Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp và ảnh hưởng của nó đến hộ gia đình trên địa bàn thành phố thái nguyên, giai đoạn 2006-2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 86 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





HOÀNG THỊ MAI




ĐỀ TÀI:
CHUYỂN ĐỔI MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN HỘ GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, GIAI ĐOẠN 2006 – 2010


CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
MÃ SỐ: 60 62 16


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


GS.TS. NGUYỄN THẾ ĐẶNG




Thái Nguyên – Năm 2011













































1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá đối với mỗi quốc gia, là điều kiện tồn
tại và phát triển của nền sản xuất xã hội, của bản thân con người và là điều kiện sinh
tồn của thế giới động, thực vật trên Trái đất. Đất đai tham gia vào tất cả các ngành

sản xuất vật chất của xã hội như là một tư liệu sản xuất đặc biệt. Tuy nhiên, đất đai
là một nguồn tài nguyên hữu hạn, nó chỉ trở nên vô hạn và quý giá tuỳ thuộc hoàn
toàn vào sự hiểu biết và thái độ đối xử của con người đối với đất đai.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế quốc dân trong điều kiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, các công trình đô thị, công trình
dân cư phát triển với quy mô và tốc độ ngày càng lớn, đòi hỏi công tác quản lý đất
đai phải thực hiện tiết kiệm và hiệu quả; đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước với
người sử dụng đất, đồng thời thúc đẩy hình thành thị trường bất động sản công khai
và lành mạnh trên cơ sở kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Từ những năm đầu thập kỷ 90, Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ nền
kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa đã và
đang thu được những thành công đáng kể, đó là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao và kim
ngạch xuất khẩu tăng mạnh. Vào những năm gần đây kinh tế nước ta có những
bước tiến vượt bậc, đặc biệt là từ khi chúng ta ra nhập tổ chức Thương mại thế giới
(WTO). Tổng sản phẩm trong nước bình quân tăng nhanh, chất lượng cuộc sống
từng bước được nâng cao Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển về kinh tế là sự bùng
nổ dân số và tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng, hình thành các khu đô thị, các khu
công nghiệp lớn gây biến động đất đai tại các địa phương.
Cùng với sự phát triển chung của cả nước, tốc độ đô thị hoá của tỉnh Thái
Nguyên diễn ra mạnh mẽ. Là một tỉnh trung du miền núi phía Bắc, cách Hà Nội
80km về phía Bắc, tiếp giáp với 6 tỉnh, có hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt
nối liền với Thủ đô Hà Nội và các tỉnh trong vùng rất thuận tiện cho việc vận
chuyển, lưu thông hàng hoá. Không những thế Thái Nguyên còn là trung tâm văn
hóa của các tỉnh miền núi phía Bắc, là nơi tập trung của rất nhiều trường đại học,
cao đẳng, trung cấp, dạy nghề Trong những năm gần đây Thái Nguyên không
ngừng phát triển, cơ sở hạ tầng cũng được đầu tư nâng cấp hoàn thiện dần.

2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa đã làm đất đai khu vực biến động mạnh cả
về mục đích sử dụng và đối tượng sử dụng đất. Diện tích đất nông nghiệp ngày càng
bị thu hẹp, thay vào đó là các khu đô thị tăng lên. Việc quản lý, sử dụng đất trở lên
phức tạp hơn, việc mua bán, trao đổi, chuyển mục đích sử dụng đất trái phép diễn ra
ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước. Giá cả đất đai khu đô thị trên thị trường thường
tăng cao và có những biến động phức tạp. Ngoài ra, sự phát triển của các khu đô thị
đã thu hút lực lượng lao động lớn từ nông thôn ra thành thị gây lên sự bất ổn xã hội
như: giải quyết việc làm, nhu cầu đất ở, ô nhiễm môi trường….
Quá trình đô thị hóa đã, đang và sẽ mang lại các mặt tích cực như thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội rõ rệt, đồng thời do sự phát triển của xã hội và vấn đề đô thị hóa nên
diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, và nếu không có biện pháp quản lý một
cách thích hợp thì chẳng bao lâu nữa đất nông nghiệp sẽ chẳng còn bao nhiêu. Chẳng
hạn như những diện tích dành để bố trí các công trình kinh tế đầu mối, các khu dân cư,
các công trình cơ sở sản xuất, dịch vụ y tế, đào tạo nghiên cứu khoa học, một diện tích
lớn khác đã được xây làm nhà ở, để tách hộ, để bán, để tự kinh doanh
Đứng trước những vấn đề trên, để tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân sử dụng
đất cũng như mong muốn tham mưu, tìm ra những giải pháp có hiệu quả nhằm khắc
phục những vấn đề bức xúc nêu trên, góp phần hoàn thiện công tác quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất là hết sức cần thiết nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý
Nhà nước về đất đai; nâng cao tính khả thi của việc sử dụng đất hợp lý, hiệu quả
cao; tạo cơ sở pháp lý vững chắc để các tổ chức kinh tế, cá nhân thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình về sử dụng đất đối với Nhà nước; đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của thành phố trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xuất phát từ những vấn đề trên và nhu cầu thực tiễn, được sự đồng ý của Khoa Sau
đại học, Trường Đại học Nông Lâm, dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Nguyễn Thế
Đặng, tôi triển khai nghiên cứu đề tài: “Chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp và ảnh hưởng của nó đến hộ gia đình trên địa bàn thành phố Thái
Nguyên, giai đoạn 2006 - 2010”.
1.2. Mục đích nghiên cứu đề tài

- Đánh giá thực trạng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp trên địa
bàn thành phố Thái Nguyên, giai đoạn 2006 – 2010.
- Đánh giá ảnh hưởng của chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp đến
hộ gia đình.

3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- Đưa ra giải pháp cho sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả và không ảnh
hưởng đến quá trình đô thị hoá.
1.3. Yêu cầu của đề tài nghiên cứu
- Phân tích, đánh giá quá trình đô thị hoá của thành phố Thái Nguyên.
- Đánh giá tình hình quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Thái
Nguyên.
- Đánh giá tình hình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp trên địa
bàn thành phố Thái Nguyên trong giai đoạn 2006 – 2010.
- Đánh giá ảnh hưởng của chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp đến
hộ gia đình.
- Đánh giá những kết quả đạt được, những khó khăn, thuận lợi trong quá trình
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp.
- Đưa ra những nguyên nhân, tồn tại, khó khăn để từ đó đề xuất giải pháp
khắc phục có tính khả thi phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
1.4. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học: Là cơ hội cho bản thân
củng cố kiến thức đã học, đồng thời là cơ hội cho bản thân tiếp cận với tình hình
chuyển đổi mục đích đất nông nghiệp tại địa phương.
- Ý nghĩa trong thực tiễn: Tìm ra những mặt hạn chế và tích cực của quá
trình chuyển đổi mục đích đất nông nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại
hoá. Từ đó đề xuất ra những giải pháp thích hợp, phù hợp với điều kiện thực tế của

địa phương, góp phần đẩy nhanh quá trình sử dụng đất đạt hiệu quả hơn nữa trong
thời gian tới.




