MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCTC Báo cáo tài chính
DN Doanh nghiệp
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
DNTN Doanh nghiệp tư nhân
DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DT Doanh thu
HĐTD Hợp đồng tín dụng
HTX Hợp tác xã
KT – XH Kinh tế - Xã hội
NHCV Ngân hàng cho vay
NHNN Ngân hàng nhà nước
NSNN Ngân sách Nhà nước
SXKD Sản xuất kinh doanh
TCTD Tổ chức tín dụng
TTCK Thị trường chứng khoán
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
BẢNG
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vốn được xem là một yếu tố đầu vào đặc biệt quan trọng của doanh nghiệp.
Vốn không chỉ là cơ sở để doanh nghiệp mở rộng nhà xưởng, phát triển nguồn nhân
lực, phát triển thị trường…mà còn góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu,
hiện đại hóa quá trình sản xuất. Do vậy, việc đảm bảo có đủ vốn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh và sử dụng nguồn vốn đó với hiệu quả cao là vấn đề sống còn của
doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN.
Từ nhiều năm nay, những nước có nền kinh tế phát triển rất coi trọng sự phát triển
của DNVVN, bởi khu vực này góp phần khá quan trọng trong việc tăng thêm thu
nhập và tạo công ăn việc làm cho người lao động, đưa tổng sản phẩm xã hội và thu
nhập quốc dân ngày một tăng cao. Nhận thức được tầm quan trọng của DNVVN đối
với nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập nền kinh tế quốc tế hiện nay, nước ta đã và
đang tạo mọi điều kiện để DNVVN phát triển và thực tế các DNVVN đã có nhiều
đóng góp cho nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, nhiều DNVVN còn gặp không ít
khó khăn về vốn để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Trong khi đó, việc
tiếp cận nguồn vốn chính thức từ các tổ chức tín dụng của DNVVN còn nhiều hạn
chế. Rất nhiều trong số các DNVVN vẫn phải sử dụng các kênh huy động vốn phi
chính thức với lãi suất cao, số lượng ít và không ổn định.
Các ngân hàng thương mại hiện cũng đã có những nhìn nhận và đánh giá
đúng hơn về vị trí và tiềm năng của các DNVVN. Các ngân hàng thương mại đã có
những chuyển biến về nhận thức và đã tích cực hơn trong việc tạo điều kiện cho các
DNVVN tiếp cận được nguồn vốn vay của mình. Tuy nhiên, hầu hết các ngân hàng
thương mại mới chỉ quan tâm đến việc mở rộng cho vay đối với các DNVVN mà ít
chú ý tới việc nâng cao hiệu quả cho vay đối với đối tượng khách hàng này. Do đó
làm thế nào để các ngân hàng nâng cao hiệu quả cho vay đối với DNVVN là một
yêu cầu mang tính thực tiễn cao, cần được quan tâm và xem xét một cách có hệ
thống.
Được thành lập từ năm 1994, SeABank là một trong những ngân hàng
TMCP ra đời sớm nhất và hiện tại đứng trong Top 10 ngân hàng TMCP lớn nhất
Việt Nam. Với định hướng phát triển lâu dài là trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu
ở khu vực phía bắc và nằm trong nhóm dẫn đầu trong hệ thống ngân hàng thương
mại cổ phần tại Việt Nam, SeABank luôn đặc biệt quan tâm đến hiệu quả cho vay
1
đối với các DNVVN. Tuy nhiên, mảng cho vay đối với DNVVN tại SeABank vẫn
còn nhiều hạn chế về hiệu quả cho vay như: tỷ trọng các khoản vay đối với
DNVVN trong tổng số các khoản vay còn chưa cao, lợi nhuận thu được từ cho vay
đối với DNVVN mới chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng lợi nhuận thu được từ hoạt
động cho vay, nợ quá hạn và nợ xấu của DNVVN vẫn gia tăng hàng năm, vấn đề
thu hồi nợ xấu đối với các DNVVN còn gặp nhiều khó khăn.
Vì vậy đề tài: “Nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á (SeABank)” được tác giả
chọn nghiên cứu là xuất phát từ thực tế, nó vừa mang ý nghĩa lý luận vừa mang ý
nghĩa thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề tài đi sâu vào nghiên cứu ba vấn đề chính đó là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả cho vay đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á (SeABank).
- Đề xuất giải pháp, kiến nghị có tính khả thi để thực hiện nâng cao hiệu quả cho
vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại SeABank.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của
ngân hàng thương mại, từ đó đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối
với DNVVN.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á (SeABank).
- Thời gian nghiên cứu: Từ 2008 - 2011
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dung phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp so sánh,
phân tích, tổng hợp và thống kê.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu
quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Đánh giá thực trạng hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân
hàng thương mại cổ phần SeABank, phân tích nguyên nhân dẫn đến những hạn chế
2
của hiệu quả cho vay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại SeABank.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trang hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á (SeABank).
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á (SeABank).
3
CHƯƠNG 1
HIỆU QUẢ CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA
VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay đối với DNVVN của NHTM
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của DNVVN
1.1.1.1. Khái niệm về DNVVN
Theo Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản riêng, có trụ sở giao dịch ổn định được đăng kí kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 về trợ giúp phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ, khái niệm DNVVN được xác định như sau:
DNVVN là cơ sở kinh doanh đã đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp
luật được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng
nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của
doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên),
cụ thể như sau:
Bảng 1.1: Phân loại DNVVN theo số lao động, tổng nguồn vốn
Quy mô Doanh
nghiệp
siêu nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Khu vực Số lao
động
Tổng
nguồn vốn
Số lao
động
Tổng
nguồn vốn
Số lao động
I. Nông, lâm
nghiệp và thủy
sản
10 người
trở xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
Từ trên 10
người đến
200 người
Từ trên 20
tỷ đồng đến
100 tỷ đồng
Từ trên 200
người đến
300 người
II. Công
nghiệp và
xây dựng
10 người
trở xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
Từ trên 10
người đến
200 người
Từ trên 20
tỷ đồng đến
100 tỷ
Từ trên 200
người đến
300 người
III. Thương
mại và dịch
vụ
10 người
trở xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
Từ trên 10
người đến
50 người
Từ trên 10
tỷ đồng đến
50 tỷ đồng
Từ trên 50
người đến
100 người
1.1.1.2. Đặc điểm của DNVVN
4
a. Đặc điểm chung của các DNVVN
Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ thể hiện qua những lợi thế và hạn chế
như sau:
+ Những lợi thế của DNVVN
- Tạo lập dễ dàng và hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định thấp. Để thành
lập một DNVVN chỉ cần vốn đầu tư ban đầu tương đối ít, mặt bằng sản xuất nhỏ
hẹp, quy mô nhà xưởng không lớn. Điều đó giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được
chi phí cố định.
