Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TÌNH HÌNH tỷ GIÁ và GIẢI PHÁP điều HÀNH CHÍNH SÁCH tỷ GIÁ ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (715.05 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ - CƠ SỞ THANH HÓA

d&c
CHUYÊN ĐỀ MÔN HỌC
ĐỀ TÀI: TÌNH HÌNH TỶ GIÁ VÀ GIẢI
PHÁP ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
Ở VIỆT NAM
GVHD : LÊ ĐỨC THIỆN
LỚP : DHTN5TH
SINH VIÊN THỰC HIỆN
1. VŨ THỊ QUỲNH MSSV: 09010753
2.NGUYỄN THỊ MINH TÂM MSSV: 09023523
Thanh Hóa, tháng 07 năm 2012
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
DANH SÁCH SINH VIÊN THỰC HIỆN
TT HỌ VÀ TÊN MSSV GHI CHÚ
1 Vũ Thị Quỳnh 09010753 Nhóm trưởng
2 Nguyễn Thị Minh Tâm 09023523
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN










Ngày … tháng … năm 2012


Giảng viên
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ MÔN HỌC 2
1.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ MÔN HỌC 2
1.2. NHỮNG KIẾN THỨC CHÍNH TRONG MÔN HỌC 2
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TỶ GIÁ VÀ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở
VIỆT NAM 3
2.1. TỶ GIÁ VÀ CÁC XU HƯỚNG TỶ GIÁ 3
2.1.1. Tỷ giá 3
2.1.2. Các xu hướng tỉ giá 3
2.2. NHẬN XÉT 15
2.2.1. Kết quả đạt được của công tác điều hành tỷ giá trong thời gian qua: 15
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân: 15
2.3.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ TRONG THỜI GIAN TỚI 15
2.3.1. Thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá bình quân liên ngân hàng bằng cơ chế điều hành theo tỷ giá trung tâm 15
2.3.2. Duy trì biên độ tỷ giá tương đối ổn định 16
2.3.3. Phối hợp hiệu quả giữa điều hành chính sách tỷ giá và điều hành chính sách tiền tệ 17
2.3.4. Sử dụng hiệu quả dự trữ ngoại hối để can thiệp ổn định thị trường ngoại hối 17
2.3.5. Hoàn thiện khung pháp lý quản lý và phát triển thị trường ngoại hối 18
2.3.6. Xây dựng cơ chế quản lý nợ nước ngoài 18
2.3.7 Hoàn thiện hệ thống số liệu nắm bắt cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế 19
2.3.8. Các biện pháp khác 20
2.4. KẾT LUẬN 21
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ MÔN HỌC 22
3.1. Giảng dạy học phần 22
3.2. Giáo trình, tài liệu học tập 22

3.3. Cơ sở vật chất 22
3.4. Tính hữu ích và thiết thực môn học 22
3.5. Các nhận xét về giảng viên giảng dạy 23
Chương 2: Phân tích tình hình tỷ giá và giải pháp điều hành chính sách tỷ giá ở việt nam: 24
2.1. TỶ GIÁ VÀ CÁC XU HƯỚNG TỶ GIÁ 24
2.1.1. Tỷ giá 24
2.1.2. Các xu hướng tỉ giá 24
2.2. NHẬN XÉT 24
2.2.1. Kết quả đạt được của công tác điều hành tỷ giá trong thời gian qua: 24
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân: 24
Chương 2: Phân tích tình hình tỷ giá và giải pháp điều hành chính sách tỷ giá ở việt nam: 24
2.3.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ TRONG THỜI GIAN TỚI 24
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
2.3.1. Thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá bình quân liên ngân hàng bằng cơ chế điều hành theo tỷ giá trung tâm 24
2.3.2. Duy trì biên độ tỷ giá tương đối ổn định 24
2.3.3. Phối hợp hiệu quả giữa điều hành chính sách tỷ giá và điều hành chính sách tiền tệ 25
2.3.4. Sử dụng hiệu quả dự trữ ngoại hối để can thiệp ổn định thị trường ngoại hối 25
2.3.5. Hoàn thiện khung pháp lý quản lý và phát triển thị trường ngoại hối 25
2.3.6. Xây dựng cơ chế quản lý nợ nước ngoài 25
2.3.7. Hoàn thiện hệ thống số liệu nắm bắt cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế 25
2.3.8. Các biện pháp khác 25
2.4. KẾT LUẬN 25
Chương 3: Nhận xét và đánh giá môn học 25
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
LỜI MỞ ĐẦU
Chuyên đề môn học có thể nói là môn học hệ thống lại những kiến thức đã
tích lũy được và hệ thống lại môn học bản thân mình yêu thích, đồng thời muốn
tìm hiểu sâu hơn về lý thuyết cũng như tình hình thực tế hiện nay. Và đó cũng là

nguyên do tôi chọn môn: “Tài chính quốc tế” làm chuyên đề môn học cho
mình, không nằm ngoài mục đích hệ thống lại nhữn kiến thức mình đã học cũng
như muốn chuyên sâu về lĩnh vực mình đam mê.
Thực hiện chuyên đề về môn học này tôi muốn đi sâu tìm hiểu về tình hình
tỷ giá của Việt Nam qua những giai đoạn khác nhau cũng như ngiên cứu giải
pháp quản lý tỉ giá. Vì vậy tôi quyết định chọn đề tài : “Tình hình tỷ giá và giải
pháp điều hành chính sách tỷ giá Việt Nam” .
Vì thời gian ngắn, kinh nghiệm và hiểu biết còn hạn chế, nên mong thầy cô
và các bạn quan tâm và góp ý sửa chửa cho đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 1
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ MÔN HỌC
1.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ MÔN HỌC
Tài chính quốc tế là môn học chuyên ngành của sinh viên chuyên ngành tài
chính ngân hàng nói chung và sinh viên một số ngành kinh tế khác có liên quan.
Tài chính quốc tế là hệ thống những quan hệ kinh tế nãy sinh giữa Nhà nước
hoạc giữa các tổ chức của Nhà nước với các Nhà nước khác, các tổ chức của
Nhà nước khác, các công dân nước ngoài và với các tổ chức quốc tế, gắn liền
với các dòng lưu chuyển hàng hóa và tiền vốn trên thế giới theo những nguyên
tắc nhất định.
Tài chính quốc tế là một bộ phận của kinh tế quốc tế. Tài chính quốc tế
chuyên nghiên cứu về tỷ giá hối đoái, đầu tư quốc tế, các thể chế tài chính quốc
tế …
1.2. NHỮNG KIẾN THỨC CHÍNH TRONG MÔN HỌC
- Tài chính quốc tế - Các thị trường và chủ thể hoạt động trong tài chính
quốc tế.
- Chu chuyển vốn quốc tế và mối liên hệ giữa lạm phát, lãi suất và tỉ giá hối
đoái.

