Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

hoàn thiện kiểm toán hoạt động tín dụng của ktnb tại tổng công ty cp tài chính dầu khí việt nam (pvfc)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.18 KB, 127 trang )

MỤC LỤC
2.3.1.Những kết quả đạt được trong kiểm toán hoạt động tín dụng của PVFC x
KẾT LUẬN xvi
3.3.1.Những kết quả đạt được trong kiểm toán hoạt động tín dụng của PVFC 71
KẾT LUẬN 105
1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG
2.3.1.Những kết quả đạt được trong kiểm toán hoạt động tín dụng của PVFC x
CTTC Công ty tài chính
TCTD Tổ chức tín dụng
TCT Tổng công ty
Ban TGĐ Ban Tổng Giám đốc
BKS Ban Kiểm soát
HĐQT Hội đồng Quản trị
TGĐ Tổng giám đốc
KSNB Kiểm soát nội bộ
KTNB KTNB
KTV Kiểm toán viên nội bộ
KTV Kiểm toán viên
BCTC Báo cáo tài chính
NHNN Ngân hàng Nhà nước
PVN Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam
PVFC TCT Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam
IIA Viện Kiểm toán viên nội bộ (Institute of Internal
Auditor)
2
KẾT LUẬN xvi
3.3.1.Những kết quả đạt được trong kiểm toán hoạt động tín dụng của PVFC 71
KẾT LUẬN 105


BIỂU
Biểu đồ 2.1: Số dư tín dụng qua các năm Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.2: Diễn biến nợ nhóm 2-5 từ 2008 - 2010.Error: Reference source not
found
Biểu đồ 2.3: Diễn biến nợ xấu từ 2008 - 2010 Error: Reference source not found
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Mô hình KTNB Error: Reference source not found
Sơ đồ 1.2: Quy trình kiểm toán nội bộ Error: Reference source not found
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức KTNB PVFC Error: Reference source not found
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động tín dụng tại các TCTD là một trong những hoạt động kinh doanh
chứa đựng nhiều rủi ro nhất, đặc biệt là trong giai đoạn nền kinh tế có nhiều biến
động hiện nay. Các CTTC hay các TCTD nói chung đều chịu một áp lực rất lớn
trong việc nhận biết các rủi ro mà mình đang phải đối mặt và phải lý giải được cách
thức làm thế nào để kiểm soát các rủi ro này ở mức độ chấp nhận được. Cùng với sự
phát triển của khung quản trị rủi ro, KTNB đang dần được xem là một công cụ hữu
hiệu để một ngân hàng kiểm soát các rủi ro của mình thông qua cả chức năng đảm
bảo và chức năng tư vấn cho ban giám đốc và cho các chủ sở hữu.
Tổng công ty Tài chính CP Dầu khí Việt Nam (PVFC) đang phải chịu sức ép
cạnh tranh rất lớn không chỉ từ các ngân hàng thương mại mà còn từ các Công ty tài
chính thuộc các Tập đoàn kinh tế. Để tồn tại và phát triển bền vững hướng tới chiến
lược trở thành NHTMCP vào năm 2012, PVFC phải tìm cách đứng vững trong thị
trường cạnh tranh quyết liệt, phải đảm bảo kinh doanh hiệu quả, đóng góp cho nền
kinh tế. Hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại doanh thu lớn nhất của PVFC,
nhưng đây cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất, quyết định sự sống còn của
PVFC. Một trong những giải pháp để thúc đẩy được sự phát triển bền vững của
PVFC đó chính là hoàn thiện kiểm toán nội bộ nhằm hạn chế rủi ro, ngăn ngừa các
sai sót, gian lận, bảo toàn vốn và tài sản.

Kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại PVFC những năm qua đã thể hiện
được vai trò là công cụ, chức năng của quản trị, giúp TCT đối phó được với những
rủi ro về thị trường, rủi ro hoạt động. Tuy nhiên, kiểm toán nội bộ vẫn còn nhiều bất
cập như: phương pháp kiểm toán còn hạn hẹp, chất lượng kiểm toán chưa cao, chưa
có chiến lược rõ ràng cho KTNB,…
Xuất phát từ tầm quan trọng của kiểm toán nội bộ và thực tiễn khách quan tại
PVFC, tác giả đã chọn đề tài “Hoàn thiện kiểm toán hoạt động tín dụng của KTNB
tại Tổng Công ty CP Tài Chính Dầu khí Việt Nam (PVFC)” để nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học về bản chất, chức năng, vai trò của
CTTC trong nền kinh tế cùng với hệ thống hóa những lý luận chung về KTNB, luận
văn hướng đến những mục tiêu cụ thể sau:
i
- Làm rõ bản chất, vai trò, chức năng của KTNB trong CTTC.
- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phân tích thực trạng kiểm
toán nội bộ hoạt động tín dụng tại PVFC để khẳng định những ưu nhược điểm và
những nguyên nhân tồn tại của KTNB.
- Đưa ra phương hướng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện kiểm toán nội bộ
hoạt động tín dụng nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả KTNB trong đơn vị.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là KTNB hoạt động tín dụng trong CTTC
và được xem xét trên hai nội dung chính là tổ chức bộ máy kiểm toán và tổ chức
công tác kiểm toán. Đây là hai mặt có quan hệ chặt chẽ ảnh hưởng qua lại với nhau
trong tổng thể thống nhất là KTNB.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào nghiên cứu KTNB hoạt động tín dụng tại PVFC với
phạm vi khảo sát từ năm 2008-2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện kiểm toán hoạt động tín dụng của

KTNB tại PVFC” này là loại nghiên cứu ứng dụng thuộc lĩnh vực kinh tế, cho nên,
về phương pháp luận thì các phương pháp của đề tài được hình thành trên nguyên lý
của triết học duy vật biện chứng Mac Lê-nin.
Trong luận văn tác giả sử dụng phương pháp luận khoa học duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp nghiên cứu
định tính, nghiên cứu định lượng.
5. Kết cấu đề tài nghiên cứu
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của đề tài được phân bổ thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về kiểm toán và KTNB tại các CTTC.
Chương 2: Thực trạng kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại PVFC.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại
PVFC.
ii
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN
NỘI BỘ TẠI CÁC CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1. Tổng quan về KTNB tại các Công ty Tài chính
1.1.1. Khái niệm KTNB
Hiện có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm KTNB trên thế giới. Theo
Liên đoàn kế toán quốc tế IFAC thì khái niệm KTNB được đưa ra như sau: “KTNB
là một hoạt động được lập ra trong một đơn vị kinh tế, như một loại dịch vụ cho đơn
vị đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát tính thích hợp và hiệu quả của hệ
thống kế toán và KTNB”.
Theo các chuẩn mực hành nghề của KTNB do Viện KTNB Hoa kỳ ban hành:
“KTNB là một chức năng xác định độc lập, sắp đặt bên trong một tổ chức để xem xét,
đánh giá các hoạt động, và được coi là một dịch vụ (sự hỗ trợ) đối với tổ chức”.
Uỷ ban Basel đã đưa ra định nghĩa về KTNB như sau: “KTNB là hoạt động độc
lập, khách quan; là hoạt động tư vấn được tổ chức thực hiện nhằm tăng thêm giá trị
và cải thiện hoạt động của doanh nghiệp. KTNB giúp doanh nghiệp đạt được mục
tiêu của mình bằng cách tổ chức kiểm tra có tính hệ thống và chặt chẽ nhằm đánh giá