- Năng động nhạy bén và dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường. Với quy
mô nhỏ và vừa, bộ máy quản lý gọn nhẹ, phương thức quản lý năng động linh hoạt,
các DNVVN dễ dàng tìm kiếm và đáp ứng những yêu cầu có hạn trong thị trường
chuyên môn hóa. Mặt khác, DNVVN thường có mối liên hệ trực tiếp hơn với thị
trường và người tiêu thụ nên phản ứng nhanh nhậy hơn trước những thay đổi của thị
trường, từ đó nhanh chóng cải tiến thay đổi và tạo ra sản phẩm mới, tạo ra được tính
đa dạng cho sản phẩm, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Với cơ sở vật
chất kĩ thuật không lớn, DNVVN cũng đổi mới linh hoạt hơn. Khi thị trường có
những bất lợi, nó dễ dàng thay đổi tình thế bằng cách chuyển đổi mô hình sản xuất
hay thu hẹp quy mô mà không gây ra hậu quả nặng nề cho xã hội và cho bản thân
chính doanh nghiệp đó.Có thể tham gia vào nền kinh tế với yêu cầu về vốn, công
nghệ và trình độ tay nghề người lao động không quá cao. Do vậy thường không có
tình trạng độc quyền, các doanh nghiệp dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh
tranh. Chính điều này cũng làm cho nền kinh tế vận hành sống động hơn và thúc
đẩy việc sử dụng tối đa các tiềm năng kinh tế của đất nước. Đây là một ưu thế rất
quan trong của DNVVN.
- Có thể tận dụng và phát huy được tiềm lực trong nước. Trong quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, sự phát triển DNVVN là cách thức tốt nhất để
sản xuất thay thế hàng nhập khẩu vì các DNVVN sử dụng được nhiều nguyên vật
liệu tại chỗ, khai thác tối đa lợi thế tiềm năng từng vùng, từng địa phương. Nhất là
khi nước ta có nguồn nguyên vật liệu khá đa dạng và phong phú, giá nhân công lại
tương đối rẻ thì việc phát huy được vai trò của DNVVN trong việc đẩy mạnh sản
xuất một số các sản phẩm thay thế cho hàng nhập khẩu có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, tạo điều kiện hỗ trợ cho các ngành sản xuất liên quan khác phát triển, giảm
bớt chi phí trong việc nhập khẩu các yếu tố đầu vào cho các ngành sản xuất khác.
- Dễ quản lý hơn so với doanh nghiệp có quy mô lớn vì bộ máy quản lý gọn
5
nhẹ, tính năng động cao, hoạt động sản xuất kinh doanh ít ảnh hưởng đến môi
trường và môi sinh.
+ Những hạn chế của DNVVN
- Khả năng cạnh tranh thấp do tiềm lực tài chính nhỏ. Năng lực tài chính của
DNVVN bị bó hẹp và được thể hiện ngay từ tên gọi của loại hình doanh nghiệp này.
Các DNVVN luôn gặp khó khăn trong giai đoạn mới hình thành, phần lớn các
DNVVN đều gặp khó khăn về vốn. Các NHTM cũng như tổ chức tài chính khác
thường e ngại không muốn cho DNVVN vay vốn vì họ chưa có quá trình kinh
doanh uy tín và chưa tạo lập được khả năng trả nợ tốt đối với ngân hàng. Vì vậy,
các DNVVN sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng khả năng sản xuất kinh
doanh để nâng cao sức cạnh tranh của mình với các doanh nghiệp khác.
- Cơ sở vật chất kĩ thuật, trình độ thiết bị công nghệ của các DNVVN còn lạc
hậu. Nguyên nhân chính của điều này cũng là do sự hạn chế về quy mô vốn của
DNVVN.
- Vị thế, thương hiệu trên thị trường rất thấp. Sản phẩm do các DNVVN sản
xuất ra còn chưa đáp ứng tốt được yêu cầu ngày càng cao của thị trường, sản phẩm
chưa đáp ứng tốt các quy định về quản lý chất lượng dẫn đến khả năng cạnh trạnh
của sản phẩm không cao và kéo theo đó uy tín, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp trên thị trường chưa tốt. Thương hiệu của các DNVVN cũng rất khó đến
được với đông đảo người tiêu dùng bởi những nguyên nhân về chất lượng sản phẩm
chưa tốt.
- Khả năng hạn hẹp trong việc đào tạo trình độ tay nghề cho người lao động,
đầu tư cho nghiên cứu, thiết kế cải tiến công nghệ, đổi mới sản phẩm;
- Năng lực quản lý kinh doanh còn nhiều yếu kém xuất phát từ trình độ của cán
bộ quản lý chưa cao, tay nghề của người lao động còn thấp, việc quan tâm xem xét
trong vấn đề đào tạo cho người lao động chưa được quan tâm một cách đúng mức.
- Phần lớn hoạt động của DNVVN, DN tư nhân, hộ kinh doanh cá thể, các DN
có quy mô nhỏ khác dựa trên mối quan hệ gia đình, bạn bè, không có quy định rõ
ràng về trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn. Do mối quan hệ kinh tế chủ yếu theo
kiểu gia đình nên chủ quản lý không tin tưởng khi giao việc cho người khác mà
thường “ôm việc” và phải tham gia vào nhiều công đoạn trong quá trình quản lý,
sản xuất, dẫn đến nguồn lực của DN không được sử dụng có hiệu quả.
- Khó khăn về mặt bằng sản xuất không được ưu tiên như những doanh nghiệp
lớn thuộc khu vực kinh tế quốc doanh, phải sử dụng đất nhà riêng hoặc thuê mướn
của tư nhân với giá thuê đất cao để làm mặt bằng sản xuất.
- Trong nhiều trường hợp, các DNVVN thường bị động vì phụ thuộc vào hướng
6
phát triển của các doanh nghiệp lớn và tồn tại như một bộ phận của doanh nghiệp lớn.
b. Đặc trưng của DNVVN của Việt Nam hiện nay
So với đặc điểm của các DNVVN trên thế giới thì DNVVN của Việt Nam có
những đặc thù riêng. Nó vừa là kết quả của chính sách phát triển vừa là thực tế của
quá trình lao động.
Một là, hình thức sở hữu: Do đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần
của Đảng và Nhà nước nên các DNVVN cũng đa dạng hình thức sở hữu. Một số
DNVVN thuộc sở hữu Nhà nước, một số thuộc sở hữu tập thể, một số thuộc sở hữu
tư nhân, một số công ty cổ phần và một số doanh nghiệp có liên doanh với nước
ngoài.
Hai là, hình thức pháp lý: Có loại DNVVN đăng kí kinh doanh theo Luật
DN, đăng kí theo luật hợp tác xã. Trong điều kiện đặc thù của Việt Nam thì các hộ
kinh doanh nhỏ này rất nhiều. Nếu coi đó là DNVVN thì sẽ rất khó khăn cho việc
thực hiện chính sách ưu tiên vì số lượng quá nhiều. Nhà nước sẽ không có đủ khả
năng để thực hiện chính sách ưu tiên, kiểm soát đánh giá hỗ trợ cùng một lúc. Cần
phải quy định rõ tiêu thức DN nhỏ với giới hạn tối thiểu để phân biệt rõ giữa kinh tế
hộ gia đình và DNVVN.
Ba là, lĩnh vực và khu vực hoạt động: DNVVN chủ yếu thuộc thành phần
kinh tế ngoài Nhà nước, tập trung chủ yếu vào các ngành thương mại, dịch vụ, là
ngành có nhu cầu vốn và lao động ít, tốc độ quay vòng vốn nhanh. Việc đầu tư kinh
doanh của DNVVN còn nặng vào kinh doanh buôn bán dịch vụ. Đây là một hạn chế
trong thực trạng phát triển kinh tế. Điều đó còn phản ánh sự bất cập trong chính
sách của Nhà nước, chưa khuyến khích và định hướng các nhà đầu tư bỏ tiền vào
những lĩnh vực không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân nhà đầu tư mà còn phải
mang lại lợi ích chung cho xã hội và toàn bộ nền kinh tế.