- Xác định tỷ giá hối đoái và xác định những tác động của chính phủ đến tỷ
giá hối đoái.
- Các phương pháp dự báo tỷ giá hối đoái.
- Tài trợ và đầu tư quốc tế của các công ty đa quốc gia.
- Đo lường độ nhạy đối với các giao động tỷ giá, phòng ngừa rủi ro và độ
nhạy đối với rủi ro tỷ giá.
- Khủng hoảng nợ quốc tế và đánh giá rủi ro quốc gia.
- Chu kỳ kinh tế và tác động của nó đến nghành kinh tế Việt Nam.
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 2
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TỶ GIÁ VÀ GIẢI PHÁP
ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM
2.1. TỶ GIÁ VÀ CÁC XU HƯỚNG TỶ GIÁ
2.1.1. Tỷ giá
Ngày nay trong quan hệ thanh toán quốc tế hầu hết các nước, các tổ chức, cá
nhân đều sử dụng ngoại tệ. Việc quy đổi đồng tiền nước này sang đồng tiền
nước khác được gọi là hối đoái quốc tế. Khi thực hiện quy đổi một đồng tiền
nước này ra đồng tiền nước khác phải theo một tỉ lệ nhất định, được gọi là tỉ giá
hối đoái.
Về hình thức, tỉ giá là giá cả của một đồng tiền của nước này được biểu hiện
bằng một số lượng đơn vị tiền tệ biến đổi của nước khác.
Về bản chất, tỉ giá là quan hệ về mặt giá trị giữa các đồng tiền khác nhau với
nhau, phản ánh về sự so sánh về sức mua của các đồng tiền đó.
2.1.2. Các xu hướng tỉ giá
Nhìn vào diễn biến của tỷ giá danh nghĩa từ năm 1992 đến nay (hình 1)
có thể thấy tỷ giá chính thức VND/USD1 có xu hướng đi theo một chu kỳ rõ
rệt gồm hai giai đoạn: (i) trong giai đoạn suy thoái kinh tế hoặc khủng hoảng,
VND mất giá khá mạnh; và (ii) khi giai đoạn suy thoái kết thúc, nền kinh tế đi
vào ổn định thì tỷ giá lại được neo giữ tương đối cứng nhắc theo đồng USD.
Chu kỳ này đã được lặp lại hơn hai lần từ năm 1989 đến nay

Giai đoạn 1 của chu kỳ tương ứng với các giai đoạn nền kinh tế có sự biến
động mạnh: (i) 1997-2000 với ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài
chính Châu Á; và (ii) 2008-2011 với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và nỗ
lực bình ổn kinh tế vĩ mô. Gắn liền với những giai đoạn biến động mạnh này là
sự chênh lệch lớn giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do. Sức ép của
thị trường đã buộc NHNN phải nới rộng biên độ tỷ giá hoặc chính thức phá giá,
làm cho VND mất giá mạnh mẽ so với thời điểm trước đó.
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 3
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
Giai đoạn 2 của chu kỳ tương ứng với các thời kỳ nền kinh tế đi vào phát
triển ổn định như giai đoạn 1993-1996 và giai đoạn 2001-2007. Gắn liền với các
giai đoạn này là một cơ chế tỷ giá neo giữ theo đồng USD một cách tương đối
cứng nhắc. Đây cũng là các giai đoạn mà tỷ giá trên thị trường tự do cũng ổn
định và theo sát với tỷ giá chính thức. Nguyên nhân là do giai đoạn trước đó tỷ
giá chính thức đã được tăng liên tục và đến cuối giai đoạn đã ngang bằng với tỷ
giá thị trường tự do.
 Những biến động gần đây
* Giai đoạn 2008 – 2009
Giai đoạn 2008-2009 đánh dấu sự biến động trong các phản ứng chính
sách tỷ giá ở Việt Nam. Từ năm 2007, do sự gia tăng ồ ạt của luồng tiền đầu tư
gián tiếp vào Việt Nam, nguồn cung USD đã tăng mạnh. Trên thực tế vào nửa
đầu năm 2007 và từ tháng 10/2007 đến tháng 3/2008, thị trường ngoại hối Việt
Nam đã có dư cung về USD khiến cho tỷ giá NHTM2 giảm xuống sàn biên độ.
Đồng Việt Nam đã lên giá trong giai đoạn này.
Hình 2 cho thấy tỷ giá đã có những biến động mạnh trong năm 2008 do
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 4
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
lạm phát tăng cao trong nửa đầu năm và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã
bắt đầu tác động tới nền kinh tế Việt Nam vào nửa cuối năm 2008. Từ giữa năm
2008, cùng với sự suy thoái kinh tế, luồng đầu tư gián tiếp vào Việt Nam đã bắt

