mẻ, bồi bổ cho trí tuệ luôn
luôn được tươi mát, làm cho nhận thức của trẻ về cuộc sống ngày càng
sâu sắc hơn.
* Ý chí
Trong quá trình giáo dục, do ảnh hướng của người lớn và các bạn
cùng tuổi, trẻ hình thành khả năng khắc phục khó khăn để đạt tới mục đích
đề ra như: trẻ biết tự kiểm tra tư thế của mình như ngồi im, không chạy
loăng quăng trong giờ học
Bản thân các hành động ý chí cũng được biến đổi trong suốt thời kỳ
mẫu giáo. Ở lứa tuổi này, những biểu hiện của ý chí tăng lên nhưng chúng
chưa chiếm một vị trí đáng kể trong hành vi của trẻ.
17
1.5. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA TRÒ CHƠI ĐVTCĐ ĐỐI
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ NÓI CHUNG VÀ BỒI
DƯỠNG KỸ NĂNG HỢP TÁC VỚI BẠN NÓI RIÊNG
1.5.1. Đặc điểm của trò chơi ĐVTCĐ
ĐVTCĐ là trò chơi đặc trưng của trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo. Với tính
chất mô phỏng các hoạt động của người lớn - hoạt động thể hiện rõ sự hợp
tác - loại trò chơi này thực sự có ưu thế trong việc bồi dưỡng kĩ năng hợp
tác cho trẻ so với các trò chơi khác.
Trò chơi ĐVTCĐ cấu trúc bởi 4 yếu tố: Chủ đề chơi, vai chơi, hoàn
cảnh chơi và các mối quan hệ.
* Chủ đề chơi: Là mảng hiện thực của cuộc sống sinh hoạt xung
quanh trẻ được phản ánh trong trò chơi. Đó thường là các lĩnh vực gần gũi
với trẻ như: sinh hoạt gia đình, trường mẫu giáo, lớp học, mua bán. Kinh
nghiệm sống của trẻ càng phong phú bao nhiêu thì nội dung chơi càng
được mở rộng bấy nhiêu.
* Vai chơi: Là vị trí của người lớn mà trẻ muốn nhập vai. Vai chơi
của trẻ thường mang nặng tính nghề nghiệp như: bác sĩ - bệnh nhân, mẹ -
con, cô giáo…
* Hoàn cảnh chơi: Sự phản ánh cuộc sống vào trò chơi không còn
giữ nguyên như nó vốn có trong đời thực, ở trò chơi mọi cái đều là mô
phỏng. Đó chính là hoàn cảnh chơi - còn gọi là hoàn cảnh tưởng tượng.
Hoàn cảnh chơi xuất hiện khi trẻ thực hiện hành động của vai nhưng
lại không có những đồ vật thật mà chỉ là hành động với những “vật thay
thế”. Và vì hoạt động với vật thay thế nên trẻ không thể hành động như
thật. Tất cả từ vai chơi, hành động chơi, đồ chơi đều được trẻ em mô phỏng
bằng trí tưởng tượng của mình. Khi chơi, trí tưởng tượng của trẻ nảy sinh
18
và phát triển. Hoàn cảnh chơi giúp cho trò chơi được thực hiện dễ dàng
hơn, bay bổng hơn.
* Các mối quan hệ chơi: Trong trò chơi, cùng một lúc trẻ phải thực
hiện hai mối quan hệ: quan hệ chơi và quan hệ thực.
Quan hệ chơi là những mối quan hệ qua lại nhất định của các vai
chơi trong trò chơi theo một chủ đề nhất định. Chẳng hạn như quan hệ giữa
mẹ - con trong gia đình, quan hệ giữa người mua và người bán trong trò
chơi bán hàng, quan hệ bác sĩ - bệnh nhân… Đó là những mối quan hệ
được trẻ quan tâm và trở thành đối tượng hành động của trẻ.
Quan hệ thực là những quan hệ vốn có giữa trẻ và những người cùng
tham gia trò chơi như bạn bè, anh chị em…
Ở tuổi MGB, trẻ vẫn dễ lẫn lộn quan hệ chơi - quan hệ thực.
1.5.2. Vai trò của trò chơi ĐVTCĐ đối với sự phát triển tâm lý
của trẻ nói chung và bồi dưỡng kỹ năng hợp tác với bạn nói riêng
Những phẩm chất tâm lý của trẻ mẫu giáo được phát triển mạnh mẽ
nhất trong hoạt động vui chơi mà trung tâm là trò chơi ĐVTCĐ.