DNVVN chủ yếu phát triển ở thành thị và xu hướng đang chuyển dịch về
nông thôn, nhưng thường tập trung ở các đô thị lớn, ven đô thành phố. Đây là
nguyên nhân dẫn đến sự di chuyển của lao động nông thôn ra thành thị. Vì vậy, các
DNVVN phần lớn chuyển đổi từ mô hình tổ hợp sản xuất với quy mô nhỏ hoặc từ
các hộ kinh doanh sang mô hình DN tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần.
Bốn là, thiết bị công nghệ và thị trường: Trình độ công nghệ, trang thiết bị,
máy móc của DNVVN Việt Nam phần lớn sử dụng công nghệ lạc hậu, máy móc cũ
đã hạn chế rất lớn khả năng cạnh tranh của các DNVVN. Điều này có nhiều nguyên
7
nhân, song chủ yếu là nguyên nhân khách quan. Phần lớn các DNVVN được thành
lập vào những năm gần đây, tuy mới thành lập nhưng do thiếu vốn, thiếu kĩ năng
quản lý cần thiết nên các nhà đầu tư chưa thể mua sắm được trang thiết bị máy móc
hiện đại để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm sản xuất ra. Phần lớn máy móc
thiết bị cũ, được mua lại từ các DNNN bị giải thể, thanh lý để đáp ứng nhu cầu
trước mắt mà chưa có chiến lược đầu tư trung dài hạn. Gần đây trong quá trình
chuyển đổi đã có nhiều doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ. Mặc dù
vậy, công nghệ và thiết bị được sử dụng trong nhiều doanh nghiệp liên doanh có
vốn nước ngoài cũng sử dụng thiết bị không phải mới hoàn toàn. Chính vì vậy mà
sản phẩm làm ra chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế…Hiện nay, có một
số ngành như may mặc, đồ uống, thủy hải sản đã có chỗ đứng trên thị trường nhưng
số lượng còn rất khiêm tốn.
Năm là, trình độ lao động: Trình độ cán bộ quản lý chưa đáp ứng được so
với nhu cầu hiện nay, thiếu công nhân kỹ thuật lành nghề, đội ngũ lao động và cán
bộ quản lý của DNVVN còn rất hạn chế về trình độ chuyên môn, về tay nghề và kĩ
năng quản lý. Số lượng DNVVN có chủ DN, giám đốc giỏi, trình độ chuyên môn
cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ DN và giám đốc DN
tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức
kinh tế - xã hội và kĩ năng quản trị kinh doanh, đặc biệt là yếu về năng lực kinh
doanh quốc tế. Từ đó, khuynh hướng phổ biến là các DN hoạt động quản lý theo
kinh nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kiến thức trên các phương diện: quản
lý tổ chức, chiến lược cạnh tranh, phát triển thương hiệu. Một số chủ DN mở công
ty chỉ vì có sẵn tiền vốn và thích kinh doanh, trong khi đó thiếu kiến thức và kĩ năng
về kinh doanh, vì vậy đã dẫn đến rủi ro và thất bại. Hệ thống đào tạo hiện nay nặng
về đào tạo lý thuyết trong khi nhu cầu của các doanh nghiệp về công nhân kĩ thuật,
lao động có tay nghề cao lại rất lớn. Đây chính là vấn đề đang diễn ra rất phổ biến ở
Việt Nam, trong hầu hết các ngành nghề.
Sáu là, năng lực tài chính: Quá trình phát triển DNVVN đang trong giai
đoạn khởi đầu, khả năng tích lũy vốn còn hạn chế, nên việc các DNVVN thiếu vốn
tự có là vấn đề tất yếu. Do nguồn vốn hạn hẹp nên các doanh nghiệp không có đủ
khả năng đầu tư trang thiết bị máy móc hiện đại, đồng bộ dẫn đến sản phẩm sản
xuất ra không đảm bảo chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm yếu. Các doanh
nghiệp vẫn phải sử dụng trang thiết bị máy móc hỗn tạp do nhiều nước sản xuất
hoặc tận dụng những máy móc thiết bị cũ, chất lượng không tốt. Điều này ảnh
8
hưởng rất nhiều đến năng lực sản xuất của doanh nghiệp, dẫn đến năng suất lao
động thấp và chất lượng sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu thị trường.
Bảy là, thiếu thông tin về thị trường: Các DNVVN rất thiếu thông tin về thị
trường, do đó họ tham gia vào các hoạt động thị trường không mang tính định
hướng chiến lược mà chủ yếu mang tính tự phát. Các DNVVN phần lớn chưa chủ
động tham gia vào các tổ chức, hiệp hội để từ đó có thêm được nguồn thông tin cần
thiết cho chiến lược sản xuất kinh doanh cả trong ngắn hạn và dài hạn. Các
DNVVN chưa có bộ phận chuyên trách thu thập thong tin, do đó còn nhiều lúng
túng khi thâm nhập thị trường.
Một số đại diện DNVVN thừa nhận họ rất ít thông tin về thị trường liên quan
đến hoạt lĩnh vực sản xuất kinh doanh của mình. Nếu có được thông tin đó cũng
khó đảm bảo được tính chính xác do vấn về kiểm soát chất lượng nguồn thông tin là
rất khó, chưa kể đến tính thiếu thống nhất của các thông tin được công bố. Điều này
ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định sản xuất kinh doanh của DN. Thị trường đầu
ra khó khăn, trong khi đó thì áp lực cạnh tranh rất lớn với những nhà sản xuất làm
ăn không chân chính đối với vấn đề hàng lậu, hàng kém chất lượng.
1.1.1.3.Vai trò của DNVVN
Thực tế sau 25 năm thực hiện đường lối đổi cho đến nay, DNVVN đã có
những bước phát triển mạnh mẽ và có những đóng góp tích cực cho sự phát triển
KT-XH đất nước.
Thứ nhất, huy động được ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào
SXKD. Dựa trên ưu thế của các đơn vị kinh doanh thuộc loại hình DNVVN như: có
thể thành lập với số vốn nhỏ, sử dụng nguồn lạo động và nguyên liệu sẵn có địa
phương nên đã tạo điều kiện cho đông đảo dân cư có thể tham gia đầu tư. Vì vậy,
DNVVN được coi là loại hình doanh nghiệp có hiệu quả trong việc huy động sử
dụng các nguồn lực và biến nó thành các khoản đầu tư.