đầu đảo chiều.
Xu hướng chung của năm 2009 là sự mất giá danh nghĩa của VND so với
USD. Cho đến cuối năm 2009, tỷ giá chính thức VND/USD đã tăng 5,6% so với
cuối năm 2008. Trong khi trong năm 2008, tỷ giá niêm yết tại các NHTM biến
động liên tục, đầu năm còn có giai đoạn thấp hơn tỷ giá chính thức, thì năm
2009 lại là một năm mà tỷ giá NHTM luôn ở mức trần của biên độ giao động mà
NHNN công bố.
Trong cả năm, áp lực về cung cầu trên thị trường cùng với áp lực tâm lý
đã khiến tỷ giá trên thị trường tự do ngày càng rời xa tỷ giá chính thức. Mặc dù
NHNN đã buộc phải mở rộng biên độ giao động của tỷ giá chính thức trong
tháng 3 từ +/-3% lên +/-5% – biên độ lớn nhất trong vòng 10 năm qua, nhưng
các NHTM vẫn giao dịch ở mức tỷ giá trần. Tình trạng nhập siêu kéo dài và
ngày càng tăng từ tháng 3 đến cuối năm. Giá trị nhập khẩu trong 3 tháng cuối
năm đã tăng mạnh so với 3 tháng đầu năm, chiếm 30% tổng giá trị nhập khẩu cả
năm 2009. Giá trị xuất khẩu trong cả năm giảm 10% so với năm 2009 chủ yếu
do mặt bằng giá xuất khẩu giảm đặc biệt là các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam. Mặc dù xuất khẩu tăng vào cuối năm nhưng trong tháng 11, nhập
siêu lên tới hơn 2 tỷ USD, mức lớn nhất trong cả năm.
Thêm vào đó, chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và giávàng quốc tế
đã khiến cho nhu cầu về USD càng tăng để phục vụ việc nhập khẩu vàng. Giá
vàng và giá đô đều đã tăng mạnh. Người dân đẩy mạnh mua ngoại tệ trên thị
trường tự do, giá USD trên thị trường chợ đen tăng mạnh. Do khan hiếm nguồn
cung USD, các doanh nghiệp cũng phải nhờ đến thị trường chợ đen hoặc phải
cộng thêm phụ phí khi mua ngoại tệ tại các Ngân hàng Thương mại. Tâm lý
hoang mang mất lòng tin vào VND làm tăng cầu và giảm cung về USD đã đẩy
tỷ giá thị trường tự do tăng lên hàng ngày. Người dân lo ngại thực sự về khả
năng phá giá tiền VND, sau khi một số báo cáo của các định chế tài chính được
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 5
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
công bố.

Và đến 26/11/2009, NHNN đã buộc phải chính thức phá giá VND 5,4%,
tỷ lệ phá giá cao nhất trong một ngày kể từ năm 1998 để chống đầu cơ tiền tệ 3
và giảm áp lực thị trường, đồng thời thu hẹp biên độ giao động xuống còn +/-
3%. Cùng với chính sách tỷ giá, vào thời điểm này NHNN đã nâng lãi suất cơ
bản từ 7% lên 8%/năm. Các chính sách này được cho là hợp lý nhưng khá muộn
màng. Đồng Việt Nam tiếp tục mất giá trên thị trường tự do thể hiện qua việc tỷ
giá trên thị trường tự do vào thời điểm cuối năm 2009 vẫn đứng vững ở mức cao
khoảng 19.400 VND cho 1 USD và các NHTM tiếp tục giao dịch ở mức trần.
Tình hình thị trường ngoại hối trong năm 2009 có thể đã trầm trọng hơn
nếu không có: (i) sự sụt giảm nhu cầu ngoại tệ do thu nhập từ đầu tư do các
doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài chuyển ra khỏi Việt Nam giảm (trong năm
2009 ước đạt -3 tỷ USD, so với -4,4 tỷ USD năm 2008); và (ii) sự gia tăng cung
ngoại tệ do lượng kiều hối vẫn đứng vững ở con số khá tích cực hơn 6 tỷ USD.
FDI giải ngân ước đạt 10 tỷ USD. Đầu tư gián tiếp nước ngoài chảy ra khỏi Việt
Nam vào đầu năm nhưng cũng có dấu hiệu đảo chiều vào cuối năm.
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 6
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
Rõ ràng, NHNN đã thể hiện sự lưỡng lự và không nhất quán trong chính
sách tỷ giá. Việc sử dụng biên độ tỷ giá thay cho việc phá giá chính thức vào
tháng 3/2009 cũng không có tác dụng như mong muốn. Trong cả năm, bất chấp
các biện pháp hành chính (như yêu cầu các Tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ
cho Chính phủ) cũng như các công bố của lãnh đạo NHNN, NHNN đã không
thể kéo tỷ giá thị trường tự do về sát với tỷ giá NHTM như mong muốn. Thêm
vào đó, do phải giữ ổn định tỷ giá trong thời gian dài, NHNN đã phải bán ra hơn
một lượng lớn USD làm giảm dự trữ ngoại hối. Vào cuối năm 2009, kỳ vọng
mất giá của đồng tiền Việt Nam hiện vẫn còn khá lớn.
* Giai đoạn 2010 - 2011
Năm 2010 tiếp tục chứng kiến các xu hướng tương tự trên thị trường
ngoại hối như trong năm 2009. Cụ thể là các NTTM vẫn tiếp tục đặt tỷ giá tại
trần biên độ của tỷ giá chính thức trong hầu hết các tháng trong năm và khoảng

cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do có lúc đã tăng lên những
mức cao chưa từng có vào cuối năm 2010.
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 7
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
Do các áp lực vẫn tiếp tục tăng cao dù NHNN đã có nhiều nỗ lực vào cuối
năm 2009, đến ngày 11/02/2010, NHNN đã phải tăng tỷ giá chính thức từ
17.941 VND/USD lên 18.544 VND/USD, tương đương với việc phá giá 3,3%.
Cùng với việc nâng tỷ giá này, NHNN đã thực hiện hàng loạt các biện pháp
hành chính nhằm giảm áp lực lên thị trường ngoại hối như giảm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với tiền gửi ngoại tệ, mở rộng đối tượng cho vay ngoại tệ, chấm dứt
việc giao dịch vàng trên các tài khoản ở nước ngoài của các NHTM và các
tổchức tín dụng, đóng cửa các sàn vàng, và tăng lãi suất cơ bản lên 8%/năm. Kết
quả là, trong sáu tháng đầu năm 2010 tín dụng ngoại tệ đãtăng 27% trong khi tín
dụng VND chỉ tăng 4.6%. Đồng thời, kiều hối và các khoản giải ngân FDI, ODA
và FII (đầu tư gián tiếp nước ngoài) đều tăng lên trong hai quý đầu của năm
2010 so với cùng kỳnăm 2009 khi còn khủng hoảng. Tất cả các yếu tố trên đã
góp phần tăng cung và giảm cầu ngoại tệ nhờ đó giảm khoảng cách giữa tỷ giá
thị trường tự do và tỷ giá chính thức trong quý II và nửa đầu quý III năm 2010
(xem hình 3).
Tuy nhiên, các NHTM tiếp tục đặt giá ở mức trần hoặc gần với trần biên
độ của tỷ giá chính thức. Và từ đầu tháng 7 năm 2010, tỷ giá thị trường tự do lại
bắt đầu tăng lên dù lúc đầu chỉ tăng chậm. Những xu hướng này phản ánh kỳ
vọng của thị trường ngoại hối về sự phá giá của VND. Nguyên nhân của kỳ
vọng này là: (i) cung ngoại tệ tăng lệ chủ yếu do các doanh nghiệp tận dụng
chênh lệch lãi suất giữa tiền gửi ngoại tệ và tiền gửi VND; (ii) nhiều biện pháp
hành chính của NHNN chỉ mang tính tạm thời và có thể sẽ bị đảo ngược; (iii) lo
lắng về việc cầu ngoại tệ sẽ tăng cao khi nhiều khoản vay ngoại tệ của các doanh
nghiệp nhằm tận dụng chênh lệch lãi suất sẽ đến hạn; và (iv) hành vi đầu cơ của
người dân do giảm sút niềm tin vào tiền đồng.
Có lẽ do nhận thức được những mối đe dọa này, vào ngày 17/08/2010,