Trong trò chơi, ở trẻ bắt đầu hình thành chú ý có chủ định và ghi nhớ
được nhiều hơn bởi bản thân trò chơi đòi hỏi trẻ phải ghi nhớ để mô phỏng.
Nếu không chú ý và nhớ thì sẽ có nguy cơ hành động lung tung và bị bạn
không chấp nhận cùng chơi.
Loại trò chơi này cũng thúc đẩy sự phát triển tư duy theo hướng từ
bình diện bên ngoài (tư duy trực quan - hành động) vào bình diện bên trong
(tư duy trực quan - hình tượng). Mặt khác, trong khi chơi trẻ thường gặp
những khó khăn đòi hỏi trẻ phải suy nghĩ tìm cách để giải quyết. Có thể
thấy, trò chơi kích thích hoạt động tư duy ở trẻ.
19
Trò chơi ĐVTCĐ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ. Để chơi đóng vai trẻ phải có một trình độ ngôn ngữ nhất định để
giao tiếp. Để đáp ứng được những yêu cầu của việc cùng chơi, trẻ phải nói
rõ ràng, mạch lạc. Chơi đóng vai chính là điều kiện kích thích trẻ phát triển
ngôn ngữ một cách nhanh chóng.
Trò chơi ĐVTCĐ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển trí
tưởng tượng của trẻ mẫu giáo. Trong hoạt động vui chơi, trẻ thay thế đồ vật
này bằng đồ vật khác, nhận đóng vai khác nhau. Năng lực này là cơ sở để
phát triển trí tưởng tượng.
Trò chơi đóng vai tác động rất mạnh đến sự phát triển tình cảm của
trẻ. Trò chơi tác động mạnh đến trẻ em trước hết chính bởi nó thâm nhập
một cách dễ dàng hơn vào thế giới tình cảm của trẻ, mà tình cảm đối với trẻ
là động cơ hành động mạnh mẽ nhất. Những tình cảm mà trẻ bộc lộ trong
trò chơi cũng hết sức chân thực, thẳng thắn như trẻ cảm nhận. Việc nhập
vào vai giúp cho đời sống tình cảm của trẻ ngày càng phong phú hơn.
Qua trò chơi đóng vai, những phẩm chất ý chí của trẻ cũng dần được
hình thành như: tính mục đích, tính kỷ luật, tính dũng cảm… Dưới sự thúc
đẩy của nhu cầu chơi, trẻ buộc phải điều tiết hành vi của mình cho phù hợp
với những quy tắc của trò chơi. Việc thực hiện quy tắc của trò chơi làm cho
các thành viên trong đó hợp tác chặt chẽ với nhau để tiến hành một hoạt
động chung là chơi với nhau.
Trò chơi ĐVTCĐ nổi bật lên các mối quan hệ và sự hợp tác. Lứa
tuổi nhà trẻ, trẻ cũng biết chơi nhưng đó là chơi với đồ vật, chơi một mình
còn ở giai đoạn này là chơi với người khác, chơi với bạn. Chơi là hoạt động
chung đầu tiên và cơ bản của trẻ MG. Để chơi được trẻ phải hợp tác với
nhau. Với hình thức tổ chức theo nhóm, trong quá trình chơi, trẻ cần thoả
thuận với nhau về chủ đề (chơi bán hàng, mẹ con, cô giáo hay bác sĩ…), về
20
sự phân công vai, cùng làm việc, chung sức giải quyết những vấn đề nảy
sinh trong khi chơi. Đây là những kỹ năng tuy sơ giản nhưng lại rất cơ bản
của một quá trình hợp tác.
A.X.Macarenco đã viết: “Trò chơi có một ý nghĩa rất quan trọng đối
với trẻ. Ý nghĩa này chẳng khác gì ý nghĩa của sự hoạt động, sự làm việc và
sự phục vụ đối với người lớn. Đứa trẻ thể hiện như thế nào trong trò chơi
thì sau này trong phần lớn trường hợp nó cũng thể hiện như thế trong công
việc. Vì vậy, một nhà hoạt động trong tương lai trước tiên phải được giáo
dục trong trò chơi. Toàn bộ lịch sử của mỗi con người là một nhà hoạt động
hay một cán bộ có thể quan niệm như là một quá trình phát triển của trò
chơi, một sự chuyển dịch từ sự tham gia vào trò chơi sang sự thực hiện các
công việc. Cũng vì vậy mà ta có quyền gọi: “Trò chơi là phương tiện để trẻ
học làm người” [23,7]
1.6. QUY TRÌNH VÀ YÊU CẦU SƯ PHẠM KHI TỔ CHỨC TRÒ
CHƠI ĐVTCĐ CHO TRẺ MG
1.6.1. Quy trình tổ chức trò chơi ĐVTCĐ
Tổ chức, hướng dẫn trò chơi ĐVTCĐ theo quy trình 3 bước: thoả
thuận trước khi chơi, quá trình chơi và nhận xét sau khi chơi.