Thứ hai, DNVVN tạo công ăn việc làm cho một bộ phận lớn lao động xã hội,
góp phần xóa đói giảm nghèo và giải quyết các vấn đề xã hội khác. Ở Việt Nam,
hàng năm có thêm khoảng 1,2 đến 1,4 triệu người đến tuổi lao động, ngoài ra số lao
động nông nghiệp có nhu cầu chuyển sang làm việc trong các ngành phi nông
nghiệp cũng tăng đáng kể. Yêu cầu mỗi năm phải tạo ra hàng triệu việc làm đang là
một áp lực xã hội lớn đối với nhà nước và các cấp chính quyền địa phương. Việc
tạo thêm công ăn việc làm không chỉ giải quyết vấn đề xã hội, mà là giải quyết vấn
9
đề cơ bản của phát triển kinh tế hiện nay ở nước ta. Trên phương diện này, đóng
góp của DNVVN là không thể phủ nhận. Sự tăng lên nhanh chóng của số lượng
DNVVN trên khắp các lĩnh vực và ngành nghề đã tạo khả năng thu hút một lực
lượng lớn lao động trong xã hội. Cùng với các hộ kinh doanh cá thể, các DNVVN
mới được thành lập và mở rộng quy mô cũng như địa bàn kinh doanh của các DN
hiện có đã, đang và sẽ thực sự là nguồn cung to lớn về chỗ làm việc mới cho xã hội.
DNVVN phát triển mạnh còn hạn chế sự di dân vào các đô thị lớn. Bởi các làng
nghề ở địa phương phát triển sẽ thu hút lao động địa phương, bảo tồn và phát huy
những ngành nghề truyền thống, đồng thời góp phần ổn định trật tự xã hội, xóa đói
giảm nghèo ở địa phương.
Thứ ba, DNVVN đóng góp ngày càng lớn cho tổng sản phẩm trong nước và
thu NSNN, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu. DNVVN ngày càng lớn mạnh
trong tất cả các lĩnh vực và đóng góp vị trí quan trọng cho tăng trưởng GDP của đất
nước. Một đặc điểm rõ nét là tốc độ tăng trưởng của DNVVN luôn gắn với tốc độ
tăng trưởng chung của nền kinh tế. Không chỉ đóng góp lớn vào GDP, DNVVN còn
góp phần quan trọng vào nguồn thu NSNN, góp phần giải quyết nhiều vấn đề KT-
XH đặt ra. Ngoài ra, một phần không nhỏ các DN, hiệp hội DN còn tích cực tham
gia và có đóng góp đáng kể vào xây dựng các công trình văn hóa, trường học,
đường giao thông nông thôn, nhà tình nghĩa và những đóng góp phúc lợi xã hội
khác ở tất cả các địa phương trong cả nước.
Trình độ sản xuất kinh doanh của DNVVN ngày càng tiến bộ, số lượng hàng
hóa sản xuất trong nước thay thế hàng nhập khẩu tăng lên. Bên cạnh việc thực hiện
sản xuất đồng bộ sản phẩm hàng hóa xuất khẩu, DNVVN còn tham gia nhiều công
đoạn trong quá trình sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Một số sản phẩm xuất khẩu chủ
yếu của nước ta hiện nay như thủy hải sản, may mặc, các sản phẩm nông nghiệp,
thủ công mỹ nghệ…đều do DNVVN sản xuất.
DNVVN giữ vai trò ổn định nền kinh tế. Với đặc điểm thường là những nhà
thầu cho các doanh nghiệp lớn, sự điểu chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm
cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, DNVVN được ví là thanh giảm
sốc cho nền kinh tế. Đồng thời, DNVVN thường xuyên chuyên môn hóa vào sản
xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh tạo nên
ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng cho nền kinh tế.
Thứ tư, DNVVN góp phần tạo lập được sự cân đối và phát triển kinh tế giữa
10
các vùng, góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng yêu
cầu sự nghiệp công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn. Thông thường, các DN lớn
thường tập trung tại những nơi có cơ sở hạ tầng phát triển, những đô thị lớn. Điều
đó gây ra tình trạng mất cân đối nghiệm trọng về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa
giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng trong một quốc gia. Chính sự phát triển
của DNVVN góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự cân đối trong việc phát triển
giữa các vùng.
Chuyển dịch cơ cấu KT-XH là một yêu cầu tất yếu trong quá trình thực hiệ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta hiện nay. Trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế luôn có sự tham gia đóng góp của DNVVN. Sự tham gia của DNVVN
đã xác lập lại cơ cấu đầu tư theo từng thời kì phát triển, góp phần nâng cao tỷ trọng
của các ngành công nghiệp và dịch vụ trong tổng cơ cấu tổng thể của nền kinh tế
quốc dân. Tỷ trọng tham gia của DNVVN vào các lĩnh vực của nền kinh tế có sự
thay đổi đáng kể qua các giai đoạn. Sự đóng góp của DNVVN đã thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng dần tỷ trọng của các ngành công nghiệp và
dịch vụ.
Thứ năm, DNVVN góp phần mạnh mẽ trong việc thúc đẩy sức cạnh tranh
giữa các thành phần kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực.
Trước thời kì đổi mới, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, thị trường hoạt động đơn điệu và chỉ mang tính hình thức. Yếu tố cạnh tranh
gần như không tồn tại. Mọi hoạt động SXKD đều do nhà nước quản lý. Trong quá
trình đổi mới nền kinh tế, quan hệ hàng hóa, tiền tệ mới thực sự hình thành và phát
triển. Chính sự ra đời của kinh tế ngoài nhà nước, sự phát triển của DNVVN sau đổi
mới đã tạo điều kiện cho việc hình thành và phát triển các loại thị trường trong nền
kinh tế. Các DN cạnh tranh với nhau trên cả thị trường đầu vào và đầu ra đã giúp
cho việc phân bổ và sử dụng nguồn lực trở nên hiệu quả hơn. Các DN sẽ phải cân
đối trong việc sử dụng các nguồn lực về vốn, công nghệ và lao động trong khả năng
của mình để tạo ra được sản phẩm có sức mạnh cạnh tranh trên thị trường nhằm đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của con người.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động cho vay đối với DNVVN
1.1.2.1. Khái niệm hoạt động cho vay
Theo quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo
Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN Việt Nam, hoạt động
11
cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó TCTD giao cho khách hàng một
khoản tiền để sử dụng vào mục đích nhất định và thời gian nhất định theo thỏa
thuận với nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi.
Cho vay là hoạt động mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Tuy nhiên
hoạt động cho vay nói chung và cho vay đối với đối tượng khách hàng là các
DNVVN nói riêng chứa đựng nhiều rủi ro, do tác động bởi yếu tố khách quan và
chủ quan. Vấn đề đặt ra cho các ngân hàng là cho vay phải thu hồi được vốn vay và
đảm bảo có lãi. Muốn vậy ngân hàng cần quản lý tốt các khoản cho vay, nâng cao
hiệu quả trong hoạt động cho vay.
1.1.2.2. Đặc điểm hoạt động cho vay đối với DNVVN
Hoạt động cho vay đối với DNVVN thể hiện các đặc điểm:
Thứ nhất: Công tác thẩm định DNVVN gặp nhiều khó khăn và mất nhiều
thời gian.
Ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn trong việc thẩm định năng lực tài
chính và năng lực kinh doanh của DNVVN. BCTC các DNVVN cung cấp cho
Ngân hàng chủ yếu là các BCTC chưa qua kiểm toán, báo cáo thuế nếu có thì cũng
khá sai lệch so với nội dung được phản ánh trong BCTC do khách hàng cung cấp.
