Tải bản đầy đủ (.doc) (142 trang)

hoàn thiện cơ chế thanh tra thuế của tổng cục thuế đối với doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.83 KB, 142 trang )

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thuế Error: Reference source not
found
Sơ đồ 2.2: Mô hình tổ chức chức năng thanh tra, kiểm tra thuế Error:
Reference source not found
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ VÀ THANH TRA THUẾ 5
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ VÀ THANH TRA THUẾ 5
1.1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TRA THUẾ 15
1.1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TRA THUẾ 15
1.1.2.2. MỤC ĐÍCH, VAI TRÒ VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA THUẾ 16
1.1.2.2. MỤC ĐÍCH, VAI TRÒ VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA THUẾ 16
1.1.2.3. CÁC HÌNH THỨC THANH TRA THUẾ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THANH TRA THUẾ 21
1.1.2.3. CÁC HÌNH THỨC THANH TRA THUẾ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THANH TRA THUẾ 21
1.2. NỘI DUNG THANH TRA, NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN
CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA TỔNG CỤC THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 23
1.2. NỘI DUNG THANH TRA, NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN
CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA TỔNG CỤC THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 23
1.2.2. NỘI DUNG HOÀN THIỆN CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA TỔNG CỤC THUẾ ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP 25
1.2.2. NỘI DUNG HOÀN THIỆN CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA TỔNG CỤC THUẾ ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP 25
1.2.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC HOÀN THIỆN CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA
TỔNG CỤC THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 31
1.2.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC HOÀN THIỆN CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA
TỔNG CỤC THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 31
1.3.1. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ THỰC HIỆN CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 37
1.3.1. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ THỰC HIỆN CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 37
CHƯƠNG 2 41


CHƯƠNG 2 41
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA 42
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA 42
TỔNG CỤC THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 42
TỔNG CỤC THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 42
2.2.1. HIỆN TRẠNG VĂN BẢN CHÍNH SÁCH VỀ CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA TỔNG CỤC
THUẾ 44
2.2.1. HIỆN TRẠNG VĂN BẢN CHÍNH SÁCH VỀ CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA TỔNG CỤC
THUẾ 44
2.2.2.THỰC TRẠNG QUY TRÌNH THANH TRA THUẾ 49
2.2.2.THỰC TRẠNG QUY TRÌNH THANH TRA THUẾ 49
2.3.2. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ 74
2.3.2. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ 74
2.3.2.2. NGUYÊN NHÂN CỦA HẠN CHẾ 77
2.3.2.2. NGUYÊN NHÂN CỦA HẠN CHẾ 77
CHƯƠNG 3 85
CHƯƠNG 3 85
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 85
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 85
CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA TỔNG CỤC THUẾ 85
CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA TỔNG CỤC THUẾ 85
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 85
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 85
3.1. BỐI CẢNH KINH TẾ XÃ HỘI QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC TÁC ĐỘNG ĐẾN THANH TRA
THUẾ 85
3.1. BỐI CẢNH KINH TẾ XÃ HỘI QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC TÁC ĐỘNG ĐẾN THANH TRA
THUẾ 85
BỐI CẢNH QUỐC TẾ: 85
BỐI CẢNH QUỐC TẾ: 85
NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI TRONG GIAI ĐOẠN TỚI BIẾN ĐỔI RẤT PHỨC TẠP, ĐIỀU NÀY LÀM

CHO NHỮNG YẾU TỐ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ĐAN XEN LẪN NHAU ẢNH HƯỞNG LỚN
ĐẾN VIỆC HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA ĐẤT NƯỚC TA. ĐÁNH GIÁ
CHUNG VỀ BỐI CẢNH THẾ GIỚI CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG SẼ RẤT NHIỀU VÀ RẤT LỚN, Ở
ĐÂY CHỈ XEM XÉT VẤN ĐỀ CHÍNH VÀ CÓ TÁC ĐỘNG ĐẾN NƯỚC TA MỘT CÁCH MẠNH
MẼ VÀ TRỰC TIẾP, ĐÓ LÀ VẤN ĐỀ TOÀN CẦU HÓA: DƯỚI TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA
CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ, XU HƯỚNG HÒA BÌNH HỢP TÁC PHÁT
TRIỂN VÀ VAI TRÒ TO LỚN CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA, QUÁ TRÌNH TOÀN
CẦU HÓA NGÀY NAY ĐÃ ĐẠT ĐẾN MỘT ĐỈNH CAO MỚI VÀ TRỞ THÀNH XU THẾ BAO
TRÙM TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ TÌNH HÌNH NÀY CÓ TÁC ĐỘNG SÂU RỘNG TỚI MỌI
MẶT CỦA ĐỜI SỐNG KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI TRONG CÁC NƯỚC CŨNG NHƯ QUAN
HỆ GIỮA CÁC QUỐC GIA. QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA LÀM RA ĐỜI VÀ CỦNG CỐ MẠNG
LƯỜI DÀY ĐẶC CÁC THIẾT CHẾ QUỐC TẾ, ĐẶC BIỆT LÀ CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ TRONG
MỌI LĨNH VỰC. VAI TRÒ NGÀY CÀNG TĂNG CỦA CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ TRONG QUAN
HỆ QUỐC TẾ GÓP PHẦN HẠN CHẾ VÀ GIÚP GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT GIỮA CÁC NƯỚC,
DUY TRÌ VÀ CỦNG CỐ HÒA BÌNH, AN NINH QUỐC TẾ. THÔNG QUA CÁC THIẾT CHẾ VÀ
TỔ CHỨC QUỐC TẾ NÀY CÁC NƯỚC, ĐẶC BIỆT LÀ CÁC NƯỚC VỪA VÀ NHỎ, CÓ KHẢ
NĂNG BẢO VỆ TỐT HƠN LỢI ÍCH QUỐC GIA CŨNG NHƯ AN NINH CỦA MÌNH VÀ CÓ VỊ
THẾ ÍT BẤT LỢI HƠN TRONG QUAN HỆ VỚI CÁC NƯỚC LỚN. XU THẾ TOÀN CẦU HÓA
CŨNG TẠO RA NHỮNG CƠ HỘI QUAN TRỌNG NHƯ THỊ TRƯỜNG, VỐN, CÔNG NGHỆ,
CẠNH TRANH NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ MÀ CÁC NƯỚC CÓ THỂ TẬN DỤNG ĐỂ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI, TẠO CƠ SỞ ĐỂ ĐẢM BẢO AN NINH QUỐC GIA 85
NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI TRONG GIAI ĐOẠN TỚI BIẾN ĐỔI RẤT PHỨC TẠP, ĐIỀU NÀY LÀM
CHO NHỮNG YẾU TỐ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ĐAN XEN LẪN NHAU ẢNH HƯỞNG LỚN
ĐẾN VIỆC HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA ĐẤT NƯỚC TA. ĐÁNH GIÁ
CHUNG VỀ BỐI CẢNH THẾ GIỚI CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG SẼ RẤT NHIỀU VÀ RẤT LỚN, Ở
ĐÂY CHỈ XEM XÉT VẤN ĐỀ CHÍNH VÀ CÓ TÁC ĐỘNG ĐẾN NƯỚC TA MỘT CÁCH MẠNH
MẼ VÀ TRỰC TIẾP, ĐÓ LÀ VẤN ĐỀ TOÀN CẦU HÓA: DƯỚI TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA
CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ, XU HƯỚNG HÒA BÌNH HỢP TÁC PHÁT
TRIỂN VÀ VAI TRÒ TO LỚN CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA, QUÁ TRÌNH TOÀN
CẦU HÓA NGÀY NAY ĐÃ ĐẠT ĐẾN MỘT ĐỈNH CAO MỚI VÀ TRỞ THÀNH XU THẾ BAO