và nâng cao hiệu quả của các hoạt động quản trị rủi ro, kiểm soát và quản trị tổ
chức”.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 610 ban hành kèm theo quyết định số
143/2001/QĐ-BTC ngày 21/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính thì: “KTNB là một
bộ phận trong hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị, có chức năng kiểm tra, đánh giá
tính phù hợp, hiệu quả, sự tuân thủ của pháp luật và các quy định của hệ thống kế
toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị đó.”
Theo định nghĩa tại QĐ số 37/2006/QĐ-NHNN ngày 01/08/2006 của NHNN:
"KTNB là hoạt động kiểm tra, rà soát, đánh giá một cách độc lập, khách quan đối với
hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ; đánh giá độc lập về tính thích hợp và sự tuân thủ
các chính sách, thủ tục quy trình đã được thiết lập trong tổ chức tín dụng, thông qua
đó đơn vị thực hiện KTNB đưa ra các kiến nghị, tư vấn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của các hệ thống, các quy trình, quy định, góp phần đảm bảo tổ chức
tín dụng hoạt động an toàn, hiệu quả, đúng pháp luật”.
iii
Như vậy, khi mới ra đời KTNB chỉ đóng vai trò chống gian lận, sai sót, nhưng
hiện nay, KTNB đã mở rộng phạm vi hoạt động bao gồm cả việc tư vấn cho tổ chức
nhằm tăng thêm giá trị và cải thiện hoạt động của doanh nghiệp.
1.1.2. Vai trò KTNB
Vai trò của KTNB trong tổ chức được xem xét trên các góc độ sau:
Thứ nhất, KTNB giữ vai trò là phương thức quản lý hiệu quả, nhằm hỗ trợ
việc thực hiện trách nhiệm của nhà quản lý.
Thứ hai, KTNB là phương thức giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu
trong hệ thống quản lý của doanh nghiệp.
Thứ ba, KTNB giúp cân bằng và điều hòa những xung đột về lợi ích thường
có giữa các cổ đông và các nhà quản lý.
Thứ tư, KTNB làm tăng niềm tin của người sử dụng thông tin trên BCTC và
báo cáo quản trị.
Thứ năm, KTNB là công cụ hữu hiệu nhằm giảm thiểu chi phí cho đơn vị.
1.2. Phương pháp KTNB hoạt động tín dụng của Công ty Tài chính

1.2.1. Các phương pháp tiếp cận đối với KTNB hoạt động tín dụng tại CTTC
Theo Phil Griffiths, khi xem xét sự phát triển của KTNB, cụ thể là về cách
thức tiếp cận của KTNB đối với các nội dung được kiểm toán, có thể chia thành bốn
giai đoạn phát triển (4 phương pháp tiếp cận) như sau:
Giai đoạn 1: Truyền thống
Cách tiếp cận đầu tiên và truyền thống nhất là cách tiếp cận chi tiết, nặng
nhọc, nội dung kiểm toán chú trọng vào các hoạt động tài chính, chủ yếu mang tính
tuân thủ và bao gồm việc rà soát một số lượng rất lớn các giao dịch. Hiện nay phần
lớn các bộ phận kiểm toán hiện đại trên thế giới không còn thực hiện cách tiếp cận
tốn nhiều thời gian như vậy.
Giai đoạn 2: Tiếp cận hệ thống
Giai đoạn phát triển tiếp theo của KTNB là cách tiếp cận hệ thống. Thay vì
việc chú trọng vào các địa điểm, giao dịch riêng rẽ, KTNB tiếp cận theo các chu
trình và hệ thống trong toàn bộ tổ chức. Cách tiếp cận hệ thống quan tâm đến tính
đầy đủ của các thủ tục kiểm soát hơn là việc rà soát một số lượng lớn các giao dịch
đơn lẻ. Đây là cách tiếp cận được đánh giá là mang tính tổng thể và xây dựng hơn
iv
so với cách tiếp cận truyền thống.
Giai đoạn 3: Định hướng rủi ro
Đây là cách tiếp cận hiện đại đối với KTNB. Phương pháp tiếp cận này được
sử dụng, chú trọng vào các hoạt động/giao dịch quan trọng với tổ chức/hoạt động.
Phương pháp tiếp cận theo định hướng rủi ro quan tâm tới các mục tiêu của tổ chức
và các rủi ro ảnh hưởng tới các mục tiêu đó, hơn là bản thân các thủ tục kiểm soát
như trong phương pháp tiếp cận hệ thống.
Giai đoạn 4: Hướng tới tương lai, hiện đại, tiên tiến
Giai đoạn phát triển này còn mang tính tiên tiến hơn nữa:
- Tìm kiếm và tiếp nhận các yêu cầu từ các bộ phận, đặc biệt là các nhiệm vụ
mang tính tư vấn.
- Được coi là người đưa ra giải pháp hơn là người chỉ ra các vấn đề.
- Hoạt động với tư cách là một đối tác, thậm chí là cố vấn cho tổ chức. Đây là

một vai trò tích cực và là kết quả tất yếu của cách tiếp cận dựa trên rủi ro.
Trong các phương pháp tiếp cận như đã nêu, phương pháp tiếp cận theo định
hướng rủi ro là phương pháp đang được KTNB trên thế giới sử dụng rộng rãi hiện
nay. Theo đó, KTNB xuất phát từ việc xác định, đánh giá các rủi ro của tổ chức để
xây dựng kế hoạch kiểm toán và lựa chọn các thủ tục kiểm toán nhằm đưa ra sự
đảm bảo cho ban lãnh đạo về tính hiệu quả và tính hiệu lực của các qui trình quản lý
rủi ro của tổ chức.
1.2.2. Các phương pháp kiểm toán đối với KTNB hoạt động tín dụng của CTTC
Có thể chia hệ thống phương pháp KTNB hoạt động tín dụng tại CTTC thành
hai loại là phương pháp kiểm toán cơ bản và phương pháp kiểm toán tuân thủ được
nêu dưới đây.
1.3.2.1 Phương pháp kiểm toán cơ bản
Phương pháp kiểm toán cơ bản là các phương pháp được thiết kế và sử dụng
nhằm mục đích thu thập các bằng chứng có liên quan đến các dữ liệu do hệ thống
kế toán xử lý và cung cấp.
Phương pháp kiểm toán cơ bản bao gồm các bước:
 Phân tích đánh giá tổng quát
 Phương pháp phương trình
v
 Kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và các số dư tài khoản
Đây là phương pháp kiểm toán nhằm kiểm tra và ghi chép từng loại hoạt động
kinh doanh của đơn vị. Phương pháp này thích hợp để kiểm tra các đơn vị có quy
mô nhỏ, các loại nghiệp vụ có tính chất không phức tạp, hoặc những bộ phận,
những khoản mục “nhạy cảm” trong kinh doanh (như tiền mặt, chứng khoán, các
loại vật tư, hàng hoá quý hiếm ).
1.3.2.2 Phương pháp kiểm toán tuân thủ
Phương pháp kiểm toán tuân thủ là các thủ tục và kỹ thuật kiểm toán được
thiết lập để thu thập các bằng chứng về tính đầy đủ và hiệu quả của hệ thống kiểm
soát nội bộ đơn vị.
Tuỳ thuộc mức thoả mãn về kiểm soát, kiểm toán viên có thể áp dụng các