Cá biệt có DN có hai hệ thống sổ kế toán, một là hệ thống sổ sách thật dùng trong
nội bộ công ty và hai là hệ thống sổ sách báo cáo được sử dụng để vay vốn ngân
hàng. Mặt khác, bản thân DNVVN còn yếu trong công tác tài chính kế toán nên các
báo tài chính cung cấp cho NHTM được phản ánh không mấy chân thực và thiếu sự
khớp đúng. Hơn nữa, nguồn đầu ra của các DN có tính chắc chắn không cao (các
hợp đồng chỉ kí trên nguyên tắc) cũng ảnh hưởng đến hiệu quả công tác thẩm định
của cán bộ ngân hàng. Cán bộ ngân hàng sẽ phải mất nhiều thời gian trong việc thu
thập thông tin để đánh giá chính xác năng lực sản xuất kinh doanh và tình hình tài
chính của doanh nghiệp.
Thứ hai: Số món cho vay lớn song giá trị của mỗi món vay nhỏ, đối tượng
cho vay phong phú, đa dạng.
Do DNVVN chiếm ưu thế về mặt số lượng, hiện chiếm khoảng 97% tổng số
lượng các doanh nghiệp trong nền kinh tế nên các DNVVN có nhu cầu vay vốn rất
nhiều. Mặt khác, cũng xuất phát từ đặc điểm kinh doanh của DNVVN, đó là kinh
doanh đa dạng nhiều ngành nghề khác nhau, nhiều nhóm sản phẩm khác nhau. Việc
doanh nghiệp vay nhiều hay ít phụ thuộc vào tình hình tiêu thụ sản phẩm đó trên thị
trường. Nếu sản phẩm tiêu thụ được nhiều, doanh nghiệp cần nhiều vốn để mở rộng
12
SXKD thì nhu cầu về vốn tăng lên và ngược lại.
Thứ ba: Điều kiện cho vay áp dụng đối với DNVVN chặt chẽ.
Do hạn chế trong việc thẩm định, đánh giá chính xác năng lực kinh doanh của
DNVVN nên ngân hàng sẽ áp dụng điều kiện cho vay chặt chẽ hơn so với doanh
nghiệp lớn. Đối với các khoản vay DNVVN, ngân hàng luôn yêu cầu phải có tài sản
đảm bảo có tính thanh khoản cao. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều DNVVN thường
không có tài sản đảm bảo đủ lớn hoặc tài sản không đáp ứng được các điều kiện để
thực hiện các thủ tục liên quan đến việc công chứng và đăng kí giao dịch đảm bảo
và do đó không đủ điều kiện cầm cố/thế chấp, điều này dẫn đến việc DNVVN gặp
nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay ngân hàng.
1.1.3. Các hình thức cho vay đối với DNVVN của NHTM
1.1.3.1. Căn cứ vào thời hạn cho vay:
- Cho vay ngắn hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn cho vay dưới 12 tháng.
Hình thức này thường được sử dụng để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt tạm thời về vốn
lưu động của các doanh nghiệp.
- Cho vay trung hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn vay từ một đến năm
năm. Hình thức cho vay này đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ mục đích đầu tư tài sản
cố định, cải tiến và đổi mới trang thiết bị công nghệ, mở rộng và xây dựng các công
trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn: Là hình thức cho vay với thời hạn vay trên năm năm, được
sử dụng để cung cấp vốn phục vụ cho đầu tư xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng
sản xuất với quy mô lớn.
1.1.3.2. Căn cứ vào mục đích sử dụng:
- Cho vay với mục đích kinh doanh bất động sản: gồm các khoản cho vay xây
dựng ngắn hạn và giải phóng mặt bằng cũng như các khoản cho vay trung dài hạn
tài trợ cho việc mua đất kinh doanh, nhà cửa, trung tâm thương mại…
- Cho vay công nghiệp, thương mại, dịch vụ: Là hình thức cho vay giúp các DN
trang trải các chi phí như mua hàng hóa, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất và
kinh doanh, trả lương, thanh toán thuế và các chi phí khác…
- Cho vay khác và tài trợ thuê mua tài sản.
1.1.3.3. Căn cứ vào biện pháp bảo đảm:
- Cho vay có đảm bảo bằng tài sản: Là khoản vay mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của
doanh nghiệp được cam kết bảo đảm bằng tài sản của bên vay vốn hoặc bên thứ ba.
- Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: Là khoản vay mà theo đó nghĩa vụ
13
trả nợ của doanh nghiệp không được đảm bảo bằng tài sản.
1.1.3.4. Căn cứ vào phương thức cho vay:
- Cho vay theo hạn mức: Ngân hàng cho vay và khách hàng kí kết Hợp đồng
tín dụng trong đó quy định mức dư nợ tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất
định quy định trong hợp đồng. Trong thực tế, hạn mức tín dụng thường được xác
định cho thời hạn một năm.
- Cho vay từng lần: Ngân hàng cho vay và khách hàng kí kết Hợp đồng tín
dụng theo đó thỏa thuận doanh số cho vay không vượt quá số tiền cho vay đã thỏa
thuận.
- Cho vay theo dự án đầu tư: Trong phương thức cho vay theo dự án đầu tư,
doanh số cho vay không vượt quá số tiền đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Phương thức cho vay này áp dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án
đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Cho vay theo phương thức trả góp: Trong phương thức cho vay trả góp,
doanh số cho vay không vượt quá số tiền cho vay đã thỏa thuận trong HĐTD, số
tiền cho vay được trả thành nhiều kì hạn bằng nhau với tổng số tiền trả nợ gốc và lãi
của mỗi kì hạn bằng nhau, trong đó số tiền trả lãi được tính trên dư nợ thực tế giảm
dần và số ngày thực tế của kì hạn đó.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: là việc
NHCV chấp nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức
cho vay để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và việc thanh toán được thực hiện
qua thẻ.
- Cho vay theo hạn mức cho vay dự phòng: NHCV cam kết đảm bảo sẵn cho
khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức cho vay đã thỏa thuận trong HĐTD.
Theo đó, ngân hàng và khách hàng thỏa thuận về hiệu lực của hạn mức cho vay và
mức phí phải trả cho hạn mức cho vay.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: NHCV thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận
cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù
hợp với quy định của Chính phủ và NHNN về hoạt động thanh toán qua các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán.
- Cho vay hợp vốn (Cho vay đồng tài trợ): NHCV cùng với một hoặc một số
TCTD, hoặc chi nhánh của TCTD khác thực hiện việc cho vay một hoặc một phần
của dự án, phương án trong đó NHCV có thể là ngân hàng đầu mối hoặc thành viên
cho vay hợp vốn.
14
- Cho vay theo phương thức khác: Tùy theo nhu cầu của khách hàng, NHCV
có thể có các phương thức cho vay phù hợp với đặc điểm của từng khách hàng, theo
từng thời kì và không trái với quy định của pháp luật.
1.2. Hiệu quả cho vay đối với DNVVN của NHTM
1.2.1. Quan điểm về hiệu quả cho vay đối với DNVVN của NHTM
Hiệu quả được hiểu là một chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ giữa kết quả đầu ra
và chi phí đầu vào. Hiệu quả kinh doanh theo khái niệm rộng là một phạm trù kinh
tế phản ánh những lợi ích đạt được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Công thức khái quát như sau:
Hiệu quả =
Lợi ích
Chi phí
NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ vì mục tiêu lợi nhuận. Hoạt động cho
vay là hoạt động chủ yếu mang lại lợi nhuận cho ngân hàng hiện nay. Vì vậy, vấn
đề về hiệu quả cho vay được các NHTM quan tâm hàng đầu.