NHNN đã đột ngột tăng tỷ giá thêm 2,1% lên 18.932 VND/USD mặc dù lúc đó
áp lực thị trường vẫn chưa rõ ràng và khoảng cách giữa tỷ giá thị trường tự do
và tỷ giá chính thức vẫn đang ở mức thấp khoảng 500 VND/USD. Ngay lập tức,
các NHTM tăng tỷ giá của họ lên kịch trần. Động thái của NHNN có thể đã giúp
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 8
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
giảm áp lực và ổn định tỷ giá nếu không có nhiều những yếu tố bất lợi diễn ra
trong những tháng cuối của năm 2010. Yếu tố đầu tiên và có lẽ là yếu tố quan
trọng nhất là việc giá vàng quốc tế tăng cao kỷ lục dẫn đến giá vàng trong nước
còn tăng cao hơn do đầu cơ. Đồng thời, sau một vài tháng tăng với tốc độ chậm,
lạm phát lại bắt đầu tăng nhanh từ tháng 9 năm 2010 khiến cho CPI của năm
2011 tăng lên 11,75% so với 7% năm 2009.
Trong những tháng cuối năm 2011, thị trường ngoại hối chứng kiến sự
tăng lên nhanh chóng của cầu về ngoại tệ do: (i) nhu cầu mua ngoại tệ để trả các
khoản vay đáo hạn của các doanh nghiệp tận dụng chênh lệch lãi suất trong hai
quý đầu năm 2011; (ii) nhu cầu nhập khẩu thường tăng cao vào cuối năm cộng
thêm nhu cầu nhập khẩu vàng nhằm kiếm lời từ sự chênh lệch giữa giá vàng
trong nước và giá vàng quốc tế, (iii) NHNN thắt chặt tín dụng ngoại tệ; (iv) lãi
suất tiền gửi ngoại tệ tăng cao, lên trên 5%/năm; và (v) hoạt động đầu cơ gia
tăng. Thêm vào đó, cung ngoại tệ giảm sút do các doanh nghiệp không muốn
bán ngoại tệ cho ngân hàng khi họ lo lắng về khả năng NHNN sẽ tiếp tục phải
phá giá VND.
Kết quả của sự dư cầu ngoại tệ là tỷ giá thị trường tự do bắt đầu tăng từ
tháng 9 năm 2010 lên 20.500 VND/USD vào giữa tháng 10 và lên đến mức kỷ
lục là trên 21.500 VND/USD vào cuối tháng 11 (xem hình 3). Đối mặt với tình
trạng này, NHNN đã phải thực hiện một loạt các biện pháp hành chính như
tuyên bố tăng cung ngoại tệ cho việc nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu cho
sản xuất, thắt chặt việc trao đổi cũng như nhận gửi và cho vay bằng vàng, và
tăng hạn ngạch nhập khẩu vàng để làm dịu tình hình căng thẳng trên thị trường
vàng. Đồng thời, lãi suất cơ bản cũng được tăng lên 9%/năm vào tháng 11.

Tuy nhiên, tỷ giá thị trường tự do chỉ giảm nhẹ đôi chút và vào cuối năm
2010 và đầu năm 2011 vẫn đứng ở mức cao. Nguyên nhân thứ nhất cho tình
trạng này là do hầu hết các biện pháp của NHNN, nhất là đối với thị trường vàng
chỉ mang tính tạm thời. Thứ hai, dựtrữ ngoại hối đã liên tục giảm sút từ năm
2009 và do đó tuyên bố của NHNN về việc cung ngoại tệ ra thị trường không
được hoàn toàn đảm bảo. Thứ ba, lạm phát tăng cao và vẫn tiếp tục đà tăng. Thứ
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 9
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
tư, thâm hụt thương mại năm 2010 vẫn cao ở mức 12,4 tỷ đô la (đã loại trừ 2,8
tỷ nhập khẩu ròng vàng). Tình trạng này còn trầm trọng hơn do các hoạt động
đầu cơ.
Không thể tiếp tục duy trì tỷ giá, NHNN đã tuyên bố mức phá giá cao
nhất trong lịch sự (9,3%) vào đầu tháng 2 năm 2011, nâng tỷ giá chính thức lên
20.693 VND/USD và giảm biên độ xuống còn +/-1%. Nỗ lực này đã không có
kết quả ngay lập tức. Tỷ giá thị trường tự do vọt lên trên 22.100 VND/USD
trong vòng vài ngày kể từ sau lần phá giá này. Vào tháng 3 năm 2011, NHNN đã
siết chặt các hoạt động trên thị trường tự do, áp đặt trần lãi suất thấp cho tiền gửi
bằng ngoại tệ và do đó mở rộng chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi ngoại tệ và lãi
suất VND lúc đó đã lên kịch trần 14%. Do vậy, cung ngoại tệ đã tăng lên khi các
doanh nghiệp và cá nhân chuyển đổi tiền gửi bằng ngoại tệ sang tiền gửi bằng
VND để tận dụng chênh lệch lãi suất cao. Đồng thời, NHNN cũng tuyên bố là
đã mua thêm được 3 tỷ cho dự trữ ngoại hối. Nhờ đó, cả tỷ giá thị trường tự do
và tỷ giá NHTM đều giảm xuống từ tháng 4 năm 2011, và có lúc còn thấp hơn tỷ
giá chính thức.
Giai đoạn 2010-2011 cho thấy NHNN đã chủ động hơn so với những năm
trước. Cụ thể, NHNN đã đi trước thị trường vào tháng 8 năm 2010 khi các áp
lực thị trường còn tương đối thấp. Đồng thời, NHNN đã tiến hành phá giá một
lần với mức độ lớn hơn (tháng 2 năm 2011) Những động thái này cho thấy
NHNN đã bớt cứng nhắc và đã vận động theo thị trường tốt hơn. Tuy nhiên,
NHNN vẫn sử dụng rất nhiều biện pháp hành chính thay vì tạo môi trường cho