phương pháp kiểm toán tuân thủ cụ thể sau:
 Phương pháp thực nghiệm (trắc nghiệm)
 Phương pháp kiểm tra, đối chiếu
 Phương pháp quan sát
 Phương pháp thẩm tra và xác nhận
 Phương pháp phỏng vấn
 Phương pháp tính toán
1.3.3 Quy trình KTNB hoạt động tín dụng của Công ty Tài chính
Thông thường quy trình chung của KTNB gồm các bước cơ bản sau:
• Giai đoạn 1: Lập kế hoạch KTNB:

Kế hoạch từng cuộc kiểm toán là kế hoạch kiểm toán được lập các cuộc kiểm
toán tại từng bộ phận, nghiệp vụ trong CTTC nhằm chỉ đạo tổ chức thực hiện các
hoạt động cụ thể của cuộc kiểm toán. Căn cứ để xây dựng kế hoạch cuộc kiểm toán là
kế hoạch kiểm toán năm được phê duyệt và đặc điểm của bộ phận, đơn vị được kiểm
toán.
• Giai đoạn 2: Thực hiện kiểm toán:

Thực hiện KTNB là quá trình thực hiện đồng bộ các công việc đã xác định
trong kế hoạch, chương trình KTNB. Bằng việc áp dụng các phương pháp kiểm
vi
toán thích hợp, KTV thu thập và phân tích các bằng chứng kiểm toán làm cơ sở
chứng minh cho kết quả kiểm toán từ các nguồn khác nhau.
• Giai đoạn 3: Lập báo cáo KTNB:

Kết thúc quá trình kiểm toán, đoàn kiểm toán cần lập báo cáo KTNB với hai
công việc chủ yếu sau: Tổng hợp kết quả kiểm toán và Lập báo cáo kiểm toán.
• Giai đoạn 4: Theo dõi sau kiểm toán

Theo dõi việc thực hiện kiến nghị kiểm toán gồm các hoạt động với mục tiêu

nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hoạt động KTNB. Việc theo dõi thực hiện
kiến nghị kiểm toán tập trung vào việc xem xét các kiến nghị, đề xuất cải tiến hoạt
động được kiểm toán đã được đơn vị chấp thuận và mức độ thực hiện và hiệu quả
của việc thực hiện các kiến nghị đó.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ HOẠT ĐỘNG
TÍN DỤNG TẠI PVFC
2.1. Tổng quan về PVFC
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển PVFC
Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC) là một tổ chức tín
dụng phi ngân hàng, tiền thân là Công ty Tài chính Dầu khí, thành lập ngày
19/6/2000.
Năm 2008, PVFC chính thức chuyển thành Tổng công ty Tài chính Cổ phần
Dầu khí Việt Nam. Đây là bước chuyển mình từ công ty 100% vốn Nhà nước thành
Tổng Công ty cổ phần. Theo mô hình công ty đại chúng, PVFC có vốn điều lệ
5.000 tỷ đồng, trong đó, PVN nắm giữ 78% cổ phần, cổ đông chiến lược nước
ngoài là Morgan Stanley (MSIHI) nắm giữ 10% cổ phần, còn lại là các cổ đông
pháp nhân và thể nhân trong nước. Đầu năm 2011 PVFC tiếp tục tăng vốn điều lệ
lên 6.000 tỷ đồng qua việc phát hành cổ phiếu thưởng cho các cổ đông hiện hữu.
PVFC hiện có 10 chi nhánh và 15 phòng giao dịch tại các tỉnh, thành phố lớn trong
cả nước, 4 công ty thành viên.
Với tư cách là một định chế tài chính của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt
vii
Nam, PVFC đã thực hiện triển khai các hoạt động chính sau:
- Hoạt động Thu xếp vốn và Tín dụng Doanh nghiệp
- Hoạt động đầu tư
- Hoạt động Dịch vụ tài chính DN
- Hoạt động Dịch vụ tài chính cá nhân
- Hoạt động Kinh doanh tiền tệ
2.2. Thực trạng KTNB hoạt động tín dụng tại PVFC
2.2.1. Tổ chức bộ máy KTNB tại PVFC:

Sơ đồ 2.1: Tổ chức bộ máy KTNB PVFC
viii
Trưởng KTNB
Phó Trưởng KTNB - HO
Trưởng KTNB – khu
vực phía Nam
Nhóm
kiểm toán
hoạt động
tín dụng
Nhóm
kiểm toán
hoạt động
cân đối
nguồn
Nhóm
kiểm toán
hoạt động
đầu tư và
các đơn vị
thành viên
Nhóm
tổng hợp
phân tích
Nhóm
kiểm toán
các hoạt
động kinh
doanh
Nhóm

tổng hợp
phân tích
HĐQT
Ban Kiểm Soát
Bộ phận KTNB PVFC được tổ chức thống nhất tập trung tại hội sở
và khu vực phía nam, do HĐQT quyết định thành lập, trực thuộc và chịu
sự chỉ đạo trực tiếp của Ban kiểm soát.
2.2.2. Phương pháp KTNB hoạt động tín dụng tại PVFC
2.2.4.1. Quy trình KTNB các hoạt động tại PVFC
Việc KTNB các hoạt động tại PVFC đều thực hiện theo Quy trình KTNB, vì
vậy các bước KTNB hoạt động tín dụng cũng không nằm ngoài quy trình này. Quy
trình KTNB được chia làm 4 giai đoạn:
 Giai đoạn 1: Lập kế hoạch kiểm toán bao gồm các bước:
Bước 1: Lập tờ trình kiểm toán
Căn cứ vào kế hoạch kiểm toán năm đã được BKS phê duyệt hoặc khi có yêu
cầu của BKS, HĐQT về việc kiểm toán đột xuất hoặc khi KTNB nhận thấy rủi ro
được đánh giá có ảnh hưởng trọng yếu đến hoạt động của PVFC tại đơn vị nào,
nghiệp vụ nào, Đoàn kiểm toán sẽ lập Tờ trình kiểm toán trình Trưởng KTNB thông
qua và trình BKS phê duyệt.
Bước 2: Thông báo kiểm toán
Căn cứ vào Tờ trình kiểm toán đã được phê duyệt, Đoàn KTNB gửi thông báo
kiểm toán tới các đơn vị được kiểm toán.
Bước 3: Lập kế hoạch kiểm toán:
Căn cứ vào Tờ trình kiểm toán đã được BKS phê duyệt, Đoàn kiểm toán tiến
hành lập kế hoạch kiểm toán trình Trưởng KTNB phê duyệt. Kế hoạch kiểm toán
phải được phê duyệt và hoàn thành trước khi thực hiện kiểm toán ít nhất 02 ngày
làm việc.
 Giai đoạn 2: Thực hiện kiểm toán:
Bước 4: Họp mở đầu (khai mạc) kiểm toán:
Vào ngày đầu tiên thực hiện kiểm toán tại đơn vị, Đoàn kiểm toán tiến hành