Hiệu quả cho vay đối với NHTM có thể hiểu là sự đáp ứng nhu cầu vay vốn
của khách hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của Ngân hàng. Hiệu quả cho vay bao gồm cả về mặt số lượng và chất lượng
cho vay.
Một khoản cho vay được xem là có hiệu quả trước hết là khoản vay mà vốn
vay mang lại lợi nhuận cho khách hàng và lợi nhuận đó có thể trả được cả gốc và lãi
đúng hạn cho ngân hàng. Vì việc trả nợ trước hạn hay quá hạn của khách hàng đều
ảnh hưởng đến kế hoạch tài chính của ngân hàng nên việc trả nợ đầy đủ và đúng
hạn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với kế hoạch kinh doanh của NHTM.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả cho vay đối với DNVVN của NHTM
1.2.2.1. Đối với ngân hàng
- Hoạt động cho vay vẫn là hoạt động mang lại phần lớn lợi nhuận cho các
NHTM hiện nay. Vì vậy nâng cao hiệu quả cho vay nói chung và nâng cao hiệu quả
cho vay đối với DNVVN nói riêng là tạo ra vị thế cạnh tranh cho ngân hàng. Một
ngân hàng có hiệu quả cho vay cao đồng nghĩa với việc ngân hàng có năng lực hoạt
động kinh doanh tốt, cũng có nghĩa vị thế cạnh tranh cao, thị phần lớn, khả năng
đáp ứng được nhu cầu vốn cho nền kinh tế có hiệu quả cao và lợi nhuận kéo theo đó
sẽ tăng lên.
- Nâng cao hiệu quả cho vay đối với DNVVN góp phần giúp ngân hàng thực
15
hiện được hai mục tiêu cơ bản là an toàn và hiệu quả. Hoạt động cho vay mang lại
lợi nhuận lớn cho ngân hàng nhưng cũng là hoạt đông chứa nhiều rủi ro nhất đối với
ngân hàng. Thực tế đã chứng minh rủi ro trong hoạt động kinh doanh là không thể
tránh khỏi. Ngân hàng chỉ có thể hạn chế rủi ro ở mức độ nhất định chứ không thể
triệt tiêu được vì khi rủi ro càng cao thì lợi nhuận kì vọng càng cao. Do đó, khi hoạt
động cho vay được nâng cao hiệu quả một mặt mang lại lợi nhuận cho ngân hàng
nhiều hơn, mặt khác làm giảm bớt tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu, hạn chế tối đa những
tổn thất mà ngân hàng có thể gặp phải, đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng.
- Nâng cao hiệu quả cho vay đối với DNVVN sẽ góp phần nâng cao năng lực
quản trị cho vay đối với DNVVN. Để nâng cao hiệu quả cho vay, ngân hàng sẽ phải
quan tâm đến tất cả các bước của quá trình tài trợ vốn vay bao gồm tìm kiếm khách
hàng, lựa chọn khách hàng, thẩm định khách hàng, ra quyết định cho vay và sau đó
là thường xuyên giám sát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng. Do đó việc
ngân hàng quản lý thường xuyên và có hệ thống đối với đối tượng khách hàng này
sẽ giúp ngân hàng có được cơ sở dữ liệu khách hàng tiềm năng và khách hàng tốt,
qua đó đưa ra được các sản phẩm dịch vụ và các biện pháp hỗ trợ dịch vụ có hiệu
quả nhất.
1.2.2.2. Đối với DNVVN
- Nâng cao hiệu quả cho vay giúp DNVVN thực hiện quá trình đầu tư vốn một
cách nghiêm túc và hiệu quả. Khi ngân hàng nâng cao hiệu quả cho vay cũng đồng
nghĩa với việc ngân hàng thẩm định chặt chẽ các điều kiện cho vay đối với khách
hàng về tài sản đảm bảo, uy tín của khách hàng, tính khả thi, hiệu quả của phương
án, dự án đầu tư. Hơn nữa, sau khi giải ngân vốn vay, ngân hàng còn thường xuyên
giám sát việc sử dụng vốn, không để xảy ra hiện tượng DNVVN sử dụng vốn vay
sai mục đích đã thỏa thuận từ khi cấp vốn vay. Điều này buộc các doanh nghiệp
phải thực hiện đầu tư sản xuất kinh doanh một cách rõ ràng và nghiêm túc ngay từ
đầu.
- Nâng cao hiệu quả cho vay cũng đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp sử
dụng vốn vay vào hoạt động sản xuất kinh doanh làm cho nó tốt hơn so với trước
khi được tài trợ vốn. Khi khách hàng sử dụng vốn vay hiệu quả sẽ nâng cao được
năng lực sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô, tạo ra được nhiều lợi nhuận, từ đó
đảm bảo trả được nợ đúng hạn và đầy đủ cho ngân hàng. Bản thân doanh nghiệp
cũng làm gia tăng giá trị của mình và đây cũng là mong muốn của tất cả các ngân
hàng khi cấp tín dụng cho DNVVN.
16
- Nâng cao hiệu quả cho vay góp phần làm lành mạnh hóa hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp tiếp nhận vốn vay từ phía ngân
hàng, họ sẽ phải chịu sự giám sát chặt chẽ và thường xuyên của ngân hàng. Do vậy,
doanh nghiệp sẽ luôn phải tôn trọng những cam kết với ngân hàng từ mục đích sử
dụng vốn đến việc thực hiện những quy định về thế chấp tài sản, về đảm bảo an
toàn tài chính. Điều này góp phần định hướng cho doanh nghiệp trong việc tuân thủ
những quy định từ phía ngân hàng đặt ra và làm cho các doanh nghiệp luôn chủ
động trong quá trình sử dụng vốn, để tránh sử dụng vốn vào mục đích khác, thậm
chí là sử dụng vốn vào mục đích sản xuất kinh doanh bị pháp luật cấm và hạn chế.
1.2.2.3. Đối với nền kinh tế
Nâng cao hiệu quả cho vay nói chung và cho vay đối với DNVVN nói riêng
góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Khi hoạt động cho vay có hiệu quả có
nghĩa vốn vay mà ngân hàng cung cấp được các doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả,
tăng giá trị của cải không chỉ cho bản thân doanh nghiệp mà còn làm tăng của cải
vật chất trong xã hội, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp và
nền kinh tế thực sự tăng trưởng bền vững.
Nâng cao hiệu quả cho vay đối với DNVVN còn góp phần tạo môi trường
cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng cho các DNVVN trước các doanh nghiệp lớn.
Không chỉ các doanh nghiệp lớn mới có thể tiếp cận được với nguồn vốn vay mà
bản thân DNVVN nếu hoạt động tốt và lành mạnh cũng có thể yên tâm với việc tiếp
cận vốn vay, thu hẹp khoảng cách phân biệt giữa DNVVN và doanh nghiệp lớn tại
chính các TCTD. Khẳng định vai trò to lớn của DNVVN trong nền kinh tế và tạo
điều kiện cho loại hình DN này phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có của nó
cũng là chủ trương đúng đắn của nước ta trong giai đoạn phát triển hiện nay.