4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Cơ sở lý luận
Đề tài là công trình khoa học nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống
về các chính sách đất đai, đặc biệt là chính sách chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên và đề xuất hướng hoàn thiện chính
sách kèm theo các giải pháp thực hiện.
Kết quả nghiên cứu của đề tài nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thành phố để ngày càng văn minh, giàu đẹp, sánh vai với
các thành phố lớn trong khu vực và trên cả nước; góp phần vào việc nâng cao hiệu
quả công tác quản lý Nhà nước về đất đai nói chung và hoàn thiện chính sách,
phương thức chuyển đổi mục đích sử dụng đất nói riêng trên địa bàn thành phố; góp
phần hạn chế, giải toả những bức xúc về khiếu kiện của công dân khi bị chuyển đổi
mục đích sử dụng đất để thực hiện các dự án trên địa bàn.
* Khái niệm về chuyển mục đích sử dụng đất
Chuyển mục sử dụng đất mới được pháp luật đất đai đề cập đến từ năm 2001
(khi sửa đổi, bổ sung lần thứ 2 Luật Đất đai 1993).
Chuyển mục đích sử dụng đất là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra

quyết định hành chính cho phép chuyển mục đích sử dụng với những diện tích đất
cụ thể từ mục đích này sang mục đích khác.
Luật đất đai 2003 quy định, Nhà nước căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất hoặc quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông
thôn; Căn cứ vào nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong dự án đầu tư, đơn xin chuyển
mục đích sử dụng đất đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt mà cho
phép người sử dụng đất được chuyển sang sử dụng vào mục đích khác ngay trên
diện tích đất mà họ đang sử dụng.
Nhà nước không phải thu hồi rồi giao lại mà chỉ cần cho phép người sử dụng
được thực hiện nghĩa vụ tài chính và công nhận cho họ được chuyển sang sử dụng
vào mục đích khác.

5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

* Mục đích của chuyển mục đích sử dụng đất
- Đa dạng các hình thức có được đất để sử dụng của người sử dụng.
- Đơn giản thủ tục hành chính trong việc phân phối lại đất đai.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Như vậy, Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép người sử dụng đất
chuyển mục đích sử dụng đất đều là các hoạt động trao quyền sử dụng đất từ Nhà
nước cho người sử dụng đất hoặc đồng ý cho người đang sử dụng đất chuyển sang
mục đích khác. Các hoạt động này đều nhằm:
+ Đáp ứng được các nhu cầu đối tượng sử dụng đất, kể cả trong nước và
ngoài nước.
+ Đảm bảo cho đất đai được phân phối và phân phối lại cho các đối tượng sử
dụng được sử dụng hợp pháp, đúng mục đích mà Nhà nước đã quy định, đạt hiệu
quả cao, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
+ Xác lập mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước với người sử dụng làm cơ sở

để giải quyết mọi mối quan hệ đất đai và người sử dụng yên tâm thực hiện các
quyền của mình trên diện tích đất đó.
Nhà nước thu hồi đất nhằm thực hiện quyền định đoạt của Nhà nước đối với
đất đai để thực hiện quyền quyết định duy nhất của Nhà nước đối với đất đai và đơn
giản hóa các thủ tục hành chính trong quản lý đất đai.
* Vai trò của chuyển đổi mục đích sử dụng đất
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất đóng vai trò trung tâm để phát triển kinh
tế, chính trị, thương mại, văn hóa của xã hội.
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tạo điều kiện thúc đẩy công nghiệp hóa nhanh
chóng.
* Các đối tƣợng nhà nƣớc cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
Các đối tượng nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất:
- Tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp
- Tổ chức kinh tế, tổ chức kinh tế - xã hội
- Tổ chức sự nghiệp công

6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- Hộ gia đình, cá nhân trong nước
Các đối tượng trên khi được giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng
đất có đầy đủ các điều kiện về hồ sơ theo quy định thể hiện nhu cầu xin giao đất,
xin thuê đất, xin chuyển mục đích sử dụng đất của họ; phù hợp với quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đai đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt sẽ được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất hay chuyển mục đích sử dụng đất.
* Các hình thức chuyển mục đích sử dụng đất
Tại Điều 36, Luật Đất đai năm 2003, đã chia việc chuyển mục đích sử dụng
làm 2 trường hợp sau:

- Những trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất phải xin phép của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền
+ Chuyển đất chuyên trồng lúa sang đất trồng cây lâu năm, đất trồng rừng,
đất nuôi trồng thủy sản;
+ Chuyển đất trồng rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ sang sử dụng vào mục
đích khác;
+ Chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp
+ Chuyển đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử
dụng đất sang đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất
hoặc thuê đất;
+ Chuyển đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở [9].
- Những trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất không phải xin phép cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền
Tất cả những trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất không thuộc quy định
trong 5 trường hợp trên thì người sử dụng đất không phải xin phép cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền, nhưng phải đăng ký với văn phòng của tổ chức có thẩm quyền
đăng ký quyền sử dụng đất (Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất) hoặc Uỷ ban
nhân dân xã nơi có đất.
Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất phụ thuộc vào mục đích sử dụng
nên sau khi chuyển mục đích sử dụng đất thì quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất có thể bị thay đổi. Nguyên tắc chung là quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất, chế độ sử dụng đất được áp dụng theo loại đất sau khi chuyển mục đích sử

7

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

dụng. Thời hạn sử dụng đất sau khi chuyển mục đích được thực hiện theo quy định
tại Khoản 3 Điều 67 và Điều 68 Luật Đất đai 2003 [9].
2.1.2. Cơ sở pháp lý

Cải cách thủ tục hành chính trong quản lý đất đai đã và đang đặt ra một đòi
hỏi bức bách của các ngành, các cấp và của đại đa số quần chúng nhân dân với kỳ
vọng có cơ chế quản lý đất đai thông thoáng, hấp dẫn để khuyến khích, thu hút các
doanh nghiệp, các nhà đầu tư và tất cả các đối tượng có nhu cầu sử dụng đất nhanh
chóng có đất để sản xuất; thông qua đó nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, khơi
dậy nguồn lực phát triển đất nước. Sau đây là một số cơ sở pháp lý đã được ban
hành để quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên đất ở nước ta.
2.1.2.1. Một số văn bản của Nhà nước
- Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ
về thi hành luật đất đai 2003.
- Thông tư số 01/2005/TT- BTNMT ngày 13 ngày 4 tháng 2004 hướng dẫn
thực hiện một số điều của Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004
của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai.
- Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính Phủ về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
- Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 của Chính phủ
về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
- Nghị định của Chính phủ số 198/2004/NĐ–CP ngày 03 tháng 12 năm 2004
về thu tiền sử dụng đất.
- Thông tư số 117/2004/TT-BTC ngày 07 tháng 12 năm 2004 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm
2004 về thu tiền sử dụng đất.
- Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 2006 về việc sửa đổi bổ
sung một số điều của các Nghị định của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai.
- Nghị định của Chính phủ số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 05 năm 2007
quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục
bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi và giải quyết khiếu nại về đất
đai.


