Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

giải pháp giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp trên địa bàn huyện văn lâm – hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.35 KB, 107 trang )

MỤC LỤC
L I M UỜ ỞĐẦ 1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
UBND Uỷ ban nhân dân
CHXHCNVN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
HĐND Hội đồng nhân dân
BCH Ban chấp hành
CN – XDCB Công nghiệp – xây dựng cơ bản
TM – DV Thương mại – dịch vụ
GTSX Giá trị sản xuất
ĐH Đại học
CĐ Cao đẳng
TC, CNKT Trung cấp, công nhân kỹ thuật
DANH MỤC CÁC BẢNG
L I M UỜ ỞĐẦ 1
L I M UỜ ỞĐẦ 1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong suốt nửa thể kỷ qua ở Việt Nam, công nghiệp hoá luôn là mục tiêu,
là hướng phát triển chủ đạo trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Cùng
với quá trình CNH, HĐH, nhiều diện tích đất đã bị thu hồi để phục vụ cho mục
đích phát triển kinh tế - xã hội nói chung và công nghiệp nói riêng, trong số đó
có nhiều diện tích đất nông nghiệp. Theo số liệu của Viện Nghiên cứu định cư
(Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn), hàng năm diện tích đất nông nghiệp
bị thu hồi cho phát triển công nghiệp là khoảng 70.000 ha, ảnh hưởng không
nhỏ đến đời sống của hàng chục nghìn hộ gia đình.
Văn Lâm là một huyện của tỉnh Hưng Yên, được xác định là một trong
các vùng kinh tế động lực quan trọng của tỉnh. Giáp với thủ đô Hà Nội, với
quốc lộ 5A chạy qua nên Văn Lâm đã và đang có nhiều lợi thế phát triển để
trở thành huyện công nghiệp. Gắn liền với quá trình công nghiệp hoá đang


diễn ra khá mạnh mẽ là việc thu hồi đất, mà chủ yếu là đất nông nghiệp để
phát triển các khu công nghiệp. Năm 2010 diện tích đất nông nghiệp bị thu
hồi lên đến 750.341 m
2
, làm ảnh hưởng đến việc làm của 5.702 lao động. Quá
trình xây dựng các khu công nghiệp đã và đang kéo theo hàng loạt những khó
khăn trong việc giải quyết việc làm cho người lao động nông nghiệp bị mất
đất. Vấn đề này nếu không được giải quyết một cách thấu đáo sẽ không chỉ
ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả của các công trình, mà sâu sa hơn nó còn
tiềm tàng những bất ổn cho xã hội.
Để đánh giá được thực trạng thu hồi đất và ảnh hưởng của nó tới việc
làm của lao động bị thu hồi đất nông nghiệp, từ đó đề ra một số giải pháp
nhằm giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn
huyện Văn Lâm, tôi đã triển khai nghiên cứu đề tài: “Giải pháp giải quyết
việc làm cho lao động bị thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu công
nghiệp trên địa bàn huyện Văn Lâm – Hưng Yên”.
1
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài:
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá một cách đúng đắn thực trạng giải quyết
việc làm cho lao động bị thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu công
nghiệp ở huyện Văn Lâm, đề xuất các giải pháp có căn cứ và có tính khả thi
nhằm giải quyết một cách căn bản việc làm cho lao động bị thu hồi đất nông
nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp trên địa bàn huyện những năm tới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về việc làm nói chung, việc làm cho
lao động bị thu hồi đất nông nghiệp nói riêng trên địa bàn huyện Văn Lâm.
- Đánh giá đúng thực trạng thu hồi đất nông nghiệp và việc làm của lao
động bị thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp có căn cứ để tiếp tục giải quyết

việc làm, ổn định cuộc sống cho lao động sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp
để xây dựng các khu công nghiệp trong những năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng việc làm và những giải pháp cơ
bản giải quyết việc làm cho lao động có đất nông nghiệp bị thu hồi để xây
dựng các khu công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá trên địa bàn huyện
Văn Lâm.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn như sau:
- Về phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng việc làm
của lao động có đất nông nghiệp bị thu hồi trên địa bàn huyện Văn Lâm.
- Về phạm vi thời gian:
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng, việc làm của lao động có đất
nông nghiệp bị thu hồi từ năm 2008 đến nay (2010). Đây là thời kỳ công
nghiệp hoá diễn ra nhanh chóng. Đồng thời, nhiều vấn đề bức xúc trong quá
trình thu hồi đất cũng nảy sinh chủ yếu trong thời gian này.
2
- Phạm vi về nội dung: đề tài tập trung chủ yếu nghiên cứu những biện
pháp đã và đang được thực hiện để giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi
đất nông nghiệp cũng như tiềm năng và điều kiện để giải quyết việc làm cho
lao động nông nghiệp bị thu hồi đất.
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm các chương sau đây:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết việc làm
cho lao động bị thu hồi đất nông nghiệp.
- Chương 2: Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động bị
thu hồi đất nông nghiệp ở huyện Văn Lâm – Hưng Yên.
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho lao
động bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Văn Lâm – Hưng Yên.
3
CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
BỊ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1. Việc làm và vai trò của việc làm
1.1.1. Khái niệm
Con người là động lực, động cơ, trung tâm của sự phát triển xã hội, với
nguồn lực của mình là trí lực và sức lực, con người chỉ có thể tham gia đóng
góp cho sự phát triển xã hội thông qua quá trình làm việc của mình. Quá trình
làm việc này được thể hiện qua hai yếu tố chủ quan và khách quan, đó là sức
lao động của người lao động và tất cả các điều kiện tối thiểu cần thiết để
người lao động sử dụng sức lao động của họ tác động lên tư liệu sản xuất và
tạo ra sản phẩm xã hội. Quá trình kết hợp sức lao động và các điều kiện cần
thiết để sử dụng sức lao động là quá trình người lao động làm việc. Quá trình
lao động đồng thời là quá trình sử dụng sức lao động trong công việc (hay là
việc làm, chỗ làm việc).
Theo điều 13, chương II Bộ Luật Lao động nước CHXHCN Việt Nam
có ghi rõ: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật
cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Theo khái niệm trên một hoạt động được coi là việc làm cần thoả mãn
hai điều kiện:
- Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động
và cho các thành viên trong gia đình. Điều này chỉ rõ tính hữu ích và nhấn
mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm.
- Hai là, hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cám. Điều này chỉ rõ tính
pháp lý của việc làm.
Các hoạt động lao động được xác định là việc làm bao gồm:
- Tất cả các hoạt động tạo ra của cải vật chất hay tinh thần, không bị
4
pháp luật cấm, được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật.
- Những công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc thu nhập