1.2.3. Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả cho vay đối với DNVVN của NHTM
Để đánh giá hiệu quả cho vay đối với DNVVN, các ngân hàng đã đưa ra các
chỉ tiêu định lượng để đánh giá về quy mô, tốc độ tăng trưởng, chất lượng cho vay
và lợi nhuận mà hoạt động cho vay mang lại cho các ngân hàng. Bên cạnh đó, một
số các chỉ tiêu định tính cũng được xem xét như hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp sử dụng vốn vay, vấn đề tạo công ăn việc làm cho người lao động của
DNVVN ,…nhằm đánh giá một cách toàn diện về hiệu quả cho vay DNVVN của
ngân hàng thương mại. Cụ thể các chỉ tiêu đó như sau:
1.2.3.1. Chỉ tiêu định lượng
17
a. Tỷ lệ tăng trưởng dư nợ đối với DNVVN
Công thức:
Tỷ lệ tăng trưởng
dư nợ đối với
DNVVN
=
Dư nợ cho vay
DNVVN năm n
–
Dư nợ cho vay
DNVVN năm (n-1)
x 100%
Dư nợ cho vay DNVVN năm (n-1)
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ tăng trưởng dư nợ cho vay đối với DNVVN của
một ngân hàng.
+ Nếu tỷ lệ tăng trưởng dư nợ đối với DNVVN >1: Dư nợ cho vay đối với
DNVVN của ngân hàng có sự tăng trưởng. Chỉ tiêu này càng lớn phản ánh quy mô
cho vay DNVVN ngày càng mở rộng.
+ Nếu tỷ lệ tăng trưởng dư nợ đối với DNVVN <1: Phản ánh quy mô cho vay
DNVVN năm nay thu hẹp hơn năm trước.
+ Nếu tỷ lệ tăng trưởng dư nợ đối với DNVVN =1: Phản ánh quy mô cho vay
đối với DNVVN năm sau không đổi.
b. Chỉ tiêu phản ánh chất lượng
Mục tiêu của ngân hàng thương mại là khi cho vay phải đảm bảo thu hồi được toàn
bộ gốc và lãi để trang trải được các chí phí và đảm bảo có lợi nhuận. Một khoản nợ
xấu sẽ dẫn đến ngân hàng gặp khó khăn về thu hồi nợ gốc và lãi. Điều này sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả của khoản vay và từ đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
- Tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Nợ quá hạn
x 100%
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn là khoản nợ mà đến thời hạn trả nợ gốc hoặc lãi, khách hàng chưa trả
được, dư nợ của khách hàng bị chuyển sang quá hạn. Nợ quá hạn là không thể tránh
khỏi trong hoạt động của các NHTM, nguyên nhân dẫn đến việc khách hàng chưa
trả được nợ khi đến hạn thì rất nhiều. Một ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn càng cao
thì nguy cơ không đòi được nợ tăng lên, gia tăng thêm nhiều chi phí liên quan đến
việc thu hồi nợ từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng và kéo theo đó hiệu
quả cho vay giảm.
- Tỷ lệ nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu =
Nợ xấu
x 100%
Tổng dư nợ
18
Nợ xấu là các khoản nợ có chất lượng tín dụng bị suy giảm, tiềm ẩn nguy cơ
rủi ro mất vốn. Tỷ lệ nợ xấu càng cao phản ánh chất lượng tín dụng càng thấp, từ đó
sẽ tác động đến các nguồn thu từ hoạt động cho vay của các ngân hàng dẫn đến hiệu
quả hoạt động cho vay thấp.
c. Chỉ tiêu phản ánh thu nhập từ lãi cho vay đối với DNVVN
Các khoản lãi vay tạo nên thu nhập cho ngân hàng, giúp ngân hàng bù đắp
được chi phí bỏ ra và thu được lợi nhuận.
+ Tốc độ tăng trưởng doanh thu từ lãi cho vay đối với DNVVN
Tốc độ tăng trưởng
doanh thu từ lãi cho
vay DNVVN
=
DT từ lãi
HĐCV năm n
–
DT từ lãi HĐCV
năm (n-1)
x 100%
DT từ lãi HĐCV năm (n-1)
Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng doanh thu từ lãi hoạt động cho vay DNVVN cho
biết khả năng sinh lời của các khoản cho vay DNVVN qua các năm, qua đó cho biết
mức chênh lệch tương đối doanh thu từ lãi hoạt động cho vay DNVVN năm sau so
với năm trước.
+ Tỷ trọng lãi quá hạn chưa thu/Tổng lãi phải thu
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thu hồi lãi quá hạn so với tổng lãi phải thu của một
ngân hàng. Tỷ trọng này càng cao phản ánh khả năng thu hồi lãi quá hạn của ngân
hàng càng kém. Điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của ngân
hàng đối với DNVVN trong việc làm giảm thu nhập của ngân hàng.
+ Tỷ trọng doanh thu từ lãi cho vay đối với DNVVN/Tổng doanh thu từ lãi hoạt
động cho vay
Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lời từ hoạt động cho vay DNVVN so với toàn
bộ hoạt động cho vay của ngân hàng
+ Mức sinh lời cho vay DNVVN
Mức sinh lời cho
vay đối với DNVVN
=
Lợi nhuận từ hoạt động
cho vay DNVVN
x 100%
Tổng dư nợ
Mức sinh lời cho vay DNVVN là chỉ tiêu phản ánh trực tiếp hiệu quả cho vay
đối với DNVVN của ngân hàng. Khi chỉ tiêu này càng cao có nghĩa là khả năng
19
sinh lời từ cho vay DNVVN càng lớn. Ngược lại nếu chỉ tiêu này ở mức thấp chứng
tỏ các khoản vay có khả năng sinh lời thấp, đồng nghĩa với hiệu quả cho vay chưa
cao. Mục tiêu hoạt động của ngân hàng là vì lợi nhuận, vì vậy ngân hàng luôn tìm
cách tăng mức sinh lời cho vay nhằm tăng hiệu quả thu nhập của mình. Nhưng tỷ lệ
sinh lời vốn vay cao không có nghĩa là ngân hàng đang an toàn trong hoạt động. Do
vậy, chỉ mở rộng khả năng sinh lời vốn vay đối với DNVVN là chưa đủ, các ngân
hàng còn phải nâng cao vai trò quản trị rủi ro. Có như vậy thì việc cho vay đối với
DNVVN mới mang lại hiệu quả cao cho ngân hàng.
1.2.3.2. Chỉ tiêu định tính
Ngoài các chỉ tiêu định lượng trên được đưa ra để phản ánh hiệu quả cho vay
của NHTM đối với các DNVVN thì việc xem xét một số các chỉ tiêu định tính cho
ta sự đánh giá đầy đủ và chính xác hơn về hiệu quả cho vay đối với DNVVN của
ngân hàng thương mại. Cụ thể một số các chỉ tiêu như sau:
a. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của DNVVN vay vốn
Bản thân các DNVVN khi vay vốn ngân hàng đều mong muốn sử dụng được
nguồn vốn đó vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình mang lại hiệu quả cao.