8

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- Thông tư số 06/2007/TT-BTNMT ngày 02 tháng 7 năm 2007 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường; Thông tư liên tịch số 14/2008/TTLT/BTC-BTNMT ngày 31
tháng 01 năm 2008 của Liên bộ Tài chính – Tài nguyên và Môi trường, hướng dẫn
thực hiện một số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007
của Chính Phủ.
- Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 của Chính phủ qui
định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
2.1.2.2. Một số văn bản của UBND tỉnh Thái Nguyên
- Chỉ thị số 16/2004/CT-UB ngày 13 tháng 8 năm 2004 của UBND tỉnh Thái
Nguyên về việc triển khai thực hiện Luật Đất đai 2003.
- Quyết định số 1883/2005/QĐ-UBND ngày 16 tháng 9 năm 2005 của
UBND tỉnh Thái Nguyên ban hành quy định về hạn mức đất ở khi giao đất và hạn
mức công nhận đất ở đối với trường hợp thửa đất có vườn, ao khi cấp GCN quyền
sử dụng đất cho mỗi hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh.
Quyết định số 1597/QĐ-UBND ngày 10/8/2007 của UBND tỉnh Thái
Nguyên V/v điều chỉnh cấp đổi GCN quyền sử dụng đất, GCN quyền sở hữu nhà ở
và quyền sử dụng đất ở đối với thửa đất có vườn, ao đã cấp vượt hạn mức đất ở theo
quy định do không tách diện tích đất ở và đất vườn ao trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên.
- Quyết định số 326/2006/QĐ-UBND ngày 27 tháng 2 năm 2006 của
UBND tỉnh Thái Nguyên về việc ban hành quy trình về thu hồi đất, quản lý quỹ đất
đã thu hồi, trình tự thủ tục xin giao đất, cho thuê đất, cấp GCNQSD đất trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên.
- Quyết định số 867/2007/QĐ-UBND ngày 14 tháng 5 năm 2007 của UBND
tỉnh Thái Nguyên V/v ban hành quy định về thu hồi đất, quản lý quỹ đất đã thu hồi;

trình tự, thủ tục xin giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên.
- Quyết định số 01/QĐ-UBND ngày 05 tháng 1 năm 2010 của UBND tỉnh
Thái Nguyên về việc ban hành quy định thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
2.2. Tình hình quản lý và sử dụng đất nông nghiệp trên Thế giới và ở Việt Nam

9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2.2.1. Tình hình quản lý và sử dụng đất nông nghiệp trên Thế giới
Tổng diện tích bề mặt của toàn thế giới khoảng 510 triệu km
2
trong đó đại
dương chiếm 361 triệu km
2
(chiếm 71%), còn lại là diện tích lục địa chỉ chiếm 149
triệu km
2
(chiếm 29%). Bắc bán cầu có diện tích lớn hơn nhiều so với Nam bán cầu.
Toàn bộ quỹ đất có khả năng sản xuất nông nghiệp trên thế giới là 3.256 triệu ha
(chiếm khoảng 22% tổng diện tích đất liền. Diện tích đất nông nghiệp trên thế giới
được phân bố không đều: Châu Mỹ chiếm 35%, Châu Á chiếm 26%, Châu Âu chiếm
13%, Châu Phi chiếm 6%. Bình quân đất nông nghiệp trên thế giới là 12.000m
2
. Đất
trồng trọt toàn thế giới mới đạt 1,5 tỷ chiếm 10,8% tổng diện tích đất đai trong đó có
46% đất có khả năng sản xuất nông nghiệp như vậy còn 54% đất có khả năng sản
xuất nhưng chưa được khai thác. Diện tích đất đang canh tác trên thế giới chỉ chiếm

10% tổng diện tích tự nhiên (khoảng 1.500 triệu ha), được đánh giá là:
Đất có năng suất cao: 14%
Đất có năng suất TB: 28%
Đất có năng suất thấp: 28%
Nguồn tài nguyên đất trên thế giới hàng năm luôn bị giảm, đặc biệt là đất
nông nghiệp mất đi do chuyển sang mục đích khác. Mặt khác dân số ngày càng
tăng, theo ước tính mỗi năm dân số thế giới tăng từ 80 – 85 triệu người. Như vậy
với mức tăng này mỗi người cần phải có 0,2 – 0,4 ha đất nông nghiệp mới đủ lương
thực, thực phẩm. Đứng trước những khó khăn rất lớn đó thì việc đánh giá hiệu quả
sử dụng đất cũng như tình hình chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp là hết sức
cần thiết. [23]
Dân số ngày một tăng cùng với những phát hiện mới về thiên nhiên, con
người đã nghĩ ra nhiều phương thức sản xuất mới, nhiều ngành nghề khác nhau để
kiếm sống. Và quá trình chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp đều xảy ra ở tất
cả các nước trên thế giới. Tuy nhiên, có sự khác nhau về mức độ đô thị hóa cũng
như diện tích đất được chuyển mục đích hàng năm. Quá trình chuyển mục đích trên
thế giới diễn ra sớm hơn với tốc độ mạnh mẽ hơn ở Việt Nam. Đặc biệt là ở một số
nước phát triển như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Italia, Nhật Bản vv…thì tốc độ đô thị
hóa nhanh đã làm quá trình chuyển mục đích sử dụng đất trong đó có đất nông
nghiệp diễn ra mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, chính quá trình đô thị hoá, chuyển mục
đích sử dụng đất một cách hợp lý đã giúp nền kinh tế của các nước này phát triển
khá nhanh trong những năm qua. Để đạt được những thành tựu đó thì công tác quản
lý đất đai ở các quốc gia này được thực hiện khá tốt. Một trong những nước điển

10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

hình về công tác quản lý Nhà nước về đất đai đó là nước Pháp. Pháp là quốc gia
phát triển thuộc hệ thống quốc gia TBCN, tuy thể chế chính trị khác nhau, nhưng

nước ta chịu ảnh hưởng của phương pháp tổ chức QLNN trong lĩnh vực đất đai khá
rõ của Cộng hòa Pháp. Vấn đề này dễ lý giải vì Nhà nước Việt Nam hiện đang khai
thác khá hiệu quả những tài liệu quản lý đất đai do chế độ thực dân để lại, đồng thời
ảnh hưởng của hệ thống quản lý đất đai thực dân còn khá rõ nét trong ý thức một bộ
phận công dân Việt Nam hiện nay. Quản lý đất đai của Nước Cộng hòa Pháp có
một số đặc điểm đặc trưng sau:
Về chế độ sở hữu tài sản là bất khả xâm phạm và thiêng liêng, không ai có
quyền buộc người khác phải nhường quyền sở hữu của mình. Ở Pháp hiện nay tồn
tại hai hình thức sở hữu cơ bản: SHTN về đất đai và SHNN (đối với đất đai và công
trình xây dựng công cộng). Tài sản công cộng (bao gồm cả đất đai công cộng) có
đặc điểm là không được mua và bán. Trong trường hợp cần sử dụng đất cho các
mục đích công cộng, Nhà nước có quyền yêu cầu sở hữu đất đai tư nhân nhường
quyền sở hữu thông qua chính sách bồi thường thiệt hại một cách công bằng.
Về công tác quy hoạch đô thị: Do đa số đất đai thuộc SHTN, vì vậy để phát
triển đô thị, ở Pháp công tác quy hoạch đô thị được quan tâm chú ý từ rất sớm và
thực hiện rất nghiêm ngặt. Ngay từ năm 1919, ở Pháp đã ban hành Đạo luật về kế
hoạch đô thị hóa cho các thành phố có từ 10.000 dân trở lên. Năm 1973 và năm
1977, Nhà nước đã ban hành các Nghị định quy định các quy tắc về phát triển đô
thị, là cơ sở để ra đời Bộ Luật về phân cấp quản lý, trong đó có sự xuất hiện của
một tác nhân mới rất quan trọng trong công tác quản lý của Nhà nước về quy hoạch
đó là cấp xã. Cho đến nay, Luật Đô thị ở Pháp vẫn không ngừng phát triển, nó liên
quan đến cả quyền SHTN và sự can thiệp ngày càng sâu sắc hơn của Nhà nước,
cũng như của các cộng đồng địa phương vào công tác quản lý đất đai, quản lý quy
hoạch đô thị. Nó mang ý nghĩa kinh tế rất lớn thông qua việc điều chỉnh mối quan
hệ giữa các ngành khác nhau như bất động sản, xây dựng và quy hoạch lãnh thổ…
Về công tác quản lý Nhà nước đối với đất đai: Mặc dù là quốc gia duy trì chế
độ SHTN về đất đai, nhưng công tác QLNN về đất đai của Pháp được thực hiện rất
chặt chẽ. Điều đó được thể hiện qua việc xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính. Hệ
thống hồ sơ địa chính rất phát triển, rất quy củ và khoa học, mang tính thời sự để
quản lý tài nguyên đất đai và thông tin lãnh thổ, trong đó thông tin về từng thửa đất