cho gia đình mình, nhưng không được trả công (bằng tiền hoặc hiện vật) cho
công việc đó. Đó có thể là các công việc trong các cơ sở sản xuất kinh doanh
thuộc sở hữu tư nhân của gia đình, các công việc nội trợ, chăm sóc con cái,
đều được coi là việc làm.
Trong nền kinh tế, người có sức lao động nói chung luôn có nhu cầu việc
làm để tạo nguồn thu nhập, đảm bảo cuộc sống. Người có việc làm là những
người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế đang làm
công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc lợi nhuận bằng tiền hay hiện vật
hoặc đang làm công việc không được hưởng tiền lương, tiền công hay lợi
nhuận trong các công việc sản xuất kinh doanh, công việc nội trợ, chăm sóc
con cái của hộ gia đình. Khái niệm người có việc làm còn bao gồm những
người có sức lao động, có việc làm nhưng chưa chấp nhận làm việc, hoặc
chưa sẵn sàng làm việc, thậm chí không chịu làm việc. Trên thực tế, do phân
biệt người có việc làm không chịu làm việc và người không có việc làm thực
sự có những khó khăn nên những đối tượng này được liệt kê vào những người
không có việc làm. Cách thức này tuy có tiện về thống kê, nhưng không phản
ánh chính xác thực tiễn.
Trong số người có việc làm, căn cứ vào số giờ thực tế làm việc và nhu
cầu làm thêm của người được coi là có việc làm, người ta lại chia ra thành
người đủ việc làm và người thiếu việc làm.
Điều 68, chương VII, Bộ Luật Lao động nước CHXHCN Việt Nam có
quy định: “Thời giờ làm việc không quá 8 giờ trong một ngày hoặc 48 giờ
trong một tuần. Người sử dụng lao động có quyền quy định thời giờ làm việc
theo ngày hoặc tuần, nhưng phải thông báo trước cho người lao động biết.
Thời giờ làm việc hàng ngày được rút ngắn từ một đến hai giờ đối với những
5
người làm các công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh
mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.”
Theo đó, người đủ việc làm gồm những người làm việc đủ thời gian quy
định là có số giờ làm việc trong tuần lễ lớn hơn hoặc bằng 48 giờ; hoặc những

người có số giờ nhỏ hơn 48, nhưng không có nhu cầu làm thêm; hoặc những
người có số giờ làm việc nhỏ hơn 48, nhưng bằng hoặc lớn hơn giờ quy định
đối với những người làm các công trình nặng nhọc, độc hại theo quy định
hiện hành.
Người thiếu việc làm là những người có tổng số giờ làm việc trong 1
tuần dưới 48 giờ, hoặc có số giờ làm việc nhỏ hơn quy định đối với những
người làm công việc nặng nhọc, độc hại theo quy định hiện hành của nhà
nước, có nhu cầu làm thêm giờ và đã sẵn sàng làm việc nhưng không có việc
để làm.
Bên cạnh nhóm người có việc làm, còn tồn tại nhóm người không có
việc làm. Đó là những người thất nghiệp.
Thất nghiệp là sự tồn tại của một bộ phận lực lượng lao động có khả
năng và sẵn sàng làm việc nhưng không tìm được việc làm.
Theo quy định của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thì: “Người
thất nghiệp là những người đủ từ 15 tuổi trở lên, có nhu cầu làm việc nhưng
không có việc làm trong tuần lễ điều tra, và tính đến thời điểm điều tra có đi
tìm việc trong 4 tuần lễ qua hoặc không đi tìm việc trong 4 tuần lễ qua với lý
do chờ việc, nghỉ thời vụ, không biết tìm việc ở đâu hoặc trong tuần lễ trước
điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 48 giờ, muốn làm thêm nhưng không
tìm được việc”.
1.1.2. Vai trò của việc làm
Việc làm có vai trò quan trọng quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã
hội. Vì sự phát triển kinh tế phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng các nguồn lực
6
như tài nguyên, vốn, lao động, công nghệ, trong đó việc sử dụng lao động có
vai trò quan trọng và quyết định tới sự phát triển.
Qua việc làm ta có thể đánh giá được sự phát triển của nông thôn về nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực cụ thể như an sinh xã hội, trình độ phát triển của dân cư,
trình độ học hành… Ở nông thôn, tỷ lệ người có việc làm thường xuyên cao thì
cuộc sống của người dân sẽ ổn định, giảm bớt các tệ nạn xã hội mang lại do lao