TRÙM TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ TÌNH HÌNH NÀY CÓ TÁC ĐỘNG SÂU RỘNG TỚI MỌI
MẶT CỦA ĐỜI SỐNG KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI TRONG CÁC NƯỚC CŨNG NHƯ QUAN
HỆ GIỮA CÁC QUỐC GIA. QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA LÀM RA ĐỜI VÀ CỦNG CỐ MẠNG
LƯỜI DÀY ĐẶC CÁC THIẾT CHẾ QUỐC TẾ, ĐẶC BIỆT LÀ CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ TRONG
MỌI LĨNH VỰC. VAI TRÒ NGÀY CÀNG TĂNG CỦA CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ TRONG QUAN
HỆ QUỐC TẾ GÓP PHẦN HẠN CHẾ VÀ GIÚP GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT GIỮA CÁC NƯỚC,
DUY TRÌ VÀ CỦNG CỐ HÒA BÌNH, AN NINH QUỐC TẾ. THÔNG QUA CÁC THIẾT CHẾ VÀ
TỔ CHỨC QUỐC TẾ NÀY CÁC NƯỚC, ĐẶC BIỆT LÀ CÁC NƯỚC VỪA VÀ NHỎ, CÓ KHẢ
NĂNG BẢO VỆ TỐT HƠN LỢI ÍCH QUỐC GIA CŨNG NHƯ AN NINH CỦA MÌNH VÀ CÓ VỊ
THẾ ÍT BẤT LỢI HƠN TRONG QUAN HỆ VỚI CÁC NƯỚC LỚN. XU THẾ TOÀN CẦU HÓA
CŨNG TẠO RA NHỮNG CƠ HỘI QUAN TRỌNG NHƯ THỊ TRƯỜNG, VỐN, CÔNG NGHỆ,
CẠNH TRANH NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ MÀ CÁC NƯỚC CÓ THỂ TẬN DỤNG ĐỂ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI, TẠO CƠ SỞ ĐỂ ĐẢM BẢO AN NINH QUỐC GIA 85
3.2. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA TỔNG CỤC THUẾ ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP 87
3.2. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA TỔNG CỤC THUẾ ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP 87
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA TỔNG CỤC THUẾ
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 90
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA TỔNG CỤC THUẾ
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 90
KẾT LUẬN 114
KẾT LUẬN 114
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ĐTNN : Đầu tư nước ngoài
GTGT : Giá trị gia tăng
NSNN : Ngân sách nhà nước
QHS : Hệ thống quản lý rủi ro
QLCV : Hệ thống quản lý công văn
QLT : Hệ thống thông tin quản lý cấp cục

TINC : Hệ thống quản lý thông tin người nộp thuế
TNCN : Thu nhập cá nhân
TNDN : Thu nhập doanh nghiệp
TP : Thành phố
MỤC LỤC
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ VÀ THANH TRA THUẾ 5
1.1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TRA THUẾ 15
1.1.2.2. MỤC ĐÍCH, VAI TRÒ VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA THUẾ 16
1.1.2.3. CÁC HÌNH THỨC THANH TRA THUẾ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THANH TRA THUẾ 21
1.2. NỘI DUNG THANH TRA, NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN
CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA TỔNG CỤC THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 23
1.2.2. NỘI DUNG HOÀN THIỆN CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA TỔNG CỤC THUẾ ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP 25
1.2.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC HOÀN THIỆN CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA
TỔNG CỤC THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 31
1.3.1. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ THỰC HIỆN CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 37
CHƯƠNG 2 41
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA 42
TỔNG CỤC THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 42
2.2.1. HIỆN TRẠNG VĂN BẢN CHÍNH SÁCH VỀ CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA TỔNG CỤC
THUẾ 44
2.2.2.THỰC TRẠNG QUY TRÌNH THANH TRA THUẾ 49
2.3.2. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ 74
2.3.2.2. NGUYÊN NHÂN CỦA HẠN CHẾ 77
CHƯƠNG 3 85
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 85
CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA TỔNG CỤC THUẾ 85
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 85
3.1. BỐI CẢNH KINH TẾ XÃ HỘI QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC TÁC ĐỘNG ĐẾN THANH TRA

THUẾ 85
BỐI CẢNH QUỐC TẾ: 85
NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI TRONG GIAI ĐOẠN TỚI BIẾN ĐỔI RẤT PHỨC TẠP, ĐIỀU NÀY LÀM
CHO NHỮNG YẾU TỐ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ĐAN XEN LẪN NHAU ẢNH HƯỞNG LỚN
ĐẾN VIỆC HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA ĐẤT NƯỚC TA. ĐÁNH GIÁ
CHUNG VỀ BỐI CẢNH THẾ GIỚI CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG SẼ RẤT NHIỀU VÀ RẤT LỚN, Ở
ĐÂY CHỈ XEM XÉT VẤN ĐỀ CHÍNH VÀ CÓ TÁC ĐỘNG ĐẾN NƯỚC TA MỘT CÁCH MẠNH
MẼ VÀ TRỰC TIẾP, ĐÓ LÀ VẤN ĐỀ TOÀN CẦU HÓA: DƯỚI TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA
CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ, XU HƯỚNG HÒA BÌNH HỢP TÁC PHÁT
TRIỂN VÀ VAI TRÒ TO LỚN CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA, QUÁ TRÌNH TOÀN
CẦU HÓA NGÀY NAY ĐÃ ĐẠT ĐẾN MỘT ĐỈNH CAO MỚI VÀ TRỞ THÀNH XU THẾ BAO
TRÙM TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ TÌNH HÌNH NÀY CÓ TÁC ĐỘNG SÂU RỘNG TỚI MỌI
MẶT CỦA ĐỜI SỐNG KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI TRONG CÁC NƯỚC CŨNG NHƯ QUAN
HỆ GIỮA CÁC QUỐC GIA. QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA LÀM RA ĐỜI VÀ CỦNG CỐ MẠNG
LƯỜI DÀY ĐẶC CÁC THIẾT CHẾ QUỐC TẾ, ĐẶC BIỆT LÀ CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ TRONG
MỌI LĨNH VỰC. VAI TRÒ NGÀY CÀNG TĂNG CỦA CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ TRONG QUAN
HỆ QUỐC TẾ GÓP PHẦN HẠN CHẾ VÀ GIÚP GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT GIỮA CÁC NƯỚC,
DUY TRÌ VÀ CỦNG CỐ HÒA BÌNH, AN NINH QUỐC TẾ. THÔNG QUA CÁC THIẾT CHẾ VÀ
TỔ CHỨC QUỐC TẾ NÀY CÁC NƯỚC, ĐẶC BIỆT LÀ CÁC NƯỚC VỪA VÀ NHỎ, CÓ KHẢ
NĂNG BẢO VỆ TỐT HƠN LỢI ÍCH QUỐC GIA CŨNG NHƯ AN NINH CỦA MÌNH VÀ CÓ VỊ
THẾ ÍT BẤT LỢI HƠN TRONG QUAN HỆ VỚI CÁC NƯỚC LỚN. XU THẾ TOÀN CẦU HÓA
CŨNG TẠO RA NHỮNG CƠ HỘI QUAN TRỌNG NHƯ THỊ TRƯỜNG, VỐN, CÔNG NGHỆ,
CẠNH TRANH NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ MÀ CÁC NƯỚC CÓ THỂ TẬN DỤNG ĐỂ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI, TẠO CƠ SỞ ĐỂ ĐẢM BẢO AN NINH QUỐC GIA 85
3.2. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA TỔNG CỤC THUẾ ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP 87
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ CỦA TỔNG CỤC THUẾ
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 90
KẾT LUẬN 114
PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước, mọi Quốc gia tồn tại và
phát triển đều phải trên cơ sở Nguồn thu Ngân sách Quốc gia. Trong đó thu từ Thuế
đóng vai trò chủ yếu và mang tính quyết định. Ngoài ra Thuế còn là một công cụ
quản lý kinh tế quan trọng, có hiệu lực để Nhà nước quản lý và điều tiết vĩ mô nền
kinh tế. Phạm vi và đối tượng tác động của Thuế rất rộng, liên quan đến mọi ngành,
mọi cấp và công dân. Có thể nói hệ thống chính sách, pháp luật Thuế Nhà nước có
vai trò, vị trí vô cùng quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, trong việc bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia và hội nhập quốc tế.
Trong quá trình thực thiện chức năng quản lý Nhà nước về thu Ngân sách nhất
thiết phải tiến hành hoạt động thanh tra. Hoạt động thanh tra là một công cụ quản lý
nhằm nâng cao hiệu quả trong quá trình quản lý, thu thuế, đảm bảo thu đúng, thu đủ
cho Ngân sách Nhà nước. Hay nói cách khác hoạt động thanh tra trong ngành Thuế
là một khâu không thể thiếu được trong quá trình hoạt động quản lý Nhà nước về
quản lý thu thuế. Thông qua việc thanh tra, giám sát thường xuyên nhằm phòng
ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong
cơ chế quản lý từ đó có những đề xuất, kiến nghị với Tổng cục thuế, Bộ Tài chính,
sửa đổi, bổ sung kịp thời các chính sách góp phần tăng nguồn thu Ngân sách phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Kể từ khi thực hiện Luật quản lý thuế và ngành thuế hoạt động theo mô hình
chức năng, công tác thanh tra thuế đã đạt được những thành công nhất định. Tuy
nhiên công tác thanh tra theo yêu cầu của Luật quản lý thuế vẫn còn một số tồn tại,
hạn chế cần phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và chấn chỉnh, như : hệ thống pháp
luật và các chính sách của nhà nước về thanh tra thuế còn đang trong quá trình cải
cách, chưa thật hoàn chỉnh, có quá nhiều thay đổi, bổ xung để đồng bộ các sắc thuế
hiện hành; Quy trình thanh tra thuế vẫn còn một số bất cập, nhất là việc lập kế
1
hoạch chưa chính xác, không cân đối với nguồn lực hiện có, một số bước công việc
quy định trong quy trình chưa chặt chẽ; tổ chức bộ máy thanh tra thuế chưa tương