được mô tả đầy đủ về kích thước, vị trí địa lý, thông tin về tài nguyên và lợi ích liên
quan đến thửa đất, thực trạng pháp lý của thửa đất. Hệ thống này cung cấp đầy đủ
thông tin về hiện trạng, phục vụ nhiệm vụ quy hoạch, quản lý và SDĐ có hiệu quả,

11

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

đáp ứng nhu cầu của cộng đồng, đảm bảo cung cấp thông tin cho hoạt động của
ngân hàng và tạo cơ sở xây dựng hệ thống thuế đất và BĐS công bằng.
Ngoài Pháp thì Mỹ cũng là một trong các quốc gia có hệ thống pháp luật về
đất đai rất phát triển có khả năng điều chỉnh được các quan hệ xã hội đa dạng và
phức tạp nhất. Luật đất đai của Mỹ quy định công nhận và khuyến khích quyền
SHTN về đất đai, các quyền này được pháp luật bảo hộ rất chặt chẽ như là một
quyền cơ bản của công dân. Cho đến nay có thể thấy các quy định này đang phát
huy rất có hiệu quả trong việc phát triển kinh tế đất nước, vì nó phát huy được hiệu
quả đầu tư để nâng cao giá trị của đất đai và làm tăng đáng kể hiệu quả SDĐ trong
phạm vi toàn xã hội.
Tuy công nhận quyền SHTN, nhưng luật đất đai của Mỹ vẫn khẳng định vai
trò ngày càng lớn và có vị trí quyết định của Nhà nước trong quản lý đất đai. Các
quyền định đoạt của Nhà nước bao gồm: Quyền quyết định về quy hoạch và kế
hoạch sử dụng đất, quyền quy định về quy hoạch kiến trúc đô thị và công trình xây
dựng; quyền quy định về mục đích sử dụng đất; quyền xử lý các tranh chấp về
quyền sử dụng đất và quyền ban hành các quy định về tài chính đất (thu thuế kinh
doanh BĐS; quy định mức giá thuê đất hoặc thuê bất động sản…). Quyền thu hồi
đất thuộc SHTN để phục vụ các lợi ích công cộng trên cơ sở đền bù công bằng cho
người bị thu hồi… bản chất quyền SHTN về đất đai ở Mỹ tương đương với quyền
SDĐ ở Việt Nam.
Như vậy có thể nói, hầu hết các quốc gia trên thế giới (dù quy định chế độ sở
hữu đối với đất đai khác nhau), đều có xu hướng ngày càng tăng cường vai trò quản

lý của Nhà nước đối với đất đai. Xu thế này phù hợp với sự phát triển ngày càng đa
dạng của các quan hệ kinh tế, chính trị theo xu hướng toàn cầu hóa hiện nay. Mục
tiêu của mỗi quốc gia là nhằm quản lý chặt chẽ, hiệu quả tài nguyên trong nước,
tăng cường khả năng cạnh tranh, để phục vụ cao nhất cho quyền lợi của quốc gia,
đồng thời có những quy định phù hợp với xu thế mở cửa, phát triển, tạo điều kiện
để phát triển hợp tác đầu tư giữa các quốc gia thông qua các chế định pháp luật
thông thường, cởi mở nhưng vẫn giữ được ổn định về an ninh kinh tế và an ninh
quốc gia. [2]
2.2.2. Tình hình quản lý và sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam
Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên là 33.121,20 nghìn ha, trong đó đất nông
nghiệp là 24.696 nghìn ha (chiếm 74,56% tổng diện tích tự nhiên). Diện tích đất
bình quân trên đầu người ở Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất thế giới. Ngày nay với

12

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

áp lực về dân số và tốc độ đô thị hóa kèm theo là những quá trình xói mòn, rửa trôi
bạc màu do mất rừng, mưa lớn, canh tác không hợp lý, chăn thả quá mức, quá trình
chua hóa, mặn hóa, hoang mạc hóa, cát bay, đá lộ đầu, mất cân bằng dinh dưỡng…
cùng với chế độ chăm bón chưa phù hợp, tỷ lệ bón phân N : P : K trên thế giới là
100 : 33 : 17, còn ở Việt Nam là 100 : 29 : 7 thiếu lân và kali nghiêm trọng dẫn đến
diện tích đất đai nước ta nói chung ngày càng giảm, đặc biệt là đất nông nghiệp.
Tính theo bình quân đầu người thì diện tích đất tự nhiên giảm 26,7%, đất nông
nghiệp giảm 21,5%. Vì vậy, để đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm trong khi
diện tích đất nông nghiệp ngày càng giảm đang là một áp lực rất lớn. Do đó, việc sử
dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất nông nghiệp càng trở nên quan trọng đối với
nước ta. [24]
Tình hình sử dụng đất cũng như quản lý đất đai của nước ta qua mỗi giai
đoạn lịch sử khác nhau thì lại có những điểm mới để phù hợp với quá trình phát

triển chung. Trong những năm gần đây đặc biệt là từ khi có Luật Đất đai năm 1987
thì tình hình quản lý về đất đai đã được cải thiện. Đây là văn bản luật đầu tiên điều
chỉnh quan hệ đất đai, bảo vệ quyền sở hữu của Nhà nước, giao đất ổn định lâu dài.
Theo tinh thần của Luật này thì: Kinh tế nông hộ đã được khôi phục và phát triển.
Các hộ nông dân đã được giao ruộng đất để sử dụng lâu dài, khuyến khích kinh tế
tư nhân trong lĩnh vực khai thác sử dụng đất v.v Tuy nhiên Luật Đất đai 1987
được soạn thảo trong bối cảnh nước ta bắt đầu đổi mới, vừa tuyên bố xóa bỏ chế độ
quan liêu bao cấp nên còn mang nặng tính chất của cơ chế đó khi soạn luật; do đó
đã bộc lộ một số tồn tại sau: Việc tính thuế trong giao dịch đất đai rất khó khăn vì
Nhà nước chưa thừa nhận quyền sử dụng đất có giá trị; chưa quy định rõ những cơ
sở pháp lý cần thiết để điều chỉnh về quan hệ đất đai trong quá trình chuyển sang
nền kinh tế thị trường, trong quá trình tích tụ tập trung sản xuất trong nông nghiệp
và phân công lại lao động trong nông thôn; chính sách tài chính đối với đất đai chưa
rõ nét, đặc biệt là giá đất; chưa có điều chỉnh thích đáng đối với những bất hợp lý
trong những chính sách cũ vv…
Như vậy giai đoạn này, công tác quản lý đất đai đã bắt đầu đi vào nề nếp và
đặc biệt chú ý tới việc xác định, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính các cấp địa
phương. Tuy nhiên, đất nông nghiệp đã giao cho nông dân sử dụng lâu dài nhưng
công tác quản lý chưa được chặt chẽ.
Sau giai đoạn đổi mới (từ năm 1986 – 1991), chúng ta vẫn còn thiếu nhiều
quy định và ngay cả hệ thống pháp luật đã ban hành cũng còn nhiều bất cập, chưa
đáp ứng được tình hình đổi mới của đất nước. Vì vậy, Hiến pháp 1992 ra đời đã