họp mở đầu kiểm toán với Lãnh đạo đơn vị được kiểm toán để thảo luận và thống
nhất về mục tiêu và phạm vi kiểm toán, phương pháp tiếp cận, đầu mối liên hệ công
việc kiểm toán…
Bước 5: Thực hiện kiểm toán
ix
 Giai đoạn 3: Lập biên bản và báo cáo kiểm toán:
Bước 6: Lập dự thảo Biên bản kiểm toán:
Kết thúc đợt kiểm toán, các thành viên Đoàn KTNB sẽ thảo luận, hệ thống lại
các phát hiện để tổng hợp vào Dự thảo biên bản kiểm toán và gửi tới đơn vị được
kiểm toán trước khi họp kết thúc kiểm toán.
Bước 7: Họp kết thúc kiểm toán:
Đoàn kiểm toán và đại diện đơn vị được kiểm toán tiến hành họp kết thúc vào
ngày cuối cùng của thời gian kiểm toán để thảo luận và thống nhất các phát hiện và
kiến nghị, tư vấn của Đoàn kiểm toán.
Bước 8: Ký Biên bản kiểm toán chính thức
Bước 9: Lập Báo cáo kiểm toán
 Giai đoạn 4: Theo dõi tình hình khắc phục kiến nghị sau kiểm toán
Bước 10: Theo dõi thực hiện các kiến nghị
2.2.4.2 Phương pháp KTNB hoạt động tín dụng tại PVFC
Hiện nay, KTNB hoạt động tín dụng tại PVFC đang bước đầu tiếp cận phương
pháp kiểm toán theo định hướng rủi ro. Phương pháp kiểm toán đang thực hiện là
sự kết hợp đan xen cả 2 phương pháp: Phương pháp kiểm toán cơ bản và phương
pháp kiểm toán tuân thủ.
Phương pháp kiểm toán hoạt động tín dụng tại PVFC sẽ được trình bày qua 2
giai đoạn cụ thể dưới đây:
Giai đoạn 1: Đánh giá tổng quan và lập kế hoạch kiểm toán: Giai đoạn này
KTV sử dụng chủ yếu kỹ thuật phân tích, đánh giá tổng quát của phương pháp kiểm
toán cơ bản để thực hiện.
Giai đoạn 2: Thực hiện kiểm toán: Đây là giai đoạn sử dụng đồng thời nhiều
kỹ thuật của cả 2 phương pháp kiểm toán cơ bản và tuân thủ để thực hiện kiểm toán

(kiểm tra chi tiết; trắc nghiệm; kiểm tra, đối chiếu; quan sát; thẩm tra, xác nhận;
phỏng vấn; tính toán).
2.3. Đánh giá về KTNB hoạt động tín dụng tại PVFC
2.3.1. Những kết quả đạt được trong kiểm toán hoạt động tín dụng của PVFC
2.3.1.1Về quy trình, hướng dẫn KTNB hoạt động tín dụng
Ban KTNB PVFC đã từng bước hoàn thiện, xây dựng được Quy trình
KTNB hoạt động tín dụng trong đó chi tiết các phần hành công việc cần làm
trong một cuộc kiểm toán. Quy trình KTNB hoạt động tín dụng nhìn chung đã
tuân thủ các quy chế về KTNB của NHNN và Ủy ban Basel về KTNB trong
x
các ngân hàng và hướng tới thực hiện kiểm toán theo nguyên tắc “định hướng
rủi ro”. Đây là phương pháp kiểm toán khá mới mẻ đối với hoạt động KTNB
nói chung và KTNB PVFC nói riêng.
2.3.1.2 Về tổ chức hoạt động KTNB
Mô hình tổ chức được áp dụng theo mô hình tập trung phù hợp với qui mô,
đặc điểm hoạt động của PVFC. Bên cạnh đó, KTNB trực thuộc BKS và dưới sự chỉ
đạo trực tiếp của BKS giúp tăng cường vị thế của KTNB và đảm bảo tính khách
quan trong hoạt động.
2.3.2. Những hạn chế của KTNB hoạt động tín dụng tại PVFC
2.3.2.1. Hạn chế trong xây dựng kế hoạch kiểm toán: Kế hoạch kiểm toán năm
chưa được xây dựng trên cơ sở định hướng rủi ro. Việc lập kế hoạch kiểm toán
và lựa chọn đối tượng kiểm toán chưa thực sự dựa vào kết quả phân tích rủi ro
hoạt động tín dụng của từng đơn vị, từng thời điểm.
2.3.2.2. Hạn chế trong quá trình thực hiện kiểm toán:
Thứ nhất, phương pháp kiểm toán còn hạn hẹp: Trong quá trình thực hiện
kiểm toán, các phương pháp, kỹ thuật kiểm toán được chưa được vận dụng đầy đủ.
Thứ hai, quá chú trọng kiểm toán tuân thủ, công tác cảnh báo rủi ro còn yếu.
Thứ ba, chức năng “tiền kiểm” còn yếu, các kiến nghị đưa ra chỉ nhằm mục
đích bổ sung hoàn thiện hồ sơ, không thực hiện ngăn chặn được các rủi ro, gian lận
tiềm ẩn.