động không có việc làm gây ra như chơi bời cờ bạc, nghiện hút ma tuý… Vì
thế, việc giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn sau khi bị thu hồi
đất càng trở nên cần thiết. Giải quyết tốt vấn đề này không những góp phần
phát triển kinh tế xã hội mà còn giúp người dân lao động nông thôn giảm bớt
việc bị lôi kéo vào các hoạt động không lành mạnh trong xã hội.
Việc làm thường xuyên giúp cho người dân có đời sống thu nhập ổn
định, giúp cho họ có khả năng dễ dàng tiếp cận với khoa học công nghệ hiện
đại, đồng thời nâng cao khả năng nhận thức của người dân.
Việc làm cho lao động nông thôn sẽ góp phần thúc đẩy cơ sở hạ tầng
ngày càng phát triển theo hướng ngày càng hoàn thiện. Tạo ra sự thu hẹp
khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.
Việc làm còn giúp cho người lao động cải tạo bản thân, thông qua những
quy định, nguyên tắc trong công việc mà người lao động sẽ sống có ý thức,
trách nhiệm hơn đối với bản thân và cộng đồng xung quanh. Việc làm cũng
làm cho người lao động hoà nhập với cộng đồng thông qua hoạt động lao
động tập thể và các mối quan hệ xã hội. Qua người lao động có thể tiếp thu,
nâng cao trình độ văn hoá, các kỹ năng sống… thậm chí tìm được công việc
mới phù hợp hơn, có thu nhập cao hơn, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của bản thân và gia đình.
Đối với người nông dân đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, rất quan
trọng. Giờ đây, khi đất canh tác của người nông dân bị quy hoạch làm khu
7
công nghiệp khu đô thị làm cho nông dân rơi vào tình trạng tư liệu sản xuất bị
mất hoặc giảm đi. Trong khi, họ là những người thường rất dễ bị tổn thương
trước sự chi phối của quy luật thị trường. Cùng với tâm lý lo sợ rủi ro, lối tư
duy “ăn chắc, mặc bền”, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún càng làm cho cơ hội tìm
kiếm việc làm của người nông dân càng trở nên khó khăn. Do đó, tạo việc làm
cho nông dân là rất cần thiết, nhất là những nông dân bị mất đất canh tác.
1.2. Phát triển các Khu công nghiệp và vấn đề giải quyết việc làm cho lao
động bị thu hồi đất nông nghiệp

1.2.1. Tính tất yếu của xu thế phát triển các Khu công nghiệp trong quá
trình công nghiệp hoá
Hiện đang có nhiều quan niệm về khu công nghiệp. Có quan niệm cho
rằng, khu công nghiệp là một vùng đất được phân chia theo hệ thống nhằm
cung cấp mặt bằng cho các ngành công nghiệp. Có quan niệm coi khu công
nghiệp như một khu đô thị công nghiệp hay thành phố công nghiệp, ngoại
việc cung cấp cơ sở hạ tầng, tiện ích công cộng, khu công nghiệp còn bao
gồm khu thương mại, dịch vụ, hành chính, nhà ở cho người lao động… ngoài
hàng rào khu công nghiệp.
Theo nghị định 36 – CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ, khu công nghiệp
là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định (có tường
rào bao quanh) không có dân cư sinh sống, do các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền quyết định thành lập.
Từ khi xuất hiện các khu công nghiệp cho đến nay, thực tế đã cho chúng
ta thấy vai trò hết sức quan trọng của chúng trong nền kinh tế, đặc biệt là đối
với các nước đang phát triển thường thiếu vốn và kỹ thuật. Việc tập trung các
doanh nghiệp sản xuất trong khu công nghiệp đã thu hút được nguồn vốn lớn
từ nước ngoài, cũng như sự tập trung được nguồn vốn trong nước, tạo điều
8
kiện đưa kỹ thuật mới vào sản xuất, thúc đẩy chuyển giao và tiếp thu tiến bộ
khoa học công nghệ, xây dựng các ngành mũi nhọn và nâng cao vị trí chủ đạo
của công nghiệp trong nền kinh tế đảm bảo tăng trưởng bền vững.
Việc phát triển các khu công nghiệp ngoài việc giúp giải quyết khó khăn
về vốn, việc làm còn giúp chính phủ nước sở tại học tập kinh nghiệm quản lý
tiên tiến, khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của nước mình, mở ra khả năng
phát triển công nghiệp theo hướng hiên đại hoá, góp phần thực hiện chính
sách mở cửa nền kinh tế, hoà nhập với kinh tế thế giới.
Các doanh nghiệp khi tham gia vào các khu công nghiệp sẽ làm tăng khả
năng cạnh tranh, khuyến trương nhãn hiệu hàng hoá của mình. Giúp nước chủ

nhà xuất khấu được vốn, chuyển giao được những công nghệ đã lỗi thời để
kéo dài vòng đời của sản phẩm.
Sự xuất hiện của các khu công nghiệp còn giúp cho nước sở tại tăng
cường xuất khẩu, thu được nhiều ngoại tệ, phân bố lại các khu vực sản xuất,
chuyển dời các khu vực sản xuất từ thành phố ra ngoại thành, thực hiện đô thị
hoá nông thôn, cải tạo môi trường sống cho dân cư đô thị, tạo thêm nhiều việc
làm cho lao động nông thôn.
Do có những vai trò hết sức to lớn đối với phát triển kinh tế xã hội nên từ
khi ra đời các khu công nghiệp đã phát triển mạnh mẽ tại hầu hết các quốc gia
trên thế giới.
Hiện nay, CNH, HĐH là con đường phát triển của mọi quốc gia trên thế
giới. Thực tiễn của nhiều quốc gia cho thấy, CNH, HĐH là nhân tố quyết định
làm thay đổi căn bản phương hướng sản xuất, chuyển nền kinh tế từ sản xuất
nông nghiệp truyền thống sang phương thức sản xuất mới, hiện đại.
Về thực chất, CNH, HĐH là quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng
phát triển mạnh khu vực công nghiệp, dịch vụ và chuyển dịch cơ cấu lao động
đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, tăng nhanh lao động làm công nghiệp và dịch
9
vụ, giảm mạnh lao động làm nông nghiệp. Công nghiệp hoá diễn ra đồng thời
với phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, khu kinh tế mở, khu công nghiệp
tập trung…
Sự hình thành các trung tâm công nghiệp, các khu công nghiệp tập trung
ở mỗi vùng nhằm đáp ứng các nhu cầu của sản xuất, đời sống ngày càng tăng
của chính vùng đó và là hạt nhân lan toả sang các vùng khác là yếu tố khách
quan. Đó cũng là biểu hiện của tính tập trung hoá trong các hoat động sản
xuất kinh doanh. Tuy nhiên, quy mô sản xuất phụ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế - xã hội và quy mô dân số của vùng để đảm bảo sự hoạt động có
hiệu quả.
CNH, HĐH ở một nước nông nghiệp như nước ta thì nội dung quan
trọng nhất là chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, giảm lao động