thị trường tự vận hành.
Mặc dù hiện nay thị trường ngoại hối đã ổn định hơn, các bài học từ tình
huống tương tự vào giữa năm 2010 cảnh báo chúng ta không nên chủ quan với
thị trường. Giữa hai kỳ thị trường tương đối ôn hòa (hiện tại và giữa năm 2010)
có những điểm tương tự không thểphủ nhận. Thứ nhất, các doanh nghiệp và các
cá nhân chuyển đổi tiền gửi bằng ngoại tệ sang tiền gửi VND để tận dụng chênh
lệch lãi suất ở cả hai giai đoạn. Thứ hai, trong cả hai giai đoạn, NHTM đều hạ tỷ
giá xuống thấp hơn trần biên độ. Thứ ba, tín dụng ngoại tệ tăng nhanh hơn nhiều
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 10
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
so với tín dụng VND trong cả hai trường hợp, đồng nghĩa với việc đến cuối năm
nhu cầu ngoại tệ để trả các khoản nợ đáo hạn sẽ tăng nhanh. Thứ tư, áp lực từ
nhập siêu vẫn lớn. Cuối cùng, tỷ giá thịtrường tự do và tỷ giá NHTM vẫn bám
sát nhau. (mặc dù bị kiểm soát chặt chẽ, một số hoạt động tự do vẫn diễn ra.) Do
đó, nếu xảy ra các yếu tố bất lợi vào quý IV năm 2011 như sự biến động lớn và
đột ngột trên thị trường vàng (cả trong và ngoài nước), lạm phát cao (cả trong và
ngoài nước) thì các áp lực trên thị trường ngoại hối sẽ tăng lên và có thể dẫn đến
những biến động tương tự như vào cuối năm 2010.
Tuy nhiên, hiện tại thị trường cũng có những điểm khác biệt, cả thuận lợi
và bất lợi so với giữa năm 2010. Thứ nhất, tình hình năm 2010 có lợi hơn vì
giai đoạn thị trường ngoại hối ổn định là giai đoạn lạm phát thấp liền một số
tháng khiến niềm tin vào tiền đồng cao hơn hiện tại khi lạm phát đã tăng liên tục
trong 8 tháng qua. Tuy nhiên hiện tại, NHNN đã tăng và vẫn tiếp tục nỗ lực tăng
dự trữ ngoại hối.
Điều đó có nghĩa là NHNN sẽ có lượng dự trữ ngoại hối lớn hơn để ổn
định thị trường khi cần thiết. Thứ ba, nỗ lực phá giá vào tháng 2 năm 2011
(9,3%) cao gần gấp đôi so với tổng hai lần phá giá năm 2010 và điều này có
nghĩa là áp lực phá giá thêm sẽ thấp hơn trong năm nay. Tuy nhiên, chúng ta cần
tính đến việc lạm phát năm nay cao hơn khá nhiều so với năm 2010.
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 11

Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
 Diễn biến của tỷ giá thực
Hình 4 cho thấy xu hướng biến động của của cả tỷ giá thực và tỷ giá danh
nghĩa theo quý trong thập kỷ qua. Tỷ giá danh nghĩa có xu hướng tăng trong
toàn bộ thập kỷ và tăng mạnh hơn từ 2008 đến nay. Xu hướng theo thời gian
được ước lượng 4 cho thấy mức độ mất giá là khoảng 0,4%/quý trong giai đoạn
2000-2007 nhưng đã tăng lên mức 1,8%/quý trong giai đoạn tiếp theo từ đầu
năm 2008, tương đương với mức tăng gấp 5 lần so với giai đoạn trước. Tuy
nhiên, tỷ giá thực lại có biến động khác biệt. Nó tăng nhẹ vào giai Q1/2000-
Q3/2003 với xu hướng thời gian bằng 0,75%. VND sau đó đã có xu hướng tăng
giá mạnh thực tế trong giai đoạn Q4/2003-Q4/2008 với tốc độ 1,5%/quý (xem
hình 4). Đồng thời, khoảng cách giữa hai tỷ giá ngày càng mởrộng đặc biệt là
trong giai đoạn 2008-2010. So với năm 2000, chỉ số CPI (đại diện cho mức độ
lạm phát trong nền kinh tế) của Việt Nam trong năm 2010 đã tăng tới xấp xỉ
123% trong khi CPI của Mỹ chỉ tăng 26,7% trong cùng giai đoạn. Tỷ giá danh
nghĩa giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ chỉ tăng xấp xỉ 30,4%. Do vậy, nếu
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 12
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
chúng ta lấy năm 2000 làm gốc thì đồng Việt Nam đã lên giá thực tế xấp xỉ
25,9%. Thậm chí nếu chúng ta tính cả lần phá giá 9,3% vào tháng 2/2011, tình
hình cũng không được cải thiện do tỷ lệ lạm phát trong sáu tháng đầu năm 2011
đã lên đến 13,29% so với tháng 12/2010.
Đến hết năm 2010, đồng USD cũng đã mất giá khá nhiều so với đồng tiền
của các đối tác thương mại lớn của Việt Nam (xem bảng 1). Nhưng mặc dù cùng
lên giá theo chiều hướng chung, nhưng đồng Việt Nam vẫn lên giá nhiều hơn so
với các đồng tiền ở Châu Á như Đô la Singapore, Won Triều Tiên, Ringgit
Malaysia và Nhân dân tệ Trung Quốc. Sự lên giá thực của đồng Việt Nam làm
giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường
thế giới.
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 13

Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 14
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
2.2. NHẬN XÉT
2.2.1. Kết quả đạt được của công tác điều hành tỷ giá trong thời gian qua:
Với vơ chế tỷ giá điều tiết thị trường thông qua công cụ tỷ giá bình quân liên
ngân hàng và biên độ tỷ giá, NHNN điều tiết thị trường, đưa ra các biện pháp
điều hòa thị trường thích hợp, góp phần hạn chế tình trạng đầu cơ và tác động
của biến động tỷ giá trên thị trường ngoài nước. Mặt khác, với cơ chế tỷ giá hiện
tại, NHNN có thể thông qua công cụ can thiệp ngoại tệ để góp phần hạn chế việc
sử dụng ngoại tệ cho các mục đích không thiết yếu, từ đó góp phần hạn chế nhập
siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân:
Bên cạnh những ưu điểm trên, việc điều hành theo cơ chế tỷ giá hiện tại còn
có hạn chế, cụ thể:
+ Chưa khắc phục được triệt đẻ tình trạng mất cân đối cung cầu ngoại tệ
trong nền kinh tế và sức ép vượt ra ngoài biên độ tỷ giá của đồng bản tệ.
+ Khó ứng dụng các lý thuyết tỷ giá để đánh giá do có sự can thiệp điều tiết
của Nhà nước cho các mục tiêu vĩ mô tổng thể.
+ Trong một số thời điểm, cơ chế điều tiết tỷ giá của NHNN còn tạo kỳ vọng
tỷ giá chưa hợp lý trên thị trường, phần nào tác động tới tâm lý găm giữ ngoại tệ
của các chủ thể tham gia thị trường.
2.3.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH
TỶ GIÁ TRONG THỜI GIAN TỚI
2.3.1. Thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá bình quân liên ngân hàng bằng cơ
chế điều hành theo tỷ giá trung tâm
Ngày 25/2/1999, Thống đốc NHNN đã ký các Quyết định số 64/1999/QĐ-
NHNN và Quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN ban hành cơ chế tỷ giá dựa trên tỷ
giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (tỷ giá BQLNH). Thực tế
điều hành tỷ giá trong thời gian qua cho thấy tỷ giá BQLNH thực chất phản ánh

mức tỷ giá trung tâm theo mục tiêu điều hành của NHNN. Do thị trường ngoại
hối của Việt Nam chịu tác động mạnh từ các biến động tâm lý, để bảo đảm thực
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 15
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
hiện các mục tiêu điều hành tỷ giá trong từng thời kỳ, NHNN buộc phải điều tiết
thị trường một cách hợp lý thông qua công cụ tỷ giá BQLNH. Đặc biệt, trong
hơn hai năm trở lại đây, tại những thời điểm cung cầu ngoại tệ căng thẳng, trong
khi tỷ giá giao dịch của các NHTM phổ biến ở mức tỷ giá trần hoặc tỷ giá sàn,
để ổn định thị trường ngoại hối, NHNN buộc phải duy trì tỷ giá BQLNH tương
đối ổn định.
Do thị trường ngoại hối dự kiến còn có thể tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng
với đặc điểm thị trường ngoại hối của Việt Nam chịu tác động mạnh từ các biến
động tâm lý, trong thời gian tới, việc tiếp tục sử dụng tỷ giá trung tâm trong điều
hành tỷ giá vẫn là cần thiết. Vì vậy, để duy trì lòng tin của thị trường đối với
chính sách tỷ giá và uy tín của NHNN, NHNN cần công bố cơ chế điều hành
theo tỷ giá trung tâm thay cho cơ chế điều hành theo tỷ giá BQLNH hiện tại.
2.3.2. Duy trì biên độ tỷ giá tương đối ổn định
Cũng giống như tỷ giá BQLNH, biên độ tỷ giá là một công cụ đắc lực của
chính sách tỷ giá và là căn cứ để xác định tỷ giá giao dịch trên thị trường. Trong
thời gian qua, việc mở rộng biên độ tỷ giá với tốc độ và biên độ mạnh đã góp
phần tích cực vào sự gia tăng tính linh hoạt của chế độ tỷ giá. Tuy nhiên, việc
mở biên độ tỷ giá ở mức cao cũng khiến cho công tác quản lý tỷ giá đặt ra một
số vấn đề mới cần giải quyết như: (i) làm tăng quy mô can thiệp thị trường; (ii)
việc điều chỉnh, can thiệp tỷ giá phải được cân nhắc, xem xét thận trọng hơn.
Mặc dù việc mở rộng biên độ tỷ giá giúp cho các thành viên tham gia thị trường
thích nghi và linh hoạt hơn với biến động tỷ giá. Tuy nhiên việc mở rộng biên
độ tỷ giá ở mức cao cũng đồng nghĩa với việc tạo điều kiện cho tỷ giá biến động
trong biên độ lớn, làm tăng rủi ro tỷ giá đối với các thành viên tham gia vào thị
trường, đặc biệt là đối với các NHTM.
Do vậy, từ nay cho đến cuối năm 2010,để đảm bảo cho sự ổn định của nền