xứng với khối lượng công việc và vai trò của công tác thanh tra thuế
Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động thanh tra trong công tác quản lý
thuế nên việc đánh giá đúng thực trạng và tìm ra được những giải pháp nhằm hoàn
thiện cơ chế thanh tra thuế của Tổng cục Thuế đối với doanh nghiệp là một vấn đề
vô cùng bức thiết, do vậy tên đề tài: “Hoàn thiện cơ chế thanh tra thuế của Tổng
cục Thuế đối với doanh nghiệp ” được chọn làm đề tài nghiên cứu cho bản luận
văn này. Mục đích chính của đề tài này là tìm ra nguyên nhân những hạn chế trong
cơ chế thanh tra thuế của Tổng cục Thuế đối với doanh nghiệp và đưa ra một số giải
pháp hoàn thiện. Giải quyết tốt đề tài trên cũng là một trong những biện pháp nhằm
nâng cao vai trò, vị trí của hoạt động thanh tra trong lĩnh vực quản lý, thu thuế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu tác giả được biết ở Việt Nam đã có một số
đề tài liên quan đến công tác thanh tra của các ngành lĩnh vực khác như “Giải pháp
hoàn thiện hoạt động giám sát thanh tra tổ chức niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam” của tác giả Hoàng Đức Long; “Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm
tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước” của tác giả Trần Đức
Lượng ; “Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và chống tham nhũng” của tác giả Phạm Văn
Khanh , Các đề tài trên hoặc chỉ phân tích khía cạnh hoàn thiện về quản lý vĩ mô,
hoặc nghiên cứu khái quát, hoặc nghiên cứu theo đặc điểm của ngành lĩnh vực khác.
Trong ngành thuế cũng có đề tài nghiên cứu về thanh tra, kiểm tra thuế, tuy
nhiên các đề tài này đề cập đến thanh tra, kiểm tra thuế đối với từng loại hình doanh
nghiệp khác nhau trên các địa bàn khác nhau như : “Hoàn thiện thanh tra thuế đối
với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hà Nội” của tác giả Phạm
Thanh Huyền; “Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp
trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Lê Văn Hạnh;
“ Hoàn thiện công tác thanh tra, kiểm tra thuế ở Cục thuế tỉnh Bình Dương ” của
2
tác giả Phạm Công Độ. Do đó, việc nghiên cứu, lý giải để làm rõ cơ sở lý luận một
cách toàn diện và đầy đủ hiện trạng cơ chế thanh tra thuế của Tổng cục Thuế đối

với doanh nghiệp và hoàn thiện cơ chế này là một đòi hỏi cấp bách cả về lý luận và
thực tiễn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của đề tài.
Trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học về cơ chế thanh tra thuế của Tổng cục
Thuế đối với doanh nghiệp, luận văn hướng đến những mục đích cụ thể như sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về thuế, thanh tra thuế nói chung, cơ
chế thanh tra thuế của Tổng cục Thuế đối với doanh nghiệp nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng cơ chế thanh tra thuế của Tổng cục Thuế đối
với doanh nghiệp để khẳng định những thành công, những hạn chế và những
nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của cơ chế thanh tra thuế của Tổng cục Thuế
đối với doanh nghiệp.
- Trên cơ sở đó luận văn sẽ đề xuất phương hướng, giải pháp và kiến nghị
nhằm hoàn thiện cơ chế thanh tra thuế của Tổng cục Thuế đối với doanh nghiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các vấn đề về thuế,
thanh tra thuế và cơ chế thanh tra thuế của Tổng cục Thuế đối với doanh nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian : Ở Việt Nam (Tại Tổng cục Thuế).
Về thời gian : Trong thời gian 4 năm kể từ khi Luật quản lý thuế ra đời, tức là
trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2010.
5. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác-Lê nin để phân tích đồng thời áp dụng phương pháp hệ thống,
phương pháp phân tích- tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê,
phương pháp toán kinh tế - tài chính trên cơ sở thu thập và sử dụng các tài liệu, số
liệu, biểu đồ làm căn cứ để làm sang tỏ vấn đề nghiên cứu.
- Nguồn dữ liệu: Luận văn sử dụng nguồn dữ liệu thu thập từ các tài liệu,
3
thông tin nội bộ: Phòng tổng hợp và thanh tra các đối tượng khác của Thanh tra
Tổng cục Thuế, nguồn dữ liệu thu thập từ bên ngoài như Tổng cục Cảnh sát; …Các