Thứ tư, chưa xây dựng được các tiêu chí chọn mẫu chuẩn: Việc chọn mẫu
được thực hiện chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, do vậy khó đảm bảo bao quát được
các rủi ro trong các qui trình nghiệp vụ.
Thứ năm, chất lượng báo cáo kiểm toán chưa cao: Báo cáo kiểm toán của bộ
phận KTNB tại PVFC phần lớn là liệt kê các sai phạm phát hiện được mang tính sự
vụ mà hầu như không có sự phân tích, đánh giá khái quát vấn đề và chỉ ra nguyên
nhân dẫn đến các sai phạm đó, do đó chưa đưa ra được các khuyến nghị sửa đổi
mang tính hệ thống đối với Ban lãnh đạo Tổng công ty.
2.3.3 Nguyên nhân của các hạn chế
2.3.3.1 Hạn chế về nhân sự và trình độ KTV
Lãnh đạo phụ trách các mảng trong hoạt động KTNB (KTV chính) chủ yếu từ
xi
các đơn vị kiểm toán độc lập trong khi các KTV từ Ban KTKSNB chuyển sang,
việc thống nhất phương pháp và cách thức làm việc giữa các kiểm toán viên và
kiểm toán viên chính là một vấn đề khó khăn, làm giảm hiệu quả công việc.
Năng lực, trình độ của các KTV còn hạn chế và thiếu kinh nghiệm thực tế do
toàn bộ các kiểm toán viên, kiểm toán viên chính, Trưởng KTNB đều chưa làm thực
tế nghiệp vụ.
2.3.3.2 Thiếu cơ chế đánh giá hoặc tự đánh giá chất lượng kiểm toán
Việc kiểm soát, đánh giá chất lượng hoạt động KTNB tại PVFC chưa được
thực hiện một cách đầy đủ. Chưa có tiêu chí rõ ràng cho việc đánh giá chất lượng
hoạt động của chính bộ phận KTNB, chưa đặt ra những chỉ tiêu, tiêu thức cụ thể để
giám sát, tự đánh giá chất lượng kiểm toán mà hoàn toàn do đánh giá chủ quan của
lãnh đạo Ban KTNB và Ban kiểm soát. Chính vì vậy, KTV không có tiêu chí nhận
biết mục tiêu mình phải phấn đấu, mà chủ yếu vẫn thực hiện theo lối mòn, không
nhận biết được đầy đủ các mặt còn hạn chế, thiếu sót để tiếp tục hoàn thiện.
2.3.3.3 Thiếu chiến lược cho hoạt động KTNB
Hoạt động KTNB PVFC nói chung và KTNB hoạt động tín dụng PVFC nói
riêng chưa có chiến lược dài hạn. Bản thân việc thực hiện KTNB mới chỉ dựa trên
kinh nghiệm, gặp vấn đề gì thì xử lý, mang tính chất sự vụ, làm cho các hoạt

động kiểm toán bị động nhiều hơn là chủ động.
2.3.3.4 Ứng dụng hệ thống công nghệ thông tin còn nhiều hạn chế
Mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong KTNB tại PVFC hiện nay còn
hạn chế, chưa có các chương trình phần mềm chuyên dụng cho KTNB. Điều này
hạn chế năng suất lao động của KTV và cản trở việc ứng dụng các kỹ thuật kiểm
toán hiện đại.
2.3.3.5 Hệ thống chính sách của nhà nước, quy trình, quy định, hướng dẫn nội
bộ chưa đầy đủ và đồng bộ
Thứ nhất, về hệ thống chính sách của Nhà nước cho hoạt động KTNB:
- Chính phủ cũng chưa ban hành các văn bản có tính pháp lý cao liên quan đến
hoạt động KTNB, trong đó có các qui định cụ thể về hoạt động, phương pháp thực
hiện của KTNB.
xii
- Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam chưa có hệ thống chuẩn mực
riêng cho KTNB.
Thứ hai, về hệ thống chính sách nội bộ PVFC: Hiện nay, PVFC chưa xây
dựng một bộ chính sách tín dụng đầy đủ và thống nhất mà đang được quy định rời
rạc ở rất nhiều quy định, quy trình, quy chế nên rất khó khăn cho bộ phận KTNB
khi thực hiện kiểm toán. Bên cạnh đó, một số nội dung giữa các quy định chưa có
sự nhất quán, mâu thuẫn lẫn nhau nhưng chưa được sửa đổi kịp thời gây khó khăn
cho KTV khi đưa ra ý kiến kiểm toán.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KTNB HOẠT ĐỘNG
TÍN DỤNG TẠI PVFC
3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện tổ chức công tác KTNB hoạt động tín dụng
3.2.1.1. Đổi mới phương pháp tiếp cận kiểm toán hoạt động tín dụng trên cơ sở
định hướng rủi ro
− Xây dựng kế hoạch KTNB hoạt động tín dụng hàng năm trên cơ sở định hướng
rủi ro:
Trước tiên, quy trình đánh giá rủi ro bắt đầu từ việc xác định đối tượng kiểm
toán, các mục tiêu kinh doanh và các rủi ro gắn liền với các mục tiêu đó.

Tiếp theo là xây dựng và áp dụng mô hình đánh giá rủi ro với các đối tượng
được kiểm toán. Kết quả đánh giá rủi ro sẽ được sử dụng làm cơ sở để lập kế hoạch
kiểm toán.
− Thực hiện kiểm toán trên cơ sở định hướng rủi ro(công việc thực hiện trước
mỗi cuộc kiểm toán):
Khi thiết kế và thực hiện các thủ tục kiểm toán, KTNB cần thu thập thông tin
cập nhật về mục tiêu và các rủi ro trong hoạt động của các đối tượng kiểm toán. Sau
đó, KTV thực hiện các công việc sau:
Một là, phân tích sự hợp lý của các mục tiêu tại đơn vị được kiểm toán.
Hai là, xác định và đánh giá các rủi ro ảnh hưởng tới mục tiêu tại đơn vị.
Ba là, xác định các thủ tục kiểm soát nội bộ và các biện pháp giảm thiểu rủi ro
hiện đang được áp dụng tại đơn vị.
xiii
Bốn là, trên cơ sở so sánh giữa các thủ tục kiểm soát cần thiết xác định ở bước
thứ hai và các thủ tục kiểm soát hiện tại xác định ở bước thứ ba, KTV nhận biết
những điểm thiếu, yếu trong qui trình quản lý rủi ro hiện tại của đơn vị được kiểm
toán. Những phát hiện này là cơ sở để KTV đưa ra các kiến nghị, tư vấn để giúp
đơn vị được kiểm toán hoàn thiện qui trình kiểm soát của mình.
Năm là, đánh giá rủi ro còn lại sau khi áp dụng các thủ tục kiểm soát nhằm xác
định các thủ tục kiểm toán phù hợp và qui mô của mẫu chọn.
3.2.1.2. Thay đổi phương pháp kiểm toán theo hướng hệ thống
Để nâng cao mức độ chuyên nghiệp và hiệu quả kiểm toán, KTNB hoạt động
tín dụng cần thay đổi tư duy làm việc theo phương thức “rà soát nhiều hồ sơ” và
tiến tới xây dựng những phương pháp thực hiện có tính hệ thống hơn. KTV cần áp
dụng kết hợp các phương pháp phân tích, kiểm tra tài liệu với quan sát, phỏng vấn,
xác nhận xuyên suốt trong quá trình kiểm toán.
3.2.1.3. Tăng cường thực hiện chức năng “tiền kiểm”
KTNB cần tham gia ngay từ khi xây dựng chính sách như các quy định, quy
trình, quy chế để kiến nghị các biện pháp điều chỉnh nhằm tạo các chốt chặn kiểm
soát chặt chẽ ngay tại mỗi quy trình nghiệp vụ và các chính sách liên quan.