nông thôn. Đặc biệt, quá trình CNH, HĐH luôn gắn liền với việc xây dựng và
phát triển các khu công nghiệp khu chế xuất. Tính đến năm 2010, cả nước có
255 khu công nghiệp và khu chế xuất đã được thành lập với tổng diện tích đất
tự nhiên 69.253 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt trên
45.000 ha, chiếm khoảng 65% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó 171 khu
công nghiệp đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 43.508 ha và
84 khu công nghiệp đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây
dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự nhiên 25.673 ha.
1.2.2. Thu hồi đất xây dựng Khu công nghiệp
Quá trình mở cửa nền kinh tế hội nhập với khu vực và thế giới đã và
đang có những tác động đáng kể tới nền kinh tế, làm chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, kéo theo sự thay đổi về cơ cấu lao động của các ngành, các lĩnh vực trong
nền kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người lao động nước ta. Đặc
biệt, ngày 7/11/2006, nước ta đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Đây là một sự kiện trọng đại mang tính
10
lịch sử, mở ra cho nước ta những thời cơ mới, thuận lợi mới, tạo điều kiện
thúc đẩy quá trình CNH, HĐH của đất nước.
Công nghiệp hoá và đô thị hoá có mối quan hệ khá chặt chẽ, tốc độ công
nghiệp hoá càng nhanh thì trình độ đô thị hóa càng được đẩy nhanh và ngược
lại. Sự hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp tập trung
với quy mô lớn, khu kinh tế mở, các công trình công cộng, các cơ sở hạ
tầng… đòi hỏi phải dành ra một bộ phận lớn đất đai, trong đó chủ yếu là đất
nông nghiệp. Như vậy, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
theo hướng CNH, HĐH, đô thị hóa thì sự giảm sút một bộ phận khá lớn đất
nông nghiệp là một tất yếu khách quan.
Đất khu công nghiệp bao gồm đất để xây dựng cụm công nghiệp, khu
công nghiệp, khu chế xuất và các khu sản xuất, kinh doanh tập trung khác có
cùng chế độ sử dụng đất.
Đất đai là yếu tố đầu vào quan trọng, làm địa điểm, làm cơ sở của các

khu công nghiệp. Ngành công nghiệp không thể hình thành, hoạt động và phát
triển khi không có đất đai, không có địa điểm hoạt động. Đất đai cung cấp
một số yếu tố đầu vào trực tiếp cho các ngành công nghiệp như: các tài
nguyên trong lòng đất, trên bề mặt đất. Đất đai còn cung cấp một số nguyên
liệu gián tiếp cho công nghiệp thông qua các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Đất đai còn là nơi xây dựng các công trình, cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt
động của ngành công nghiệp: hệ thống điện, nước, giao thông, thông tin liên
lạc… Sự phát triển nhanh chóng của các công ngành công nghiệp đòi hỏi mở
rộng quy mô, diện tích đất đai dành cho các nhu cầu này.
Việc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội… phục vụ lợi ích quốc gia ở nước ta được tiến hành
mạnh mẽ từ khi thực hiện đường lối đổi mới, chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
11
chủ nghĩa. Quá trình này được thúc đẩy nhanh hơn từ những năm 1990, khi
nền kinh tế nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH. Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX đã xác định rõ: Đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền
kinh tế tự chủ… tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp hiện đại.
Định hướng cơ cấu sử dụng đất là vấn đề quan trọng đối với tổ chức
không gian kinh tế - xã hội và tạo nguồn vốn từ quỹ đất cho phát triển. Cơ cấu
sử dụng đất được hoạch định theo nguyên tác đảm bảo hiệu quả sử dụng cao,
cần đến đâu sử dụng đến đó, hạn chế tối đa lấy đất nông nghiệp, nhất là đất
lúa nước để sử dụng cho các khu công nghiệp và kết cấu hạ tầng, đô thị và các
yêu cầu phi nông nghiệp khác. Một khi bắt buộc phải dùng đất nông – lâm
nghiệp vào mục đích khác thì cần có đầu tư để chuyển đất hoang hoá chưa sử
dụng bù vào đất nông – lâm nghiệp đã mất. Hạn chế tối đa việc chuyển đổi
mục đích sử dụng các vùng đất màu mỡ thuận lợi cho nông nghiệp sang đất
phi nông nghiệp, khuyến khích chuyển mục đích sử dụng những vùng đất đồi,
đất mà sản lượng lương thực thấp, giữ đất nông nghiệp cho năng suất cao, đất