nguồn dữ liệu này được trích dẫn trực tiếp trong luận văn và được ghi chú chi tiết
trong phần tài liệu tham khảo.
- Nguồn dữ liệu sơ cấp: Trong quá trình viết luận văn, tác giả đã chọn mẫu
khảo sát tại phòng thanh tra thuế doanh nghiệp vừa và nhỏ; Phòng tổng hợp và
thanh tra các đối tượng khác thuộc Thanh tra Tổng cục thuế, đã lấy ý kiến cá nhân
thông qua bảng hỏi điều tra. Đối tượng được hỏi là các Thanh tra viên chính, các
Thanh tra viên và các chuyên viên thuộc 2 phòng thanh tra này. Bên cạnh đó, tác
giả cũng tham vấn ý kiến của một số chuyên gia là những cán bộ lãnh đạo của Tổng
Cục thuế, Thanh tra Tổng cục Thuế và một số Cục thuế các tỉnh thành phố trực
thuộc Trung ương.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu.
Trên phương diện lý luận: Tác giả luận văn đưa ra cơ sở lý luận về cơ chế
Thanh tra Thuế của Tổng cục Thuế đối với doanh nghiệp.
Trên phương diện thực tiễn: Tác giả luận văn luận giải cơ chế Thanh tra thuế của
Tổng cục Thuế đối với doanh nghiệp, từ đó đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện cơ chế
thanh tra thuế cho phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra thuế, tăng
nguồn thu thuế cho ngân sách, một nguồn thu quan trọng của Nhà nước.
7. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu
thành 3 chương.
Chương 1 : Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ chế thanh tra thuế của
Tổng cục Thuế đối với doanh nghiệp.
Chương 2 : Thực trạng cơ chế thanh tra thuế của Tổng cục Thuế
đối với doanh nghiệp
Chương 3 : Định hướng và giải pháp hoàn thiện cơ chế thanh tra thuế của
Tổng cục Thuế đối với doanh nghiệp.

4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ

CƠ CHẾ THANH TRA THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
CỦA TỔNG CỤC THUẾ
1.1. Một số vấn đề cơ bản về thuế và thanh tra thuế
1.1.1. Khái quát về thuế
1.1.1.1. Khái niệm và phân loại thuế
Ra đời và tồn tại cùng với Nhà nước, từ đó đến nay, thuế đã trải qua một quá
trình phát triển lâu dài và khái niệm về thuế cũng không ngừng được hoàn thiện.
Theo các nhà kinh điển, “Thuế là cái mà Nhà nước thu của dân nhưng không bù
lại” và “thuế cấu thành nên nguồn thu của Chính phủ, nó được lấy ra từ sản phẩm
của đất đai và lao động trong nước, xét cho cùng thì thuế được lấy ra từ tư bản hay
thu nhập của người chịu thuế”.
Theo nhà kinh tế học Gaston Jeze trong cuốn “Tài chính công” đã đưa ra một
khái niệm cổ điển nhất và cũng nổi tiếng nhất về thuế. Theo tác giả, “Thuế là một
khoản trích nộp bằng tiền, có tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp do các
công dân đóng góp cho Nhà nước thông qua con đường quyền lực nhằm bù đắp
những chi tiêu của Nhà nước”. Theo thời gian, khái niệm cổ điển này đến nay đã
được bổ sung, chỉnh sửa và hoàn thiện như sau: “Thuế là một khoản trích nộp bằng
tiền, có tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng góp cho
Nhà nước thông qua con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của Nhà
nước trong việc thực hiện các chức năng kinh tế-xã hội của Nhà nước”.
Trên góc độ phân phối thu nhập, người ta đưa ra khái niệm thuế như sau: Thuế
là hình thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân
nhằm hình thành nên quĩ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước (quỹ ngân sách
nhà nước) để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
5
của Nhà nước.
Trên góc độ người nộp thuế thì thuế được định nghĩa như sau: thuế là khoản đóng
góp bắt buộc mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo
Luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước; người đóng thuế được hưởng hợp pháp phần thu nhập còn lại.

Trên góc độ kinh tế học, thuế được định nghĩa như sau: Thuế là biện pháp đặc
biệt, theo đó, Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực
từ khu vực tư sang khu vực công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế-xã hội của
Nhà nước.
Như vậy, đã có nhiều khái niệm khác nhau về thuế. Tuy nhiên, để hiểu rõ bản
chất của thuế, khi nghiên cứu khái niệm về thuế cần chú ý các đặc điểm sau:
Thứ nhất, thuế là khoản trích nộp bằng tiền:
Về nguyên tắc, thuế là một khoản trích nộp dưới hình thức tiền tệ, điều này
trái ngược với các hình thức thanh toán bằng hiện vật đã tồn tại trước đây. Sự phát
triển của quan hệ hàng hoá - tiền tệ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
thuế, đổi lại, nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế được thực hiện bằng tiền lại góp phần
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị trường.
Thứ hai, thuế là khoản trích nộp bắt buộc được thực hiện thông qua con
đường quyền lực:
Dù được thực hiện dưới hình thức nào, thuế vẫn thể hiện tính chất bắt buộc,
được thực hiện thông qua con đường quyền lực Nhà nước (qua hệ thống pháp luật
thuế). Do đó, đối tượng nộp thuế không có quyền trốn thuế hoặc mong muốn tự
mình ấn định hay thoả thuận mức đóng góp của mình mà chỉ có quyền chấp thuận.
Những đối tượng nộp thuế vi phạm luật sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử
lý vi phạm hoặc cưỡng chế thi hành theo quy định của pháp luật để buộc họ phải
làm tròn nghĩa vụ nộp thuế. Đây là điểm khác biệt giữa thuế với các khoản đóng
góp mang tính chất tự nguyện.
Thứ ba, thuế là khoản thu có tính chất xác định:
Thuế là khoản thu xác định của các tổ chức thụ hưởng, đó là Nhà nước, các cấp
6
chính quyền địa phương. Trái ngược với vay, thuế không được hoàn trả trực tiếp.
Thứ tư, thuế là một khoản thu không có đối khoản cụ thể, không hoàn trả trực tiếp
nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong việc thực hiện các chức năng
Quản lý xã hội, chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước :
Khác với khoản vay, thuế không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế (tuy

nhiên, một phần thuế được hoàn trả gián tiếp cho người nộp thuế thông qua các
khoản phúc lợi xã hội, phúc lợi công cộng). Sự không hoàn trả trực tiếp được thể
hiện ở cả trước và sau khi thu thuế. Trước khi thu thuế, Nhà nước không hề cung
ứng trực tiếp một dịch vụ nào cho người nộp thuế. Sau khi thu thuế, Nhà nước cũng
không có sự bồi hoàn trực tiếp nào cho người nộp thuế. Cũng như vậy, người nộp
thuế không thể phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế với lý do họ sử dụng ít các
dịch vụ công cộng; họ cũng không có quyền đòi hỏi được hưởng nhiều dịch vụ công
cộng hơn so với số thuế họ phải trả vì lý do này hay lý do khác; và họ cũng không
thể từ chối nộp thuế với lý do họ đã phải thanh toán cho các khoản chi trái với
nguyên tắc này.
Tóm lại, đánh thuế là một đặc quyền chỉ thuộc về Nhà nước và thể hiện sức
mạnh của Nhà nước trong đời sống xã hội. Nhà nước dùng thuế tái phân phối thu
nhập xã hội và điều chỉnh kinh tế vĩ mô. Trong xã hội dân chủ, mặc dù không nhận
đối giá trực tiếp từ số tiền thuế nhưng dân chúng cũng nhận được một cách gián tiếp
thông qua lợi ích từ công chi. Ở đây có điểm đáng nói, hành vi nộp thuế của người
dân mang tính cụ thể, cá nhân và trực tiếp, còn sự thụ hưởng lợi ích từ chi tiêu của
chính phủ mang tính trừu tượng công cộng và gián tiếp. Do đó, ngoài việc hành thu
thuế thật tế nhị mà minh bạch, chính phủ cần phải công bố rõ ràng chương trình
hành động của mình và tăng cường giáo dục ý thức công dân về nghĩa vụ nộp thuế
ngay từ bậc tiểu học. Như vậy, dân chúng mới ý thức được sự cần thiết của thuế,
mới xem nộp thuế là một việc làm tự nhiên và cần thiết cho cuộc sống cộng đồng.
Thuế ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước. Thời kỳ đầu khi hàng hóa chưa
phát triển, thuế thường được thu bằng hiện vật. Chế độ thu bằng hiện vật có mặt
giản tiện cho người nộp thuế, làm ra thứ gì nộp thứ ấy; và Nhà nước sử dụng ngay
7
số thuế bằng hiện vật ấy để chi dùng vào những nhu cầu cần thiết, thích hợp. Nhưng
thu thuế bằng hiện vật có mặt bất lợi cho việc thu nộp, bảo quản, không linh hoạt
trong cả việc thu thuế và sử dụng số thuế thu được.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội, kinh
tế hàng hóa - tiền tệ ra đời và phát triển, thuế được thu bằng tiền là chủ yếu. Thuế