kinh tế, biên độ tỷ giá nên được điều hành tương đối ổn định, tập trung xử lý
biến động ngắn hạn quá mức để đảm bảo ổn định dài hạn tương đối phù hợp với
các chỉ số kinh tế vĩ mô chủ chốt.
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 16
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
2.3.3. Phối hợp hiệu quả giữa điều hành chính sách tỷ giá và điều hành
chính sách tiền tệ.
Việc vừa giữ tỷ giá tương đối ổn định, đồng thời vẫn tự chủ trong chính sách
tiền tệ là bài toán hóc búa với những nhà quản lý chính sách tiền tệ của các nước
nói chung cũng như Việt Nam nói riêng. Do vậy, để đảm bảo các mục tiêu
chung, sự phối hợp hiệu quả giữa công tác điều hành tỷ giá và các công cụ của
chính sách tiền tệ cần được đặc biệt coi trọng.
2.3.4. Sử dụng hiệu quả dự trữ ngoại hối để can thiệp ổn định thị trường
ngoại hối
Tính toán mức và cơ cấu dự trữ ngoại hối phù hợp nhằm đảm bảo khả năng
thanh toán quốc tế của đất nước và duy trì khả năng can thiệp nhằm ổn định thị
trường của NHNN.
Một số kịch bản về phương án điều hành tỷ giá và dự trữ ngoại hối
Phương án 1: Nền kinh tế Việt Nam hồi phục mạnh, cán cân thanh toán quốc tế
diễn biến theo hướng khả quan.
Biện pháp điều hành của NHNN: Điều hành linh hoạt tỷ giá theo diễn biến
cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Có thể xem xét điều chỉnh VND lên giá nhẹ
nhưng phải đảm bảo không làm tăng lạm phát và trầm trọng tình trạng thâm hụt
cán cân thương mại. NHNN cân nhắc mua vào ngoại tệ với mức độ và tần suất
hợp lý để hài hòa cung cầu ngoại tệ, đồng thời phối hợp chặt chẽ với chính sách
tiền tệ để trung hòa lượng hiệu quả và kịp thời lượng tiền VND nhằm hạn chế
lạm phát gia tăng.
Phương án 2: Nền kinh tế Việt Nam hồi phục chậm, cán cân thanh toán quốc tế
diễn biến theo chiều hướng kém khả quan hơn so với Phương án 1.
Biện pháp điều hành tỷ giá của NHNN: Kiên trì mục tiêu linh hoạt trong

ngắn hạn nhưng đảm bảo ổn định trong dài hạn. Có thể xem xét bán can thiệp hỗ
trợ ngoại tệ cho nền kinh tế phục vụ nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu trên cơ sở
có chọn lọc đối tượng. Sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để điều
tiết hài hòa và khơi thông luồng ngoại tệ trong nền kinh tế. Đảm bảo sự bền
vững của cán cân thanh toán quốc tế và hài hòa lợi ích của các chủ thể trong nền
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 17
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
kinh tế.
2.3.5. Hoàn thiện khung pháp lý quản lý và phát triển thị trường ngoại hối
- Xây dựng văn bản quản lý toàn diện và đồng bộ hoạt động kinh doanh
ngoại hối trên thị trường ngoại tệ Việt Nam theo nguyên tắc: Quy định khung
pháp lý về hoạt động kinh doanh ngoại tệ của TCTD; Đưa ra các quy định quản
lý để hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của TCTD;
- Khuyến khích các TCTD xây dựng và áp dụng Bản thông lệ thị trường
ngoại hối Việt Nam;
- Xây dựng cơ chế quản lý dòng vốn đầu tư nước ngoài và nợ nước ngoài;
- Thiết lập hệ thống giám sát đối với việc quản lý dòng vốn đầu tư gián tiếp;
- Việt Nam cần tập trung củng cố và xây dựng hệ thống giám sát hiện có,
xây dựng cơ chế để điều phối và phân cấp quản lý một cách hữu hiệu giữa các
cơ quan giám sát khác nhau trong khu vực tài chính. Bên cạnh đó, phải xây dựng
một hệ thống cảnh báo sớm và tăng cường theo dõi các tổ chức tài chính lớn một
cách có hệ thống.
2.3.6. Xây dựng cơ chế quản lý nợ nước ngoài
Kinh nghiệm quản lý nợ và bài học rút ra từ các cuộc khủng hoảng tài chính
và các cuộc khủng hoảng nợ trên thế giới cho thấy, dòng vốn vay nước ngoài
ngắn hạn chứa đựng nguy cơ rủi ro rất cao. Ở Việt Nam, nợ nước ngoài ngắn
hạn tập trung phần lớn vào các nghĩa vụ nợ phát sinh từ các nghiệp vụ thanh
toán quốc tế thông qua hệ thống tổ chức tín dụng và các nghĩa vụ nợ tài chính
ngắn hạn phải trả. Nợ nước ngoài trung dài hạn có tính ổn định hơn nhưng lại
đối mặt với vấn đề về số lượng vì thông thường đó là nhu cầu thanh toán lớn.

Phần lớn nợ trung dài hạn nước ngoài của Việt Nam là nợ của khu vực công
gồm nợ của Chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh.
Để có cơ sở điều chỉnh tỷ giá linh hoạt, nhóm giải pháp về quản lý nợ tập
trung vào công tác thống kê và ghi chép nợ nước ngoài của quốc gia, bao gồm
các nội dung như sau:
(i) Xây dựng cơ chế báo cáo, thống kê số liệu nợ đảm bảo đầy đủ, chính xác;
số liệu có độ tin cậy cao;
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 18
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
(ii) Sử dụng có hiệu quả phần mềm thống kê, ghi chép nợ của khu vực công
và khu vực tư nhân.
(iii) Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý nợ trong đó đặc
biệt quan trọng việc chia sẻ và cung cấp thông tin, hình thành một kho dữ liệu
chung về số liệu nợ nước ngoài.
(iv) Xây dựng cơ chế giám sát luồng chu chuyển vốn vào/ra thuộc các hạng
mục trên cán cân vốn bao gồm hệ thống cảnh báo sớm rủi ro dòng vốn vào/ra
trên cán cân vốn của cả nước bao gồm cả hình thức vay nợ và đầu tư.
(v) Xây dựng hệ thống tính toán mức tác động trực tiếp từ sự thay đổi tỷ giá
đối với nghĩa vụ nợ nước ngoài phải trả đặc biệt cân đối nghĩa vụ nợ thuộc về
ngân sách và các cân đối vĩ mô khác như các chính sách xuất nhập khẩu, thương
mại.
Việc xây dựng và vận hành đồng bộ các cơ chế, công cụ để ghi chép và
thống kê nợ nước ngoài của quốc gia ngoài việc xác định cung cầu ngoại tệ trên
thị trường ngoại hối còn có ý nghĩa rất lớn trong công tác xây dựng cơ chế,
chính sách quản lý nợ hiệu quả và bền vững trong mục tiêu chung về quản lý
kinh tế vĩ mô của nhà nước.
2.3.7 Hoàn thiện hệ thống số liệu nắm bắt cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế
Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng hệ thống báo cáo theo quyết
định số 477/2004/QĐ-NHNN trong đó quy định Chế độ báo cáo thống kê áp
dụng đối với các đơn vị thuộc NHNN và các TCTD. Báo cáo của các TCTD