3.2.1.4. Xây dựng các tiêu chí, kỹ thuật chọn mẫu chuẩn
KTNB PVFC cần xây dựng và áp dụng các phương pháp chọn mẫu thống kê
và phi thống kê khi lựa chọn mẫu để tiến hành kiểm toán. Việc áp dụng các phương
pháp chọn mẫu có thể khác nhau phụ thuộc vào đối tượng kiểm toán.
3.2.1.5. Đổi mới phương pháp báo cáo
Để nâng cao chất lượng báo cáo kiểm toán hoạt động tín dụng, khi lập báo cáo
KTNB, KTV cần làm rõ các yếu tố sau:
• Tiêu chí đánh giá: là các chuẩn mực, thước đo, hoặc kỳ vọng để đánh giá
(các thông lệ tiên tiến nhất).
• Thực tế: là các bằng chứng thực tế mà KTNB ghi nhận trong quá trình kiểm toán.
• Nguyên nhân: Nguyên nhân của sự khác biệt giữa tiêu chí đánh giá và thực
tế (tại sao có sự khác biệt đó).
• Ảnh hưởng: Rủi ro và/hoặc các khó khăn khác do thực tế chưa phù hợp với
xiv
các tiêu chí (ảnh hưởng của sự khác biệt).
Kiến nghị được đưa ra dựa trên các vấn đề ghi nhận và kết luận, yêu cầu khắc
phục và cải thiện các vấn đề đó. Kiến nghị có thể đề xuất phương pháp khắc phục
hoặc biện pháp tăng cường hoạt động cũng như những hướng dẫn cho ban lãnh đạo
đơn vị đạt được kết quả mong muốn.
Để nâng cao ý nghĩa của báo cáo kiểm toán, KTV có thể phân loại các vấn đề
ghi nhận của kiểm toán dựa theo mức độ rủi ro của các vấn đề đó đối với hoạt động
của đơn vị (theo các mức độ rủi ro cao, trung bình hoặc thấp).
3.2.1.6. Xây dựng các tiêu chí cơ bản để đánh giá chất lượng KTNB
Bộ phận KTNB PVFC cần xây dựng và duy trì các thủ tục đánh giá chất lượng
kiểm toán, nhằm gia tăng giá trị các hoạt động được KTNB, nâng cao hiệu quả hoạt
động của tổ chức, đảm bảo các hoạt động KTNB tuân thủ theo các chuẩn mực và
nguyên tắc đạo đức hiện thời.
3.2.1.7. Xây dựng chiến lược phát triển cho KTNB PVFC
Để xây dựng khung chiến lược phù hợp, trước hết bộ phận KTNB phải xác
định kỳ vọng (yêu cầu) của Ban lãnh đạo TCT về giá trị mà KTNB mang lại cho tổ

chức. Trên cơ sở đó mô tả những nhiệm vụ của KTNB thông qua điều lệ, qui chế
kiểm toán và cuối cùng là xây dựng chiến lược phát triển chính thức cho KTNB.
3.2.1.8. Thay đổi nhận thức về vai trò KTNB
Ban lãnh đạo PVFC cần nhất quán quan điểm về ý nghĩa, chức năng, nhiệm vụ
của KTNB, cũng như loại hình, phạm vi và phương pháp của KTNB, để có hỗ trợ
phù hợp cho sự phát triển của hoạt động KTNB tại PVFC, vì sự phát triển chung
của PVFC.
Các bộ phận, phòng ban Tổng công ty cần phải hiểu rằng: KTNB hỗ trợ trong
việc thực hiện trách nhiệm của mình về kiểm soát nội bộ và trao đổi thông tin về
các sáng kiến kinh doanh và các thông lệ tốt nhất nhằm đạt được các mục tiêu đề ra
để có sự phối hợp tốt trong công việc.
3.2.2. Nhóm giải pháp về con người
Thứ nhất, về tuyển dụng: Cần mở rộng nguồn tuyển dụng, không nên chỉ dựa
vào nguồn lực tại chỗ.
xv
Thứ hai, về đào tạo: Cần đào tạo và đào tạo lại đối với đội ngũ cán bộ hiện có.
Thứ ba, về môi trường làm việc: Phải xây dựng và tạo lập được môi trường
làm việc tốt nhất: tâm lý ổn định, cống hiến, gắn bó lâu dài với bộ phận KTNB.
Thứ tư, tận dụng những nguồn lực từ bên ngoài: Với một số lĩnh vực kiểm
toán đặc thù mà KTV chưa có nhiều kinh nghiệm, KTNB PVFC nên xem xét đến
việc thuê dịch vụ kiểm toán từ bên ngoài.
3.2.3.Nhóm giải pháp về công nghệ thông tin: Tăng cường áp dụng công nghệ
thông tin cho hoạt động KTNB
3.2.4. Nhóm giải pháp về các chính sách tín dụng của PVFC:
PVFC cần tổ chức rà soát, quy hoạch, chuẩn hóa lại toàn bộ các cơ chế chính
sách và các quy chế nghiệp vụ về tín dụng theo hướng nhất quán, đơn giản, dễ hiểu,
dễ thực hiện, giúp CB nghiệp vụ dễ dàng nắm bắt đầy đủ các quy trình nghiệp vụ,
chính sách của TCT và làm cơ sở để KTNB thực hiện công tác kiểm toán tuân thủ.
KẾT LUẬN
Để thực sự nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng và đảm bảo quản lý hệ