trồng lúa nhiều vụ để đảm bảo vấn đề an ninh lương thực. Trừ trường hợp
không có đất nào khác mà địa phương bắt buộc phải phát triển công nghiệp
thì mới tính toán một phần đất hạn chế nào đó.
Điều 32, Luật đất đai 2003 quy định được phép chuyển đổi mục đích sử
dụng đất đối với 5 trường hợp: chuyển đổi đất chuyên trồng lúa sang sử dụng
vào mục đích khác dẫn tới làm mất ruộng lúa; chuyển đất lâm nghiệp có rừng
sang sử dụng vào mục đích khác; chuyển đất nông nghiệp sang sử dụng vào
mục đích phi nông nghiệp; chuyển đất phi nông nghiệp không thu tiền sử
dụng đất sang làm đất phi nông nghiệp có thu tiền sử dụng đất; chuyển đất
không phải đất ở sang làm đất ở. Việc sử dụng đất để xây dựng khu công
12
nghiệp phải phù hợp với quy hoạch sử dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất
chi tiết, quy hoạch chi tiết xây dựng khu công nghiệp đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xét duyệt. Quy hoạch chi tiết xây dựng khu công nghiệp
phải đảm bảo đồng bộ với quy hoạch nhà ở, công trình công cộng phục vụ đời
sống người lao động làm việc trong khu công nghiệp. Nhà nước thực hiện
việc thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế: đầu tư xây dựng
khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế và các dự án đầu tư lớn theo
quy định của Chính phủ.
Hơn nữa, thực hiện theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng ta là
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp,
tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, do vậy diện tích đất nông
nghiệp phải thu hẹp để mở rộng các ngành khác. Bởi vậy, thu hồi đất nông
nghiệp chính là để phục vụ cho sự phát triển của các ngành khác.
Việc thu hồi đất không diễn ra đồng đều ở các địa phương mà chỉ tập
trung ở một số vùng có điều kiện thuận lợi, nhất là gần các sân bay, bến cảng,
các đầu mối giao thông đường sắt và đường bộ, gần các trung tâm kinh tế lớn
của của cả nước. Mức độ thu hồi đất cũng còn phụ thuộc lớn vào những tỉnh,
thành phố có đội ngũ cán bộ có năng lực, năng động, sáng tạo và có chính
sách cởi mở, phù hợp với xu thế phát triển của địa phương.

Việc thu hồi đất ở nước ta trong những năm gần đây là sự chuyển đổi
mục đích sử dụng đất. Nhờ có thu hồi đất, chúng ta đã xây dựng được nhiều
khu công nghiệp, các cụm công nghiệp, mở rộng và xây dựng các khu đô thị,
hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội… Chính điều đó đã làm cho quá trình CNH,
HĐH có những bước tiến đáng kể.
1.2.3. Mối quan hệ giữa việc thu hồi đất với việc làm của lao động nông nghiệp
Như đã nêu trên, để công nghiệp đại hoá, hiện đại hoá, việc thu hồi đất
chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất xây dựng, đất
13
chuyên dùng cho các khu công nghiệp… là tất yếu. Việc thu hồi đất này làm
nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế - xã hội, trong đó có một vấn đề nổi cộm và bức
xúc nhất thu hút sự quan tâm của toàn xã hồi là vấn đề ảnh hưởng của việc
thu hồi đất tới việc làm của người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi để xây
dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Đối với lao động nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, không
thể thay thế được. Việc chuyển một bộ phận đất nông nghiệp thành đất sử
dụng cho sản xuất công nghiệp, dịch vụ làm cho những người dân vốn sinh
sống trên bộ phận ruộng đất này không còn tư liệu sản xuất chính để đảm bảo
cuộc sống, họ mặc nhiên trở thành người thất nghiệp. Khi bị thu hồi đất, họ
không những phải chuyển nơi ở mà còn phải chuyển đổi nghề nghiệp mà cả
mấy đời gắn bó. Vì vậy, vấn đề việc làm đối với người dân bị thu hồi đất là
vấn đề nan giải cần được giải quyết trong thời gian sớm nhất.
Từ góc độ lao động và việc làm, CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi cơ
cấu lao động và việc làm từ các hoạt động nông nghiệp sang các hoạt động
công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Khi các khu công nghiệp, khu đô thị mở
rộng ra các vùng ngoại vi, các khu dân cư ở ngoại vi sẽ hình thành và các hoạt
động công nghiệp, thương mại, dịch vụ sẽ phát triển. Nông thôn sẽ là nơi có
sự thay đổi mạnh mẽ về hoạt động công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Những lao động nông nghiệp khi bị thu hồi đất canh tác, họ sẽ được Nhà
đầu tư đền bù một khoản tiền. Với số tiền đó, họ dùng để tạo nghề mới, tìm

việc mới… và có rất nhiều vấn đề khác cũng thay đổi theo.
Người lao động cần việc làm, họ muốn có thu nhập, có tiền công kiếm
được từ công việc, vì vậy họ cung cấp sức lao động của mình. Các ngành kinh
tế vận hành quá trình sản xuất để đạt hiệu quả với sự tham gia của người lao
động. Người lao động cũng là đối tượng tiêu dùng các loại hàng hoá, dịch vụ
do các ngành kinh tế sản xuất ra. Vì vậy, các ngành cần lao động để phát triển
14
cũng như người lao động cần cung cấp sức lao động của mình.
Sự phát triển của các khu công nghiệp sẽ tạo ra một lượng lớn việc làm,
thu hút và làm giảm đáng kể lao động nông nghiệp không có việc làm. Tuy
nhiên, nhìn từ giác độ khác thì khi gia tăng quy mô các khu công nghiệp, thu
hồi thêm nhiều đất nông nghiệp cũng sẽ làm cho một lực lượng đáng kể lao
động nông nghiệp bị mất việc làm, dẫn tới gia tăng tình trạng thất nghiệp.
Nguyên nhân của tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của nông dân bị thu
hồi đất một phần là do sự phát triển các ngành công nghiệp, thương mại và
dịch vụ chưa đáp ứng đủ nhu cầu giải quyết việc làm cho người lao động. Mặt
khác, do chính bản thân người lao động, vốn xuất phát từ nông dân, có nhiều
hạn chế về năng lực, trình độ văn hoá, do lớn tuổi, chưa thích ứng với công
việc mới, không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Điều này gây
khó khăn cho cuộc sống của chính bản thân người lao động, đồng thời cũng
gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thu hút lao động và ổn định sản
xuất. Do chỉ có một bộ phận lao động có đủ năng lực, trình độ được tuyển
dụng vào làm việc trong các khu công nghiệp, nên phần lớn lao động còn lại
chưa tìm được việc làm thích hợp. Để giải quyết việc làm cho số lao động thất
nghiệp này cần có chính sách đào tạo phù hợp để nâng cao năng lực, trình độ
để tìm được việc làm thích hợp trong các khu công nghiệp, hoặc tạo việc làm
cho họ qua các ngành nghề nông thôn… Hiện nay, nhiều địa phương đã xây
dựng được các trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm dạy nghề…
nhưng chưa đủ đáp ứng nhu cầu được đào tạo và giải quyết việc làm cho
người lao động do quy mô và chất lượng đào tạo còn nhiều hạn chế.