* Hướng dẫn thoả thuận trước khi chơi:
Tuỳ theo khả năng chơi của trẻ, mức độ phát triển trò chơi mà giáo
viên hướng dẫn trẻ thoả thuận:
+ Về hình thức: Có 2 hình thức:
- Cô trực tiếp tham gia cùng thoả thuận với trẻ. Có thể:
. Cô thoả thuận với cá nhân trẻ.
. Cô cùng thoả thuận với nhóm trẻ.
21
. Cô cùng thoả thuận với tập thể trẻ.
- Cô định hướng, tự trẻ thoả thuận với nhau. Có thể:
. Trẻ - cá nhân.
. Trẻ - nhóm trẻ.
. Trẻ - tập thể.
+ Về nội dung thoả thuận: chọn chủ đề chơi, phân vai chơi, chọn đồ
chơi, chổ chơi và có đưa ra một vài tiêu chí mà trẻ cần thực hiện trong quá
trình chơi, lập kế hoạch chơi.
* Hướng dẫn quá trình chơi
- Trẻ chơi với vai đã nhận
- Cô xác định vai trò hướng dẫn trên cơ sở khả năng chơi của trẻ và
yêu cầu phát triển trò chơi. Cô có thể:
+ Đóng một vai cùng chơi (vai chính hoặc vai phụ).
+ Quan sát, theo dõi và hướng dẫn trẻ như một người bạn.
+ Đóng vai trò như một cố vấn.
* Hướng dẫn nhận xét sau khi chơi
Sau khi trẻ chơi xong, cô tổ chức hướng dẫn trẻ nhận xét quá trình chơi
+ Hình thức hướng dẫn nhận xét, có thể:
- Cô trực tiếp tiến hành nhận xét với:
. Cá nhân trẻ.
. Nhóm trẻ.
. Tập thể trẻ.
- Cô định hướng để trẻ tự nhận xét giữa trẻ với:
. Cá nhân trẻ.
22
. Nhóm trẻ.
. Tập thể trẻ.
+ Nội dung nhận xét: hướng vào việc thực hiện vai chơi, thái độ,
quan hệ chơi, cần đưa ra ý kiến để lần sau trẻ chơi tốt hơn.
1.6.2. Yêu cầu sư phạm khi tổ chức trò chơi ĐVTCĐ
- Đảm bảo tính tự nguyện, hứng thú của trẻ.
- Trang bị vốn ngôn ngữ và kinh nghiệm sống cho trẻ.
- Đảm bảo cho trẻ được chơi tích cực, thoải mái và chơi chủ động.
- Thiết lập những mối quan hệ tốt đẹp với bạn trong nhóm chơi.
- Đảm bảo tính giáo dục của trò chơi đối với trẻ.
- Đảm bảo tính phát triển phong phú của trò chơi.
- Đảm bảo cung cấp đầy đủ đồ chơi.
- Cô cần quan tâm theo dõi để giúp trẻ.
23
Chương 2
THỰC TRẠNG KỸ NĂNG HỢP TÁC VỚI BẠN
QUA TRÒ CHƠI ĐVTCĐ CỦA TRẺ MGB Ở TRƯỜNG MN 2
THÀNH PHỐ HUẾ
2.1. TỔNG QUAN VỀ TRƯỜNG MN 2
Trường MN 2 được thành lập từ năm 1976. Đầu tiên chỉ là những
lớp học rải rác trong nhà dân. Năm 1980 được chuyển đến 36 Đoàn Thị
Điểm và tiếp nhận trẻ trong độ tuổi từ 3 - 5 tuổi. Năm 2003 - 2004, trường
tiếp nhận thêm cơ sở nhà trẻ ở 30 Nguyễn Biểu - cách trường 500m.
Với sự nỗ lực vươn lên không ngừng của lãnh đạo và giáo viên,
trong nhiều năm qua trường đã được tặng nhiều phần thưởng cao quý như:
huân chương lao động hạng 3, danh hiệu chi bộ Đảng trong sạch, vững
mạnh, công đoàn cơ sở vững mạnh, xuất sắc, bằng khen của Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam. Trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia giai
đoạn 2000 - 2005.