hiện đang được sử dụng là một trong những căn cứ để NHNN nắm bắt nhu cầu
về ngoại tệ thông qua lượng ngoại tệ giao dịch thực tế giữa ngân hàng và khách
hàng hàng ngày cũng như nguồn cung ngoại tệ thông qua hoạt động chuyển vốn
đầu tư gián tiếp…Tuy nhiên, việc thu thập thông tin thông qua báo cáo của các
tổ chức tín dụng còn bộc lộ nhiều bất cập do hệ thống máy móc thông tin chưa
hoàn thiện và ý thức thực hiện chế độ báo cáo của các TCTD chưa cao. Ngoài
ra, số liệu về cung cầu ngoại tệ khai thác từ hệ thống báo cáo theo Quyết định
477/2004/QĐ-NHNN chưa thực sự phản ánh chính xác thực tế do không bao
quát hết các nguồn cung và điểm xuất phát của nhu cầu về ngoại tệ.
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 19
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
Xuất phát từ vai trò quan trọng của việc nắm bắt cung cầu ngoại tệ trên thị
trường, mục tiêu xây dựng hệ thống cung cấp thông tin, thu thập số liệu từ thị
trường cần phải được đặt lên hàng đầu. Dữ liệu của hệ thống thông tin này sẽ là
cơ sở để NHNN không chỉ nắm bắt được tình hình cung cầu thực tế mà còn dự
báo được diễn biến của thị trường ngoại tệ trong tương lai từ đó có các chính
sách điều chỉnh hiệu quả phù hợp.
2.3.8. Các biện pháp khác
- Biện pháp tâm lý: Một trong những hạn chế của thị trường ngoại hối Việt
Nam hiện nay là việc một bộ phận lớn người dân và doanh nghiệp do thiếu
thông tin và hiểu biết về chính sách điều hành tỷ giá của nhà nước nên đã hành
động tự phát, tham gia vào các giao dịch bất hợp pháp trên thị trường tự do.
Thực trạng này gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện các chính sách của
nhà nước và dẫn tới những hạn chế của thị trường ngoại tệ Việt Nam. Do đó,
NHNN cần tăng cường công tác tuyên truyền đề người dân và doanh nghiệp
cũng như các thành phần kinh tế trong và ngoài nước hiểu rõ phương hướng,
mục tiêu và các biện pháp điều hành thị trường của NHNN, từ đó khuyến khích
và định hướng thành viên tham gia thị trường có các hành vi lành mạnh, tích
cực, gây dựng lòng tin vào chính sách cho người dân và thị trường, hạn chế tác
động xấu do yếu tố tâm lý.

- Đào tạo nguồn nhân lực: Để công tác điều hành tỷ giá được tiến hành
hiệu quả, kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế của đất nước, một trong những
giải pháp quan trọng và cấp thiết hàng đầu là chú trọng đào tạo nguồn nhân lực
cho ngành ngân hàng nói chung và hệ thống NHNN nói riêng. Các ngân hàng
cần chú trọng hàng đầu tới công tác đào tạo và phát triển năng lực cho đội ngũ
cán bộ đi đôi với đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy. Đối với đội ngũ cán bộ, cần
không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, tính chuyên nghiệp cũng như trách
nhiệm, đạo đức nghề nghiệp.
Đề đảm bảo nguồn nhân lực về dài hạn, cần xây dựng chiến lược và kế
hoạch cụ thể phát triển nguồn nhân lực và thị trường nhân lực cũng như thu hút
và trọng dụng các chuyên gia ngân hàng trình độ cao từ các tổ chức, quốc gia
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 20
Chuyên đề môn học GVHD: Lê Đức Thiện
trong khu vực và thế giới vào làm việc tại Việt Nam.
2.4. KẾT LUẬN
Trong hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, quản lý điều
hành tỷ giá là một nội dung quan trọng mà ngân hàng nhà nước phải quan tâm
để nhằm mục đích ổn định tỷ giá và để đạt được mục tiêu cuối cùng là giữ vững
đồng tiền quốc gia.
ở Việt Nam, tỷ giá đã bước đầu hình thành phát triển trong một thời gian và
có vai trò lớn đối với nền kinh tế đặc biệt trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế
kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế trường. Tỷ giá giúp so sánh sức mua, giá trị
giữa các động tiền, tạo điều kiện cho các giao dịch quốc tế, tỷ giá ảnh hưởng tới
tình hình xuất nhập khẩu của quốc gia và là một công cụ điều tiết vĩ mô đầy hiệu
quả. Với những tác động và vai trò to lớn của tỷ giá, thì nhà nước cần thiết phải
quản lý điều hành tỷ giá để đảm bảo cho nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng và
phát triển cao.
Với vai trò rất quan trọng của nó, tỉ giá luôn là vấn đề được đề cập nhiều
trong thời buổi hiện nay trên đầy đủ các phương tiện thông tin đại chúng và
thông qua các thông tin chúng ta có được chúng ta có thể khẳng định đất nước ta

đã có nhiều thành công trong lĩnh vực tỉ giá, quản lý điều hành tỉ giá. Mặc dù đã
đạt được nhiều thành công nhưng tình hình tỉ giá ở Việt Nam còn nhiều bất cập,
khả năng quản lý điều hành tỉ giá của nhà nước còn nhiều hạn chế vì vậy chúng
ta cần thiết phải học tập, nghiên cứu, tìm hiểu thêm để có thể đưa ra những giải
pháp hoàn thiện chế độ điều hành, quản lý tỉ giá ở Việt Nam góp phần phát triển
kinh tế đất nước.
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Quỳnh – Nguyễn Thị Minh Tâm Trang 21

×