1.2.4. Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp sau
khi bị thu hồi đất
Cùng với quá trình CNH, HĐH đang diễn ra một cách mạnh mẽ, là sự
xuất hiện ngày càng nhiều các khu công nghiệp, khu chế xuất khiến cho diện
15
tích đất sản xuất nông nghiệp ở các địa phương bị thu hẹp. Việc chuyển một
bộ phận đất nông nghiệp thành đất sử dụng cho sản xuất công nghiệp, dịch vụ
làm cho những người dân vốn sinh sống trên bộ phận ruộng đất này không
còn tư liệu sản xuất chính để đảm bảo cuộc sống. Điều này đòi hỏi Nhà nước
phải có chủ trương, chính sách và các biện pháp giải quyết việc làm cho lao
động mất đất do quá trình CNH, HĐH. Cơ chế giải quyết việc làm, tạo việc
làm cần được xã hội hoá có sự tham gia của các bên như: người lao động bị
thu hồi đất, tổ chức sử dụng đất thu hồi, tổ chức sử lao động, tổ chức đào tạo
lao động và nhà nước Mỗi bên đều có nhiệm vụ chức năng riêng nhưng lại
có mối quan hệ chặt chẽ để công tác giải quyết việc làm đạt hiệu quả cao.
Công tác giải quyết việc làm cho lao động trong diện giải toả đất nông
nghiệp là cần thiết vì nó không chỉ giúp nền kinh tế phát triển mọi mặt, mà
còn làm xã hội ổn định. Lao động có việc làm đầy đủ sẽ làm giảm thất nghiệp
và các tệ nạn xã hội. Đời sống của người dân sẽ được ổn định, chất lượng
cuộc sống sẽ được nâng cao, giảm gánh nặng cho xã hội và chính phủ.
Công tác giải quyết việc làm cho lao động thuộc diện bị giải toả đất nông
nghiệp là làm giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp và tăng tỉ trọng lao
động trong các ngành công nghiệp – xây dựng, thương mại – dịch vụ. Giải
quyết việc làm cho lao động mất đất trong quá trình xây dựng các khu công
nghiệp là một vấn đề kinh tế - xã hội luôn được đặt ra và đòi hỏi đồng thời
giải quyết cùng với quá trình CNH, HĐH của cả nước.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới giải quyết việc làm cho người lao động
1.3.1. Điều kiện tự nhiên
Vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động chịu tác động rất nhiều
của điều kiện tự nhiên. Trước hết phụ thuộc vào các nhân tố chủ yếu sau:

Vị trí địa lý: vị trí địa lý của địa phương là điều kiện tiên quyết tới sự phát
triển và cơ cấu của các ngành kinh tế. Khi địa phương có vị trí địa lý thuận lợi về
16
giao thông, thông tin liên lạc, điện, nước thì các nhà đầu tư sẽ có điều kiện
thuận lợi hơn trong trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đồng thời tiết kiệm được
nhiều chi phí trong quá trình đầu tư cũng như khi doanh nghiệp đi vào hoạt
động. Địa phương mà thu hút được càng nhiều nhà đầu tư thì nền kinh tế của địa
phương càng phát triển. Sự phát triển của các ngành kinh tế sẽ tạo nhiều việc làm
cho người lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động của địa phương.
Ngược lại, nếu vị trí địa lý không thuận lợi về giao thông, thông tin liên
lạc sẽ làm mất nhiều thời gian, chi phí của nhà đầu tư thì địa phương sẽ
không thu hút nhà đầu tư. Khi đó, nền kinh tế của địa phương sẽ mất đi nhiều
cơ hội phát triển mà người lao động cũng không có thêm việc làm. Để thu hút
được sự quan tâm của nhà đầu tư, địa phương nên khắc phục nhược điểm của
vị trí địa lý bằng cách xây dựng các chính sách phát triển kinh tế sao cho có
lợi hơn cho các nhà đầu tư, xây dựng hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng
đồng bộ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư khi thực hiện dự án tại
địa phương từ đó mà tạo thêm việc làm cho người lao động.
Diện tích đất đai: địa phương quỹ đất lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
các ngành kinh tế phát triển mạnh hơn, tạo thêm nhiều việc làm cho lao động.
Mặt khác khi tiến hành thu hồi đất nông nghiệp để chuyển đổi mục đích sử
dụng mà địa phương có diện tích đất nông nghiệp lớn, có quỹ đất dự phòng
thì có thể đền bù cho người dân bằng đất cùng loại ở vị trí khác, làm cho
người dân có đất bị thu hồi vẫn có thể tiếp tục sản xuất nông nghiệp và không
bị ảnh hưởng đến việc làm. Còn nếu địa phương không có quỹ đất dự phòng
để đền bù cho người dân thì phải có chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ để giải
quyết việc làm cho người lao động.
Khí hậu, thời tiết: khí hậu, thời tiết nhìn chung có ảnh hưởng tới sự phát
triển của nhiều ngành kinh tế, tuy nhiên tuỳ thuộc theo từng ngành mà mức độ