Cụ thể hiệu quả này được thể hiện qua kết quả hoạt động kinh doanh: các phương
án, dự án đầu tư có lãi, bù đắp được toàn bộ chi phí doanh nghiệp bỏ ra, trong đó
bao gồm cả chi phí trả lãi cho ngân hàng và hoàn trả gốc vay cho ngân hàng. Quy
mô hoạt động SXKD ngày càng được mở rộng, doanh thu và lợi nhuận của doanh
nghiệp ngày càng tăng, uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp ngày càng được
khẳng định trên thị trường cũng phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Đối với các ngân hàng, khi cho vay đối với các khách hàng là các DNVVN
thì điều quan trọng nhất là thu hồi được toàn bộ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn. Rõ
ràng, hiệu quả tốt từ việc vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp để đầu tư cũng chính
là hiệu quả của ngân hàng khi cho vay. Nắm bắt được điều này thì việc quan tâm
đến hoạt động sử dụng vốn của DNVVN sau khi cho vay nhằm đạt hiệu quả cao là
nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với các ngân hàng thương mại. Nó giúp cho các
ngân hàng nâng cao hiệu quả cho vay đối với DNVVN.
b. Hiệu quả từ việc tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội
Từ thực tế nền kinh tế diễn ra trong những năm gần đây, sự ra đời của hàng loạt các
DNVVN đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết bài toán tạo công ăn việc làm
cho nhiều người trong xã hội. Thủ tục thành lập khá dễ dàng đã tạo điều kiện cho
20
việc ra đời các DNVVN cũng đơn giản nhanh chóng. Mặc dù trong bối cảnh hiện
nay, không ít các DNVVN làm ăn suy giảm, gặp nhiều khó khăn, thu hẹp quy mô
hoạt động, giảm sức cạnh tranh, thậm chí rơi vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên,
không thể phủ nhận được vai trò to lớn của các DNVVN đối với toàn xã hội. Tạo
thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động giúp ổn định cuộc sống, giảm các
tệ nạn xã hội, tăng thêm của cải vật chất cho xã hội. Đối với các ngân hàng khi xem
xét, đánh giá quy mô hoạt động của một doanh nghiệp, số lượng người lao động
nhiều hay ít cũng cho biết quy mô hoạt động của doanh nghiệp, từ đó gián tiếp cho
thấy hiệu quả của doanh nghiệp đó. Những doanh nghiệp có quy mô nguồn nhân
lực lớn, kinh doanh hiệu quả là những doanh nghiệp phát triển tốt, hiệu quả cho vay
đối với doanh nghiệp này sẽ cao hơn những doanh nghiệp có nguồn nhân lực ít, làm
ăn kém.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay đối với DNVVN của NHTM
Có rất nhiều nhân tố tác động tới hiệu quả cho vay đối với DNVVN. Các nhân tố
này được chia thành hai loại, đó là các nhân tố khách quan và chủ quan.
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng:
a. Chính sách cho vay
Chính sách cho vay luôn được xem là kim chỉ nam cho hoạt động cho vay của
một ngân hàng. Nội dung cơ bản của chính sách cho vay là các vấn đề liên quan tới
chính sách về khách hàng, chính sách quy mô và giới hạn cho vay, lãi suất cho vay,
phí, thời hạn của các khoản vay và tài sản đảm bảo cho khoản vay.
Chính sách cho vay là nhân tố quan trọng và có ý nghĩa quyết định trong việc
nâng cao hiệu quả cho vay của ngân hàng đối với DNVVN. Một chính sách tín
dụng hợp lý sẽ giúp mở rộng, nâng cao hiệu quả cho vay của ngân hàng đối với
DNVVN, đồng thời hạn chế được nhiều rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời cho
ngân hàng. Chính sách cho vay của mỗi ngân hàng là khác nhau và đối với bản thân
mỗi ngân hàng trong từng thời kì, chính sách cho vay cũng khác nhau, điều này tùy
thuộc vào cơ cấu, năng lực và mục tiêu của ngân hàng trong từng giai đoạn.
b. Quy trình cho vay
Cho vay là hoạt động sinh lời cao nhất nhưng cũng là hoạt động chứa đựng
nhiều rủi ro nhất cho ngân hàng. Do vậy để hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay
thì ngoài việc xây dựng và ban hành chính sách cho vay hợp lý và linh hoạt, các
21
ngân hàng cũng xây dựng cho mình những quy trình cho vay phù hợp. Nội dung
của quy trình cho vay là việc hướng dẫn chi tiết các bước cần thực hiện trong quá
trình thẩm định, phân tích năng lực của khách hàng và quản lý sau cho vay đối với
khách hàng. Về cơ bản, quy trình cho vay gồm các bước như tìm kiếm khách hàng,
thu thập thông tin liên quan đến khách hàng và phương án vay; phân tích và xử lý
các thông tin thu thập được. Qua đó, ngân hàng xác định uy tín, tư cách pháp lý,
năng lực tài chính của khách hàng, đánh giá được mức độ rủi ro và khả năng sinh
lời do phương án mang lại.
c. Trình độ cán bộ tín dụng và cán bộ thẩm định
Hoạt động cho vay của ngân hàng được thực hiện cho mọi loại hình doanh
nghiệp ở tất cả các ngành, lĩnh vực thuộc mọi thành phần trong nền kinh tế, do đó
đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có kiến thức tổng hợp, sâu rộng, phải luôn đầu tư thời
gian nghiên cứu tìm hiểu các ngành nghề, các lĩnh vực đó. Hầu hết hiện nay các
NHTM áp dụng mô hình kinh doanh mới, trong đó Cán bộ phát triển khách hàng
(trước đây là cán bộ tín dụng) chịu trách nhiệm trong việc tìm kiếm khách hàng, thu
thập thông tin, đánh giá sơ bộ về khách hàng và cán bộ thẩm định sẽ là người thẩm
định toàn bộ các thông tin khách hàng về mặt pháp lý, năng lực tài chính và tài sản
đảm bảo.
Do vậy, nếu cán bộ quan hệ khách hàng và đặc biệt là cán bộ thẩm định có
trình độ cao, năng động, khả năng phân tích và tư duy nhạy bén thì các khoản tín
dụng sẽ được xử lý tốt, ngân hàng sẽ có được các khoản tín dụng lành mạnh, giảm
thiểu được nhiều rủi ro và thu được nhiều lợi nhuận. Đội ngũ cán bộ phát triển
khách hàng và cán bộ thẩm định có nhiều kinh nghiệm và giỏi chuyên môn cần
được quan tâm bồi dưỡng và có chính sách đãi ngộ tốt để thu hút và nâng cao năng
lực chuyên môn. Ngược lại, khi đội ngũ cán bộ làm công tác cho vay có trình độ
chuyên môn không tốt, thiếu tính linh hoạt và kinh nghiệm sẽ làm giảm hiệu quả
cho vay, gây ra nhiều rủi ro cho ngân hàng, giảm uy tín và năng lực cạnh tranh của
ngân hàng trên thị trường. Đặc biệt là đối với đối tượng khách hàng DNVVN, có
quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, tình hình tài chính thiếu minh bạch, giá trị tài sản
đảm bảo thấp…càng đòi hỏi đội ngũ cán bộ phát triển khách hàng và cán bộ thẩm
định phải có trình độ chuyên môn cao và am hiểu khách hàng thì mới có những
phân tích và đánh giá chính xác.
d. Thông tin tín dụng
22