13

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

khắc phục được những hạn chế của Luật Đất đai 1987 và trên cơ sở của Hiến pháp
1992 thì ngày 14 tháng 7 năm 1993 Luật Đất đai năm 1993 đã được Quốc hội khóa
IX thông qua.

Luật Đất đai năm 1993 đã chế định cơ sở pháp lý cơ bản để quan hệ đất đai ở
nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng
XHCN. Luật này đã đề cập đến nhiều nội dung quan trọng và hoàn thiện hơn.
Trong quá trình chúng ta thực hiện Luật Đất đai 1993 đã đạt được khá nhiều
thành tựu đáng kể nhưng cùng với sự phát triển thì một số nội dung của Luật cần
được thay đổi và bổ sung thêm để đáp ứng kịp thời nhu cầu của đất nước đặt ra.
Ngày 26 tháng 12 năm 2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật
Đất đai mới – Luật Đất đai 2003. Và trong số các nội dung đổi mới mà Luật đề cập
có nội dung về chuyển mục đích sử dụng đất nói chung và chuyển mục đích sử
dụng đất nông nghiệp nói riêng. Như vậy, Đảng và Nhà nước đã quan tâm tới việc
sử dụng đất đúng theo mục đích cũng như hạn chế việc tự ý chuyển đổi mục đích
đất nông nghiệp đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Và cho đến nay chúng ta vẫn
đang thực hiện theo Luật Đất đai 2003 cùng với những văn bản dưới Luật để quản
lý và bảo vệ nguồn tài nguyên đất đai một cách tốt nhất. [4]
Và quá trình chuyển mục đích sử dụng đất luôn diễn ra ở mọi thời điểm.
Trước kia khi chưa có Luật Đất đai quy định về trình tự, thủ tục chuyển mục đích
thì quá trình chuyển mục đích vẫn luôn diễn ra. Sau khi chúng ta xây dựng luật để
quản lý cũng như bảo vệ quỹ đất nói chung và quỹ đất nông nghiệp nói riêng thì vấn
đề chuyển mục đích sử dụng đất vẫn chưa được quan tâm. Cho đến lần sửa đổi thứ
2 (năm 2001) của Luật Đất đai 1993 thì vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất mới
được đưa ra và chính thức được bổ sung vào các nội dung quản lý Nhà nước về đất
đai của Luật Đất đai 2003. Hiện nay cùng với quá trình đô thị hóa mạnh mẽ đã kéo
theo việc chuyển mục đích sử dụng các loại đất cũng như chuyển mục đích sử dụng
đất nông nghiệp ngày càng tăng.
Việc mở rộng không gian đô thị đang có nguy cơ làm giảm diện tích đất nông
nghiệp. Theo Hội nông dân Việt Nam, trong quá trình xây dựng, các khu công
nghiệp, khu đô thị, cơ sở hạ tầng, mỗi năm Việt Nam có gần 200 nghìn ha đất nông
nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng đất, tương ứng mỗi hộ có khoảng 1,5 lao
động mất việc làm (Bộ Xây dựng, 1995).
Tốc độ ĐTH quá nhanh cùng với sự gia tăng dân số đã làm ảnh hưởng tới

nhiều vấn đề như: vấn đề đói nghèo, thất nghiệp, ô nhiễm môi trường vv… Đứng

14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

trước vấn đề đó ngày 23 tháng 01 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “
Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị đến năm 2020” trong quyết định số
10/1998/QĐ-TTG, trong đó xác định phương hướng xây dựng và phát triển đô thị
trên địa bàn cả nước và các vùng đặc trưng (Bộ Xây dựng, 1999).
Ở Việt Nam hiện nay cũng đã có những công trình nghiên cứu, hội thảo về
quá trình chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp, các yếu tố ảnh hưởng cũng
như các đề tài liên quan tới vấn đề này. Từ đó cung cấp những cơ sở khoa học cho
các cơ quan liên quan đến việc quy hoạch, định hướng cuộc sống và sử dụng quỹ
đất nông nghiệp sao cho hợp lý và hiệu quả nhất.
Ngày 6 tháng 9, tại TP HCM đã diễn ra hội thảo “Công tác quy hoạch sử
dụng đất nông nghiệp và chính sách pháp luật về sử dụng đất trong tình hình hiện
nay”.
Hội thảo do Văn phòng Quốc hội phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường
tổ chức nhằm đóng góp những ý kiến giúp Chính phủ xây dựng dự án Luật Đất đai
sửa đổi cho phù hợp, góp phần đảm bảo hài hòa lợi ích phát triển kinh tế đất nước,
đồng thời đảm bảo ổn định xã hội và an ninh lương thực quốc gia.
Bên cạnh đó, trong quá trình đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH cũng nảy sinh
nhiều vấn đề bất cập như thu hồi đất nông nghiệp, giá cả đền bù, tạo công ăn việc
làm cho nông dân bị thu hồi đất, tái định cư Kết quả giám sát của Quốc hội cho
thấy hơn 80% đơn khiếu nại tố cáo liên quan về đất đai cần tiếp tục xem xét giải
quyết.
Theo ông Nguyễn Hữu Nhơn, Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng
Tháp, thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong 7 năm qua (2001-2007)
khẳng định: Có trên 500.000 ha diện tích đất nông nghiệp đã thu hồi chuyển sang

đất phi nông nghiệp, chiếm 5% đất nông nghiệp đang sử dụng; đặc biệt, đất nông
nghiệp bị thu hồi chuyển sang mục đích đô thị hóa và công nghiệp hóa năm sau
luôn tăng hơn năm trước.
Chỉ tính trong năm 2007, diện tích đất trồng lúa của cả nước đã giảm 125.000
ha. Riêng tỉnh Đồng Tháp, công tác quy hoạch sử dụng đất từng lúc, từng nơi chưa
theo kịp yêu cầu phát triển; tình hình quy hoạch treo còn khá phổ biến, có những dự
án kéo dài 5-7 năm không thực hiện dẫn đến đời sống của người dân trong nhiều
khu quy hoạch chưa được đảm bảo.