17
ảnh hưởng có khác nhau. Nông nghiệp là ngành sản xuất gắn liền với điều
kiện tự nhiên, vì vậy khí hậu và thời tiết có ảnh hưởng rõ rệt đến sản xuất
nông nghiệp. Tại những vùng có khí hậu, thời tiết thuận lợi sẽ tạo điều kiện
cho việc phát triển các loại cây, con đồng thời mở rộng quy mô của sản xuất,
tạo nên những vùng chuyên canh, sản xuất hàng hoá lớn, từ đó thu hút được
nhiều lao động tham gia, giải quyết được nhiều việc làm cho lao động trong
lĩnh vực nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp phát triển cũng sẽ thu hút các
ngành công nghiệp chế biến sử dụng nguyên liệu vào từ sản phẩm đầu ra của
nông nghiệp phát triển, tạo thêm nhiều việc làm cho lao động địa phương.
Ngược lại, thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, không thuận lợi sẽ làm giảm quy mô
sản xuất, trường hợp thiên tai, bão lũ còn ảnh hưởng tới kết quả cuối cùng của
người lao động. Tại những địa phương đó, cần chú trọng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, dịch vụ
để tạo việc làm cho người lao động.
Tài nguyên, khoáng sản: tài nguyên, khoáng sản ảnh hưởng rất mạnh
mẽ đến sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp. Địa phương nào có
nhiều tài nguyên, khoáng sản sẽ có các ngành công nghiệp khai thác phát triển
mạnh mẽ. Theo đó còn có sự phát triển của các ngành vận tải, dịch vụ giúp
cho kinh tế địa phương phát triển, giải quyết việc làm cho người lao động.
1.3.2. Điều kiện kinh tế
Điều kiện kinh tế, ở đây được hiểu là trình độ phát triển kinh tế, là
một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến việc làm của người lao động.
Điều kiện kinh tế ở trình độ cao thì các ngành kinh tế sẽ phát triển mạnh, tạo
ra nhiều việc làm cho người lao động.
Trình độ phát triển kinh tế của địa phương được thể hiện rõ nhất qua
tổng giá trị sản xuất và cơ cấu các ngành kinh tế của địa phương đó. Địa
phương có nền kinh tế phát triển thì trong cơ cấu kinh tế các ngành công
18
nghiệp, thương mại, dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng cao. Sự phát triển của các

ngành này sẽ sử dụng rất nhiều lao động, vì nếu 1 ha đất nông nghiệp chỉ cần 1
– 2 lao động để tiến hành sản xuất thì nay đối với 1 ha đất dành cho phát triển
công nghiệp, dịch vụ thì cần nhiều lao động hơn, từ đó vấn đề giải quyết việc
làm cho người lao động sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn. Khi địa phương
có nền kinh tế phát triển, lĩnh vực nông nghiệp cũng sẽ phát triển theo hướng
sản xuất hàng hoá thu hút nhiều lao động nông nghiệp tại địa phương. Do
trồng lúa chỉ cần 1 – 2 lao động/ha thì nay khi chuyển sang trồng hoa, cây công
nghiệp… thì lượng lao động cần nhiều hơn vì các khâu sản xuất đòi hỏi cao hơn.
Khi nền kinh tế của địa phương không phát triển hoặc phát triển chậm
sẽ dẫn đến sản xuất bị đình đốn và thu hẹp, nhu cầu sử dụng lao động cũng bị
thu hẹp theo, từ đó công tác giải quyết việc làm sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Mặt khác, kinh tế không phát triển hoặc phát triển chậm còn là nguyên nhân
dẫn tới phát triển chậm về giáo dục đào tào. Giáo dục đào tạo phát triển chậm
sẽ làm cho chất lượng lao động thấp, làm giảm cơ hội có việc làm của người
lao động.
1.3.3. Điều kiện xã hội
Điều kiện xã hội là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng có việc
làm của người lao động. Có rất nhiều nhân tố xã hội ảnh hưởng tới giải quyết
việc làm cho người lao động.
Dân số: dân số vừa là yếu tố của sản xuất, vừa là yếu tố của tiêu dùng.
Quy mô dân số tăng thì cầu hàng hoá và dịch vụ tăng. Khi đó, nguồn cung sản
xuất cũng tăng lên, đa dạng hoá các ngành nghề hoạt động do cung và cầu
luôn có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Các ngành nghề phát triển sẽ
sử dụng nhiều lao động và mở ra cơ hội việc làm cho người lao động.
Cơ cấu dân số cũng quyết định tiêu dùng. Tuỳ thuộc vào sở thích, giới
tính, tâm lý, dân tộc, nhu cầu tiêu dùng của mỗi người là khác nhau. Để lượng
hàng hoá sản xuất bán ra có người mua, các doanh nghịêp buộc phải quan tâm
19
đến nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng. Nếu lượng hàng hoá bán ra nhiều, các
nhà sản xuất phải tăng thêm công lao động, ngược lại, nếu không có người