thu bằng tiền, các quan hệ về thuế dưới hình thức giá trị được hình thành và ngày
càng phát triển có tính hệ thống, các thứ thuế khác nhau lần lượt ra đời làm cho thuế
ngày càng đa dạng, phong phú linh hoạt.
Sự phát triển của các hình thức thuế trong lịch sử có thể giải thích phần lớn
bởi lý do quản lý. Do đánh thuế vào hàng nhập khẩu dễ dàng hơn là hàng hóa trong
nội địa nên thuế nhập khẩu là một trong những loại thuế xuất hiện sớm nhất. Tương
tự thuế doanh thu là một loại thuế đơn giản đánh trên tổng giá trị hàng hóa ra đời rất
lâu trước thuế GTGT. Thuế đánh vào đầu người và thuế đánh vào bất động sản cũng
tương đối dễ dàng thực thi nên đây là hai loại thuế trực thu đầu tiên được sử dụng.
Phân theo góc độ người nộp thuế thì có thể chia làm hai loại. Thuế trực thu và
thuế gián thu.
Bản chất kinh tế của thuế trực thu là người nộp thuế đồng thời là người chịu
thuế. Căn cứ mức thuế qui định trong luật thuế, người nộp thuế tự tính và trích một
phần thu nhập của mình trực tiếp nộp cho Nhà nước, tức là thuế thu trực tiếp vào
thu nhập của người nộp thuế. Ưu điểm của thuế trực thu là động viên trực tiếp vào
thu nhập của từng tổ chức, cá nhân có thu nhập cho nên đảm bảo được tính công
bằng xã hội: người có thu nhập cao thì phải nộp thuế nhiều, người có thu nhập vừa
thì phải nộp ít hơn, người không có thu nhập thì không phải nộp thuế. Thuế trực thu
còn cho phép tính đến những yếu tố có tính độc lập với thu nhập của người nộp thuế
như: hoàn cảnh bản thân; tình trạng hôn nhân; hoàn cảnh gia đình . . . Nhưng thuế
trực thu cũng có những mặt bất lợi là: việc tính toán phức tạp hơn, dễ dẫn đến tình
trạng tính toán đúng thì nộp thuế đúng, tính toán không đúng thì nộp thuế không
đúng và thường là phải xác định rõ thu nhập thì mới thu được thuế cho nên thường
rất chậm. Nhiều trường hợp phải đến kỳ quyết toán mới thu được đủ thuế, có trường
8
hợp thu thiếu thì phải nộp thêm, thu thừa thì phải thoái trả. Một trở ngại khác là
thuế thu trực diện vào thu nhập của tổ chức, cá nhân nên về tâm lý là dễ bị phản
ứng. Mặt khác nếu chỉ thu thuế trực thu thì diện quản lý thu thuế sẽ rất rộng. Tốn
nhiều công sức mà hiệu quả thấp. Chính vì vậy, để động viên vào tất cả mọi người
trong xã hội, người ta sử dụng thuế gián thu cùng với thuế trực thu hợp thành hệ

thống thuế thống nhất, trong đó các loại thuế vừa thực hiện nhiệm vụ chính của
mình, vừa hỗ trợ nhau để phát huy tác dụng đồng bộ của cả hệ thống thuế.
Thuế gián thu thường là thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tiêu dùng,
thuế nhập khẩu… Bản chất kinh tế của thuế gián thu là người nộp thuế có thể
chuyển dịch số thuế phải nộp sang cho người mua hàng hóa, dịch vụ chịu thuế bằng
cách cộng gộp số thuế đó vào giá bán hàng hóa, dịch vụ. Do đó người nộp thuế
không phải là người chịu thuế mà người chịu thuế chính là người tiêu dùng hàng
hóa, dịch vụ. Thuế gián thu bảo đảm được sự lựa chọn của người chịu thuế đối với
các loại hàng hóa, dịch vụ mà họ quyết định mua; bảo đảm được tính tự nguyện
chịu thuế. Người sản xuất kinh doanh khi bán sản phẩm hàng hóa, dịch vụ sẽ thu
thuế gián thu cùng với giá bán hàng và nộp khoản thuế này vào ngân sách Nhà nước
. Gọi là thuế gián thu vì Nhà nước thu thuế vào người tiêu dùng nhưng lại không thu
trực tiếp vào thu nhập của người tiêu dùng mà lại thu gián tiếp qua người bán hàng
hóa, dịch vụ. Trên ý nghĩa đó, người sản xuất kinh doanh thu thuế gián thu khi bán
háng hóa, dịch vụ nếu không nộp đầy đủ số thuế đã thu vào ngân sách Nhà nước thì
có thể coi là hành động tham ô, chiếm đoạt công quỹ.
Có thể nói thuế gián thu là loại thuế do toàn dân đóng góp; nghiệp vụ tính thuế
và thu thuế đơn giản, thu kịp thời hơn thuế trực thu; thuế gián thu nằm kín trong giá
cả cho nên dễ thu hơn; người chịu thuế khó nhận biết là mình phải nộp thuế nên ít
phản ứng hơn. Thuế gián thu mang lại nguồn thu thường xuyên và tương đối ổn
định cho ngân sách Nhà nước vì bất luận trong hoàn cảnh nào thì sự tiêu dùng của
con người và xã hội cũng luôn diễn ra và có xu hướng ngày càng phát triển. Đối
tượng quản lý thuế gián thu cũng hẹp hơn so với thuế trực thu, chỉ cần quản lý vào
số doanh nghiệp kinh doanh sản xuất hàng hóa, dịch vụ là có thể thu được thuế của
9
tất cả những người tiêu dùng hàng hóa dịch vụ trong xã hội. Đối với những nước có
nền kinh tế chưa phá triển, thu nhập còn thấp thì thuế gián thu thường chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng số thu của ngân sách Nhà nước. Mặt nhược điểm của thuế gián
thu chính là tính lũy thoái của nó. Vì thuế gián thu đánh như nhau trên cùng một
loại sản phẩm hàng hóa và số lượng như nhau thì chịu thuế như nhau, nhưng thực

chất tỷ lệ động viên thuế gián thu so với thu nhập thì người giàu chịu thuế thấp hơn
người nghèo; người có thu nhập càng cao thì tỷ lệ nộp thuế gián thu trên thu nhập
càng thấp.
Nếu phân loại theo tính chất lũy tiến và lũy thoái thì có thể phân thành thuế
lũy tiến, thuế theo tỷ lệ và thuế lũy thoái.
Bảng 1.1: Các loại thuế được áp dụng phổ biến ở các nước
có nền kinh tế thị trường phát triển.
Thuế trực thu Thuế đánh trên tài sản
· Thuế đất · Thuế nhà · Thuế doanh nghiệp
· Thuế đánh trên chứng khóan