15

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Còn ông Trần Văn Kiệt - Đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Long cho rằng, một số
nơi không cần đất nông nghiệp hoặc sản xuất không hiệu quả cần được chuyển mục
đích thì không được quy hoạch.
Nơi đất sản xuất nông nghiệp tốt thì lại quy hoạch chuyển mục đích, không
phải để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, cũng không phải mở rộng đô
thị mà quy hoạch để làm sân golf dẫn đến hàng vạn nông dân mất đất sản xuất, đời
sống khó khăn phải đi tha phương cầu thực, thậm chí đây là một trong những
nguyên làm cho tình hình mất an ninh trật tự, tệ nạn xã hội tăng lên. [4]
Cục Trồng trọt (Bộ NN PTNT) báo động về việc đất nông nghiệp đang từng
ngày bị chuyển đổi mục đích sử dụng một cách thiếu quy hoạch và tùy tiện nên
ngày càng bị thu hẹp một cách báo động. Tổng diện tích đất lúa toàn quốc hiện nay
là trên 4,1 hécta. Song từ năm 2000 - 2005, diện tích đất lúa đã giảm nghiêm trọng
với hơn 302.000ha. Gần 9 năm qua, đất lúa đã bị giảm trên 59.000ha. Riêng tại
ĐBSCL, tính toán sơ bộ cho thấy từ năm 2000 - 2007, đất lúa đã bị giảm 205.000ha
(chiếm 57% đất lúa bị suy giảm toàn quốc). Tại phía Bắc, Hải Dương là tỉnh có tỉ lệ
đất lúa giảm lớn nhất, bình quân 1.569ha/năm, Hưng Yên 939ha/năm, Hà Nội (cũ)
là 653ha/năm

Theo tính toán, năm 2020 dân số cả nước sẽ xấp xỉ 100 triệu người, năm
2030 sẽ có khoảng 110 triệu người. Tổng nhu cầu lúa cho năm 2015 là 32,1 triệu
tấn, năm 2020 là 35,2 triệu tấn và năm 2030 là 37,3 triệu tấn. Tuy nhiên, tình trạng
ồ ạt chuyển đổi đất nông nghiệp đã khiến sản lượng lúa suy giảm khá lớn qua mỗi
năm, trung bình giảm từ 400.000 - 500.000 tấn/năm. Cục Trồng trọt báo động, với
tốc độ đô thị hóa chóng mặt như hiện nay thì sẽ không còn lúa gạo để xuất khẩu vào
năm 2020. Một số liệu đáng chú ý khác cho thấy, tại cả hai miền Nam và Bắc, số
lượng các khu công nghiệp lấy từ quỹ đất nông nghiệp đang bị bỏ hoang không ít và
hiện chỉ lấp đầy khoảng 50%-70% số lượng doanh nghiệp hoạt động. [4]
2.2.3. Tình hình quản lý và sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn TP. Thái
Nguyên
Thành phố Thái Nguyên với tổng diện tích tự nhiên năm 2010 là 18.630,56
ha, trong đó đất nông nghiệp là 12.266,51 ha chiếm 65,8 % tổng diện tích tự nhiên,
diện tích đất phi nông nghiệp là 5.992,86 ha chiếm 32,2%, diện tích đất chưa sử
dụng là 371,19 ha chiếm 2%. Qua phân tích trên ta có thể thấy diện tích đất nông
nghiệp là cao nhất với 65,8%. Trong đó diện tích đất trồng lúa chiếm tỷ lệ khá thấp
với 19,8% (3.661,23 ha). Tình hình sản xuất của người dân vẫn gặp rất nhiều khó

16

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

khăn. Nhiều cánh đồng vẫn còn tình trạng thiếu nước để sản xuất với nhiều nguyên
nhân khác nhau như: vị trí địa lí, địa hình khó khăn không thể xây mương dẫn nước
vào đồng ruộng. Vì vậy, người dân chỉ trông chờ vào nguồn nước tự nhiên (nước
mưa). Ngoài ra sâu bệnh cũng là một trong những vấn đề làm giảm năng suất cây
trồng. Đặc biệt trong những năm gần đây do diễn biến của thời tiết khá phức tạp,
xuất hiện nhiều loại sâu bệnh mới làm cho tình hình sản xuất ngày một khó khăn
hơn. Trong những năm gần đây tốc độ đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, diện tích đất
nông nghiệp đang có xu hướng giảm khá nhanh do chuyển mục đích sang đất phi

nông nghiệp để phục vụ các mục tiêu phát triển của thành phố hay để phù hợp với
hiện trạng đất đai.[19]
Và trong từng giai đoạn của quá trình phát triển, căn cứ vào đường lối chính
sách của Đảng, của Nhà nước, Trung ương, địa phương thành phố Thái Nguyên đã
ban hành những quy định về quản lý đất đai trên địa bàn thành phố Thái Nguyên.
Trước khi có Luật Đất đai năm 1993, do cơ chế quản lý tập trung bao cấp, vì
vậy tình trạng chung trong quản lý đất đai ngành nào do ngành ấy quản lý, không có
sự quản lý thống nhất. Việc quản lý đất đai chủ yếu tập trung vào đất xây dựng,
nhất là đất xây dựng các khu đô thị. Quy hoạch tổng thể là chưa có, do vậy ngoài
những văn bản của Trung ương, của Tổng cục về công tác quản lý đất đai, thành
phố Thái Nguyên đã có những văn bản quy định về việc giao đất cho nhân dân xây
dựng nhà ở, quy định về việc mua bán nhà và hoa mầu trong đô thị, đảm bảo cho
việc quản lý đất trong lĩnh vực xây dựng có trật tự, ổn định. Song cũng trong giai
đoạn này tình trạng lấn chiếm đất tự ý làm nhà, phường, xã cấp đất cho nhân dân
làm nhà ở, sử dụng đất sai mục đích, bán nhà cửa và hoa mầu không qua cấp thẩm
quyền, xảy ra khá phổ biến, việc giải quyết xử lý còn chậm và chưa triệt để, còn để
tồn tại kéo dài.
Trong thời kỳ đổi mới, đời sống nhân dân được cải thiện nhiều, đất đai ở khu
đô thị thành vấn đề quan tâm hàng đầu trong đời sống và sản xuất. Đất đai trở thành
có giá, do đó đã nảy sinh vấn đề bức xúc cần giải quyết như: Đòi đất cha ông, tự ý
làm nhà, cấp đất sai thẩm quyền, tự ý thay đổi mục đích sử dụng đất, các cơ quan cho
cán bộ mượn đất làm nhà riêng, xây kiốt bán hàng dưới dạng hợp đồng nhiều năm,
thanh lý nhà tập thể cho cán bộ công nhân viên, tự ý cơi nới, sửa chữa xây dựng.
Từ năm 2003, khi Luật Đất đai năm 2003 được áp dụng, công tác quản lý
Nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố từng bước đi vào nền nếp. Tình trạng
đòi đất ông cha ở địa bàn thành phố cơ bản được khắc phục và không còn xảy ra,