mua, các doanh nghiệp buộc phải sa thải một số lượng lao động để cân bằng
chi phí sản xuất nhằm chánh tình trạng lỗ vốn. Quá trình di dân cũng làm cho
dân số ở từng nơi thay đổi. Khi cơ cấu dân số thay đổi sẽ dẫn đến nhu cầu tiêu
dùng hàng hoá ở từng nơi thay đổi. Những vùng có người di dân di cư đến
nhiều sẽ buộc phải tăng thêm lượng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của người
dân, từ đó tăng thêm nhiều ngành nghề mới, góp phần tạo ra nhiều chỗ làm
mới. Trong khi những vùng có dân di cư đi lại phải giảm số lượng sản xuất
xuống dẫn đến tình trạng lao động bị thất nghiệp.
Chất lượng lao động: chất lượng lao động cũng là một tố đặc biệt quan
trọng ảnh hưởng đến quá trình tạo việc làm cho người lao động. Trong thời
đại CNH, HĐH các doanh nghiệp ngày càng phát triển, việc đòi hỏi lao động
có sực khoẻ, trình độ chuyên môn tay nghề cao để đáp ứng được yêu cầu của
công việc đề ra là điều vô cùng cần thiết. Người lao động có trình độ mới có
nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm theo đúng nguyện vọng, mới có thể có được
thu nhập cao đáp ứng được nhu cầu cuộc sống. Người lao động cần tuỳ thuộc
vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mình, tham gia các hoạt động giáo dục,
đào tạo, nâng cao tay nghề để có thêm kinh nghiệm, kiến thức và nhận thức.
Điều đó mới có thể nâng cao vị thế bản thân mỗi lao động.
Môi trường xã hội, an ninh trật tự: vấn đề giải quyết việc làm cho người
lao động phụ thuộc rất nhiều vào môi trường xã hội, an ninh trật tự. Môi trường
xã hội tốt, người lao động sẽ có điều kiện chăm sóc sức khoẻ, học tập nâng cao
trình độ văn hoá, chuyên môn từ đó mà nâng cao khả năng giải quyết việc làm
của người lao động. Tình hình an ninh trật tự tốt sẽ giúp cho người dân yên tâm
học tập văn hoá chuyên môn, chú trọng sản xuất giúp cho sản xuất phát triển,
mở ra thêm nhiều cơ hội việc làm cho người lao động. An ninh trật tự tốt cũng
20
sẽ tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, thu hút họ đến đầu tư phát triển sản xuất ở
địa phương, mở ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động.
1.3.4. Chính sách và cơ chế của nhà nước
Cơ chế chính sách của chính phủ quốc gia, của chính quyền địa phương,

các quy định của chủ doanh nghiệp là nhóm nhân tố quan trọng tạo việc làm
cho người lao động. Trong mỗi thời kỳ khác nhau, chính phủ sẽ đề ra những
chính sách cụ thể, tạo hành lang pháp lý cho phát triển sản xuất, cải thiện đời
sống, mở rộng hoặc thu hẹp việc làm của ngành này hay ngành khác, tạo môi
trường để người sử dụng lao động và người lao động gặp nhau. Chẳng hạn,
chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế, do
đó cơ cấu lao động theo ngành kinh tế, theo vùng cũng thay đổi.
Đảng ta đã xác định phương hướng cơ bản là: “Nhà nước cùng toàn dân
ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương trình kinh tế xã
hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân mọi nhà đầu tư mở
mang ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được
tự do hành nghề, thuê mướn lao động theo pháp luật. Phát triển dịch vụ việc
làm, tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư
trên các địa bàn có tính chiến lược về kinh tế, an ninh, quốc phòng. Mở rộng
kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động”.
Trong Bộ luật lao động của nước ta quy định: “Người lao động có quyền
làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và bất kỳ chỗ nào mà pháp
luật không cấm” (khoản 1, điều 16). Điều 13 ghi rõ: “Giải quyết việc làm, bảo
đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách
nhiệm của nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội”.
Chính sách việc làm có mối quan hệ biện chứng với các chính sách xã hội
và các chính sách kinh tế. Thực hiện tốt chính sách việc làm thì nguồn lao động
21
được sử dụng hiệu quả, thất nghiệp sẽ giảm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm
bảo ổn định chính trị và xã hội. Ngược lại, khi chính sách việc làm chưa được
giải quyết tốt, nạn thất nghiệp sẽ tăng và các tệ nạn xã hội sẽ dễ dàng phát sinh,
gánh nặng của các chính sách bảo đảm an ninh, xã hội sẽ tăng lên.
Chính sách phát triển kinh tế tốt, sẽ thúc đẩy các thành phần kinh tế tích
cực tham gia sản xuất kinh doanh và hoạt động có hiệu quả, phát triển và đa
dạng hoá các ngành nghề, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động.

Bên cạnh đó, chính sách đào tạo và giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho người
lao động. Các cấp chính quyền cần đưa ra được các chính sách giải quyết việc
làm một các có hệ thống và đồng bộ, bao gồm: chính sách khuyến khích phát
triển những lĩnh vực, ngành nghề có khả năng thu hút nhiều lao động như chính
sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách xuất khẩu lao động, chính
sách khôi phục và phát triển các làng nghề Ngoài chính sách để tạo việc làm
mới, còn có những chính sách tránh cho người lao động đang làm việc bị mất
việc làm, chính sách trợ cấp thất nghiệp cho người lao động khi bị mất việc
làm. Một hệ thống các chính sách việc làm động bộ sẽ giúp cho công tác giải
quyết việc làm sẽ gặp nhiều thuận lợi và có kết quả tốt hơn.
1.4. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp bị thu hồi
đất nông nghiệp
1.4.1. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp bị thu hồi
đất của một số nước trên thế giới
* Kinh nghiệm của Nhật Bản
Quá trình công nghiệp hoá ở Nhật Bản cũng bắt đầu bằng thời gian dài
tăng trưởng trong nông nghiệp. Nhật Bản là nước luôn bị giới hạn bởi tài
nguyên đất đai ít và dân số đông, diện tích đất canh tác bình quân trên một hộ
22

×