Thuế thu nhập thể
nhân và pháp nhân
· Thuế TNCN · Thuế lợi tức công ty
· Thuế lợi tức siêu ngạch
· Thuế lợi tức do nghề khai thác mỏ
· Thuế đánh vào sự gia tăng vốn
· Thuế đánh vào lợi tức có được từ vốn tiền tệ
· Thuế di sản và tặng vật · Thuế tài sản cá nhân
Thuế gián thu
· Thuế Tiêu Dùng Cá Nhân (Thuế TTĐB)
- Thuế Bia - Thuế đường - Thuế xăng
· Thuế tiêu dùng tổng hợp
- Thuế đánh một lần (tổng gộp)
- Thuế đánhnhiều lần (nhiều giai đoạn)
· Thuế GTGT · Thuế muối
· Thuế thuốc lá · Thuế diêm . . .
10
Thuế độc quyền tài chính
Thuế quan

· Theo nguồn gốc - Thuế xuất khẩu
- Thuế nhập khẩu - Thuế quá cảnh
· Theo mục đích
- Thuế để phục vụ cho huy động vốn NSNN
- Thuế bảo hộ mậu dịch
- Thuế siêu bảo hộ mậu dịch
- Thuế chống bán phá giá - Thuế ưu đãi
· Theo thuế suất - Thuế quan chuyên biệt
- Thuế quan tính trên giá - Thuế quan hỗn hợp
Bảo hiểm xã hội
- Khoản nộp của người làm thuê
- Khoản nộp của người sử dụng lao động.

Thuế lũy tiến là loại thuế theo đó tỷ lệ đóng thuế tăng lên theo thu nhập. Ở
nhiều nước công nghiệp phát triển, đặc biệt là ở Mỹ, người ta sử dụng thuế lũy tiến
đánh vào thu nhập một cách rộng rãi
Thuế theo tỷ lệ là loại thuế tính bằng một tỷ lệ cố định trên thu nhập
Thuế lũy thoái là loại thuế đặt gánh nặng thuế lớn hơn lên đầu những gia đình
có thu nhập thấp so với những gia đình có thu nhập cao
Giữa tính lũy thoái hay lũy tiến và việc đánh thuế trực thu hoặc gián thu có
quan hệ rất chặt chẽ, nhưng đôi khi hơi mơ hồ đối với người nộp thuế.
Cấu trúc thuế của nước Mỹ đặt nặng vào thuế thu nhập là một loại thuế lũy
tiến- để gieo ấn tượng đó là một loại thuế công bằng. Tuy nhiên, cần chú ý vì từ
“lũy tiến” có thể gây nhầm lẫn. Đó là thuật ngữ liên quan thuế đánh vào những
khoản thu nhập khác nhau. Sẽ là sai lầm nếu cho rằng từ lũy tiến có nghĩa tình cảm,
tức là hiện đại hoặc tự do, hoặc đặc biệt đúng đắn.
Nếu phân loại theo chế độ phân cấp quản lý, điều hành ngân sách, thuế
thường được phân thành Thuế nhà nước và Thuế địa phương.
11
Thuế Nhà nước là loại thuế được huy động bởi chính phủ trung ương trên cơ

sở pháp luật và được tập trung vào ngân sách Nhà nước. Ở các nước công nghiệp
phát triển thì thông thường thuế thu nhập, thuế TNCT, thuế quan . . . thuộc nhóm
này. Ở Việt Nam, thuế nhà nước có thể tạm hiểu là các loại thuế được thu 100% vào
ngân sách trung ương; còn thuế địa phương là các loại thuế được thu 100% vào
ngân sách địa phương. Ngoài ra còn có thể điều tiết giữa ngân sách trung ương và
ngân sách địa phuơng; đây là các loại thuế được phân phối giữa các cấp ngân sách
theo những tỷ lệ nhất định nhằm góp phần bảo đảm cân đối một cách linh hoạt giữa
các cấp trong hệ thống NSNN
Thuế địa phương là loại thuế được chính quyền địa phương thu trên phạm vi
lãnh thổ được phân công và được nộp vào ngân sách địa phương. Thông thường,
trong khuôn khổ nhất thể hóa về mặt cơ cấu thuế ở các nước công nghiệp phát triển,
chính quyền địa phương được ưu tiên thu và tập trung vào ngân sách địa phương
thuế tiêu dùng cá nhân và thuế tài sản.
Phân tích quan hệ tương quan giữa hai loại thuế này, các nhà kinh tế đều thống
nhất rằng tại các nước công nghiệp phát triển tốc độ tăng của thuế điạ phương vượt
đáng kể tốc độ tăng của thuế Nhà nước. Bởi lẽ, Nhà nước trung ương do phải đương
đầu với tình trạng thâm hụt ngân sách đã trút các chi phí gắn liền với việc điếu tiết
kinh tế, đảm bảo xã hội sang tay chính quyền địa phương.
Nếu phân loại theo phương thức sử dụng có thể phân thành thuế tổng hợp và
thuế chuyên dùng.
Thuế tổng hợp là loại thuế tuy được thu từ nhiều nguồn đơn lẻ khác nhau
nhưng được tập trung vào một quỹ tập trung thống nhất của Nhà nước và được sử
dụng cho các mục đích phát triển kinh tế-xã hội có tính chất toàn quốc.
Thuế chuyên dùng là loại thuế thu từ một nguồn hoặc một số nguồn đơn lẻ
nhất định nào đó và được tập trung vào một quỹ nhất định. Quỹ này được sử dụng
gắn với những mục đích đã được xác định trước. Ví dụ điển hình nhất là thuế xăng
dầu ở các nước trong liên minh châu Âu. Chính phủ các nước này đánh thuế rất
nặng vào mặt hàng xăng dầu với các lý do như: khuyến khích việc tiết kiệm sử dụng
12
năng lượng dầu mỏ, lấy tiền thuế thu đuợc để dùng vào việc bảo vệ môi trường và

đầu tư, nghiên cứu tìm ra các loại nguyên liệu sạch thay thế dầu mỏ. Trên thực tế,
đây là một nguồn thu lớn của ngân sách và các khoản thu được từ thuế xăng dầu -
theo nhiều người - lại được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau mà nhiều khi
không dính dáng gì với các mục tiêu đã đề ra.
Cách phân loại này đã được hình thành từ trước khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Ngày
nay, chính phủ các nước công nghiệp phát triển chủ yếu là qui định các loại thuế tổng
hợp. Tuy nhiên họ vẫn còn duy trì một vài loại thuế chuyên dùng nhất định để thực
hiện một số nhiệm vụ cấp bách, quan trọng. Một số nước còn đi xa hơn nữa trong việc
sử dụng thuế tiêu dùng, thuế bảo vệ môi trường như là các loại thuế chuyên dùng để bù
đắp chi phí xã hội trong việc đấu trang chống tệ nạn nghiện hút, sử dụng ma túy, tiêu
dùng rượu quá mức nhằm lành mạnh hóa môi trường xã hội và tự nhiên. . . Ở nước ta,
một số lệ phí, ví dụ như phí giao thông có thể xem là một sắc thuế chuyên dùng.
1.1.1.2. Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường
Lịch sử phát triển của thuế đã chứng minh rằng, thuế có 3 vai trò cơ bản, đó
là : đảm nguồn thu cho NSNN nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước; vai trò
phân phối lại thu nhập và tài sản nhằm đảm bảo công bằng xã hội và vai trò điều
tiết vĩ mô nền kinh tế.
Một là, thuế đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Mức độ động viên các nguồn thu từ thuế vào ngân sách phần lớn, gắn liền với
tổng số chi tiêu của của nhà nước vì các khoản thu này là nguồn bù đắp chủ yếu cho
các khoản chi ngân sách. Nhưng các khoản thu này cũng không phải là nguồn bù
đắp duy nhất mà bên cạnh đó, thâm hụt ngân sách còn được bù đắp bằng nguồn vay
hoặc phát hành tiền tệ. Mức độ động viên thu ngân sách với tỷ lệ giữa thâm hụt
ngân sách trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của mỗi nước cho thấy mức độ huy
động của Nhà nước để bù đắp cho các khoản chi này (tất nhiên kể cả khoản lãi phải
trả khi hoàn trả nợ).
Hai là, thuế có vai trò phân phối lại nhằm đảm bảo công bằng xã hội
Ngoài chức năng phân phối, thuế còn đảm nhiệm việc tái phân phối thu nhập
13
và ổn định mức cầu. Chức năng này đã có một lịch sử lâu đời. Việc sử dụng thuế để