17

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


việc cấp đất sai thẩm quyền đã được chấm dứt, nhà ở do các cơ quan thanh lý cho
các cán bộ công nhân viên chức đã và đang được xem xét, vận dụng các Nghị định
của Chính phủ và của Bộ Tài nguyên và Môi trường để hợp thức thủ tục, giao
quyền sử dụng đất cho nhân dân. Việc khai thác và sử dụng nguồn lực đất đai ngày
càng hiệu quả hơn, cơ bản đáp ứng nhu cầu sử dụng đất đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng; tạo điều kiện về mặt bằng cho các ngành sản xuất, kinh doanh; cải thiện điều
kiện về nhà ở cho nhân dân, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, giữ vững ổn định
chính trị - xã hội và xây dựng đô thị thành phố Thái Nguyên.
Các cấp chính quyền từ thành phố đến cơ sở đã có nhiều cố gắng trong công
tác quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính
trong lĩnh vực đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và nhân dân thực hiện
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Hòa theo xu hướng phát triển chung của đất nước và của tỉnh Thái Nguyên,
thành phố Thái Nguyên đang cố gắng đẩy mạnh quá trình đô thị hóa, chuyển mục
đích sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn. Tất cả đều được thực hiện theo định
hướng chiến lược của cơ quan, ban nghành cấp trên trực tiếp chỉ đạo. Vì vậy, trong
những năm qua trên địa bàn thành phố trung bình mỗi năm có khoảng 52 ha đất
nông nghiệp bị thu hồi và 63 ha đất nông nghiệp chuyển mục đích sang đất phi
nông nghiệp. Bộ mặt thành phố đã có nhiều thay đổi tuy nhiên việc thu hồi đất hay
chuyển mục đích sử dụng đất cũng đã có những ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống
của người dân mất đất. Đây sẽ là một trong những vấn đề cần quan tâm và giải
quyết trong thời gian tới.










18

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Chƣơng 2
ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những vấn đề về lý luận, thực tiễn của quá trình chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp và ảnh hưởng của nó tới sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa
bàn thành phố Thái Nguyên.
- Thực trạng và nguyên nhân của quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp tại thành phố Thái Nguyên.
- Những vấn đề liên quan đến quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu trên địa bàn thành phố Thái Nguyên -
Tỉnh Thái Nguyên.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2006 đến năm 2010.
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: Thành phố Thái Nguyên - tỉnh Thái Nguyên
- Thời gian: Từ tháng 01 năm 2010 đến tháng 5 năm 2011
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến biến động
hiện trạng sử dụng đất của thành phố Thái Nguyên
- Điều kiện tự nhiên
- Điều kiện kinh tế - xã hội của thành phố Thái Nguyên

- Thực trạng phát triển của thành phố Thái Nguyên
3.3.2. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố
Thái Nguyên
- Hiện trạng sử dụng đất của thành phố

19

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về đất đai
3.3.3. Thực trạng quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp trên
địa bàn thành phố Thái Nguyên, giai đoạn 2006 – 2010
- Đánh giá thực trạng quản lý giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất.
- Sự biến động đất đai trên địa bàn thành phố Thái Nguyên
- Thực trạng quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
3.3.4. Ảnh hưởng của chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp đến hộ gia
đìn
h
- Ảnh hưởng của CMĐ đối với kinh tế hộ nông dân mất đất nông nghiệp
- Đánh giá sự ảnh hưởng của chuyển mục đích SDĐ nông nghiệp tới đời sống
kinh tế - xã hội của nông hộ thông qua câu hỏi định tính
- Kế hoạch trong thời gian tới của các hộ dân có đất CMĐ để thực hiện dự án
- Tác động của công tác thu hồi đất đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của
thành phố
3.3.5. Đánh giá chung tác động của chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp
tới sản xuất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên
- Chuyển đất lúa sang nuôi trồng thủy sản
- Chuyển đất lúa sang trồng cây khác
- Chuyển đất lúa sang mục đích phi nông nghiệp
3.3.6. Định hướng và đề xuất một số giải pháp nâng cao đời sống kinh tế cho

những hộ mất dất nông nghiệp, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong
thời gian tới tại thành phố Thái Nguyên
- Định hướng phát triển thành phố Thái Nguyên trong thời gian tới.
- Một số giải pháp nâng cao đời sống kinh tế cho những hộ nông nghiệp
- Giải pháp từ phía Nhà nước
- Giải pháp từ phía chính quyền thành phố
- Giải pháp cho các hộ nông dân
3.4. Phƣơng pháp nghiên cứu

20

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6463.4.1. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Trong khi khảo sát, ngoài việc thu thập thông tin từ phỏng vấn, đề tài còn
dùng phương pháp quan sát và ghi chép để từ đó chọn các hộ điều tra phù hợp với
nội dung nghiên cứu và có tính đại diện cao cho vùng.
Việc thu thập tài liệu thông tin bao gồm việc sưu tầm và thu thập những tài
liệu, số liệu liên quan đã được công bố và những tài liệu, số liệu mới tại địa bàn
nghiên cứu.
a. Tài liệu thứ cấp (tài liệu đã được công bố)
Đây là các số liệu từ các công trình nghiên cứu trước được lựa chọn sử dụng
vào mục đích phân tích, minh họa rõ nét về nội dung nghiên cứu. Nguồn gốc của
các tài liệu này đã được chú thích rõ trong phần “Tài liệu tham khảo”. Nguồn tài
liệu này bao gồm:
- Các sách, báo, tạp chí, các văn kiện Nghị quyết, các chương trình nghiên
cứu đã được xuất bản, các kết quả nghiên cứu đã công bố của các cơ quan nghiên
cứu, các nhà khoa học trong và ngoài nước, các tài liệu trên internet
- Tài liệu, số liệu đã được công bố về tình hình kinh tế, xã hội nông thôn, kinh
tế của các ngành sản xuất, đời sống của các nông hộ nông nghiệp nằm trong khu vực

bị thu hồi đất… các số liệu này thu thập từ phòng Tài nguyên và Môi trường, phòng
Thống kê thành phố, Sở Tài nguyên và Môi trường và các Sở, ban, ngành có liên
quan. Trên cơ sở đó tiến hành tổng hợp các thông tin cần thiết phục vụ cho công tác
nghiên cứu.
b. Tài liệu sơ cấp
Số liệu sơ cấp là những số liệu phục vụ cho nội dung nghiên cứu đề tài.
Những số liệu này được thu thập từ việc điều tra các hộ có đất sản xuất nông
nghiệp. Các số liệu này được sử dụng để phân tích về tình hình hiện trạng sản xuất
nông nghiệp của các hộ nông dân trong phường, xã. Tình hình mất đất nông nghiệp,
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, tình hình chuyển đổi việc làm của các hộ do tác động
của quá trình thu hồi đất. Phương pháp điều tra được tiến hành như sau:
* Cơ sở chọn mẫu điều tra
Đề tài đã chọn 150 hộ thuộc diện đã bị mất đất nông nghiệp trên địa bàn
thành phố Thái Nguyên để điều tra theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên theo
nhiều cấp.

21

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- Phương pháp phát phiếu điều tra trực tiếp:
Để thu thập số liệu cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu, đã điều tra các hộ
sản xuất nông nghiệp bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp 1 thành viên hiểu biết
về nông nghiệp của gia đình, ngoài ra có sự đóng góp ý kiến của các thành viên
khác trong gia đình. Điều này đảm bảo lượng thông tin có tính đại diện và chính
xác. Đề tài phỏng vấn thử một số hộ theo một mẫu câu hỏi đã được soạn thảo trước.
Sau đó xem xét bổ sung phần còn thiếu và loại bỏ phần không phù hợp trong bảng
câu hỏi. Câu hỏi được soạn thảo bao gồm các câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Nội dung
các câu hỏi phục vụ cho đề tài nghiên cứu theo các nhóm thông tin sau:
+ Nhóm thông tin về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, dân số, lao động.