thống chất lượng tín dụng theo tiêu chuẩn ISO thì công tác KTNB phải thực sự
được chú trọng và quan tâm phát triển.
Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, những lý thuyết
và kinh nghiệm thực tế vào điều kiện thực tế ở Việt Nam, luận văn đã thực hiện
được các nội dung sau đây: Thứ nhất, phân tích nội dung cơ bản về nội dung
phương pháp kiểm toán và KTNB tại các Công ty tài chính. Thứ hai, đánh giá
phương pháp kiểm toán hoạt động tín dụng tại Tổng công ty tài chính cổ phần Dầu
khí Việt Nam, tìm ra những hạn chế, tồn tại trong công tác KTNB nói chung và
kiểm toán hoạt động tín dụng nói riêng. Với mong muốn đưa ra một số giải pháp,
kiến nghị để hoàn thiện phương pháp kiểm toán hoạt động tín dụng của PVFC, luận
văn đề xuất một số gợi ý nhỏ bé như trên nhằm góp phần xây dựng PVFC phát triển
an toàn và bền vững hơn.
Do giới hạn về thời gian và phạm vi nghiên cứu nên Luận văn không tránh
khỏi nhiều thiếu sót vì vậy Tác giả mong muốn được đón nhận các ý kiến đóng góp
để Đề tài nghiên cứu được tốt hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
xvi
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động tín dụng tại các TCTD là một trong những hoạt động kinh doanh
chứa đựng nhiều rủi ro nhất, đặc biệt là trong giai đoạn nền kinh tế có nhiều biến
động hiện nay. Chỉ tính riêng ở Mỹ, năm 2007 có 3 ngân hàng phá sản, năm 2008
có 25 ngân hàng phá sản, đến năm 2009 con số này tăng lên 140, và năm 2010 là
157 đạt mức kỷ lục từ năm 1992, trong đó có cả Lehman Brothers, một đại gia trong
giới ngân hàng Mỹ. Những vụ phá sản đó đều có mối liên hệ đến sự tăng trưởng
nóng của hoạt động tín dụng, trong khi các cơ chế quản trị để có thể quản lý và
kiểm soát được rủi ro chưa được thiết lập đầy đủ và hiệu quả. Các CTTC hay các
TCTD nói chung đều chịu một áp lực rất lớn trong việc nhận biết các rủi ro mà
mình đang phải đối mặt và phải lý giải được cách thức làm thế nào để kiểm soát các
rủi ro này ở mức độ chấp nhận được. Cùng với sự phát triển của khung quản trị rủi

ro, KTNB đang dần được xem là một công cụ hữu hiệu để một ngân hàng kiểm soát
các rủi ro của mình thông qua cả chức năng đảm bảo và chức năng tư vấn cho ban
giám đốc và cho các chủ sở hữu.
Tổng công ty Tài chính CP Dầu khí Việt Nam (PVFC) đang phải chịu sức ép
cạnh tranh rất lớn không chỉ từ các ngân hàng thương mại mà còn từ các Công ty tài
chính thuộc các Tập đoàn kinh tế. Để tồn tại và phát triển bền vững hướng tới chiến
lược trở thành NHTMCP vào năm 2012, PVFC phải tìm cách đứng vững trong thị
trường cạnh tranh quyết liệt, phải đảm bảo kinh doanh hiệu quả, đóng góp cho nền
kinh tế. Hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại doanh thu lớn nhất của PVFC,
nhưng đây cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất, quyết định sự sống còn của
PVFC. Một trong những giải pháp để thúc đẩy được sự phát triển bền vững của
PVFC đó chính là hoàn thiện kiểm toán nội bộ nhằm hạn chế rủi ro, ngăn ngừa các
sai sót, gian lận, bảo toàn vốn và tài sản.
Kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại PVFC những năm qua đã thể hiện
được vai trò là công cụ, chức năng của quản trị, giúp TCT đối phó được với những
rủi ro về thị trường, rủi ro hoạt động. Tuy nhiên, kiểm toán nội bộ vẫn còn nhiều bất
cập như: phương pháp kiểm toán còn hạn hẹp, chất lượng kiểm toán chưa cao, chưa
có chiến lược rõ ràng cho KTNB,…
Xuất phát từ tầm quan trọng của kiểm toán nội bộ và thực tiễn khách quan tại
PVFC, tác giả đã chọn đề tài “Hoàn thiện kiểm toán hoạt động tín dụng của KTNB
1
tại Tổng Công ty CP Tài Chính Dầu khí Việt Nam (PVFC)” để nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học về bản chất, chức năng, vai trò của
CTTC trong nền kinh tế cùng với hệ thống hóa những lý luận chung về KTNB, luận
văn hướng đến những mục tiêu cụ thể sau:
- Làm rõ bản chất, vai trò, chức năng của KTNB trong TCTD nói chung và
trong CTTC nói riêng.
- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phân tích thực trạng kiểm
toán nội bộ hoạt động tín dụng tại PVFC để khẳng định những ưu nhược điểm và

những nguyên nhân tồn tại của KTNB.
- Đưa ra phương hướng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện kiểm toán nội bộ
hoạt động tín dụng nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả KTNB trong đơn vị.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là KTNB hoạt động tín dụng trong CTTC
và được xem xét trên hai nội dung chính là tổ chức bộ máy kiểm toán và tổ chức
công tác kiểm toán. Đây là hai mặt có quan hệ chặt chẽ ảnh hưởng qua lại với nhau
trong tổng thể thống nhất là KTNB. Hai nội dung chính được cụ thể hóa trên hai
khía cạnh sau:
Một là, những vấn đề lý luận có hệ thống và toàn diện về tổ chức KTNB trong
TCTD đồng thời phát triển lý luận về tổ chức KTNB trong các CTTC.
Hai là, khía cạnh thực tiễn: Mô tả, phân tích, đánh giá một cách có hệ thống
thực trạng tổ chức bộ máy và tổ chức công tác KTNB tại PVFC. Trên cơ sở đó, tác
giả phân tích các tồn tại của KTNB hoạt động tín dụng, đồng thời đưa ra phương
hướng và giải pháp khả thi theo hai nội dung trên nhằm hoàn thiện KTNB hoạt
động tín dụng tại PVFC.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào nghiên cứu KTNB hoạt động tín dụng tại PVFC với
phạm vi khảo sát từ năm 2008-2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
2
Phương pháp nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện kiểm toán hoạt động tín dụng của
KTNB tại PVFC” này là loại nghiên cứu ứng dụng thuộc lĩnh vực kinh tế, cho nên,
về phương pháp luận thì các phương pháp của đề tài được hình thành trên nguyên lý
của triết học duy vật biện chứng Mac Lê-nin.
Trong luận văn tác giả sử dụng phương pháp luận khoa học duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp nghiên cứu
định tính, nghiên cứu định lượng.
Phương pháp tiếp cận hệ thống: Tác giả nhìn tổng thể KTNB là một hệ thống,