tái phân phối hoặc làm chức năng ổn định hóa mới chỉ được biết đến trong một thời
gian gần đây. Về nguyên tắc, gánh nặng về thuế phải được phân chia một cách công
bằng; thuế phải có vai trò sửa chữa những khiếm khuyết của sự phân phối lần đầu
để đảm bảo sự công bằng và bình đẳng. Tuy nhiên, sự công bằng chỉ mang tính chất
tương đối và tuỳ thuộc vào quan niệm cho rằng sự phân phối phải công bằng hay
không trong việc phân chia quyền sở hữu diễn ra trên thị trường. Chính vì vậy, đánh
thuế luỹ tiến, đối với một số người, có thể được coi như đồng nghĩa với sự công
bằng, với một số người khác, lại bị coi là tuỳ tiện.
Ba là, thuế có vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế hay khắc phục những bất cân
bằng của nền kinh tế thị trường
Việc phân bổ các nguồn lực tài chính để thỏa mãn các nhu cầu vể hàng hóa và
dịch vụ công cộng là mục tiêu hàng đầu của thuế. về mặt lý thuyết, thị trường là nơi
hoàn hảo để người dân có thể thỏa mãn các nhu cầu trực tiếp của mình nhằm đạt
đến mức độ tối ưu hóa các phúc lợi nhận được. Nhưng kinh tế học hiện đại và thực
tiễn chỉ ra rằng đôi khi thị trường phải chịu thất bại, như trường hợp một số hàng
hóa, dịch vụ công cộng: người dân có nhu cầu nhưng thị trường không thể cung ứng
nổi hoặc chỉ được cung ứng dưới mức cầu. Đây là lúc mà cần phải có vai trò của
thuế và các chi tiêu công cộng để sửa chữa sự “bất lực” về phân phối của thị trường.
Thuế là một công cụ của chính sách kinh tế có thể đóng vai trò khuyến khích,
hạn chế hoặc ổn định kinh tế. Thuế có thể được sử dụng để khắc phục những bất
cân bằng của thị trường, ví dụ, dựa trên cơ sở các phân tích kinh tế vi mô để quốc tế
hoá những tác động nội tại của nền kinh tế. Thuế cũng có thể góp phần thực hiện
các cân bằng tổng thể trong khuôn khổ chính sách ngân sách dựa trên cơ sở các
phân tích kinh tế vĩ mô.
Cách tiếp cận kinh tế vi mô phù hợp với cách nhìn tự do về sự can thiệp của
Nhà nước mà với chức năng trợ cấp ngân sách, Nhà nước có thể xoá bỏ được những
vật cản nảy sinh trong kinh tế thị trường. Cách tiếp cận này đôi khi cũng là trung
tâm của các cuộc tranh luận.
14
Cách tiếp cận kinh tế vĩ mô thuộc quan niệm của Keynes về chính sách kinh

tế, thuế là một biến số mà Nhà nước sử dụng nhằm ổn định tình huống (chính sách
tác động trên nhu cầu tổng thể) hoặc cơ cấu (chính sách thuế nhằm tạo thuận lợi cho
sự tăng trưởng kinh tế). Khả năng của thuế trong việc thực hiện các mục tiêu hiệu
quả kinh tế này đã bị tranh luận khá gay gắt. Tuỳ theo quan niệm mà người ta thừa
nhận vị trí tự do hay can thiệp của thuế mà chức năng này được đánh giá ưu việt
nhiều hay ít.
Như vậy, để phát huy được vai trò của thuế trong nền kinh tế, phải sử dụng
thuế đúng với chức năng của nó. Tuy nhiên, vai trò của thuế đối với nền kinh tế ở
mỗi quốc gia không giống nhau mà tuỳ thuộc vào “nghệ thuật sử dụng” công cụ
thuế của mỗi quốc gia đó. Vấn đề có tính nguyên tắc là thuế phải luôn luôn phù hợp
với mục tiêu, đường lối phát triển kinh tế xã hội và là công cụ đắc lực cho việc thực
hiện đường lối, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia trong từng
thời kỳ nhất định. Đó cũng là lý do mà các quốc gia phải thường xuyên rà soát mức
độ phù hợp của hệ thống thuế với chiến lược phát triển kinh tế xã hội cuả mình,
thực hiện các cải cách thuế kịp thời nếu thấy cần thiết.
1.1.2. Một số vấn đề cơ bản về thanh tra thuế
1.1.2.1. Khái niệm cơ bản về thanh tra thuế
Thanh tra thuế là chức năng thiết yếu của cơ quan thuế đối với việc thực hiện
chính sách pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Để hiểu rõ hơn về
khái niệm thanh tra thuế, trước hết cần nắm được khái niệm thanh tra.
* Khái niệm thanh tra:
Hoạt động thanh tra là việc xem xét, làm rõ những việc làm đúng sai đối với
những vụ việc và hành vi của người thừa hành công vụ trong chức năng thực hiện
công tác quản lý của mình.
Thanh tra mang tính quyền lực Nhà nước, là chức năng của quản lý Nhà nước,
thể hiện như một tác động tích cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý
đối với đối tượng quản lý. Chủ thể tiến hành thanh tra luôn luôn là cơ quan Nhà
nước. Thanh tra luôn áp dụng quyền lực của Nhà nước trong quá trình tiến hành
15
hoạt động của mình và nhân danh Nhà nước khi áp dụng quyền năng đó. Thanh tra

có tính độc lập tương đối. Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh
tra, đặc điểm này phân biệt thanh tra với các loại hình cơ quan chức năng khác của
bộ máy Nhà nước.
Khái niệm về thanh tra được cụ thể hoá trong Luật thanh tra năm 2004: "Thanh
tra Nhà nước là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý Nhà nước đối với
việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự
quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật quy định".
* Khái niệm thanh tra thuế đối với doanh nghiệp:
Thanh tra thuế đối với doanh nghiệp là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ
quan thuế đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật về thuế, nghĩa vụ đối với
NSNN của các doanh nghiệp theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong các
văn bản qui phạm pháp Luật về thuế và các quy định khác của pháp luật. Thanh tra
thuế nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về thuế,
bảo đảm tính công bằng trong thực thi pháp luật thuế; đồng thời làm cho doanh
nghiệp luôn ý thức rằng có một hệ thống giám sát hiệu quả tồn tại, từ đó thúc đẩy họ
tự giác tuân thủ pháp luật thuế; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính
sách, pháp luật để kiến nghị với Nhà nước các biện pháp khắc phục, phát huy nhân tố
tích cực góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý nhà nước nhằm
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế.
1.1.2.2. Mục đích, vai trò và nguyên tắc hoạt động của thanh tra thuế
Mục đích hoạt động của Thanh tra thuế
Một là, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về thuế của doanh nghiệp:
Đây là mục tiêu chủ yếu, trực tiếp của hoạt động thanh tra thuế đối với doanh
nghiệp. Thanh tra thuế là hoạt động thường xuyên của cơ quan quản lý Nhà nước
nhằm đảm bảo cho các quyết định quản lý được chấp hành, bảo đảm mọi hoạt động
của doanh nghiệp tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Tính chất thường
xuyên của hoạt động thanh tra có tác dụng phòng ngừa các vi phạm pháp luật.
Hai là, phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật của doanh nghiệp:
Định hướng xã hội Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt ra yêu cầu phải
16