Hiện nay, trường có 2 cơ sở:
- Cơ sở 36 Đoàn Thị Điểm: có 12 phòng học, trong đó 4 phòng cho
lớp MGL, 4 phòng cho lớp MGN, 4 phòng cho lớp MGB. Có 3 phòng chức
năng: phòng năng khiếu, để học đàn, múa…, phòng truyền thống và phòng
thư viện, đồ chơi; 1 dãy các phòng hành chính gồm phòng hiệu trưởng,
hiệu phó và phòng kế toán tài vụ.
- Cơ sở 30 Nguyễn Biểu: có 3 phòng dành cho trẻ từ 1 đến dưới 3
tuổi, 1 phòng ngủ, 1 phòng bếp và 2 phòng vệ sinh.
24
Ngoài việc chăm lo cơ sở vật chất, nhà trường luôn chú trọng nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ - giáo viên - nhân viên, đáp ứng yêu cầu
phát triển của ngành. Cụ thể:
Bảng 2.1. Thống kê đội ngũ cán bộ - giáo viên - nhân viên
STT Thành phần và tổ chức đoàn thể của trường Số lượng
1 Ban giám hiệu 2
2 Giáo viên 33
3 Nhân viên 15
4 Chi bộ đảng 9
5 Tổ chức công đoàn 49
6 Chi đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh 7
Cộng 115
Đa số giáo viên có trình độ chuyên môn cao, trong số 33 giáo viên có
14 giáo viên trình độ ĐH, 11 giáo viên trình độ CĐ, còn lại là trung cấp.
Đội ngũ giáo viên luôn chú trọng rèn luyện tay nghề. Tính đến nay, đã có
1/3 tổng số giáo viên của trường đạt danh hiệu giáo viên giỏi cấp tỉnh, 1
giáo viên đạt giáo viên giỏi cấp quốc gia.
Là trung tâm của khu vực phía bắc thành phố, trường MN2 thu hút đông
đảo số lượng trẻ đến vui chơi, học tập. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy nghề
nghiệp của bố mẹ trẻ khá đa dạng. Có thể thấy điều đó qua bảng 2.2.
Bảng 2.2. Thống kê nghề nghiệp của bố mẹ trẻ
TT Nghề nghiệp Số lượng Tỷ lệ %
1 Cán bộ, viên chức nhà nước 74 61,7
2 Công nhân, thợ thủ công 12 10
3 Nghề tự do 26 21,7
4 Không có việc làm 8 6,6
25
Số liệu ở bảng 2.2 cho thấy, cha mẹ trẻ ở lớp MGB phần lớn là cán
bộ, viên chức nhà nước với các ngành nghề như: bác sĩ, giáo viên, kỹ sư,
công an… (chiếm tỷ lệ 61,7%). Đây là một điều kiện thuận lợi cho công tác
chăm sóc- giáo dục trẻ ở trường MN. Qua trao đổi với phụ huynh đứng
lớp, chúng tôi được biết: những gia đình này luôn chú trọng việc chăm sóc,
nuôi dưỡng con em. Tuy thu nhập của họ không cao như thu nhập từ các
ngành nghề khác nhưng nhận thức của họ về vấn đề chăm sóc - giáo dục trẻ
đúng đắn, tích cực, gia đình luôn tạo điều kiện cho con em mình được học
hỏi, vui chơi, phát triển. Mặc dù không xảy ra hoàn toàn tuyệt đối nhưng
phần đông ý kiến giáo viên đánh giá rằng phụ huynh của trẻ ở những gia
đình công nhân và thợ thủ công và nghề tự do ít sự quan tâm hơn do hạn
chế về thời gian làm việc. Thiết nghĩ, sự thấu hiểu và giúp đỡ của gia đình
sẽ là động lực quan trọng trong việc chăm sóc - giáo dục trẻ ở trường mầm
non cũng như tạo điều kiện tốt cho trẻ phát triển bền vững.
Trẻ MGB ở trường MN2 có 4 lớp với tổng số là 183 trẻ. Mỗi lớp
trung bình từ 43 -50 trẻ được 2 cô giáo phụ trách. Đa số trẻ khỏe mạnh,
nhanh nhẹn, ngoan ngoãn, tích cực tham gia các hoạt động ở trường MN .
Cụ thể như sau:
Bảng 2.3. Thống kê số lượng trẻ MGB
Trẻ MGB trường MN 2- Thành phố Huế
Lớp Nam Nữ Tổng số
C
1
25 22 47
C
2
24 21 45
C
3
27 19 46
C
4
22 23 45
TỔNG 98 85 183