trong đó mọi yếu tố của hệ thống có tác động và ảnh hưởng qua lại với nhau. Cụ
thể, tổ chức công tác KTNB và tổ chức bộ máy nội bộ là hai nội dung chính của
KTNB. Hai nội dung này không thể tách rời, có quan hệ liên kết chặt chẽ và hình
thành nên tổng thể. Trong quá trình nghiên cứu, ngoài phương pháp tiếp cận hệ
thống, tác giả sử dụng kết hợp phương pháp tiếp cận lịch sử. Phương pháp tiếp cận
lịch sử cho thấy quá trình hình thành, phát triển và tiếp tục hoàn thiện những lý
thuyết về KTNB phù hợp với từng giai đoạn phát triển, đồng thời thấy được quá
trình hình thành phát triển của KTNB trong bản thân đơn vị nghiên cứu.
Các phương pháp cụ thể được tiến hành để nghiên cứu trong luận văn luận văn:
Chương 1: Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp
tương quan: dựa trên tài liệu thu thập được tiến hành tìm ra bản chất, vai trò, chức
năng, đặc điểm cơ bản của KTNB trong CTTC.
Chương 2: Để thu thập những tài liệu thực tế của đơn vị trước hết sử dụng
phương pháp khảo cứu tài liệu lưu trữ của đơn vị. Tuy nhiên lượng tài liệu liên quan
đến hoạt động CTTC và KTNB tại CTTC nhiều nên ngoài những văn bản chung
như các quy định của pháp luật, của ngân hàng nhà nước, quy trình quy chế, chính
sách KTNB tại PVFC, báo cáo kiểm toán của phòng KTNB, các báo cáo thường
niên của PVFC, tác giả dùng phương pháp chọn mẫu để tiến hành khảo sát những
tài liệu có tính chất trọng yếu liên quan trong một năm 2010. Tài liệu kiểm toán báo
cáo tài chính toàn hệ thống, tài liệu của 20% các cuộc kiểm toán tín dụng tại các chi
nhánh được xem xét. Dựa trên những chứng từ khảo sát để biết được những người
liên quan. Từ đó luận văn sử dụng phương pháp phỏng vấn những người trực tiếp
liên quan đến các cuộc kiểm toán cụ thể.
Trên cơ sở thu thập tài liệu bằng các phương pháp nói trên, luận văn sử dụng
phương pháp so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp. Tuy nhiên, việc vận dụng các
3
phương pháp này không có nghĩa mang nặng tính lý thuyết mà cách tiếp cận và giải
quyết vấn đề dựa trên tính logic của hiện tượng, của các quy luật để suy luận. Từ đó
rút ra những kết luận về thực trạng KTNB hoạt động tín dụng tại đơn vị.
Chương 3: Sau khi có cái nhìn toàn diện về vấn đề được nghiên cứu, trong

chương này tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để mạnh dạn đưa ra
các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện KTNB tại đơn vị nghiên cứu.
5. Kết cấu đề tài nghiên cứu
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của đề tài được phân bổ thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về kiểm toán và KTNB tại các CTTC.
Chương 2: Thực trạng kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại PVFC.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại
PVFC.
4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN
NỘI BỘ TẠI CÁC CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.3. Tổng quan về kiểm toán
1.3.1. Khái niệm kiểm toán
Thuật ngữ “kiểm toán” thực sự mới xuất hiện và được sử dụng ở nước ta từ
hơn một chục năm cuối thế kỷ XX. Trong quá trình đó cách hiểu và cách dùng khái
niệm này chưa được thống nhất. Có thể khái quát các cách hiểu về kiểm toán theo 3
quan điểm chính như sau:
Quan điểm thứ nhất: Kiểm toán được đồng nghĩa với kiểm tra kế toán, một
chức năng của bản thân kế toán, một thuộc tính cố hữu của kế toán. Nội dung của
hoạt động này là rà soát các thông tin kế toán, chứng từ kế toán và tổng hợp cân đối
kế toán. Thực ra, đây là một chức năng vốn có của bản thân kế toán. Quan điểm này
chỉ tồn tại vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới, thời kỳ chúng ta bắt đầu chuyển
từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước.
Quan điểm thứ hai: Là quan điểm theo các tác giả Alvin A.Arens và James
K.Loebbecker: “Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập có thẩm quyền thu
thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một
đơn vị cụ thể, nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông
tin với các chuẩn mực đã được thiết lập”. Đây là quan điểm phát sinh cùng với sự ra

đời của cơ chế thị trường và được sử dụng trước tiên tại các nước sớm có nền kinh tế
thị trường phát triển.
Quan điểm thứ ba: Trong thời kỳ nền kinh tế thị trường đã phát triển mạnh mẽ,
người quan tâm đến thông tin kinh tế - tài chính của đơn vị không chỉ có Nhà nước
mà còn có cả các chủ thể khác trong nền kinh tế. Hơn nữa, đôi khi đối tượng kiểm
toán không chỉ là các thông tin mang tính định lượng. Chính vì vậy, theo quan điểm
này, kiểm toán có phạm vi rất rộng, bao gồm: kiểm toán quy tắc (kiểm toán tuân
thủ), kiểm toán hoạt động, kiểm toán báo cáo tài chính.
Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể hiểu khái niệm về kiểm toán như
sau: Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần được
5
kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm
toán ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng
thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực.
1.3.2. Vai trò của kiểm toán
Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thực hiện chủ trương đa dạng hóa các
hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế được mở rộng và ngày càng đóng vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện nền kinh
tế như vậy, thông tin tài chính của doanh nghiệp không chỉ để báo cáo cho các cơ
quan quản lý nhà nước để kiểm tra và xét duyệt mà nay các thông tin này cần cho
nhiều người, được nhiều đối tượng quan tâm, khai thác sử dụng cho các quyết định
kinh tế. Tuy ở nhiều góc độ khác nhau nhưng tất cả các đối tượng này đều có cùng
nguyện vọng là có được các thông tin có độ chính xác cao, tin cậy và trung thực.
Việc các quy định mang tính pháp lý bắt buộc các thông tin tài chính trước khi
công bố phải được kiểm toán, điều này thể hiện rõ nét vai trò của kiểm toán nhằm
đưa ra các quyết định hiệu quả và hợp lí trong quá trình đổi mới nền kinh tế.
Trong các quan hệ kinh tế nhờ có kiểm toán mà các doanh nghiệp đã tìm được
tiếng nói chung đó là sự tin cậy lẫn nhau, sự thẳng thắn, trung thực trình bày về tình
hình tài chính của mình. Đây là yếu tố hết sức quan trọng để đánh giá, lựa chọn đối
tác kinh doanh. Đặc biệt trong quan hệ hợp tác kinh doanh với nước ngoài, nếu nhà

đầu tư nước ngoài muốn tìm hiểu về hoạt động kinh doanh và đánh giá tình hình
của một doanh nghiệp trước khi đầu tư, hợp tác kinh doanh thì chi phí cho cuộc
kiểm toán sẽ hiệu quả và rẻ hơn nhiều so với chi phí mà hai bên phải bỏ ra để đàm
phán tự chứng minh về khả năng tài chính của mình. Đồng thời ý kiến khách quan
của kiểm toán luôn đáng tin cậy hơn. Ngay cả khi các công ty có vốn đầu tư nước
ngoài được thành lập thì nhu cầu kiểm toán của các công ty này là tất yếu bởi yêu
cầu quản lí của các đối tác nước ngoài trong doanh nghiệp.
Hoạt động kiểm toán còn thu hút được lực lượng lớn các lao động có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cao và đặc biệt là lực lượng chuyên gia tư vấn nước ngoài
làm việc tại các công ty kiểm toán quốc tế.
Kiểm toán thực hiện kiểm tra tính trung thực hợp lí hợp pháp của thông tin
trong hoạt động kinh tế, tài chính làm lành mạnh hoá các quan hệ tài chính, cung
cấp các thông tin trung thực cho quản lí vĩ mô trong nền kinh tế.
6

×