tăng cường tính pháp chế, kỷ cương pháp luật trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ
chức và trong cách thức hành xử của mỗi công dân. Mọi hành vi vi phạm pháp luật
đều phải phát hiện nhanh chóng và xử lý nghiêm minh. Hoạt động thanh tra thuế là
xem xét việc thực hiện pháp luật về thuế của doanh nghiệp, từ đó tìm ra những hành
vi sai phạm, người vi phạm, đánh giá tính chất, mức độ vi phạm, kiến nghị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xử lý.
Hiện nay, khi hành vi vi phạm về thuế còn diễn ra phổ biến thì phát hiện các vi
phạm để xử lý là một trong những nhiệm vụ hàng đầu và là mục đích quan trọng
của hoạt động thanh tra thuế.
Ba là, phát hiện những sơ hở, hạn chế chưa đồng bộ trong cơ chế quản lý và chính
sách thuế để kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kịp thời sửa đổi bổ sung:
Hoạt động thanh tra đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN không chỉ nhằm phát
hiện và xử lý những vi phạm pháp luật, mà còn giúp cơ quan quản lý Nhà nước
đánh giá lại bản thân cơ chế, chính sách, các quy định của pháp luật, các quyết định
quản lý của mình đã phù hợp với thực tiễn cuộc sống chưa, có khiếm khuyết, sơ hở
gì dễ dẫn đến sự vi phạm để kịp thời sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục các sơ hở,
khiếm khuyết đó.
Bốn là, phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý Nhà nước, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp khi thực hiện chính sách pháp luật về thuế:
Đây là những mục đích có tính chất gián tiếp nhưng cũng không kém phần
quan trọng của hoạt động thanh tra, nhất là việc “Phát huy nhân tố tích cực" qua
hoạt động thanh tra. Nhân tố tích cực ở đây được hiểu là những việc làm hay, mạnh
dạn thể hiện một tư duy mới, một tư cách suy nghĩ và hành động mới phù hợp với
quan điểm và chủ trương đổi mới toàn diện đất nước của Đảng ta, nhất là trong lĩnh
vực thuế. Mặt khác, thanh tra thuế không chỉ xem xét, đánh giá sự việc đúng, sai và
còn phải đấu tranh bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
người nộp thuế. Thông qua hoạt động thanh tra thuế cần kiên quyết đấu tranh chống
mọi biểu hiện tham nhũng, nhũng nhiễu gây tổn thất tài sản xã hội chủ nghĩa và
17

xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của. cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đây
không chỉ là yêu cầu của nhà nước mà còn là yêu cầu của nhân dân nói chung và
doanh nghiệp nói riêng đối với ngành thuế.
Vai trò của thanh tra thuế
Thanh tra thuế có vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý thuế. Cụ thể:
Thứ nhất, thanh tra thuế đã góp phần hoàn thiện cơ chế chính sách pháp luật
về thuế.
Hệ thống thuế ở nước ta hiện nay bao gồm nhiều sắc thuế khác nhau. Mỗi sắc
thuế điều tiết đến một số đối tượng xã hội nhất định và có những phương pháp quản
lý thu khác nhau. Về cơ bản mỗi sắc thuế khi được ban hành đều đã được nghiên
cứu kỹ và chuẩn bị chu đáo nhưng do đặc điểm nền kinh tế nước ta đang ở thời kỳ
chuyển đổi từ hành chính, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN nên không tránh khỏi những khiếm khuyết, bất cập. Chính vì vậy
thanh tra thuế là nơi cung cấp các căn cứ, các bằng chứng cụ thể phản ánh một cách
chân thực, sống động các hoạt động diễn ra trong thực tế, để phục vụ cho việc hòan
thiện, bổ sung các chính sách cho phù hợp.
Thứ hai, thanh tra thuế là phương tiện phòng ngừa, răn đe các hành vi vi
phạm pháp luật về thuế và tội phạm nảy sinh trong việc thực hiện pháp luật thuế.
Hoạt động thanh tra thuế trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến
người nộp thuế, đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế, xác minh và
thu thập chứng cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Theo đó, vừa
phòng ngừa các hành vi phạm pháp luật thuế có thể xảy ra; vừa sử dụng các biện
pháp chế tài bằng mệnh lệnh hoặc các quyết định hành chính nhằm xử lý và răn đe
hành vi vi phạm pháp luật của người nộp thuế.
Với tư cách là công cụ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước thanh tra thuế
chính là việc xem xét tại chỗ việc làm của các tổ chức, cơ quan và các cá nhân có
đúng quy định của chính sách, pháp luật về thuế hay không? Qua đó sử dụng các
biện pháp chế tài bằng mệnh lệnh hoặc các quyết định hành chính nhằm ngăn ngừa
hành vi vi phạm pháp luật của NNT.
18

Thực tế cho thấy không có hệ thống pháp luật nào có thể đảm bảo là không
khiếm khuyết. Đây chính là nguyên nhân để các đối tượng lợi dụng , cố tình lách
luật để trục lợi cá nhân. Thanh tra thuế phải phát hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực
để ngăn ngừa kịp thời. Việc kịp thời phát hiện, ngăn ngừa và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật thuế là biện pháp hữu hiệu nhất đối với việc phòng ngừa các loại tội
phạm có thể phát sinh trong việc thực hiện pháp luật thuế.
Thứ ba, thanh tra thuế có vai trò quan trọng trong việc cải cách thủ tục hành
chính cả về quy chế và tổ chức thực hiện.
Triển khai thực hiện pháp luật thuế, cũng đồng thời với việc triển khai thực
hiện các thủ tục hành chính thuế. Qua hoạt động thanh tra phát hiện những người
nộp thuế thực hiện không đúng và không đủ các thủ tục hành chính thuế để kịp thời
chấn chỉnh. Đồng thời phát hiện những khiếm khuyết, những thủ tục không phù hợp
với thực tế để kiến nghị bổ sung hoàn thiện, nâng cao hiệu lực pháp luật thuế.
Nguyên tắc thanh tra thuế
Nguyên tắc thanh tra thuế là tập hợp các quy tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn
hành động mà các cơ quan quản lý, các tổ chức thanh tra, các thanh tra viên và các
đối tượng thanh tra phải tuân theo trong quá trình hoạt động thanh tra. Để công tác
thanh tra thuế đạt hiệu quả cao, cần đảm bảo những nguyên tắc sau
Một là, thanh tra thuế phải trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan
đến người nộp thuế, đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế, xác
minh và thu thập chứng cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế
Hai là, tuân thủ pháp luật:
Không được làm trái pháp luật là nguyên tắc quan trọng đối với cán bộ thanh tra
khi thi hành công vụ. Việc tuân theo pháp luật được thể hiện trong quá trình thanh tra
phải đúng những quy định văn bản pháp luật, đảm bảo tính độc lập, nghiêm túc khi
thực hiện những thủ tục cần thiết trong phạm vi thẩm quyền cho phép.
Ba là, tuân thủ quy trình, quy phạm của hoạt động thanh tra do ngành thuế
quy định:
19

×