+ Nhóm thông tin về đặc điểm chung của hộ mất đất và nguồn sống chính
của các hộ.
+ Nhóm thông tin về điều kiện đất đai và sử dụng đất đai của hộ.
+ Nhóm thông tin về tình hình sản xuất nông nghiệp của hộ.
+ Nhóm thông tin về tình hình thu nhập của hộ.
+ Nhóm thông tin về nguyện vọng của người dân mất đất nông nghiệp trong
tình hình hiện nay.
+ Các câu hỏi mở về những khó khăn, thuận lợi trong sản xuất nông nghiệp
trong quá trình bị thu hồi đất, mong muốn của người nông dân về vấn đề việc làm
- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp:
Để lấy thông tin theo chiều rộng, tránh cho người bị phỏng vấn cảm thấy bị
nhàm chán, bị ép buộc phải trả lời câu hỏi có sẵn, đề tài đã dùng các câu hỏi không
có trong phiếu điều tra để hỏi đối tượng, những câu hỏi phát sinh trong quá trình
phỏng vấn.
Phương pháp này nhằm mục đích lấy thông tin rộng hơn, gợi mở hơn nhiều
vấn đề mới quan trọng và thú vị.
Mục đích của điều tra: Nắm bắt một cách tương đối chi tiết về tình hình đời
sống của hộ trước và sau khi tiến hành công tác thu hồi đất, hiệu quả của việc sử
dụng nguồn vốn được đền bù.
- Phương pháp chuyên gia

22

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Phương pháp chuyên gia: Phương pháp thu thập dựa trên cơ sở thu thập ý
kiến của các chuyên gia trong từng lĩnh vực, các nhà lãnh đạo, các cán bộ quản lý,
người sản xuất giỏi có kinh nghiệm, các cán bộ về kỹ thuật thông qua các tài liệu
hoặc trao đổi trực tiếp với họ để ta có kết luận chính xác.
- Phương pháp quan sát trực tiếp:

Đây là phương pháp rất sinh động và thực tế vì qua phương pháp này tất cả
các giác quan của người phỏng vấn đều được sử dụng: mắt nhìn, tai nghe qua đó
các thông tin được ghi lại trong trí nhớ, qua ghi chép, chụp lại một cách cụ thể, thực
tế, phong phú và khách quan.
3.4.2. Phƣơng pháp xử lý số liệu
- Sử dụng phần mềm EXCEL: các tài liệu thu thập được, chúng tôi đưa vào
máy tính, dùng chính phần mềm EXCEL để tổng hợp, tính toán các chỉ tiêu cần
thiết như số tuyệt đối, số tương đối và số trung bình.
- Phân tổ thống kê: để phân loại các hộ theo tiêu thức cần nghiên cứu. Phân
loại theo mức sống của hộ: hộ khá, hộ trung bình và hộ nghèo. Phân loại hộ gia đình
theo tình hình mất đất: hộ mất đất canh tác và hộ không mất đất canh tác.
a. Phương pháp thống kê so sánh
Là phương pháp sử dụng phổ biến trong phân tích để xác định mức độ, xu thế
biến động của các chỉ tiêu phân tích. Phương pháp này cho phép ta phát hiện những
điểm giống nhau và khác nhau giữa các thời điểm nghiên cứu đã và đang tồn tại
trong những giai đoạn lịch sử phát triển nhất định đồng thời giúp cho ta phân tích
được các động thái phát triển của chúng.
b. Phương pháp tổng hợp
Là phương pháp liên kết thống nhất toàn bộ các yếu tố, các nhận xét mà khi
ta sử dụng các phương pháp có được thành một kết luận hoàn thiện, đầy đủ. Vạch ra
mối liên hệ giữa chúng, khái quát hoá các vấn đề trong nhận thức tổng hợp.



23

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Chƣơng 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN


4.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hƣởng đến biến động
hiện trạng sử dụng đất của thành phố Thái Nguyên
4.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí, vai trò của địa bàn nghiên cứu
Thành phố Thái Nguyên là đô thị loại I, nằm ở trung tâm vùng Trung du
miền núi Đông Bắc bộ. Có toạ độ địa lý: 21
0
đến 22
0
27

vĩ độ Bắc và 105
0
25’ đến
106
0
14

kinh độ Đông, nằm cách trung tâm Hà Nội 80 Km về phía Đông Bắc và
được bao quanh bởi 5 huyện của tỉnh Thái Nguyên:
Phía Bắc giáp: Huyện Đại Từ, huyện Phú Lương và huyện Đồng Hỷ.
Phía Nam giáp: Thị xã Sông Công.
Phía Tây giáp: Huyện Đại Từ.
Phía Đông nam giáp: Huyện Phú Bình.
Thành phố Thái Nguyên cách sân bay Quốc tế Nội bài 52 km về phía Bắc.
Có Quốc lộ 3 nối Hà Nội - Thái Nguyên - Bắc Cạn - Cao Bằng. Quốc lộ 1B đi Lạng
Sơn. Quốc Lộ 37 đi Bắc Giang, Tuyên Quang. Thái Nguyên được xác định là đô thị
động lực của vùng kinh tế trọng điểm trung du miền núi Bắc Bộ, với vai trò được
khẳng định là trung tâm tổng hợp Chính trị - Kinh tế - Văn hóa - Y tế - Đào tạo -

Khoa học kỹ thuật của tỉnh Thái Nguyên và vùng trung du miền núi phía Bắc; Là
đầu mối giao thông quan trọng nối các tỉnh trung du miền núi Bắc Bộ với các tỉnh
đồng bằng Sông Hồng với nhiều tuyến giao thông huyết mạch ở cả đường bộ,
đường sắt và đường sông giao lưu kinh tế giữa thủ đô Hà Nội, các tỉnh đồng bằng
sông Hồng với các tỉnh miền núi phía Bắc.
Ngoài ra, Thái Nguyên còn có vị trí rất quan trọng, có tác dụng hỗ trợ và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế cho vùng tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc nước ta (Hà
Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh).



24

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



















Hình 4.1. Bản đồ địa giới hành chính thành phố Thái Nguyên
4.1.1.2. Địa hình
Địa hình của thành phố Thái Nguyên được coi như là miền đồng bằng riêng
của tỉnh Thái Nguyên. Đây là miền có độ cao thấp nhất, ruộng đất tập trung ở hai bên
bờ sông Cầu và sông Công, được hình thành bởi sự bồi tụ phù sa của hai con sông
này. Tuy nhiên, vùng này vẫn mang tính chất, dáng dấp của địa mạo trung du với
kiểu bậc thềm phù sa và bậc thang nhân tạo, thềm phù sa mới và bậc thềm pha tích
(đất dốc tụ). Địa hình của vùng này gồm có những đồi, gò thoải, bát úp xen kẽ nhau.
Độ dốc từ 8o - 25o chiếm không đáng kể, phần lớn diện tích có độ dốc nhỏ hơn 8o.
Loại địa hình này thích hợp với cây lúa, cây trồng hàng năm. Kết quả xác định độ dốc
địa hình của thành phố (đất ở, đất chuyên dùng và sông suối không phân cấp độ dốc)
được thể hiện ở bảng 4.1.



×